Đại học quốc gia Hà nội
Trường đại học khoa học xã hội và nhân văn
Đỗ Thị Nhài
Hoạt động quản lý nhà nước
đối với các doanh nghiệp du lịch
trên địa bàn Hà nội
Chuyên ngành: Du lịch học
Mã số:
Luận văn thạc sĩ du lịch học
(Chương trình đào tạo thí điểm)
Người hướng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Quang Lân
Hà Nội - 2008
Mục lục
Trang
Mở đầu 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 4
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5
4. Đóng góp của đề tài 5
5. Bố cục đề tài 6
Chương 1: Cơ sở lý luận 7
1.1. Quản lý nhà nước về du lịch 7
1.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước về du lịch 7
1.1.2. Các công cụ quản lý nhà nước về du lịch 9
1.1.3. Nội dung quản lý nhà nước về du lịch 11
1.1.4. Tổ chức du lịch quốc gia và các các cấp quản lý nhà nước
về du lịch 16
1.2. Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp du lịch 22
1.2.1. Vai trò của các doanh nghiệp du lịch 22
1.2.2. Sự cần thiết của quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp du lịch 23
1.2.3. Các chức năng của quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp
du lịch 25
1.2.4. Nội dung quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp du lịch 29
Chương 2: quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp
du lịch trên địa bàn Hà nội trong tình hình
hội nhập hiện nay 32
2.1. Thực trạng hoạt động quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp
du lịch trên địa bàn Hà Nội hiện nay 32
2.1.1. Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn
Hà Nội 32
2.1.2. Tổ chức các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn Hà Nội 36
2.1.3. Thực trạng hoạt động quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp
du lịch trên địa bàn Hà Nội 49
2.2. Thuận lợi và khó khăn của hoạt động quản lý nhà nước
đối với doanh nghiệp du lịch trên địa bàn Hà Nội trong
tình hình hội nhập 60
2.2.1. Bản chất của hội nhập quốc tế về du lịch 60
2.2.2. Thuận lợi và khó khăn đối với ngành du lịch Việt Nam
và Hà Nội trong quá trình hội nhập 61
2.2.3. Thuận lợi và khó khăn của hoạt động quản lý nhà nước
đối với doanh nghiệp du lịch trên địa bàn Hà Nội trong
quá trình hội nhập 65
2.2.4. Thuận lợi, thời cơ, thách thức đối với các doanh nghiệp du lịch
Hà Nội trong tình hình hội nhập hiện nay 67
Chương 3: một số giảI pháp nhằm nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp
du lịch trên địa bàn hà nội 79
3.1. Yêu cầu về quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp du lịch trên địa bàn
Hà Nội trong tình hình hội nhập 79
3.2. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với
doanh nghiệp du lịch trên địa bàn Hà Nội hiện nay 80
3.2.1. Đối với chính sách vĩ mô: Chính phủ, thành phố 80
3.2.2. Đối với các doanh nghiệp du lịch 87
3.3. Một số kiến nghị trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý nhà
nước đối với các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn Hà Nội 87
3.3.1. Đối với Chính phủ và Nhà nước 87
3.3.2. Đối với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch 88
3.3.3. Đối với các ban ngành của Hà Nội 89
Kết luận chung 91
Tài liệu tham khảo 93
phụ lục
Danh mục bảng, biểu đồ trong luận văn
Trang
Bảng 2.1: Mô hình cơ cấu quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn Hà Nội
hiện nay …………………………………………………… …. 36
Bảng 2.2: Các doanh nghiệp lữ hành trên địa bàn Hà Nội theo thành phần
kinh tế tính đến tháng 3 năm 2007 …………………………… 37
Bảng 2.3: Số lượng khách sạn và phòng trên địa bàn Hà Nội theo hạng
năm 2006 ……………………………………………………… 39
Biểu đồ 2.1: Doanh thu từ du lịch Hà Nội qua các năm …………… …… 46
Biểu đồ 2.2: Khách quốc tế đến Hà Nội qua các năm ………………… … 48
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
Từ khi ra đời và phát triển đến nay, ngành du lịch đã luôn có những đóng
góp tích cực và có vai trò to lớn đối với sự phát triển kinh tế – xã hội trên thế giới
cũng như ở Việt Nam. Giống như những ngành kinh tế khác, ngành du lịch muốn
phát triển bền vững đòi hỏi phải có sự quản lý, điều tiết ở tầm vĩ mô một cách hiệu
quả, nhằm phối hợp các hoạt động du lịch một cách nhịp nhàng, đưa du lịch phát
triển đúng hướng, đúng mục tiêu đề ra, đảm bảo lợi ích chính đáng của các tổ chức,
cá nhân tham gia vào hoạt động du lịch, đồng thời cũng đảm bảo lợi ích chung của
toàn xã hội, sao cho việc phát triển du lịch không làm ảnh hưởng đến môi trường
tự nhiên và xã hội, không ảnh hưởng đến khả năng khai thác và phát triển du lịch
của các thế hệ tiếp theo. Đó là một nhiệm vụ hết sức khó khăn mà không một tổ
chức, cá nhân riêng lẻ nào có thể đảm nhiệm được. Còn nếu để ngành kinh tế du
lịch phát triển một cách tự phát, tuân theo các quy luật của thị trường mà không có
sự quản lý, điều tiết ở tầm vĩ mô sẽ dẫn đến nhiều hậu quả nghiêm trọng, trong đó
phải kể đến sự ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên du lịch, hủy hoại các giá trị
văn hóa truyền thống, làm mất đi bản sắc văn hóa dân tộc… Tất cả các nhiệm vụ
trên chỉ có nhà nước với tầm quản lý vĩ mô mới có thể đảm nhiệm, nhằm đưa các
hoạt động du lịch phát triển đúng hướng, đúng mục tiêu.
Trong những năm qua, nhận thức được tầm quan trọng của du lịch đối với sự
phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ
trương, chính sách để phát triển ngành du lịch trở thành ngành “kinh tế mũi nhọn”.
Tại điều 1, Pháp lệnh Du lịch Việt Nam năm 1999 đã nêu rõ quan điểm của nhà
nước ta về du lịch:
“Nhà nước Việt Nam xác định Du lịch là một ngành kinh tế tổng hợp quan
trọng mang nội dung văn hóa sâu sắc, có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hóa
cao; phát triển du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, giải trí, nghỉ dưỡng của
nhân dân và khách du lịch quốc tế, góp phần nâng cao dân trí, tạo việc làm và
phát triển kinh tế – xã hội của đất nước”.
Nghị quyết 45/CP, ngày 22/6/1993 của chính phủ Việt Nam về đổi mới quản
lý và phát triển ngành du lịch cũng đưa ra nhận định:
“Du lịch là ngành kinh tế mang tính tổng hợp, có tác dụng góp phần tích cực
thực hiện chính sách mở cửa, thúc đẩy sự nghiệp đổi mới và phát triển của nhiều
ngành kinh tế khác, tạo công ăn việc làm, mở rộng giao lưu văn hoá và xã hội giữa
các vùng trong nước, giữa nước ta với nước ngoài, tạo điều kiện tăng cường tình
hữu nghị, hoà bình và sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc”.
Điều 6, Luật Du lịch năm 2005 khẳng định:
“Nhà nước có cơ chế, chính sách huy động mọi nguồn lực, tăng đầu tư phát
triển du lịch để đảm bảo du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước”.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ rõ:
“Tận dụng tốt thời cơ hội nhập kinh tế quốc tế để tạo bước phát triển vượt
bậc của khu vực dịch vụ. ưu tiên phát triển các ngành dịch vụ có tiềm năng lớn và
sức cạnh tranh cao. Tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ
truyền thống như vận tải, thương mại, du lịch, ngân hàng, bưu chính - viễn
thông…”.
Như vậy, công tác quản lý, phát triển ngành du lịch rất được Đảng và Nhà
nước ta quan tâm.
Các doanh nghiệp du lịch là chủ thể chính tham gia vào các hoạt động kinh
doanh du lịch, có những đóng góp quan trọng trong phát triển ngành du lịch và
phát triển kinh tế – xã hội của đất nước. Trong quá trình hoạt động, các doanh
nghiệp du lịch cũng chịu ảnh hưởng và tuân theo những quy luật của kinh tế thị
trường, đòi hỏi phải có sự quản lý của nhà nước đối với các doanh nghiệp du lịch
nhằm đưa các doanh nghiệp du lịch hoạt động kinh doanh đúng hướng, có hiệu quả
cao.
Hà Nội là một trong hai trung tâm du lịch lớn của cả nước. Hiện nay, ngành
du lịch thủ đô đang ngày càng phát triển với sự tăng trưởng khá về số lượng khách
du lịch quốc tế và nội địa. Hà Nội đang dần trở thành một trung tâm tổ chức hội
nghị, hội thảo, các sự kiện lớn ở trong nước, khu vực và quốc tế, là trung tâm phân
phối khách cho toàn miền Bắc, nơi tập trung nhiều hãng lữ hành hàng đầu, có
nhiều chương trình du lịch chất lượng cao. Các doanh nghiệp du lịch, đặc biệt là
các doanh nghiệp lữ hành quốc tế tập trung phần lớn ở Hà Nội và thành phố Hồ
Chí Minh, trong đó Hà Nội có số lượng các doanh nghiệp lữ hành quốc tế chiếm
khoảng 40% tổng số các doanh nghiệp lữ hành quốc tế trong cả nước. Từ năm
1990 đến nay, lực lượng kinh doanh du lịch ở Hà Nội ngày càng phát triển và có
bước trưởng thành. Lực lượng doanh nghiệp du lịch trên địa bàn Hà Nội tăng
nhanh về số lượng, đa dạng về loại hình và ngành nghề kinh doanh đòi hỏi công
tác quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn Hà Nội ngày
càng phải hoàn thiện, tạo môi trường pháp lý thông thoáng cho các hoạt động kinh
doanh du lịch, thúc đẩy ngành du lịch thủ đô phát triển. Trong những năm gần đây,
Hà Nội luôn được đánh giá là nơi có các hoạt động quản lý nhà nước về du lịch
khá tốt so với các địa phương khác trong cả nước.
Cho đến nay vẫn rất thiếu các công trình nghiên cứu về quản lý nhà nước đối
với ngành du lịch nói chung và với các doanh nghiệp du lịch nói riêng. Lĩnh vực
quản lý nhà nước về du lịch thường được lồng ghép vào nội dung các công trình
nghiên cứu về phát triển du lịch, trong phần nghiên cứu các giải pháp, các đề xuất,
kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả kinh tế du lịch.
Tại Hà Nội cũng có một số công trình nghiên cứu về du lịch, góp phần thiết
thực vào việc quản lý và thúc đẩy sự phát triển của ngành du lịch thủ đô. Tuy
nhiên, các đề tài chủ yếu tập trung nghiên cứu các vấn đề chuyên môn như các giải
pháp phát triển lữ hành ở Hà Nội, thực trạng hoạt động kinh doanh và một số giải
pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp du lịch, khách sạn tại Hà
Nội… ở các đề tài nghiên cứu đó, hoạt động quản lý nhà nước về du lịch, quản lý
nhà nước đối với các doanh nghiệp du lịch cũng được đề cập như một trong những
nguyên nhân, hoặc là một biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động du lịch. Các
công trình nghiên cứu cụ thể về hoạt động quản lý nhà nước đối với ngành du lịch
và các doanh nghiệp du lịch còn rất thiếu. Vì vậy, việc nghiên cứu hoạt động quản
lý nhà nước đối với các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn Hà Nội là một việc làm
hết sức cần thiết nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, tạo điều kiện cho hoạt
động kinh doanh du lịch Hà Nội phát triển. Vì vậy, tôi đã chọn nghiên cứu đề tài
“Hoạt động quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn Hà
Nội”.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Mục đớch nghiờn cứu của luận văn là qua việc phõn tớch, đỏnh
giỏ hoạt động quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn Hà
Nội trong giai đoạn hiện nay đưa ra những vấn đề chớnh của quản lý nhà nước ảnh
hưởng đến các hoạt động kinh doanh du lịch; đề ra một số giải phỏp giải quyết vấn
đề nõng cao chất lượng quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp du lịch trên địa
bàn Hà Nội.
Nhiệm vụ: Nhiệm vụ nghiờn cứu của đề tài bao gồm:
1) Xõy dựng những luận cứ khoa học cho vấn đề nghiờn cứu và hệ thống hoỏ
một số lý luận cơ bản về quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp du lịch
trên địa bàn Hà Nội trong giai đoạn hiện nay.
2) Phõn tớch và đỏnh giỏ thực trạng hoạt động quản lý nhà nước đối với các
doanh nghiệp du lịch trên địa bàn Hà Nội và đưa ra những nguyờn nhõn
chớnh ảnh hưởng đến thực trạng.
3) Đề xuất một số giải phỏp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý nhà
nước đối với các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn Hà Nội.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: các hoạt động liên quan đến quản lý nhà nước đối
với các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn Hà Nội.
Phạm vi nghiên cứu: Phạm vi nghiờn cứu của luận văn chỉ giới hạn vào
hoạt động quản lý của các cơ quan nhà nước đối với doanh nghiệp du lịch trờn địa
bàn Hà Nội.
Phương pháp nghiên cứu:
- Thu thập và xử lý thông tin:
Tài liệu được sử dụng cho đề tài này được lấy từ nhiều nguồn khác nhau,
trực tiếp qua các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch trên địa bàn Hà Nội, qua các
doanh nghiệp du lịch trên địa bàn Hà Nội, gián tiếp qua sách, báo, tạp chí, số liệu
thống kê của các cơ quan chức năng thành phố Hà Nội, các chuyên gia am hiểu về
các vấn đề có liên quan đến đề tài. Toàn bộ dữ liệu sẽ làm nổi bật vấn đề cầ nghiên
cứu, đồng thời thông qua đó giúp tôi có được cái nhìn khách quan, khoa học, chi
tiết hơn.
Qua các nguồn tài liệu trực tiếp và gián tiếp đã thu thập được ở trên, tôi đã
tiến hành phân tích các tài liệu để có được cái nhìn sâu hơn về vấn đề nghiên cứu.
- Khảo sát thực địa và điều tra ý kiến:
Thực tiễn có vai trò rất quan trọng. Vì vậy, để có được cái nhìn chính xác,
toàn diện, đúng đắn về vấn đề nghiên cứu, tôi đã sử dụng phương pháp khảo sát
thực địa. Trong quá trình đó, tôi đã tiến hành quan sát, phỏng vấn và điều tra ý kiến
của các doanh nghiệp du lịch tại Hà Nội về tác động của hoạt động quản lý nhà
nước trên địa bàn đối với các doanh nghiệp đó.
4. Đóng góp của đề tài
Trên cơ sở học hỏi, kế thừa những hướng nghiên cứu và lý luận đi trước, đề
tài góp phần bổ sung cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp
du lịch và hoạt động kinh doanh du lịch.
Đề tài cũng tập trung phân tích những thành công và hạn chế trong công tác
quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp du lịch trên địa bàn Hà Nội trong tình
hình hội nhập hiện nay với mong muốn góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động
quản lý nhà nước đối với các doanh nghiệp du lịch.
5. Bố cục đề tài: Đề tài bao gồm 3 chương
Chương 1: Cơ sở lý luận
Chương 2: Quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp du lịch trong tình hình
hội nhập hiện nay
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối
với doanh nghiệp du lịch trên địa bàn Hà Nội
Chương 1: Cơ sở lý luận
1.1. Quản lý nhà nước về du lịch
1.1.1. Khái niệm quản lý nhà nước về du lịch
Bất kỳ lao động xã hội nào được tiến hành trên quy mô tương đối lớn hoặc
một hoạt động tập thể nào đó đều cần có sự quản lý ở mức độ nhiều hay ít. Quản lý
nhằm phối hợp các hoạt động cá nhân và thực hiện các chức năng chung trong quá
trình lao động, sản xuất nhằm đạt được mục tiêu đề ra.
Như vậy, quản lý là sự tác động có định hướng bất kỳ lên một hệ thống nào
đó nhằm trật tự hóa nó và hướng nó phát triển phù hợp với những quy luật nhất
định. Quản lý là chức năng đặc biệt nảy sinh từ bản chất xã hội của quá trình lao
động. ở đâu có sự hợp tác của nhiều người, ở đó cần có sự quản lý. Mục đích của
quản lý là tổ chức, phối hợp các hoạt động và đem lại hiệu quả cao nhất cho các
hoạt động đó.
Quản lý nhà nước là hoạt động chấp hành và điều hành của nhà nước, được
thực hiện chủ yếu bởi các cơ quan hành chính nhà nước, có nội dung là bảo đảm sự
chấp hành luật, pháp lệnh và các nghị quyết của cơ quan quyền lực nhà nước,
nhằm tổ chức và chỉ đạo thực hiện một cách trực tiếp và thường xuyên công cuộc
xây dựng kinh tế, văn hóa, xã hội và hành chính, chính trị của đất nước.
Nhà nước thực hiện việc quản lý xã hội nói chung. Nhà nước là nhân tố cơ
bản giúp cho xã hội tồn tại, hoạt động, phát triển hoặc suy thoái thông qua các sứ
mệnh, nhiệm vụ và các chức năng mà nhà nước phải gánh vác trước xã hội. Nhà
nước bảo vệ sự an toàn cho mọi công dân trong xã hội, giữ vững độc lập chủ quyền
quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ đất nước, bảo đảm cho xã hội phát triển, các công dân
đạt được các mong muốn hợp lý của mình.
Đối với vấn đề kinh tế, nhà nước thực hiện việc quản lý nền kinh tế quốc
dân, nhằm sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực kinh tế trong và ngoài nước. Tất
cả các ngành, các lĩnh vực kinh tế- xã hội đều có sự quản lý của nhà nước.
Quản lý nhà nước về du lịch là thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối
với ngành. Du lịch được xác định là một ngành kinh tế tổng hợp mang tính xã hội
sâu sắc, chịu ảnh hưởng và rất nhạy cảm với sự thay đổi của các yếu tố thuộc môi
trường tự nhiên, kinh tế, xã hội xung quanh. Quản lý nhà nước đối với ngành du
lịch tương đối phức tạp do đặc thù của ngành du lịch là ngành kinh tế tổng hợp, có
liên quan đến nhiều ngành, lĩnh vực khác nhau. Vì vậy, việc quản lý nhà nước đối
với ngành du lịch đòi hỏi phải có sự liên kết, phối hợp nhịp nhàng của nhiều
ngành, chức năng khác nhau. Nếu chính phủ và nhà nước không có các chính sách
đồng bộ dễ dẫn đến tình trạng quản lý chồng chéo, nếu không phân định rõ các
chức năng, nhiệm vụ của từng bộ, ngành, lĩnh vực có liên quan đến hoạt động du
lịch dễ dẫn đến việc quản lý lỏng lẻo, không hiệu quả.
Quản lý nhà nước về du lịch là thực hiện chức năng quản lý vĩ mô về du
lịch, không thực hiện chức năng chủ quản, không thực hiện chức năng kinh doanh
thay các doanh nghiệp du lịch. Việc quản lý đó được thực hiện thông qua các công
cụ quản lý vĩ mô như các chính sách phát triển du lịch, quy hoạch, kế hoạch phát
triển du lịch, hệ thống luật pháp…, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức,
cá nhân tham gia vào các hoạt động du lịch và nhằm đưa du lịch phát triển theo
mục tiêu mà nhà nước đã đặt ra.
Việc thực hiện các chức năng quản lý nhà nước về du lịch được tổ chức theo
một hệ thống chặt chẽ từ trên xuống dưới, từ cấp trung ương đến địa phương, trong
đó hoạt động quản lý được phối hợp nhịp nhàng. Chủ thể quản lý là các cơ quan
chức năng của nhà nước tác động lên các đối tượng quản lý là các quá trình, các
hành vi của các tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động du lịch với mục đích bảo
đảm sự chấp hành luật, pháp lệnh và các nghị quyết của cơ quan quyền lực nhà
nước về du lịch.
Thực chất của quản lý nhà nước về du lịch là việc tổ chức và sử dụng có
hiệu quả nhất các nguồn lực vì mục tiêu xây dựng và phát triển ngành du lịch một
cách bền vững.
Như vậy, quản lý nhà nước về du lịch là sự tác động có tổ chức và bằng
pháp quyền của nhà nước đối với các quá trình, các hành vi hoạt động của các tổ
chức và cá nhân tham gia vào hoạt động du lịch nhằm sử dụng có hiệu quả nhất
các nguồn lực kinh tế trong và ngoài nước, tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt
động du lịch và đưa du lịch phát triển theo mục tiêu phát triển ngành mà nhà
nước đặt ra.
1.1.2. Các công cụ quản lý nhà nước về du lịch
Công cụ quản lý là những phương tiện mà nhà nước sử dụng để tác động lên
mọi chủ thể kinh tế nhằm thực hiện mục tiêu quản lý nhà nước. Các công cụ quản
lý nhà nước về du lịch là những phương tiện mà nhà nước sử dụng để tác động lên
mọi chủ thể tham gia vào hoạt động du lịch nhằm thực hiện mục tiêu quản lý nhà
nước về du lịch.
Các công cụ quản lý chính của nhà nước về du lịch là:
- Pháp luật về du lịch: là hệ thống các quy tắc ứng xử có tính chất bắt buộc
do nhà nước đặt ra, thực thi và bảo vệ nhằm đạt các mục tiêu bảo toàn và phát triển
du lịch đã đặt ra.
Hệ thống pháp luật về du lịch hiện hành tại Việt Nam bao gồm Luật Du lịch
(2005), các Nghị định của Chính phủ về quản lý nhà nước về du lịch như Nghị
định số 92/2007/NĐ-CP ngày 01/06/2007 của Chính phủ Quy định chi tiết một số
điều của Luật Du lịch, Nghị định 149/2007/NĐ-CP ngày 09/10/2007 của Chính
phủ Về xử phạt hành chính trong lĩnh vực du lịch, Nghị định 39/2000/NĐ-CP ngày
24/8/2000 của Chính phủ về cơ sở lưu trú du lịch, Nghị định 27/2001/NĐ-CP ngày
05/6/2001 của Chính phủ về kinh doanh lữ hành, hướng dẫn du lịch, và các văn
bản pháp luật có liên quan.
- Lãi suất, thuế: nhằm can thiệp vào các hoạt động và quá trình kinh tế, các
công cụ lãi suất, thuế đánh vào các doanh nghiệp du lịch, các tổ chức, cá nhân
tham gia vào hoạt động kinh doanh du lịch.
- Kế hoạch phát triển du lịch: theo nghĩa hẹp được hiểu là phương án hành
động nhằm phát triển du lịch trong tương lai; theo nghĩa rộng là quá trình xây
dựng, thực hiện, kiểm tra việc thực hiện phương án hành động nhằm phát triển du
lịch trong tương lai. Kế hoạch phát triển du lịch là một công cụ quản lý vĩ mô quan
trọng, thường được chia thành các kế hoạch hàng năm, kế hoạch ngắn hạn, kế
hoạch trung hạn và kế hoạch dài hạn…
- Chiến lược phát triển du lịch: là đường lối chung tổng quát và các giải
pháp chủ yếu mang tính tổng thể để phát triển ngành du lịch trong một thời gian
dài (ở nước ta thường là 10 năm).
- Quy hoạch phát triển du lịch: là sự cụ thể hóa một bước chiến lược phát
triển du lịch. Nó là một tập hợp các mục tiêu và sự bố trí sắp xếp các nguồn lực
tương ứng để thực hiện các mục tiêu phát triển du lịch theo không gian và thời
gian.
- Chính sách phát triển du lịch: Các chính sách phát triển du lịch được hiểu
là các định hướng, các chương trình hành động của chính phủ cung cấp các hướng
dẫn cho hoạt động phát triển ngành. Chính sách phát triển du lịch chỉ ra hệ thống
các phương pháp tác động, hoạt động được thực hiện bởi các cơ quan quản lý nhà
nước có thẩm quyền và các tổ chức có liên quan đến quản lý, điều hành toàn bộ
hoạt động du lịch từ nghiên cứu dự báo, kế hoạch, tổ chức và quản lý các hoạt
động du lịch.
Các công cụ quản lý trên là các công cụ quản lý vĩ mô về du lịch. Chủ thể sử
dụng công cụ quản lý là các cơ quan quản lý nhà nước. Đây là thực thể quan trọng
trong việc chi phối và tác động lên các thực thể khác, đặc biệt là các thực thể tham
gia vào quá trình hoạt động kinh tế du lịch. Quyền hạn và mức độ tác động phụ
thuộc vào khuôn khổ pháp luật quy định.
1.1.3. Nội dung quản lý nhà nước về du lịch
Theo luật Du lịch Việt Nam năm 2005, các nội dung quản lý nhà nước đối
với du lịch thể hiện yêu cầu quản lý đối với một ngành kinh tế độc lập trong nền
kinh tế quốc dân bao gồm:
- Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và
chính sách phát triển du lịch:
Về vấn đề chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển du lịch: do tính tự phát
điều tiết của thị trường có những ảnh hưởng tiêu cực, gây ra khủng hoảng chu kỳ
cho lợi ích kinh tế và làm tổn hại đến lợi ích của doanh nghiệp. Do đó, nhà nước
phải xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch nhằm định hướng phát triển du lịch
đúng hướng. Nhà nước lập quy hoạch phát triển du lịch cho từng vùng, từng địa
phương và cho cả nước nhằm đảm bảo việc quản lý và đầu tư du lịch không bị
chồng chéo, lãng phí và bảo đảm sự phối hợp giữa các ban ngành một cách đồng
bộ.
Về vấn đề chính sách phát triển du lịch: Chính sách và các công cụ kinh tế
của nhà nước là một hành lang hướng dẫn các hoạt động du lịch.
Việc xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và
chính sách về du lịch nhằm hướng dẫn và điều chỉnh các hoạt động du lịch, thực
hiện việc phát triển du lịch bền vững, đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi
nhọn, kích thích đầu tư và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần xoá đói giảm
nghèo ở những vùng có tiềm năng phát triển du lịch.
Du lịch là ngành kinh tế tổng hợp có tính liên ngành, liên vùng và xã hội hoá
cao, vì vậy quản lý nhà nước trong lĩnh vực du lịch có liên quan đến nhiều ngành,
nhiều cấp, nhiều lĩnh vực khác nhau như văn hoá, giao thông, tài nguyên môi
trường, quốc phòng, an ninh, nông nghiệp, thương mại….Việc xây dựng và tổ
chức thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách về du lịch phải phù
hợp với thực tế phát triển du lịch, phù hợp với thông lệ quốc tế và tiến trình hội
nhập của Việt Nam trong khu vực và quốc tế về kinh tế- xã hội nói chung và du
lịch nói riêng. Các quy định pháp luật cần thể hiện những đặc thù của hoạt động
dịch vụ, đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội, khắc phục các vi phạm trong kinh
doanh, bảo vệ tài nguyên và môi trường du lịch, bảo vệ quyền và lợi ích của khách
du lịch, các tổ chức kinh doanh du lịch.
Quy hoạch phát triển du lịch được xác định là quy hoạch ngành, bao gồm
quy hoạch tổng thể phát triển du lịch được lập cho phạm vi cả nước, vùng du lịch,
địa bàn du lịch trọng điểm, tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, khu du lịch quốc
gia (ví dụ Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam 1995- 2010, Quy hoạch
tổng thể phát triển du lịch thành phố Hà Nội thời kỳ 1997- 2000 và đến 2020…) và
quy hoạch cụ thể phát triển du lịch được lập cho các khu chức năng trong khu du
lịch quốc gia, khu du lịch địa phương, điểm du lịch quốc gia.
Do tầm quan trọng của vấn đề quy hoạch đối với phát triển du lịch và bảo vệ
tài nguyên du lịch, Luật Du lịch của Việt Nam đã có những quy định cụ thể về các
nguyên tắc, nội dung quy hoạch du lịch, thẩm quyền lập, phê duyệt và công bố quy
hoạch du lịch tạo cơ sở pháp lý để bảo vệ, khai thác tài nguyên du lịch và đầu tư
phát triển du lịch phù hợp với định hướng của nhà nước. Vấn đề quản lý và tổ chức
thực hiện quy hoạch du lịch cũng được quy định nhằm đảm bảo quy hoạch được
thực thi trên thực tế.
Về chính sách đối với phát triển du lịch, Luật Du lịch của Việt Nam cũng đã
thể hiện một cách rõ ràng các quan điểm của nhà nước trong việc phát triển du lịch
trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trong giai đoạn hiện nay. Nhà nước có chính
sách khuyến khích, ưu đãi về đất đai, tài chính, tín dụng đối với hoạt động đầu tư
vào một số lĩnh vực du lịch, ưu đãi về thuế đối với việc nhập khẩu phương tiện vận
chuyển cao cấp phục vụ cho việc vận chuyển khách du lịch, trang thiết bị chuyên
dùng hiện đại cho cơ sở lưu trú du lịch hạng cao và khu du lịch quốc gia…
- Xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp
luật, tiêu chuẩn định mức kinh tế – kỹ thuật trong hoạt động du lịch:
Việc xây dựng, ban hành và tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật
về du lịch nhằm tạo hành lang pháp lý cho các hoạt động du lịch bao gồm việc ban
hành Pháp lệnh Du lịch, một số Nghị định về quản lý du lịch, Luật Du lịch, các văn
bản dưới luật như thông tư hướng dẫn các hoạt động du lịch…
Luật du lịch năm 2005 ra đời tạo khuôn khổ pháp lý cho sự phát triển ổn
định và bền vững của ngành du lịch nước ta.
ở nước ta trong những năm vừa qua thực hiện đường lối phát triển kinh tế du
lịch của Đảng, nhà nước cũng đã thể chế hoá đường lối phát triển du lịch, đem lại
những thành quả du lịch bước đầu. Nhưng so với các nước có hoạt động du lịch
phát triển ở trình độ cao thì ta còn thiếu nhiều văn bản pháp quy về du lịch như
Luật Lữ hành, Luật Vận chuyển khách du lịch, Luật Khách sạn, Nhà hàng…
Các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch xác định các tiêu chuẩn, định mức
kinh tế- kỹ thuật cụ thể nhằm đánh giá, xếp hạng, quản lý các hoạt động du lịch ví
dụ Tổng cục Du lịch Việt Nam các quy định tiêu chuẩn và biểu điểm xếp hạng
khách sạn theo thứ tự từ 1 đến 5 sao…
- Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật và thông tin về du lịch:
Đây cũng là một nội dung của quản lý nhà nước về du lịch nhằm nâng cao
hiểu biết về pháp luật của các tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động du lịch và
nhận thức của người dân đối với hoạt động du lịch.
- Tổ chức, quản lý hoạt động đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực;
nghiên cứu, ứng dụng khoa học và công nghệ phục vụ sự phát triển du lịch:
Các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch tổ chức, quản lý hoạt động đào
tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực du lịch nhằm nâng cao chất lượng lao động trong
ngành.
Du lịch là một ngành kinh tế, do đó nó chịu tác động mạnh mẽ của của cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ như những ngành kinh tế khác. Việc nghiên
cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học và công nghệ phục vụ sự phát triển du lịch
thường được giao cho các cơ quan chuyên môn, các viện nghiên cứu đảm nhiệm
dưới sự quản lý của nhà nước.
- Tổ chức điều tra, đánh giá tài nguyên du lịch để xây dựng, quy hoạch
phát triển du lịch, xác định khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du
lịch:
Tài nguyên du lịch bao gồm tài nguyên du lịch tự nhiên, tài nguyên du lịch
nhân văn đang được khai thác và chưa được khai thác cho phát triển du lịch. Mỗi
tài nguyên du lịch thuộc sự quản lý của các cấp, các ngành khác nhau nên nhà
nước có những luật riêng điều chỉnh đối với mỗi loại tài nguyên du lịch đó như
Luật di sản văn hóa, Luật bảo vệ và phát triển rừng, Luật thủy sản, Luật khoáng
sản…
Cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ở trung ương chủ trì, phối hợp với cơ
quan quản lý nhà nước liên quan và ủy ban nhân dân cấp tỉnh điều tra, đánh giá tài
nguyên du lịch để xây dựng, quy hoạch phát triển du lịch nhằm bảo vệ và khai thác
có hiệu quả nguồn tài nguyên du lịch. Ngành du lịch là ngành có định hướng tài
nguyên rõ rệt, nếu không có tài nguyên du lịch thì không thể phát triển ngành du
lịch, tài nguyên du lịch bao gồm tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch
nhân văn. Việc tổ chức điều tra, đánh giá tài nguyên du lịch là cơ sở để xác định
các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch.
- Tổ chức thực hiện hợp tác quốc tế về du lịch, hoạt động xúc tiến du
lịch ở trong nước và nước ngoài:
Nhà nước có chính sách hợp tác quốc tế về du lịch nhằm đẩy mạnh hợp tác
quốc tế về du lịch trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi, phù hợp với pháp luật mỗi
bên, pháp luật và thông lệ quốc tế nhằm phát triển du lịch, gắn thị trường du lịch
Việt Nam với thị trường du lịch khu vực và thế giới, góp phần tăng cường quan hệ
hợp tác, hữu nghị và hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc.
- Quy định tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về du lịch, sự phối hợp của
các cơ quan nhà nước trong việc quản lý nhà nước về du lịch:
Nhà nước quy định và tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về du lịch từ trung
ương đến địa phương, quy định các chức năng, nhiệm vụ cụ thể của các cơ quan
quản lý nhà nước về du lịch theo các cấp khác nhau, phối hợp hoạt động của cả hệ
thống quản lý nhà nước về du lịch nhằm đạt hiệu quả quản lý cao nhất, đưa ngành
du lịch phát triển theo các mục tiêu đã đặt ra.
- Cấp, thu hồi giấy phép, giấy chứng nhận về hoạt động du lịch.
Nhà nước quản lý các hoạt động du lịch bằng pháp luật. Việc cấp và thu hồi
giấy phép, giấy chứng nhận về hoạt động du lịch nhằm đưa các hoạt động du lịch
vào khuôn khổ pháp luật. Nhà nước tổ chức cấp giấy phép, giấy chứng nhận hoạt
động du lịch cho các tổ chức, cá nhân tham gia vào hoạt động du lịch có đủ các
tiêu chuẩn và quy định do nhà nước đề ra. Nếu các tổ chức cá nhân không đủ điều
kiện hoạt động hoặc vi phạm các quy định sẽ bị xử lý theo pháp luật, bị thu hồi
giấy phép và giấy chứng nhận đã được cấp.
- Kiểm tra, thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp
luật về du lịch:
Các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch tổ chức hướng dẫn và kiểm tra việc
thực hiện các văn bản luật, các quy chế, các chế độ, tiêu chuẩn định mức kinh tế-
kỹ thuật, quy trình, quy phạm trong hoạt động du lịch để kịp thời phát hiện và xử
lý các vi phạm. Có thể nói đây là một nội dung rất quan trọng trong hoạt động quản
lý nhà nước về du lịch. Nếu không có các hoạt động thanh tra, kiểm tra thì không
gọi là quản lý. Về vấn đề này, cơ quan quản lý du lịch ở nước ta và trên địa bàn Hà
Nội có nhiều hoạt động đáng ghi nhận. Song, như các báo cáo tổng kết của ngành
du lịch Việt Nam thì mặt này còn nhiều hạn chế.
Các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện việc giải quyết các khiếu nại, tố cáo
và xử lý các vi phạm trong hoạt động du lịch, thúc đẩy du lịch nước ta trở thành
ngành kinh tế mũi nhọn, hạn chế, xoá bỏ các hiện tượng không lành mạnh, các mặt
trái của phát triển du lịch.
1.1.4. Tổ chức du lịch quốc gia và các các cấp quản lý nhà nước về du lịch
Để thực hiện chức năng quản lý vĩ mô của nhà nước về du lịch cần thiết phải
có sự phân cấp quản lý, hình thành các cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ở các
cấp khác nhau, có quyền hạn, nhiệm vụ khác nhau. Nằm trong cơ cấu của bộ máy
nhà nước, cơ quan quản lý nhà nước về du lịch hoạt động theo nguyên tắc của bộ
máy nhà nước. Các nguyên tắc đó xuất phát từ việc nhà nước nắm quyền lực chính
trị, thông qua quyền lực chính trị nhà nước nắm giữ và bảo toàn quyền lực kinh tế,
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nằm trong hệ thống quyền lực nhà nước, cơ quan quản lý nhà nước về du
lịch được trao những thẩm quyền nhất định, chủ yếu là những thẩm quyền chuyên
môn.
Theo phạm vi quản lý, các cấp quản lý nhà nước về du lịch bao gồm quản lý
nhà nước về du lịch cấp Trung ương và quản lý nhà nước về du lịch cấp địa
phương.
Trên thế giới, tổ chức du lịch quốc gia có thể khác nhau, nhưng nhìn chung
đảm trách những nhiệm vụ chính sau:
- Xây dựng các kế hoạch, chiến lược phát triển du lịch quốc gia.
- Xây dựng chính sách vĩ mô quản lý, định hướng các hoạt động du lịch,
bảo vệ, khai thác có hiệu quả các nguồn tài nguyên du lịch, môi trường
du lịch.
- Thu thập, cung cấp thông tin cho ngành du lịch.
- Thực hiện các hoạt động xúc tiến, quảng bá du lịch quốc gia trong và
ngoài nước, đẩy mạnh hợp tác về du lịch.
- Tổ chức hoặc tham gia các Hội nghị, tổ chức các chuyến khảo sát thị
trường, thúc đẩy tạo việc làm, góp phần cải thiện cán cân thương mại
quốc gia, cấp giấy phép, điều phối các hoạt động đầu tư cho du lịch giữa
các ngành, các địa phương.
Theo kinh nghiệm của nhiều nước, xuất phát từ tính chất liên ngành của hoạt
động du lịch nhằm vừa đảm bảo mục đích phát triển du lịch vừa đảm bảo an ninh
quốc gia, giữ gìn môi trường trong sạch, phát huy tryền thống văn hoá, bản sắc dân
tộc, một số nước đã thành lập uỷ ban du lịch quốc gia gồm các thành viên của
nhiều bộ, ngành liên quan đến hoạt động du lịch. Uỷ ban này có nhiệm vụ thảo
luận và đề xuất với quốc hội, chính phủ những vấn đề vướng mắc trong luật pháp
liên quan đến hoạt động du lịch. Uỷ ban này bao gồm các thành viên từ các cơ
quan cấp Trung ương đến địa phương. Thường trực Uỷ ban là cơ quan quản lý nhà
nước về du lịch.
Về tổ chức du lịch quốc gia, theo ý kiến của ông John Dowenes – chuyên gia
thuộc tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO) thì năm 2004 sau khi nghiên cứu 97
quốc gia cho thấy: khoảng 40% các quốc gia có Bộ Du lịch, ủy ban du lịch; 11%
các quốc gia có cơ quan du lịch thực hiện chức năng quản lý nhà nước với tên gọi
khác, thường là các Cục Du lịch hoặc các Cơ quan Du lịch Quốc gia; 44% các
quốc gia có Bộ Du lịch kiêm các chức năng khác như Bộ Văn hóa và Du lịch, Bộ
Du lịch và Thể thao, Bộ Hàng không dân dụng và Du lịch, Bộ Công nghiệp,
thương mại và Du lịch…; 5% các quốc gia có cơ quan nhà nước về du lịch thuộc
bộ khác.
Nghiên cứu cho thấy, trước đây du lịch thường được kết hợp với văn hóa, xu
hướng này hiện nay vẫn còn nhiều ở các quốc gia Đông á, Thái Bình Dương và
Nam á. Trên thế giới hiện nay, xu hướng Du lịch kết hợp với các Bộ Kinh tế xuất
hiện nhiều, Du lịch kết hợp với Thể thao đang tăng mạnh.
Tổ chức du lịch quốc gia và bộ máy quản lý nhà nước về du lịch của
Việt Nam
Cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ở Việt Nam hiện nay là Bộ Văn hóa,
Thể thao và Du lịch. Thực hiện chủ trương hợp nhất Bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh
vực của Chính phủ để đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế và phát triển kinh
tế xã hội của đất nước, ba ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã hợp nhất thành
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch. Việc hợp nhất ba ngành Văn hóa, Thể thao và
Du lịch nhằm phối hợp các hoạt động chung do ba ngành này có liên quan và có
thể hỗ trợ nhau trong phát triển, đồng thời giảm đầu mối, tạo điều kiện thuận lợi
cho công tác quản lý đa ngành. Phát triển du lịch phải dựa trên nền tảng văn hóa,
hiện nay Văn hóa và Du lịch đã có sự phối hợp thống nhất trong việc bảo vệ và
trùng tu di tích, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc phục vụ hoạt động du lịch để phát
triển kinh tế- xã hội. Đối với lĩnh vực thể thao cũng vậy, mỗi sự kiện thể thao đều
có thể quảng bá chung cho du lịch và văn hóa Việt Nam.
Các cấp quản lý nhà nước về du lịch tại Việt Nam bao gồm:
Quản lý nhà nước về du lịch cấp Trung ương
Tại nước ta, Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về du lịch.
Cơ quan quản lý nhà nước về du lịch cấp Trung ương bao gồm Bộ Văn hoá,
Thể thao và Du lịch, chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện chức năng quản
lý nhà nước về du lịch. Các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ quản
lý các lĩnh vực kinh tế- xã hội như Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước, Bộ Kế
hoạch- Đầu tư… Các bộ, ngành có liên quan tạo điều kiện phát triển du lịch như
Hàng không, Hải quan, Ngoại giao, Công an… trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn
của mình có trách nhiệm phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch thực hiện
quản lý nhà nước về du lịch, tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển du lịch.
Cơ quan quản lý nhà nước về du lịch cấp Trung ương tập trung quản lý các
vấn đề có liên quan đến toàn bộ việc phát triển du lịch của cả nước trên mọi lĩnh
vực của ngành như:
- Lập quy hoạch tổng thể phát triển du lịch quốc gia.
- Ban hành các chính sách chung cho toàn ngành du lịch.
- Phối hợp với các bộ ngành có liên quan đến phát triển du lịch như Giao
thông vận tải, Bưu chính viễn thông, Hải quan, Công an, Thương mại, Văn hoá,
Khoa học- công nghệ, tài nguyên môi trường trong quản lý các hoạt động du lịch.
Quản lý nhà nước về du lịch ở địa phương
ở địa phương trong cơ cấu bộ máy nhà nước cũng có các cơ quan tương tự
như ở cấp Trung ương, bao gồm các Sở Du lịch (Sở Du lịch – Thương mại, Sở
Thương mại – Du lịch) thuộc ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương, thực hiện chức năng quản lý nhà nước về du lịch ở địa phương; các sở, ban ,
ngành có liên quan. Song nó chỉ có chức năng quản lý ở địa bàn và chịu sự chỉ đạo
của các cơ quan ngành dọc trong cơ cấu của bộ máy nhà nước trung ương.
Kể từ năm 2007, việc quản lý nhà nước về du lịch được phân cấp xuống tận
các quận, huyện, phường, xã. Trong đó, phòng Kinh tế - Kế hoạch hoặc phòng
Kinh tế – Nông nghiệp ở các quận, huyện đảm nhiệm chức năng quản lý du lịch tại
cơ sở.
Trên cơ sở quán triệt quan điểm thống nhất quản lý nhà nước Trung ương về
du lịch, việc quản lý nhà nước về du lịch ở địa phương thực hiện các mặt chính
sau:
- Xây dựng các đề án về quy hoạch và kế hoạch phát triển du lịch trên địa
bàn.
- Nghiên cứu đề xuất việc xây dựng các chính sách, và bổ sung cụ thể hoá
các chính sách chung, phù hợp với tình hình hoạt động du lịch của địa phương.
- Hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện các chính sách quy định và nghiệp
vụ chuyên môn.
- Theo thẩm quyền, xét cấp giấy chứng nhận, đăng ký kinh doanh của các
doanh nghiệp hoạt động du lịch.