Tải bản đầy đủ (.pdf) (193 trang)

Tín ngưỡng thờ Pô Nagar ở Khánh Hòa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.83 MB, 193 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
***





NGUYỄN THỊ THANH VÂN




TÍN NGƯỠNG THỜ PÔ NAGAR
Ở KHÁNH HÒA




LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ








Hà Nội – 2009


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




NGUYỄN THỊ THANH VÂN



TÍN NGƯỠNG THỜ PÔ NAGAR
Ở KHÁNH HÒA



Chuyên ngành: Dân tộc học
Mã số: 60 22 70


LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ


Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGÔ VĂN DOANH


Hà Nội - 2009


1
MC LC


Dẫn luận 3
Ch-ơng 1: Các di tích Pô Nagar/thiên yana ở Khánh Hòa. 12
1.1.Đôi nét về Khánh Hòa 12
1.1.1.Điều kiện tự nhiên - xã hội 12
1.1.2.Lịch sử hình thành vùng đất Khánh Hòa 14
1.2. Hệ thống di tích thờ Pô Nagar/Thiên Yana ở Khánh Hòa 18
1.2.1.Phân bố 18
1.2.2.Hình thức thờ tự 21
Ch-ơng 2. Pô Nagar/thiên yana trong đời sống tâm linh
của ng-ời dân Khánh Hòa 44
2.1.Nguồn gốc của Pô Nagar/Thiên Yana 44
2.1.1.Nữ thần mẹ xứ sở Pô In- Nagar của ng-ời Chăm 44
2.1.2.Thánh Mẫu Thiên Y Ana của ng-ời Việt 47
2.2. Huyền thoại về Pô Nagar/Thiên Yana ở Khánh Hòa 51
2.2.1. Huyền thoại của ng-ời Chăm 51
2.2.2. Truyền thuyết của ng-ời Việt- Truyện bà Thiên Yana 54
2.3 Lễ hội Pô Nagar/Thiên Yana ở Khánh Hòa 56
2.4. Pô Nagar/Thiên Yana trong tín ng-ỡng của ng-ời dân Khánh Hòa 66
2.4.1. Tổng quan về tín ng-ỡng thờ Pô Nagar/Thiên Yana ở Khánh Hòa 66
2.4.2.Trong tín ng-ỡng của c- dân nông nghiệp 69
2.4.3.Đối với c- dân biển 75
2.4.4.Đối với c- dân lấy trầm 80
2.4.5. Đối với các c- dân các ngành nghề khác 85
Ch-ơng 3. Pô Nagar/Thiên Yana trong đời sống văn hóa
dân gian Khánh Hòa 90
3.1.Trong văn học dân gian 90
3.2. Trong nghệ thuật âm nhạc dân gian truyền thống 95



2
Ch-ơng 4. Giao thoa văn hóa Việt Chăm nhìn từ tín
ng-ỡng thờ Pô Nagar/Thiên Yana ở Khánh Hòa 104
4.1.Giao thoa hóa Việt - Chăm qua tín ng-ỡng thờ Pô Nagar/Thiên Yana ở Khánh
Hòa 104
4.1.1.Qua tên gọi 104
4.1.2.Qua huyền thoại 106
4.1.3.Qua di tích, di vật 110
4.1.4.Qua tín ng-ỡng và lễ hội 113
4.2. Sự tích hợp văn hóa ấn - Chăm - Việt trong tín ng-ỡng thờ Mẫu Pô
Nagar/Thiên Yana ở Khánh Hòa 116
4.3. Một vài đề xuất bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của tín ng-ỡng thờ Pô
Nagar/Thiên Yana ở Khánh Hòa 121
Kết luận 123
Tài liệu tham khảo 125

Phần Phụ lục
Phụ lục 1: Danh sách ng-ời cung cấp thông tin126
hụ lục 2: Ch-ơng trình lễ hội Tháp Bà năm 2004 129
Phụ lục 3: Một số truyền thuyết dân gian về Thiên Yana 131
Phụ lục 4: Một số nơi thờ tự Thiên Yana139
Phụ lục 5: Thơ ca về Thiên Yana Thánh Mẫu 145
Phụ lục 6: Văn chầu Thiên Yana160
Phụ lục 7: Những bài văn tế Thiên Yana166
Phụ lục 8: ảnh minh họa.177







3
DẪN LUẬN
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tín ngưỡng, tôn giáo là một đề tài đã được nhiều học giả quan tâm, nghiên
cứu. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa tín ngưỡng tôn giáo. Có những tôn
giáo, tín ngưỡng bản địa (tín ngưỡng đa thần, tín ngưỡng thờ tổ tiên, đạo Cao Đài,
Hòa Hảo…) hòa nhập và chung sống với rất nhiều loại hình tôn giáo trên thế giới
được du nhập vào Việt Nam như Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo, Thiên chúa giáo,
Tin Lành, Hồi giáo… Từ quá khứ cho đến hiện nay, tôn giáo tín ngưỡng có vai trò
to lớn trong đời sống tâm linh, văn hóa của nhân dân và đó cũng là một phần quan
trọng kiến tạo nên văn hóa truyền thống nước ta.
Các tôn giáo, tín ngưỡng được du nhập vào nước ta dù xuất phát từ phương
Đông hay phương Tây đều được bản địa hóa và tích hợp yếu tố của tôn giáo và tín
ngưỡng bản địa. Trong quá trình tồn tại và phát triển, tự bản thân mỗi loại hình tôn
giáo, tín ngưỡng lại giao thoa với nhau tạo nên sự hỗn dung tôn giáo trên mảnh đất
Việt Nam.
Ngày nay, tôn giáo tín ngưỡng không chỉ có ảnh hưởng đến sự phát triển văn
hóa- xã hội mà còn ảnh hưởng không nhỏ đến an ninh và chính trị quốc gia. Về cơ
bản, các tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam chung sống hòa bình, cùng hướng tới mục
tiêu giúp con người sống tốt đời đẹp đạo để phát triển đất nước. Trong từng giai
đoạn lịch sử nhất định, trong từng khu vực cụ thể, đặc trưng tín ngưỡng, tôn giáo
nước ta cũng khác nhau, ảnh hưởng dung hòa lẫn nhau trong quá trình cộng cư trên
mảnh đất đó. Tiêu biểu nhất là sự cộng cư về tôn giáo giữa người Việt và người
Chăm ở Khánh Hòa thông qua tín ngưỡng thờ Pô Nagar/Thiên Yana.
Qua khảo sát tư liệu tôi chọn đề tài Tín ngưỡng thờ Pô Nagar ở Khánh Hòa vì:
Ý nghĩa khoa học của đề tài: Nghiên cứu tín ngưỡng thờ Pô Nagar ở Khánh
Hòa góp phần làm sáng tỏ một loại hình tôn giáo tín ngưỡng ở Việt Nam.
Đồng thời góp phần làm rõ quá trình cộng sinh và đan xen văn hóa - tôn giáo
của cộng đồng các dân tộc sinh sống gần nhau, tộc người đến sau thừa hưởng và

phát triển thành tựu của các tộc người đã định cư trước để hình thành nên đặc trưng
văn hóa của riêng mình.


4
Ý nghĩa thực tiễn của đề tài: Trong quá trình sinh sống ở Khánh Hòa, người
Chăm đã để lại hệ thống di sản tôn giáo tín ngưỡng với những đền tháp, lễ hội và tín
ngưỡng thờ tự. Trên con đường Nam tiến và cộng cư ở đây, người Việt đã tiếp thu,
kế thừa và biến đổi tôn giáo, tín ngưỡng của người Chăm để trở thành một loại hình
tín ngưỡng mang phong cách của mình. Tuy vậy, nền tảng Chăm vẫn còn in đậm
như tục thờ Cá Ông, thờ Pô Nagar bên cạnh những vị thần trong tín ngưỡng truyền
thống Bắc Bộ. Điều này đã làm cho tín ngưỡng của người Việt miền Trung có
những nét tương đồng và khác biệt với người Việt ở miền Bắc.
Tín ngưỡng thờ Pô Nagar ở Khánh Hòa là một điển hình cho sự tiếp biến và
giao lưu văn hóa giữa hai dân tộc Chăm - Việt. Trong luận văn này chúng tôi sử
dụng các tên gọi khác nhau như Thiên Yana, Thiên Y, Thiên Y Thánh Mẫu, Pô
Nagar. Thiên Yana, Thiên Y Thánh Mẫu… là tên gọi phổ biến trong dân gian, còn
tên gọi Pô Nagar được phiên âm từ tên Pu Inu Nugar của người Chăm. Các tên gọi
này đều được nhân dân trong vùng cũng như giới khoa học chấp nhận để chỉ một vị
nữ thần mà chúng tôi đề cập đến trong luận văn này.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu về tín ngưỡng thờ Mẫu và quá trình người Việt cộng cư với
người Chăm ở miền Trung nói chung, Khánh Hòa nói riêng và những di sản để lại
đã có nhiều công trình đã được xuất bản. Để tiện theo dõi và nghiên cứu chúng tôi
khảo sát lịch sử nghiên cứu vấn đề theo các mảng: Tín ngưỡng thờ Pô Nagar ở miền
Trung; lịch sử nam tiến của người Việt và quá trình hình thành mảnh đất Khánh
Hoà; tín ngưỡng thờ Pô Nagar ở Khánh Hoà.
Quá trình nam tiến của người Việt và lịch sử hình thành vùng đất Khánh
Hoà được nhắc đến nhiều trong các thư tịch cổ như: Đại Nam nhất thống chí, Đại
Việt sử ký toàn thư, Đại Nam thực lục tiền biên, Đại Nam thực lục chính biên, Phủ

biên tạp lục, Ô châu cận lục… Sau đó, về vấn đề này được đề cập đến trong các
công trình nghiên cứu tiêu biểu của các nhà nghiên cứu như: Lương Ninh (Lịch sử
vương quốc Chămpa, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội, 2004), Ngô Văn Doanh (Văn
hóa cổ Chămpa, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 2002), Li Tana (Lịch sử vương quốc
Đàng Trong thế kỷ XVII-XVIII, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh, 1999), Lê Đình Phụng


5
(Tìm hiểu lịch sử kiến trúc tháp Chămpa, Nxb Văn hóa-Thông tin và Viện Văn hóa,
Hà Nội, 2005), Vũ Công Quý (Văn hoá Sa Huỳnh, Nxb Văn hoá Dân tộc, Hà Nội,
1991), Nhiều tác giả (Diện mạo văn hóa Khánh Hòa - kỷ yếu kỷ niệm 350 năm vùng
đất Khánh Hòa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005), Phan Lạc Tuyên (Góp phần
tìm hiểu người Kinh Cựu ở vùng Chàm Thuận Hải, tạp chí Dân tộc học, số 3/1977)
Kỷ yếu hội thảo Chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ thế
kỷ XVI đến thế kỷ XIX (sắp xuất bản) Những công trình này đã khái quát khá đầy
đủ về lịch sử vương quốc Chămpa, mối quan hệ giữa hai quốc gia Chămpa - Đại
Việt và quá trình người Việt di cư vào vùng đất phía Nam từng bước nhảy theo thời
gian. Cùng với sự lớn mạnh của người Việt thì vương quốc Chămpa ngày càng thu
hẹp dần và bị biến mất vào thế kỷ XVII. Người Chăm đã để lại nhiều di sản văn hóa
vật thể và phi vật thể độc đáo mà ngày nay người Việt thừa hưởng và tiếp tục sử
dụng. Qua nguồn tư liệu trong các công trình đó cho ta hình dung một cách khái
quát lịch sử hình thành vùng đất Khánh Hòa và quá trình người Việt định cư tại đây.
Về tín ngưỡng thờ Mẫu ở miền Trung Việt Nam: Có thế khẳng định Thánh
Mẫu tối thượng ở miền Trung là Bà Thiên Yana - vị Thần Mẫu có xuất xứ từ Nữ
thần Mẹ xứ sở Pô Nagar của người Chăm. Đây chính là nét riêng biệt trong tín
ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở miền Trung, với cực bắc là tín ngưỡng thờ Thiên
Yana ở Huế và cực Nam là tín ngưỡng thờ Thiên Yana/Pô Nagar ở Khánh Hòa.
Nghiên cứu về tín ngưỡng thờ Mẫu ở Miền Trung đã có nhiều tác giả với những
công trình nghiên cứu hay chuyên khảo khác nhau. Có thể đơn cử các tác giả và các
công trình nghiên cứu tiêu biểu như: Ngô Đức Thịnh (Đạo Mẫu Việt Nam, Nxb Tôn

giáo, Hà Nội, 2009), Nguyễn Hữu Thông (chủ biên) (Tín ngưỡng thờ Mẫu ở miền
Trung Việt Nam, Nxb Thuận Hóa, Huế, 2001), Nhiều tác giả (Văn hóa Nghệ thuật
Trung Bộ, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội 1998), Sakaya (Lễ hội của người Chăm,
Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 2003), Ngô Đức Thịnh (Bản sắc văn hóa vùng ở
Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2009), Tạ Chí Đại Trường (Thần, người và đất
Việt, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2004), Nhiều tác giả (trong Kỷ yếu Hội thảo
khoa học Nhận thức về miền Trung Việt Nam hành trình 10 năm nghiên cứu, Huế,
tháng 7-2009), Văn Đình Hy (Từ thần thoại Pô Inu Nưgar đến Thiên Yana trong


6
Những vấn đề Dân tộc học miền Nam Việt Nam, tập 2, Tp Hồ Chí Minh, 1978), Lê
Văn Hảo (Tìm hiểu quan hệ giao lưu văn hóa Việt - Chàm qua kho tàng văn học
dân gian của người Việt và người Chàm, Tạp chí Dân tộc học, số 1/1960)…. Những
nghiên cứu trên phần nào đã khai quát được tín ngưỡng thờ Mẫu ở Miền Trung Việt
Nam. Cuốn sách Đạo Mẫu Việt Nam của GS. Ngô Đức Thịnh đã tái bản 4 lần, có bổ
xung, chỉnh lý (chúng tôi sử dụng cuốn sách xuất bản năm 2009 để cập nhật với
tình hình nghiên cứu hiện nay) đã dành trọn phần 3 để trình bày về tục Thờ Mẫu ở
miền Trung. Phần này, tác giả trình bầy những dạng thức thờ Mẫu và những thần
Mẫu được thờ ở trong vùng. Ngoài Thiên Yana của người Việt và Po Inu Nưgar của
người Chăm là hai chủ thể thờ phụng chính của người Chăm và người Việt, mẫu ở
miền trung còn thờ phụng Ngũ vị Thánh Bà (Kim , Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ) , bà
Thiên Hậu, bà Hậu Thổ, Tứ vị thánh nương, bà Thu Bồn (Bô Bô/Pô Pô phu nhân)…
Những vị thần này có nguồn gốc khác nhau: Chăm, Hoa, Việt… nhưng xâu chuỗi
những cứ liệu liên quan thì tác giả cho rằng tín ngưỡng thờ Mẫu ở miền Trung được
bắt nguồn từ tín ngưỡng thờ Nữ thần của người Chăm, đặc biệt là các nữ thần biển.
Tiếp đến là công trình tiêu biểu khác nghiên cứu về Tín ngưỡng thờ Mẫu ở
miền Trung Việt Nam do Nguyễn Hữu Thông chủ biên. Cuốn sách này tác giả đã đề
cập khá đầy đủ về hệ thống tín ngưỡng thờ Mẫu ở miền Trung, khẳng định Thánh
Mẫu Thiên Yana là tối thượng ở miền Trung và có nguồn gốc từ tín ngưỡng thờ Nữ

thần Mẹ xứ sở Pu Inu Nugar của người Chăm. Trong cuốn sách này tác giả đi sâu
vào trình bày tín ngưỡng thờ Mẫu ở Trung Trung Bộ, mà điển hình là ở Huế với các
hiện tượng hầu đồng và hệ thống văn chầu liên quan. Mặc dù Huế là điểm cực Bắc
thờ Thiên Yana nhưng Thiên Yana trong tín ngưỡng của người Việt ở đây mang
tính chuyển tiếp của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam, giữa tín ngưỡng Mẫu Tam
Phủ, Tứ Phủ của người Việt ở Bắc Bộ và tín ngưỡng thờ Mẹ xứ sở Po Inu Nugar
của người Chăm. Do vậy, có thể nói rằng cuốn sách này nghiên cứu tín ngưỡng thờ
Thiên Yana của người Việt ở khu vực Trung Trung Bộ, điển hình là ở Huế chứ
không phải là đặc trưng của tín ngưỡng thờ Mẫu ở miền Trung Việt Nam nói chung.
Cuốn sách Thần, người và đất Việt của tác giả Tạ Chí Đại Trường cũng đề
cập nhiều đến tín ngưỡng thờ Mẫu Thiên Yana ở miền Trung, đặc biệt là chương 7


7
(Những chân trời mới cho thần linh Đại Việt) và chương VIII (Sự phối hợp thần
linh ở Đàng Trong). Cuốn sách này đề cập đến hệ thống thần linh Đại Việt, trong
đó có các thần linh Chiêm Thành trong đời sống văn hóa - tôn giáo - chính trị của
xã hội người Việt. Tác giả đưa ra lý thuyết cho những chiều hướng hội tụ, tiếp biến
và phát sinh của thần linh Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn. Tác giả cho rằng
việc thờ phụng Thiên Yana ở Đàng Trong được các chúa Nguyễn rất coi trọng là vì
buổi đầu sự nghiệp chúa Nguyễn cần một sự bảo trợ của các vị thần linh bản xứ
phương nam chứ không phải là sự thờ vọng của các thần linh đất Bắc ở Thăng Long
xa xôi, đồng thời cũng là phương thức hữu hiệu nhất để an ủi và thu phục những cư
dân là chủ nhân của vùng đất đó. Không chỉ tầng lớp vua chúa, những lưu dân Việt
ở Bắc Bộ vào đây lập nghiệp, họ cần một sự bảo trợ mới, gần gũi mà chắc chắn và
đó chính là lý do làm cho vị thần chủ của mảnh đất phương Nam Pô Inư Nưgar của
người Chăm trở thành Thiên Yana của người Việt, được cả triều đình và nhân dân
sùng kính, đền tháp của người Chăm trở thành cơ sở thờ tự Thánh Mẫu của người
Việt với sự Việt hóa cao độ trên nền tảng Chăm bản địa. Đây là một công trình rất
có giá trị để tìm hiểu về quá trình tiếp biến, giao thoa văn hóa, đặc biệt là tôn giáo,

tín ngưỡng giữa người Việt và người Chăm ở miền Trung Việt Nam.
Một công trình khác góp phần khắc họa tín ngưỡng thờ Mẫu ở miền Trung là
cuốn sách Lễ hội của người Chăm của tác giả Sakaya (Trương Văn Món). Công
trình này tác giả trình bày hệ thống lại những lễ hội chính của người Chăm. Điểm
đặc biệt trong các lễ hội lớn của người Chăm ở vùng Nam Trung Bộ hiện nay đều
được tổ chức tại 3 đền tháp: đền Pô Inư Nưgar ở Hữu Đức, tháp Pô Klong Girai ở
Đô Vinh (Phan Rang) và tháp Pô Rame ở Hậu Sanh. Có thể nói tín ngưỡng thờ Pô
Inư Nưgar (Nữ thần mẹ xứ sở) bao trùm tất cả các lễ hội của người Chăm hiện nay
qua các bài thánh ca và các nghi lễ. Tuy cuốn sách này không trực tiếp nghiên cứu
về tín ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở miền Trung nhưng có mối quan hệ mật
thiết vì Thánh Mẫu Thiên Yana của người Việt có nguồn gốc từ Nữ thần Mẹ xứ sở
của người Chăm. Và qua đó giúp chúng ta hiểu về tín ngưỡng thờ Thiên Yana của
người Việt ở vùng Nam Trung Bộ, đặc biệt là ở Khánh Hòa - nơi có ngôi đền của
Nữ thần Pô Inư Nưgar của người Chăm ở thánh địa Kauthara trước đây. Điều đó tạo


8
nên bản sắc văn hóa của vùng/tiểu vùng Trung và Nam Trung Bộ như cuốn sách
“Bản sắc văn hóa vùng” của GS. Ngô Đức Thịnh đã đề cập.
Cuộc hội thảo khoa học gần đây nhất do Viện Văn hóa nghệ thuật Việt Nam,
phân viện tại Huế tổ chức vào tháng 7-2009 với chủ đề “Nhận thức về miền Trung
Việt Nam - hành trình 10 năm nghiên cứu” có nhiều bài viết về tín ngưỡng thờ Mẫu
ở miền Trung, sự tiếp biến văn hóa Việt - Chăm qua tín ngưỡng, tôn giáo. Tiêu biểu
là bài viết của các tác giả như Lê Đình Hùng (Tiếp biến văn hoá Việt - Chiêm trên
vùng Thuận Hóa qua dấu ấn danh xưng của một vị nữ thần), Nguyễn Hữu Thông -
Lê Đình Hùng (Cư dân vùng Thuận Hóa đầu thế kỷ XV qua văn bản Thủy Thiên),
Trần Đình Hằng (Của người, của ta: Thần điện làng Việt miền Trung)… Qua
những bài viết trên, các tác giả đã đi sâu vào nghiên cứu quá trình di cư của người
Việt vào phương nam và quá trình Việt hóa các thần linh, linh vật và cơ sở thờ tự
của người Chàm, đặc biệt là nữ thần Pô Inư Nưgar với nhiều danh xưng khác nhau,

mà cho đến hiện nay người Việt vẫn đang thờ phụng như Bà Lồi, Bà Dàng, Man
Nương, Thai Dương…) nhưng thống nhất và xuyên suốt với tên gọi là Thiên Yana.
Tuy nhiên, đây vẫn chỉ là những bài nghiên cứu về tín ngưỡng thờ Thiên Yana ở
vùng Trung Trung Bộ, mà đó chỉ là một tiểu vùng thờ Thiên Yana với những đặc
trưng riêng trên mẫu số chung là tín ngưỡng thờ Thiên Yana ở miền Trung Việt
Nam.
Về tín ngưỡng thờ Pô Nagar ở Khánh Hòa: Nghiên cứu về tín ngưỡng thờ
Pô Nagar ở Khánh Hòa cũng đã được đề cập trên nhiều phương diện với các công
trình tiêu biểu của các tác giả như: H. Pamentier (Thống kê khảo ta các di tích
Chàm ở Trung Kỳ trong đó có bài Đền thờ Pô Nagar ở Nha Trang công bố năm
1902), Lê Quang Nghiêm (Tục thờ cúng của ngư phủ Khánh Hòa, giải nhất biên
khảo 1069, Trung tâm Văn bút Việt Nam, 1970), Quách Tấn (Xứ Trầm hương, Hội
Văn học nghệ thuật Khánh Hòa, Nha Trang, 2002), Lê Đình Chi (Lễ hội Tháp Bà
Nha Trang, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội, 1998), Nguyễn Công Bằng (Tháp Bà
Nha Trang, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2005), Sở Văn hóa Thông tin Khánh
Hòa (Tục thờ Thiên Y Thánh Mẫu ở Khánh Hòa, Đề tài khoa học năm 2004), Sở
Văn hóa Thông tin Khánh Hòa (Những tục thờ và lễ hội tiêu biểu của Khánh Hòa,


9
Nha Trang xuất bản, 2005), Nhiều tác giả Tìm hiểu giá trị lịch sử và văn hóa truyền
thống Khánh Hòa 350 năm, Nxb Chính trị Quốc gia, 2005), Nguyễn Đình Tư (Non
nước Khánh Hòa, Nxb Thanh niên, Hà Nội, 2003), Ngô Văn Doanh (Tháp bà Thiên
Yana - Hành trình của một nữ thần, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh, 2009,) và một số
công trình nghiên cứu đã xuất bản, các bài tạp chí khác…
Các công trình nghiên cứu, biên khảo trên đã phần nào khắc họa được tín
ngưỡng thờ Pô Nagar/Thiên Yana ở Khánh Hòa và cũng là đặc trưng của tín
ngưỡng thờ Thiên Yana ở vùng Nam Trung Bộ Việt Nam. Cuốn sách Tục thờ cúng
của ngư phủ Khánh Hòa của tác giả Lê Quang Nghiêm đã khắc họa chi tiết về tục
thờ cúng của ngư dân Khánh Hòa khi hoạt động mưu sinh trên biển, đặc biệt là tín

ngưỡng của họ đối với những thần linh của người Chàm mà Pô Nagar với hiện thân
là Bà Chúa Đảo/ Bà Chúa Xứ/Bà Lỗ Lường, … Trong công trình này, tác giả còn
biên khảo những tập tục của ngư phủ Khánh Hòa đã từng tồn tại nhưng được bãi bỏ
từ lâu và những tập tục mà hiện tại ngư phủ còn thực hành nhằm khắc họa quá trình
thờ phụng nữ thần Thiên Yana của ngư phủ nơi đây.
Một công trình biên khảo khác cũng đề cập đến đặc trưng tín ngưỡng thờ
Thiên Yana là cuốn “Xứ trầm hương” của tác giả Quách Tấn. Tuy không nhiều
nhưng tác giả cũng khắc họa những nét đặc trưng nhất của tín ngưỡng thờ Thiên
Yana ở đây có nguồn gốc từ người Chiêm Thành với biểu hiện rõ nét nhất còn
truyền lại là tục múa bóng trong lễ hội Tháp Bà ở Nha Trang. Và nghệ thuật múa
bóng đó cũng là do người Chiêm Thành truyền lại.
Cuốn sách Tháp Bà Nha Trang của tác giả Nguyễn Công Bằng và Lễ hội
Tháp Bà Nha Trang của Lê Đình Chi là hai công trình chuyên khảo và nghiên cứu
về tín ngưỡng thờ Pô Nagar/Thiên Yana trên lĩnh vực di tích và lễ hội một cách chi
tiết với những giá trị văn hóa lễ hội, kiến trúc, điêu khắc tiêu biểu tại cụm di tích
Tháp Bà ở Nha Trang. Tuy nhiên, đây chỉ là một địa điểm tiêu biểu của tín ngưỡng
thờ Pô Nagar ở Khánh Hòa.
Tín ngưỡng thờ Pô Nagar ở Khánh Hòa còn được trình bày trong Tục thờ
Thiên Y Thánh Mẫu ở Khánh Hòa, Những tục thờ và lễ hội tiêu biểu của Khánh
Hòa, Tìm hiểu giá trị lịch sử và văn hóa truyền thống Khánh Hòa 350 năm… Trong


10
những công trình này các tác giả tập trung vào trình bày tín ngưỡng thờ Pô Nagar ở
Khánh Hòa trên những phương diện khác nhau. Tuy nhiên, đây chỉ là những bài
viết ngắn, lẻ tẻ, chủ yếu đi sâu vào phần khảo tả từng di tích và lễ hội cụ thể, chưa
đi sâu nghiên cứu về tín ngưỡng thờ Pô Nagar của người Việt ở Khánh Hòa và mối
quan hệ với các dân tộc khác ở vùng phụ cận (đặc biệt là về tín ngưỡng, lễ hội của
người Chăm) để thấy được quá trình kế thừa, tiếp biến và giao lưu văn hóa giữa hai
dân tộc Việt - Chăm ở Khánh Hòa nói riêng và ở Việt Nam nói chung.

Một công trình xuất bản gần đây nhất về tín ngưỡng thờ Pô Nagar ở Khánh
Hòa là cuốn sách Tháp bà Thiên Yana - Hành trình của một nữ thần của tác giả Ngô
Văn Doanh. Tác giả đã đi sâu vào nghiên cứu, biên khảo về nghệ thuật kiến trúc,
điêu khắc và nghệ thuật múa bóng dân gian ở Tháp Bà, những tư liệu bia ký cổ về
hành trạng của vị nữ thần chủ của xứ Kauthara ở Nha Trang, hành trình tiếp biến
của một vị nữ thần từ nữ thần mẹ Devi của Hindu giáo đên Pô Nagar của người
Chăm rồi Thiên Yana của người Việt. Tác giả cũng đề cập đến những truyền thuyết
về Pô Nagar của người Chăm và người Việt, một số cơ sở thờ tự Pô Nagar/Thiên
Yana ở Khánh Hòa và tín ngưỡng thờ phụng của cư dân ở Khánh Hòa Đây là một
công trình nghiên cứu rất có giá trị để tìm hiểu về nghệ thuật Champa và tín ngưỡng
thờ Pô Nagar ở Khánh Hòa nhưng đó chỉ là một vài địa điểm tiêu biểu mà chưa phải
là công trình khái quát một cách đầy đủ tín ngưỡng thờ Bà ở Khánh Hòa.
Đề tài Tín ngưỡng thờ Pô Nagar ở Khánh Hòa sẽ góp thêm phần tư liệu
nhằm làm rõ hơn và toàn diện hơn tín ngưỡng thờ Thiên Yana trong vùng, đồng
thời làm rõ những ảnh hưởng của văn hóa Chăm đối với người Việt ở Khánh Hòa
và dải đất miền Trung hiện nay trên lĩnh vực tôn giáo, tín ngưỡng.
3. Mục đích nghiên cứu
Khái quát một cách toàn diện nhất về tín ngưỡng thờ Pô Nagar/Thiên Yana ở
Khánh Hòa (phân bố, di tích, tín ngưỡng, thờ tự, các lễ hội liên quan…)
Trên cơ sở đó thấy được mối quan hệ cộng cư, giao thoa và ảnh hưởng lẫn
nhau trên lĩnh vực tôn giáo tín ngưỡng Chăm - Việt ở Khánh Hòa. Từ đó phát huy
truyền thống đoàn kết Chăm - Việt trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết dân


11
tộc và những tinh hoa văn hóa truyền thống để phát triển đất nước đa dạng và bền
vững hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Tín ngưỡng thờ Pô Nagar/Thiên Yana ở Khánh Hòa
Phạm vi nghiên cứu:

+ Không gian: Tỉnh Khánh Hòa và liên hệ với một số vùng lân cận
+ Thời gian: Quá khứ và hiện tại (chủ yếu là hiện tại)
5. Phương pháp tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp tiếp cận:
- Tiếp cận nhân học: Nghiên cứu tín ngưỡng thờ Pô Nagar với tư cách là tín
ngưỡng chủ đạo trong mối quan hệ với các loại hình tôn giáo, tín ngưỡng ở
Khánh Hòa
- Tiếp cận sử học
Phương pháp nghiên cứu
- Sử dụng các lý thuyết nghiên cứu tôn giáo tín ngưỡng, giao thoa và tiếp biến
tôn giáo, tín ngưỡng, lý thuyết nghiên cứu về vùng văn hóa và hội tụ, giao
thoa văn hóa.
- Phương pháp điền dã dân tộc học: phỏng vấn, điều tra hồi cố, thu thập thông
tin và điền dã thực địa
Nguồn tư liệu thực hiện đề tài
- Chủ yếu là tư liệu thu được trong quá trình điền dã tại Khánh Hòa
- Thu thập, sử lý các tư liệu lịch sử, văn hoá, xã hội có liên quan.
6. Đóng góp của đề tài
- Nghiên cứu hệ thống về tín ngưỡng thờ Pô Nagar góp thêm tư liệu để nghiên
cứu một loại hình tôn giáo, tín ngưỡng ở Việt Nam.
- Góp thêm tư liệu về quá trình giao thoa và tiếp biến văn hóa giữa các dân tộc
ở Việt Nam, đặc biệt là hai dân tộc Việt - Chăm.
- Phác họa và góp thêm ý kiến, đề xuất khoa học cho việc sưu tầm, nghiên
cứu, giữ gìn, phát huy giá trị di sản văn hóa dân gian được biểu hiện qua tín
ngưỡng thờ Pô Nagar/Thiên Yana ở Khánh Hòa trong sự nghiệp phát triển


12
chung của tỉnh và định hướng phát triển bền vững khối đại đoàn kết các dân
tộc Việt Nam hiện nay.






CHƯƠNG 1: CÁC DI TÍCH PÔ NAGAR/THIÊN YANA Ở KHÁNH HÕA

1.1.Đôi nét về Khánh Hòa
1.1.1.Điều kiện tự nhiên - xã hội
Khánh Hoà là một tỉnh nằm ở cực Nam Trung Bộ, có diện tích 4626km
2
. Nằm
ở vị trí giữa vĩ tuyến 11 và 13 vĩ độ Bắc, có phần đất nhô ra biển Đông xa nhất nước
ta. Phía Đông giáp biển Thái Bình Dương, điểm cực Đông phần đất liền 109
0
27’55’’. Phía Nam giáp tỉnh Ninh Thuận, điểm cực Nam 11
0
42’55’’. Phía Tây
giáp Đắc Lắc, Lâm Đồng, dựa vào dãy Trường Sơn trùng điệp, điểm cực Tây
108
0
40’33’’ độ kinh Đông. Phía Bắc giáp tỉnh Phú Yên 12
0
52’vĩ độ Bắc. Nằm ở vị
trí cửa ngõ của các tỉnh Tây Nguyên, án ngữ trên trục đường Quốc lộ 1A, cùng với
bán đảo Cam Ranh và quần đảo Trường Sa, Khánh Hoà có một vị trí chiến lược đặc
biệt về kinh tế cũng như quốc phòng của Việt Nam.
Nằm trong vùng nội chí tuyến nên Khánh Hoà có khí hậu nhiệt đới gió mùa.
Trời nắng gắt nhưng có gió nồm mang hơi nước từ biển nên không khí khá dễ chịu.
Thời tiết chia làm 2 mùa rõ rệt: mùa khô từ tháng 1 đến tháng 10, nhiệt độ trung

bình từ 22
0
9 đến 32
0
3; mùa mưa từ tháng 10 đến tháng 12, nhiệt độ trung bình từ
22
0
5 đến 29
0
6. Do đó số ngày nắng trong năm rất lớn (khoảng 2.600 giờ).
Khánh Hoà nằm ở đoạn cuối của dải Trường Sơn Nam, có chiều nghiêng
theo hướng Tây - Đông. Địa hình núi và bán sơn địa chiếm 3/4 diện tích và được
chia làm 3 vùng chính: vùng núi, vùng đồng bằng, vùng ven biển và các đảo. Cấu
tạo địa chất chủ yếu là đá Granit và Rionit, Đaxit có nguồn gốc Mắcma xâm nhập
hoặc phún xuất kiểu mới. Ngoài ra còn một số loại đá cát, đá trầm tích ở một số nơi.


13
Về địa hình kiến tạo, đất Khánh Hoà được hình thành rất sớm, là một bộ phận thuộc
rìa phía Đông - Nam của địa khối cổ Kon Tum, nổi lên khỏi mặt nước biển từ cách
đây khoảng 570 triệu năm. Do quá trình phong hoá vật lý học diễn ra trên nền đá
Granit, Rionit đã tạo thành những hình dạng độc đáo, rất đa dạng, phong phú, tạo
cho thiên nhiên Khánh Hoà có nhiều cảnh đẹp nổi tiếng.
Sông ngòi ở Khánh Hoà nhìn chung ngắn và dốc, cả tỉnh có khoảng 40 con
sông dài từ 10km trở lên, tạo thành một mạng lưới sông phân bố khá dày. Hầu hết
các con sông đều bắt nguồn tại vùng núi phía Tây trong tỉnh và chảy xuống biển
Đông. Dọc bờ biển, cách khoảng 5 - 7km có một cửa sông. Rừng ờ đây chiếm 75%
diện tích tự nhiên toàn tỉnh với 274.000ha thuộc nhiều loại: rừng nhiệt đới, rừng á
đới, rừng thưa… có trữ lượng lớn, trong đó có những loại cây quý hiếm có giá trị
kinh tế cao.

Do bị một số dãy núi phân cắt nên địa hình đồng bằng Khánh Hoà chia làm 3
vùng rõ rệt: Đồng bằng Vạn Ninh - Ninh Hoà có diện tích khoảng 200km
2
, độ cao
tuyệt đối 5 - 15m, bề mặt địa hình nghiêng về phía Đông Nam. Đồng bằng Diên
Khánh - Nha Trang có diện tích gần 300km
2
, phần phía Tây dọc sông Chò từ Khánh
Bình đến Diên Đồng bị bóc mòn, độ cao tuyệt đối 10 - 20m, phần phía đông là địa
hình tích tụ, có độ cao tuyệt đối dưới 10m, bề mặt địa hình bị phân cắt mạnh bởi các
dòng chảy. Đồng bằng Cam Ranh có diện tích khoảng 200km
2
, bằng phẳng, ít phân
cách, độ cao tăng dần về phía Tây từ 20 - 30m.
Biển Khánh Hoà có độ cao và khúc khuỷu nhất Việt Nam. Bờ biển Khánh
Hoà thuộc dạng bờ biển trẻ, quá trình xâm thực, mài mòn và bồi đắp tự nhiên phát
triển mạnh. Bờ biển có nhiều dạng khác nhau: bờ biển cát, bờ biển đá, bờ biển vùng
vịnh và quanh các đảo. Dọc bờ biển có nhiều vũng, vịnh, bãi triều, bãi cát trắng, tạo
điều kiện thuận lợi để thiết lập các cảng biển, nuôi trồng thuỷ sản và phát triển du
lịch.
Nhìn chung Khánh Hoà là vùng đất có địa hình đa dạng, điều kiện tự nhiên
phong phú thuận lợi cho phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp và các hoạt động về
ngư nghiệp cũng như chế biến hải sản, cho nên trong lịch sử phát triển của mình,
các nhóm người cổ đã sớm có mặt và sinh sống ở đây. Điều kiện đó đã có những tác


14
động tích cực trong việc tạo cho Khánh Hoà có những nét văn hoá mang sắc thái
riêng trong diễn trình lịch sử văn hoá dân tộc.
Khánh Hoà cũng như các tỉnh miền Nam Trung Bộ khác, có nhiều tộc người

và đa dạng văn hoá. Các tộc người ở Khánh Hoà thuộc hai ngữ hệ: Mã Lai - Đa Đảo
(Indonexia) hay Nam Đảo gốc biển và Nam Á gốc đồi núi.
Dựa trên những đặc điểm về địa lý tự nhiên, từ lâu mảnh đất này luôn được
coi là một tiểu vùng của vùng văn hoá duyên hải nước ta, với những đặc trưng của
văn hoá rừng núi, văn hoá đồng bằng văn hoá biển - đảo, vừa có nét chung của nền
văn hoá Việt Nam, vừa mang bản sắc riêng biệt độc đáo của từng vùng đất. Hiện
nay, dân số ở Khánh Hoà xấp xỉ một triệu người, bao gồm người Kinh và các dân
tộc anh em là Raglai, Ê đê, Trins… cùng đoàn kết chung sống từ nhiều đời nay và
chính họ là chủ nhân đích thực của các nền văn hoá tiêu biểu (Nguyễn Văn Khánh,
2003).
Do đặc điểm cấu tạo địa hình rừng núi - đồng bằng nên các tộc người phân bố
cũng theo đặc điểm đó. Người Raglai, Giẻ Triêng, Ê đê…đại bộ phận phân bố ở các
huyện miền núi, người Kinh, người Hoa chủ yếu sống ở đồng bằng, thành phố và
thị trấn. Tuy ngôn ngữ, tiếng nói có khác nhau song họ đã tạo nên một nền văn hoá
vật thể (tangible) và phi vật thể (intangible) hết sức đa dang, tiêu biểu và đặc sắc.
Nó được biểu hiện và bảo tồn dưới nhiều dạng trong đời sống xã hội như: nghệ
thuật, tín ngưỡng, tôn giáo, ngành nghề truyền thống, lễ hội. Đặc biệt, những di vật
khảo cổ trong các di tích, di chỉ khảo cổ học thể hiện rõ những văn hoá vật chất và
văn hoá tinh thần, tồn tại trong suốt thời gian và không gian của lịch sử.
1.1.2.Lịch sử hình thành vùng đất Khánh Hòa

Theo lịch đại, vùng đất Khánh Hòa phát triển qua ba giai đoạn với ba nền
văn hóa tiêu biểu nối tiếp nhau: Văn hóa Sa Huỳnh, văn hóa Chămpa và văn hóa
Việt.
* Thời kỳ văn hóa Sa Huỳnh:
Theo kết quả nghiên cứu của ngành Khảo cổ học thì vùng Duyên hải Trung
và Nam Trung Bộ là địa bàn phân bố của nền văn hóa cổ Sa Huỳnh phát triển từ


15

giai đoạn Xóm Cồn (Sơ kỳ kim khí) đến giai đoạn Hòa Diêm (Sơ kỳ sắt). Đặc trưng
của văn hóa Sa Huỳnh (ở Khánh Hòa và Nam Trung Bộ nói chung) là phát triển của
mộ chum hình cầu với nhiều dạng táng thức khác nhau (hung táng, hỏa táng…), đồ
gốm, đồ trang sức… Vào thời kỳ này, vùng đất Khánh Hòa rất thuận lợi cho các
tộc người cổ sinh sống với nhiều hình thức kinh tế. Với lịch sử cả ngàn năm, các
nhóm cư dân cổ nói trên đã có những đóng góp quan trọng cho diễn trình phát triển
của lịch sử, văn hóa trong các giai đoạn về sau, cụ thể và trực tiếp là nền văn hóa
Chămpa.
*Thời kỳ Chămpa:
Qua những tư liệu về Khảo cổ học, Lịch sử, Dân tộc học … cho thấy trên địa
bàn phân bố của văn hóa Sa Huỳnh có các bộ tộc, mà trong truyền thuyết của người
Chăm còn nhắc đến là bộ tộc Cau và Dừa là hai bộ tộc chủ yếu lập nên vương quốc
Chămpa sau này. Bộ lạc Cau (Kramuka - Vamsa) cư trú ở vùng Khánh Hòa, Ninh
Thuận, Bình Thuận và bộ tộc Dừa (Narikela-Vamsa) cư trú từ vùng Quảng Bình
đến Phú Yên hiện nay. Bên cạnh đó, họ cũng có quan hệ với các cư dân vùng đồng
bằng ven biển phía Bắc, phía Nam và cả Tây Nguyên. Do địa hình miền Trung bị
chia cắt nên ban đầu trong vùng đã hình thành các tiểu quốc nhỏ.
Tên gọi quốc gia là Chămpa chính thức được xuất hiện trong bia của một ông
vua có tên gọi là Sambhuvarman (595-629). Vương quốc cổ Chămpa được hình
thành và phát triển trên cơ sở sáp nhập một số tiểu quốc thân tộc, song chủ yếu về
mặt chính trị. Toàn bộ đất nước được chia làm 4 quận lớn: Amaravati ở phía Bắc,
Vijaya ở giữa, tiếp theo là Kauthara và Panduraga ở phía Nam. Theo ý kiến của
giáo sư Trần Quốc Vượng thì “Nha Trang-Khánh Hòa là vương quốc mẫu hệ
Kauthara với huyền thoại nổi tiếng Nàng Trầm Hương trên núi Thiên An nay là hệ
thống Tháp Bà thế kỷ XI-XIII gần cầu Bóng Nha Trang. Bà theo phiên âm và phiên
dịch một từ Chăm cổ sang Hán Việt tức Thiên Yana thật ra là Yangsri Po Negara -
Bà Mẹ Xứ Sở”[67, tr 27].
Ngày đầu lập quốc, trung tâm kinh tế, chính trị của vương quốc Chămpa ở
miền Bắc với kinh đô là Trà Kiệu ở Quảng Nam. Đến cuối thế kỷ VIII với sự ra đời
của nước Hoàn Vương) và việc xây dựng Pô Nagar thì trung tâm kinh tế chính trị



16
của vương quốc Chămpa chuyển dần vào phía Nam. Đây là một bước chuyển biến
lớn trong đời sống chính trị của vương quốc Chămpa. Cuối thế kỷ IX, ưu thế chính
trị lại thuộc về miền Bắc Chăm, với trung tâm chính trị, văn hóa, kinh tế, tôn giáo
được thiết lập ở Đồng Dương (Duy Xuyên, Quảng Nam), được sử Việt và Trung
Quốc gọi tên quốc gia là Chiêm Thành. Đây là thời kỳ đạo Phật thịnh hành ở
Chămpa nhưng các tôn giáo khác, đặc biệt là Ấn Độ giáo vẫn phát triển.
Vào đầu thế kỷ XI, một vương triều mới ra đời, kinh đô được xác lập ở Bình
Định (Vương triều Vijaya) và tồn tại đến thế kỷ XV. Trong quá trình tồn tại, vương
triều Vijaya cũng đạt được nhiều thành tựu về văn hóa nghệ thuật nhưng cũng là
giai đoạn thăng trầm của lịch sử Chămpa. Đặc biệt, sau năm 1971 sau khi vua Lê
Thánh Tông chiếm được kinh thành Vijaya (Phật Thệ) thì vương quốc Chămpa đến
đây chấm dứt trên thực tế [44, tr 182]. Lúc này, người Chăm chỉ còn sinh sống
trong khu vực từ Đèo Cù Mông đến Phan Rang. Đến năm 1653, trong một lần đánh
nhau với quân của chúa Nguyễn đang đóng ở Phú Yên, người Chămpa lại thất bại
và họ bị mất luôn vùng đất Kauthara. Kể từ năm 1653 vùng đất Kauthara đã trở
thành một bộ phận của lãnh thổ Việt Nam hiện nay.
Nguời Chăm ra đi nhưng đã để lại cho vùng đất Khánh Hòa những di sản văn
hóa vô cùng quý giá. Đó là những di tich đền tháp, những kinh nghiệm ngành nghề,
hệ thống tín ngưỡng dân gian và lễ hội đặc sắc.
*Khánh Hòa dưới chủ quyền của người Việt
Đến năm Canh Ngọ thứ ba (1690) phủ Thái Khang được đổi thành phủ Bình
Khang, đến năm Nhâm Tuất (1742) phủ Diên Ninh được đổi thành phủ Diên
Khánh. Đến năm Giáp Tý (1744) tổ chức hành chính trong nước được xắp xếp lại,
đúc ấn quốc vương, phủ chúa gọi là điện, truy tôn vương hiệu các đời, đổi các cơ
quan trực thuộc phủ chúa thành lục bộ, chia lãnh thổ thành 12 dinh, trong đó có
dinh Bình Khang bao gồm hai phủ Diên Khánh và Bình Khang.
Đến năm 1771, sau cuộc khởi nghĩa Tây Sơn thì đất Khánh Hòa thuộc nhà Tây

Sơn. Được ít lâu chúa Nguyễn sai Lê Văn Quân đem binh từ nam ra chiếm lấy
thành Bình Thuận và Diên Khánh, đất Khánh Hòa lại trở về với chúa Nguyễn. Sau
khi thống nhất đất nước, Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế đã cho thay đổi một số đơn


17
vị hành chính. Năm 1803, dinh Bình Khang được đổi tên là dinh Bình Hòa, phủ
Bình Khang được đổi thành phủ Bình Hòa. Năm Gia Long thứ 7 (1808) một cuộc
cải cách hành chính rộng lớn diễn ra trên phạm vi toàn quốc, các dinh đều được đổi
thành trấn, dinh Bình Hòa được đổi thành trấn Bình Hòa, quan đứng đầu dinh là
Lưu thủ đổi thành Trấn thủ, có cai bộ và ký lục phụ tá.
Đến năm 1831 dưới thời Minh Mạng thứ 12 phủ Bình Hòa đổi tên thành phủ
Ninh Hòa. Năm sau 1832 sau cuộc cải cách hành chính trong toàn quốc, các trấn đổi
thành tỉnh, trấn Bình Hòa đổi thành tỉnh Khánh Hòa, đứng đầu tỉnh là viên Tổng
đốc, các tỉnh nhỏ ở gần nhau thì đặt dưới sự cai quản của viên Tuần phủ Thuận
Khánh. Lại sáp nhập huyện Hoa Châu vào huyện Phước Điền, hạ tỉnh Khánh Hòa
xuống còn 2 phủ, 4 huyện.
Cũng dưới triều Minh Mạng, 12 tỉnh miền Trung được chia thành các trực kỳ.
Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh thuộc Hữu trực kỳ; Quảng Bình, Quảng Trị thuộc
Bắc trực kỳ; Phủ Thừa Thiên là kinh đô thuộc Trực Lệ; Quảng Nam, Quảng Ngãi
thuộc Nam trực kỳ; Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa, Bình Thuận thuộc Tả trực kỳ.
Đến đầu thời Thiệu Trị và Tự Đức các thuộc của tỉnh Khánh Hòa được nâng lên
thành tổng (thuộc Hạ Bạc của huyện Vĩnh Xương đổi thành tổng Xương Hạ), các
thôn xóm nhỏ được kết hợp thành những thôn xã lớn. Sau khi thực dân Pháp chiếm
các tỉnh Nam Kỳ, triều đình Tự Đức cho đẩy mạnh công cuộc chiêu dân lập ấp, khai
thác đất hoang trong các tỉnh, trong đó có tỉnh Khánh Hòa. Tháng 3-1864, triều đình
nhà Nguyễn cho phép tỉnh Khánh Hòa thành lập đội quân Thiên thiện (gồm những
tù phạm trong tỉnh và các nơi phát vãng vào Khánh Hòa cho vào các thôn xã để làm
ăn sinh sống) với nhiều chính sách ưu đãi trong việc khai khẩn đất hoang.
Năm Đồng Khánh thứ 3 (1888) địa bàn tỉnh Khánh Hòa được mở rộng bằng

cách nhập thêm huyện An Phước của phủ Ninh Thuận bị giải thể, 7 xã của huyện
Tuy Phong, 2 tổng của huyện Hòa Đa tỉnh Bình Thuận sáp nhập vào huyện Vĩnh
Xương. Đến năm Thành Thái thứ 13 (1901) phủ Ninh Thuận được đặt thành đạo
Ninh Thuận, các phần đất bị cắt trước đây được trả về cho Ninh Thuận, tỉnh Khánh
Hòa chỉ còn 2 phủ và 4 huyện là phủ Diên Khánh (gồm 2 huyện Phước Điền và
Vĩnh Xương), phủ Ninh Hòa (gồm hai huyện Quảng Phước và Tân Định). Dưới


18
thời Duy Tân (1907-1916), một phần đất Vĩnh Xương được lập thành tổng Cam
Ranh, bỏ huyện Phước Điền giao cho phủ Diên Khánh kiêm lý, bỏ huyện Ninh
Phước giao cho phủ Ninh Hòa kiêm lý. Lúc này Khánh Hòa chỉ còn lại 4 phủ huyện
(phủ Ninh Hòa, huyện Tân Định, phủ Diên Khánh, huyện Vĩnh Xương) với 18 tổng,
247 làng, 13.578 đinh [63, tr 86].
Năm 1924 thị xã Nha Trang được thành lập. Vào năm 1930-1931 chính quyền
Pháp đổi huyện Tân Định thành phủ Ninh Hòa (huyện Ninh Hòa ngày nay), phủ
Ninh Hòa cũ thì đổi thành huyện Vạn Ninh. Năm 1944 chuyển thị xã Nha Trang lên
thành thành phố Nha Trang. Sau nhiều lần thay đổi địa giới hành chính nội tỉnh, đến
1976 tỉnh Khánh Hòa và Phú Yên sáp nhập vào nhau thành tỉnh Phú Khánh. Quyết
định của kỳ họp thứ 4 quốc hội khóa VII sáp nhập huyện Trường Sa của tỉnh Đồng
Nai vào tỉnh Phú Khánh. Đến kỳ họp thứ 5 quốc hội khóa VIII chia tỉnh Phú Khánh
thành hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa. Địa danh Khánh Hòa được tái lập, bao gồm
các đơn vị hành chính: thành phố Nha Trang, các huyện Cam Ranh, Khánh Sơn,
Khánh Vĩnh, Diên Khánh, Ninh Hòa, Vạn Ninh và Trường Sa.
Người Việt vào Khánh Hòa đã dần hình thành những làng mạc, lấp đầy những
khoảng trống do người Chăm để lại và mang theo những giá trị văn hóa truyền
thống của cư dân vùng đồng bằng Bắc Bộ. Khi đến vùng đất mới họ đã tiếp nhận
văn hóa của cư dân bản địa để hình thành nên những giá trị văn hóa đặc trưng của
người Việt ở vùng Nam Trung Bộ
1.2. Hệ thống di tích thờ Pô Nagar/Thiên Yana ở Khánh Hòa

1.2.1.Phân bố
Theo Danh mục thống kê di tích năm 2002 của Trung tâm quản lý di tích và
Danh lam thắng cảnh Khánh Hòa, trên địa bàn tỉnh Khánh Hòa có trên 600 di tích,
trong đó có trên 200 di tích thờ Pô Nagar/Thiên Yana. Qua các di tích có thể thấy
tín ngưỡng thờ Pô Nagar/Thiên Yana là tín ngưỡng tiêu biểu nhất ở Khánh Hòa hiện
nay. Đây là một tín ngưỡng dân gian, bắt nguồn từ tín ngưỡng thờ Thần Mẹ Xứ Sở
của người Chăm trên mảnh đất Kauthara xưa kia. Khi người Việt sinh sống trên
mảnh đất này đã tiếp thu một cách tự nguyện và thành kính tín ngưỡng thờ Mẹ Xứ


19
Sở Pô Nagar của người Chăm, Việt hóa thành tín ngưỡng thờ Thiên Yana (hay
Thiên Y Thánh Mẫu) của mình.
Các di tích thờ Thiên Yana của người Việt được phân bố rộng khắp các
huyện lỵ, đến tận các xóm làng của người Việt trên địa bàn toàn tỉnh Khánh Hòa
nhưng phân bố đậm đặc nhất là ở các huyện Diên Khánh, Ninh Hòa và Thành phố
Nha Trang, tiếp đến huyện Vạn Ninh, Cam Lâm và Thị xã Cam Ranh. Hai huyện
miền núi là Khánh Sơn và Khánh Vĩnh là địa bàn cư trú chủ yếu của các tộc người
thiểu số bản địa nên mật độ phân bố các di tích thờ Thiên Yana Thánh Mẫu rất thưa
thớt, chỉ tồn tại trong các làng xóm của người Việt.
Ở các huyện lỵ, mật độ phân bố các cơ sở thờ tự Thiên Yana Thánh Mẫu
cũng không giống nhau. Tập trung đông nhất ở những địa điểm sinh sống của cư
dân nông nghiệp (hầu hết các làng nông nghiệp thường có cơ sở thờ Bà), sau đó là
khu vực phân bố của ngư dân, diêm dân, dân đi điệu (lấy trầm hương) và người làm
nghề buôn bán. Theo truyền thuyết vùng đất Diên Khánh được coi là nơi Bà giáng
thế (tại Am Chúa, xã Diên Điền) nên tín ngưỡng thờ Thiên Yana tập trung với mật
độ dày đặc, hầu như làng nào cũng có miếu riêng thờ Bà hoặc phối thờ trong các
đình, chùa làng (theo Danh mục các di tích kiểm kê năm 2002 của Ban Quản lý di
tích và Danh lam thắng cảnh Khánh Hòa Ninh Hòa có 9 miếu riêng, Diên Khánh có
7 miếu riêng thờ Bà). Người dân ở đây coi Bà là Mẹ Xứ Sở - người dạy dân khai

khẩn ruộng vườn, dạy phép tắc nghề nghiệp để nuôi nhau, xây dựng vùng đất này
trở thành một vùng nông nghiệp trù phú. Bà thường hiển linh, ai cầu gì được nấy,
phù hộ dân lành, trừng phạt kẻ ác đem lại cuộc sống yên bình cho nhân dân trong
vùng.
Khánh Hòa là một tỉnh có lợi thế tự nhiên và rất phát triển nghề khai thác
biển, ngư dân ở đây có tín ngưỡng thờ cá Voi, thường gọi với tên kính trọng là Cá
Ông hoặc Ông Nam Hải. Không chỉ ngư dân mà cả triều đình phong kiến cũng tôn
thờ và sắc phong cho Ông là “Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân Thượng Đẳng Thần”.
Tuy nhiên, Thiên Yana được coi là phúc thần của vùng đất Khánh Hòa nên các cơ
sở tín ngưỡng thờ tự của ngư dân đều phối thờ Bà ở các đền, miếu, lăng thờ ông
Nam Hải hoặc thờ riêng tại các vạn lạch. Hầu hết các cơ sở thờ tự hoặc phối thờ Bà


20
của ngư dân đều được bố trí ở cửa sông, cửa biển, các vạn lạch (làng chài) như đình
Hiền Lương (thôn Hiền Lương, huyện Vạn Ninh) hoặc như đền Bà Chúa Nguộc
(Thị trấn Vạn Giã, huyện Vạn Ninh), miếu Cỏ Mây (xã Ninh Diêm, huyện Ninh
Hòa), Vạn lạch Đại Lãnh (xã Đại Lãnh, huyện Vạn Ninh)…. Trong tín ngưỡng của
ngư dân Bà được thể hiện dưới hai dạng phúc thần và hung thần. Bà luôn phù hộ
cho ngư dân trong quá trình khai thác, đánh bắt, đặc biệt là đánh bắt ở các sở đầm
và đánh bắt xa bờ nhưng ngư dân cũng phải cúng tế, cung phụng Bà hàng mùa,
hàng năm với lòng kính sợ, lễ vật hậu hĩnh với những nghi thức kỳ quái (tục thờ
cúng ở hang Lỗ Lường trên đảo Hòn Đỏ, huyện Ninh Hòa, tín ngưỡng thờ cúng của
ngư dân ở các sở đầm đăng, các làng vạn chài cửa sông, cửa biển).
Khánh Hòa là một tỉnh có diện tích rừng khá lớn (chiếm 9/11 diện tích toàn
tỉnh). Rừng Khánh Hòa có rất nhiều lâm sản quý, đặc biệt là trầm hương và kỳ nam
được sinh ra từ cây dó - một loại cây có rất nhiều trong vùng. Kỳ nam và Trầm
hương của vùng từ xưa đến nay đã khẳng định được giá trị vô cùng quý hiếm của
nó. Không ai rõ người Việt ở đây biết khai thác trầm hương từ khi nào nhưng
Khánh Hòa là vùng đất của người Chăm trước kia, trầm hương của Chămpa cũng

được cổ sử Trung Quốc như Lương thư (quyển 54), Liệt truyện (quyển 48) nhắc đến
trong danh mục các sản vật của quốc gia Tây Quốc Di, mà quốc gia này sau đó trở
thành bộ phận của Chiêm Thành và cũng chính là vùng đất Khánh Hòa ngày nay.
Do vậy, có thể người Việt đã tiếp nhận cách khai thác trầm hương của người Chiêm
Thành.
Bà Mẹ Xứ Sở Pô Nagar của người Chăm và Thiên Yana của người Việt ở
Khánh Hòa đều được gắn với sự tích trầm hương. Các tỉnh lân cận cũng có trầm
hương nhưng trầm hương ở Khánh Hòa là loại tốt nhất, đặc biệt là vùng Vạn Giã,
như câu ca dao:
Cây quế Thiên Thai mọc ngoài khe đá
Trầm nơi Vạn Giã hương tỏa sơn lâm
Kinh nghiệm tìm trầm hương của người Việt ở Khánh Hòa từ xưa đến nay có
một vài thay đổi nhưng về cơ bản vẫn giữ nguyên những kinh nghiệm, kiêng kỵ và
tín ngưỡng ngành nghề. Trước khi đi tìm trầm, người đi điệu (đi tìm trầm hương)


21
phải chọn ngày tốt, ăn chay ba ngày, tránh quan hệ vợ chồng và đặc biệt là phải sắm
sửa đủ lễ vật vào rừng dâng lễ cầu khấn Bà Thiên Yana - Bà Chúa Trầm hương ở
các khu rừng Khánh Hòa để xin Bà phù hộ. Họ tin là tất cả kỳ nam và trầm hương
trong rừng là của Bà, Bà cho thì được, còn không cho thì đứng trước trầm kỳ cũng
không nhìn thấy mà lấy. Hầu hết các đền miếu thờ Bà của cư dân đi điệu thường
được dựng ngay ở cửa rừng hay trên núi - nơi mà người ta tin rằng Bà thường giáng
ở đó và có rất nhiều trầm hương như Hòn Bà (phía nam huyện Ninh Hòa) có núi mà
người ta cho là của Bà nên gọi là Núi Bà, trên núi có miếu thờ Bà. Hay địa danh núi
Hòn Dữ (nằm sát Ninh Hòa và Diên Khánh), Suối Đổ trên dãy núi Hoàng Ngưu
(phía nam thành phố Nha Trang), Suối Cát (Ninh Hòa), Suối Ngổ (Diên Khánh),
Đại Lãnh (Vạn Giã) … đều có miếu thờ Bà. Các cơ sở thờ tự Bà chúa Trầm hương
thường được dựng với quy mô nhỏ nhưng đối với cư dân đi điệu thì đó là những
chỗ vô cùng linh thiêng mà họ phải đến làm lễ cầu Bà phù hộ trước khi đi tìm trầm.

Thậm chí, dân đi điệu trước khi đi tìm trầm phải sắm lễ vật cúng Bà không chỉ ở các
đền miếu thờ Bà Chúa Trầm hương mà họ còn sắm lễ vật dâng lên Bà và tổ chức
cúng lễ ngay tại nơi hạ trại đầu tiên của đoàn trong hành trình tìm trầm. Sau mỗi
chuyến tìm trầm thành công họ không quên tổ chức lễ cúng tại miếu Bà và tại nhà
để tạ ơn Bà đã phù hộ. Hiện nay, dù việc tìm trầm đã khác trước về cách thức tổ
chức, lối khai thác cũng như phạm vi khai thác trầm hương nhưng dân đi điệu vẫn
giữ nguyên những tín ngưỡng truyền thống ngành nghề, niềm tin vào sự phù hộ của
Bà khi “ngậm ngải tìm trầm”.
1.2.2.Hình thức thờ tự
Pô Nagar/ Thiên Yana được coi là Phúc thần của cả vùng nên được thờ
phụng với nhiều hình thức và quy mô khác nhau như ở các đền tháp, đình làng,
miếu, am. Có những cơ sở thờ tự Bà có quy mô lớn ảnh hưởng đến toàn vùng
nhưng cũng có những am, miếu nhỏ có quy mô trong làng xóm hoặc được phối thờ
với các vị thần linh khác của làng.
Bảng 1: Danh mục các di tích xếp hạng cấp Quốc gia tỉnh Khánh Hòa

TT
Tên di tích
Địa điểm
Số ký hiệu
Ngày ký
Người ký QĐ


22
01
Di tích Tháp Bà
Ponagar
Xã Vĩnh Phước –
TP Nha Trang


1979

02
Di tích thành
Diên Khánh
TT Diên Khánh -
huyện DKhánh
tỉnh Khánh Hòa
Số 1288 –
VH/QĐ
16/11/1988
Thứ trưởng
Nông Quốc
Chấn
03
Di tích lịch sử
lưu niệm nhà
bác học
YERSIN
Thư viện Viện
Pasteur, chùa Linh
Sơn và Mộ Yersin
xã Suối Cát
Số 993 - QĐ
28/9/1990
Thứ trưởng
Vũ Khắc Liên
04
Di tích miếu

thờ Trịnh
Phong
Xã Diên An – h.
Diên Khánh
tỉnh Khánh Hòa
Số 1548 -

30/8/1991
Thứ trưởng Vũ
Khắc Liên
05
Di tích đền thờ
Trần Quý Cáp
TT Diên Khánh –
h. DKhánh
tỉnh Khánh Hòa
Số 1548 -

30/8/1991
Thứ trưởng
Vũ Khắc Liên
06
Di tích Văn
Miếu Diên
Khánh
TT Diên Khánh –
h. Diên Khánh
tỉnh Khánh Hòa
Số 04/1998 –
QĐ -

BVHTT
15/10/1998
Thứ Trưởng
Lưu Trần
Tiêu
07
Danh thắng
Hòn chồng –
Hòn Đỏ
Xã Vĩnh Phước,
Vĩnh Thọ
TP Nha Trang.
Số 04/1998 –
QĐ -
BVHTT
15/10/1998
Thứ Trưởng
Lưu Trần
Tiêu
08
Di tích đình
Phú Cang
Xã Vạn Phú – h.
Vạn Ninh
tỉnh Khánh Hòa
Số 04/1998 –
QĐ -
BVHTT
15/10/1998
Thứ Trưởng

Lưu Trần
Tiêu
09
Di tích Am
Chúa
Xã Diên Điền – h.
Diên Khánh
tỉnh Khánh Hòa
Số 05/1999 –
QĐ -
BVHTT
12/02/1999
Thứ Trưởng
Lưu Trần
Tiêu
10
Di tích Lăng Bà

TT Ninh Hòa –
huyện Ninh Hòa
tỉnh Khánh Hòa
Số 05/1999 –
QĐ -
BVHTT
12/02/1999
Thứ Trưởng
Lưu Trần
Tiêu
11
Di tích Phủ

đường Ninh
Hòa
TT Ninh Hòa –
huyện Ninh Hòa
tỉnh Khánh Hòa
Số 16/2000/
QĐ -
BVHTT
21/8/2000
Thứ Trưởng
Lưu Trần
Tiêu
12
Danh thắng
Mũi Đôi – Hòn
Đầu
Xã Vạn Thạnh –
huyện VạnNinh -
tỉnh Khánh Hòa
Số 13/2005/
QĐ -
BVHTT
25/3/2005
Bộ trưởng
Phạm Quang
Nghị
13
Danh thắng
Vịnh Nha
Trang

Thành phố Nha
Trang, tỉnh Khánh
Hòa
Số 14/2005/
QĐ -
BVHTT
25/3/2005
Bộ trưởng
Phạm Quang
Nghị
(NGUỒN: TRUNG TÂM QUẢN LÝ DI TÍCH KHÁNH HÒA)

Trong 13 di tích lịch sử văn hóa được xếp hạng cấp Quốc gia của tỉnh Khánh
Hòa có 02 di tích là nơi thờ tự Thiên Yana (Tháp Bà Pô Nagar ở Nha Trang và Am


23
Chúa ở Diên Khánh) và 02 di tích có liên quan đến những truyền thuyết về Bà (Di
tích Phủ đường Ninh Hòa - nơi Bà hiển linh và di tích Đình Phú Cang - nơi thờ Bà
là Bà chúa Trầm hương).
Bảng 2: Danh mục di tích - danh thắng xếp hạng cấp tỉnh:

SỐ
TT
TÊN DI TÍCH
ĐỊA ĐIỂM
SỐ QĐ
NGÀY

01

Đình Phú Cấp
X. Diên Phú – h. Diên Khánh
SỐ 2346/QĐ –
UBND
21/11/2005
02
Đình Lạc Lợi
X. Diên Hòa – h.Diên Khánh
SỐ 2343/QĐ –
UBND
21/11/2005
03
Lăng Ông - đền Bà
P. Cam Phúc Nam – tx. Cam
Ranh
SỐ 2345/QĐ –
UBND
21/11/2005
04
Đình Trà Long
P. Ba Ngòi – tx. Cam Ranh
số 2344/QĐ –
UBND
21/11/2005
05
Đình Thạnh Danh
X. Ninh Diêm – h. Ninh Hòa
SỐ 2342/QĐ –
UBND
21/11/2005

06
Đình Tân Hưng
X. Ninh Hưng – h. Ninh Hòa
SỐ 2341/QĐ –
UBND
21/11/2005
07
Miếu Cây Ké
TT. Diên Khánh - h. Diên
Khánh
SỐ 2340/QĐ –
UBND
21/11/2005
08
Đình Đại Điền Nam
X. Diên Sơn – h. Diên Khánh
SỐ 2339/QĐ –
UBND
21/11/2005
09
Đình Phú Lộc
TT. Diên Khánh - h. Diên
Khánh
SỐ 2337/QĐ –
UBND
21/11/2005
10
Đình Đại Điền
Đông
X. Diên Điền – h. Diên Khánh

SỐ 2338/QĐ –
UBND
21/11/2005
11
Đình Đại Điền Tây
X. Diên Sơn – h. Diên Khánh
SỐ 516/QĐ –
UBND
24/03/2006
12
Đình Vĩnh Điềm
P. Ngọc Hiệp – TP Nha Trang
SỐ 514/QĐ –
UBND
24/03/2006
13
Đình Vạn Thạnh
P. Vạn Thạnh – TP Nha Trang
SỐ 513/QĐ –
UBND
24/03/2006

×