Tải bản đầy đủ (.docx) (70 trang)

Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước đối với mặt hàng rau an toàn trên địa bàn Hà Nội.docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.92 KB, 70 trang )

PHẦN I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ RAU AN TOÀN VÀ
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC VỀ THỊ TRƯỜNG RAU AN TOÀN
1.1. Một số lý luận về rau an toàn
1.1.1. Khái niệm rau an toàn
Lâu nay, người tiêu dùng đã quen với cụm từ “RAT”. Nhưng, thế nào là
RAT, chắc hẳn không nhiều người tường tận. Chúng ta cần phân biệt ba
loại rau: Rau đại trà, RAT và rau sạch.
Rau đại trà: là các loại rau đang sử dụng truyền thống, được tổ chức
sản xuất theo các tập quán khác nhau từng địa phương, không có quy
trình thống nhất và chất lượng cũng rất khác nhau.
Rau an toàn:
Có hai quan điểm về RAT:
Theo quyết định 106/2007 của Bộ NN & PTNT, RAT là những sản phẩm rau
tươi được sản xuất, thu hoạch, sơ chế phù hợp quy trình sản xuất RAT,
gồm các loại rau ăn: lá, thân, củ, hoa, quả, hạt; rau mầm, nấm thực
phẩm. Đồng thời, RAT được sản xuất từ đất trồng, nguồn nước, môi
trường, dinh dưỡng… tất cả đều phải sạch và đúng quy trình GAP (Good
Agricultural Practices). Nguồn nước tưới rau không bị ô nhiễm bởi các
sinh vật và hoá chất độc hại, hàm lượng một số hoá chất không vượt quá
mức cho phép...Từ đó, rau quả được coi là an toàn khi có dư lượng
nitrat, kim loại nặng và thuốc BVTV, mức độ nhiễm vi sinh vật dưới
ngưỡng quy định của Bộ NN & PTNT ban hành với từng loại rau quả.
Theo các chuyên gia, RAT là loại rau mà ngay từ khâu gieo trồng không
bị bón phân đạm, hoặc bón rất ít phân đạm để tránh ô nhiễm muối
nitrat, thay vào đó phải bón phân vô cơ như phân chuồng, phân bắc ủ
hoai.
Rau sạch: là rau được trồng trên đất sạch, tưới nước giếng khoan hoặc
nước sông lớn không ô nhiễm (chất lượng đất, nước được cơ quan chức
năng kiểm tra và công nhận). Không dùng phân tươi hay bón đạm nhiều.
Hạn chế tối đa chất kích thích sinh trưởng. Chỉ sử dụng thuốc BVTV khi
thật cần thiết và sau một thời gian quy định mới được thu hoạch.


Trong đời sống hàng ngày, hai khái niệm RAT và rau sạch chưa được phân
biệt rõ ràng thậm chí còn có sự đánh đồng giữa RAT và rau sạch. Để
phân biệt chính xác hơn, khái niệm rau sạch nên sử dụng để chỉ các
loại rau được sản xuất theo các quy trình canh tác đặc biệt, như rau
thủy canh, rau “hữu cơ”…Mức độ đảm bảo các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn
thực phẩm của rau sạch cao hơn nhiều so với RAT. Sản lượng rau sạch
được sản xuất ở nước ta hiện nay không đáng kể (phần lớn giới hạn
trong phạm vi các dự án khoa học-sản xuất), nên chủ yếu đề cập tới
RAT.
Tóm lại, RAT được hiểu là rau tươi hoặc đã qua chế biến, được sản xuất
theo phương pháp hữu cơ hoặc có sử dụng các hóa chất nhưng trong tiêu
chuẩn cho phép và khi thu hoạch chỉ còn dư lượng dưới mức quy định,
được trồng trên các vùng đất đảm bảo các tiêu chuẩn thổ nhưỡng theo
quy định, đảm bảo cho người sử dụng và môi trường.
1.1.2. Nguyên tắc trong sản xuất rau an toàn
RAT khác rau đại trà ở chỗ nó được sản xuất theo các nguyên tắc đã
được nghiên cứu bởi các chuyên gia và các nhà nghiên cứu. Rau được sản
xuất theo đúng các nguyên tắc này sẽ đảm bảo chất lượng.
GAP (Good Agriculture Practice) là sáng kiến của những nhà bán lẻ Châu
Âu EURPWG (Euro- Retailer Produce Working Group) nhằm giải quyết mối
quan hệ bình đẳng và trách nhiệm giữa người sản xuất sản phẩm nông
nghiệp và khách hàng của họ. Họ đưa ra khái niệm GAP từ năm 1997.
Nguyên tắc sản xuất RAT theo tiêu chuẩn GAP đó là:
Chọn đất: Đất trồng rau phải là đất cao, thoát nước tốt,
thích hợp với quá trình sinh trưởng, phát triển của rau. Tốt nhất là
chọn đất cát pha, đất thịt nhẹ hoặc đất thịt trung bình có tầng canh
tác dày 20-30 cm. Vùng trồng rau phải cách ly với khu vực có chất thải
công nghiệp nặng và bệnh viện ít nhất 2km, với chất thải sinh hoạt của
thành phố ít nhất 200m. Đất có thể chứa một lượng nhỏ kim loại nhưng
không được tồn dư hóa chất độc hại.

Nước tưới: Vì trong rau xanh nước chứa trên 90% nên việc tưới nước có
ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Nếu không có nước giếng
cần dùng nước sông, ao, hồ không bị ô nhiễm. Nước sạch còn dùng để pha
các loại phân bón lá, thuốc BVTV… đối với các loại rau ăn quả giai
đoạn đầu có thể sử dụng nước từ mương, sông, hồ để tưới rãnh.
Giống: Chỉ gieo những hạt giống tốt và trồng cây con khỏe mạnh, không
có mầm bệnh. Phải biết rõ lý lịch nơi sản xuất hạt giống. Hạt giống
nhập nội phải qua kiểm dịch thực vật. Trước khi gieo trồng hạt giống
phải được xử lý hóa chất hoặc nhiệt. Trước khi trồng cây con xuống
ruộng cần xử lý Sherpa 0,1% để phòng trừ sâu hại sau này.
Phân bón: Mỗi loại cây có chế độ bón và lượng bón khác nhau. Trung
bình để bón lót dùng 15 tấn phân chuồng và 300 kg lân hữu cơ vi sinh
cho 1 ha. Tuyệt đối không dùng phân chuồng tươi để loại trừ các vi
sinh vật gây bệnh, tránh nóng cho rễ cây và để tránh sự cạnh tranh đạm
giữa cây trồng và các nhóm vi sinh vật. Tuyệt đối không dùng phân tươi
và nước phân chuồng pha loãng tưới cho rau.
Bảo vệ thực vật: Không sử dụng thuốc hóa học BVTV thuộc nhóm độc I và
II, khi thật cần thiết có thể sử dụng nhóm III và IV. Nên chọn loại
thuốc có hoạt chất thấp, ít độc hại với ký sinh thiên địch. Kết thúc
phun thuốc hóa học trước khi thu hoạch ít nhất 5 đến 10 ngày. Ưu tiên
sử dụng các chế phẩm sinh học như các hạt củ đậu, các chế phẩm thảo
mộc, các ký sinh thiên địch để phòng bệnh. Áp dụng các biện pháp
nghiêm ngặt để phòng trừ tổng hợp IPM như: Luân canh cây trồng hợp lý,
sử dụng giống tốt không bệnh, chăm sóc cây theo yêu cầu sinh lý…
Thu hoạch, đóng gói: Rau được thu hoạch đúng độ chín, loại bỏ các lá
già, héo, quả bị sâu, dị dạng. Rau được rửa kỹ bằng nước sạch, để ráo
cho vào bao, túi sạch trước khi mang đi tiêu thụ tại các cửa hàng.
Trên bao bì phải có phiếu bảo hành ghi rõ địa chỉ nơi sản xuất nhằm
đảm bảo quyền lợi cho người tiêu dùng.
1.1.3. Tiêu chuẩn đánh giá rau an toàn

Theo kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học thì có 4 tiêu chuẩn sau
đây nếu vượt quá ngưỡng cho phép sẽ thuộc vào rau không an toàn, các
nhóm chất đó là:
Dư lượng thuốc hóa học (thuốc sâu, bệnh, thuốc cỏ), số lượng vi sinh
vật, ký sinh trùng gây bệnh, dư lượng đạm nitrat, dư lượng các kim
loại nặng (chì, thủy ngân, kẽm, đồng, asenic..)
Dư lượng thuốc BVTV: Khái niệm thuốc BVTV: Gồm thuốc trừ sâu, thuốc
trừ bệnh, thuốc trừ cỏ, thuốc diệt chuột và thuốc kích thích sinh
trưởng cây trồng, gọi tắt là thuốc BVTV. Như vậy, thuốc BVTV khi phun
vào cây trồng thuốc sẽ tạo thành lớp mỏng bám vào bề mặt thân, lá và
mặt đất, mặt nước và 1 lớp chất đó nó còn tồn đọng lại trên sản phẩm
thì gọi là dư lượng thuốc BVTV. Năm 2009, ở Việt Nam sử dụng trên 200
loại thuốc trừ sâu, trên 80 loại thuốc trừ bệnh, trên 50 loại thuốc
trừ cỏ, khoảng 8 loại thuốc diệt chuột và khoảng 9 loại thuốc kích
thích sinh trưởng cây trồng. Khi sử dụng cần lưu ý những điểm sau:
- Khi sử dụng thuốc BVTV cần đảm bảo thời gian cách ly: Ví dụ một
loại thuốc ghi trên nhãn là thời gian cách ly 7 ngày, nghĩa là từ khi
phun thuốc đến khi thu hoạch phải được 7 ngày.
- Chỉ sử dụng thuốc BVTV khi thật cần thiết và chỉ sử dụng những loại
thuốc BVTV thuộc nhóm 1 hay nhóm 2 hoặc thuốc trừ sâu sinh học.
- Để phân biệt từng nhóm thuốc BVTV, có thể xác định bằng vạch màu ghi
trên nhãn Thuốc BVTV ở nhóm 1 có vạch màu đỏ. Thuốc BVTV ở nhóm 2 có
vạch màu vàng. Thuốc BVTV ở nhóm 3 có vạch màu xanh nước biển . Thuốc
BVTV ở nhóm 4 có vạch màu xanh lá cây. Ví dụ: Dư lượng thuốc BVTV tối
đa cho phép đối với rau cải là nhóm Diazion: 0,7mg/kg +Nhóm
cypermethrin: 1,0 mg/kg + nhóm Meviaphos: 1,0mg/kg + nhóm
Trichlorphos: 0,2mg/kg.
Hàm lượng Nitrát (NO3): Lượng phân hoá học sử dụng ở Việt Nam không
vào loại cao so với thế giới và các nước trong khu vực. Tuy nhiên, ảnh
hưởng của phân hoá học, nhất là phân đạm với sự tích luỹ nitrát trong

rau cũng là nguyên nhân làm cho rau được xem là không sạch. NO3 vào cơ
thể ở mức độ bình thường không gây độc, chỉ khi hàm lượng vượt tiêu
chuẩn cho phép mới nguy hiểm. Trong hệ thống tiêu hoá NO3 bị khử thành
NO2. Nitrít là những chất chuyển biến Oxyhaemoglobin (chất vận chuyển
oxy trong máu) thành chất không hoạt động được gọi là Methaemoglobin.
Ở mức độ cao sẽ giảm hô hấp của tế bào, ảnh hưởng tới hoạt động của
tuyến giáp, gây đột biến và phát triển các khối u trong cơ thể người,
lượng Nitrít ở mức độ cao có thể gây phản ứng với amin thành chất gây
ung thư gọi là nitrosamin. Có thể nói hàm lượng nitrát vượt ngưỡng là
rất nguy hiểm cho sức khoẻ con người nên các nước nhập khẩu rau tươi
điều kiểm tra hàm lượng nitrát trước khi nhận sản phẩm. Theo tổ chức y
tế thế giới (WHO) khuyến cáo hàm lượng nitrát trong rau không vượt quá
300mg/kg tươi.
Tồn dư kim loại nặng trong sản phẩm rau: Sự lạm dụng hóa chất BVTV
cùng với phân bón các loại đã làm cho một lượng N.P.K và hóa chất BVTV
bị rửa trôi xuống mương vào ao hồ, sông suối thâm nhập vào mạch nước
ngầm gây ô nhiễm, các kim loại nặng tiềm ẩn trong đất trồng thẩm thấu
hoặc từ nguồn nước thải thành phố và khu công nghiệp chuyển trực tiếp
qua nước tưới được rau xanh hấp thụ.
Vi sinh vật gây hại trong rau xanh: Việc một số vùng sử dụng nước phân
tươi (phân người) cho rau đã trở thành một tập quán canh tác trong sản
xuất rau xanh, sử dụng phân gia súc chưa qua ủ, hoặc là chưa hoai mục
chính là mầm mống tạo nên các vi sinh vật độc hại.
Tóm lại, sản phẩm rau được xem là RAT khi đáp ứng được các yêu cầu sau:
- Tươi, sạch bụi bặm, tạp chất; thu đúng độ chín có chất lượng cao
nhất, không có triệu chứng bệnh; hấp dẫn về hình thức,bao bì.
- Sạch an toàn về chất lượng: Khi sản phẩm rau không chứa các dư
lượng thuốc BVTV dư lượng NO3, dư lượng kim loại nặng, vi sinh vật gây
hại.
1.2. Một số vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với thị trường rau an toàn

1.2.1. Quản lý nhà nước về thị trường rau an toàn
Quản lý có thể hiểu với ý nghĩa thông thường, phổ biến, với phạm vi
rất rộng là hoạt động nhằm tác động một cách có tổ chức của chủ thể
vào đối tượng nhất định để điều chỉnh các quá trình xã hội và các hành
vi của con người, nhằm duy trì tính ổn định và sự phát triển của đối
tượng theo những mục tiêu đã định.
QLNN là hoạt động có tổ chức và bằng pháp quyền của bộ máy nhà nước
(công quyền) để điều chỉnh các quá trình xã hội, hành vi của công dân
và mọi tổ chức xã hội (chính trị- kinh tế- xã hội), giữ gìn trật tự xã
hội (thể chế chính trị) và phát triển xã hội theo những mục tiêu đã
định.
QLNN về thị trường RAT là hoạt động có tổ chức của nhà nước thông qua
các văn bản pháp quy, các công cụ, chính sách, nhà nước sẽ tác động
đến thị trường RAT trên cả nước nhằm định hướng, dẫn dắt các chủ thể
sản xuất, kinh doanh, người tiêu dùng để thực hiện tốt các vấn đề về
sản xuất và cung cấp RAT.
1.2.2. Sự cần thiết của quản lý nhà nước đối với thị trường rau an toàn
Hiện nay, nhu cầu sử dụng RAT ngày một tăng, tuy nhiên trên thị trường
xuất hiện rất nhiều các loại rau không rõ nguồn gốc, xuất xứ, chất
lượng chưa được kiểm định chặt chẽ.
Phần lớn người tiêu dùng tiện đâu mua đấy, họ chỉ dựa vào kinh nghiệm
để chọn và mua rau. RAT và rau không an toàn khó có thể nhận biết được
bằng mắt thường. Thậm chí những rau được bán trong các cửa hàng kinh
doanh RAT có nhãn RAT nhưng chất lượng có khi lại không được đảm bảo.
Với các cơ sở kinh doanh RAT, chính bản thân họ cũng không thể kiểm
định được chất lượng rau mà họ kinh doanh do không có điều kiện để
tiến hành kiểm tra. Mặt khác, do sự lỏng lẻo trong quản lý nên một số
cơ sở kinh doanh RAT còn mua rau đại trà về gắn nhãn RAT để bán với
giá cao hơn.
Hiện nay, vấn đề tiêu thụ RAT còn gặp nhiều khó khăn. Nhiều nơi sản

xuất rau theo quy trình GAP nhưng lại chưa có giấy chứng nhận hay nhãn
mác riêng cho sản phẩm của mình, chưa được đăng ký ở các cơ quan có
thẩm quyền vì vậy gây ra tâm lý nghi ngờ cho người tiêu dùng. Mặt
khác, số lượng cơ sở kinh doanh RAT còn ít nên chưa thể thu mua hết
lượng RAT sản xuất ra. RAT sản xuất ra, một phần người nông dân phải
tự mang ra chợ bán lẻ nên việc tiêu thụ không dễ dàng và không đảm bảo
thu nhập của người nông dân.
Từ những thực trạng trên cho thấy tầm quan trọng và cần thiết của QLNN
đối với thị trường RAT như thế nào. Cần có sự quản lý của Nhà nước để
đảm bảo quyền lợi cho người sản xuất và kinh doanh RAT đồng thời đảm
bảo sức khỏe, quyền lợi của người tiêu dùng, giúp họ yên tâm hơn khi
mua RAT.
1.2.3. Nội dung của quản lý nhà nước về thị trường RAT
1.2.3.1. Ban hành các văn bản, chính sách, chiến lược và quy hoạch
liên quan đến thị trường rau an toàn
Nhà nước ban hành, xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật đối với vấn
đề quản lý nhà nước về thị trường RAT
Văn bản quy phạm pháp luật là văn bản do cơ quan nhà nước ban hành
theo thẩm quyền, hình thức, trình tự thủ tục được quy định trong luật
của hội đồng nhân dân, UBND, trong đó có các quy tắc sử xự chung, có
hiệu lực bắt buộc chung, được nhà nước đảm bảo thực hiện để điều chỉnh
các quan hệ xã hội.
Xác lập các cơ sở đúng đắn cho các hoạt động trên thị trường RAT được
xem là điều kiện tiên quyết đảm bảo thị trường RAT hoạt động ổn định,
bảo vệ lợi ích chính đáng của người sản xuất và kinh doanh RAT. Nhà
nước thông qua cơ chế cưỡng chế buộc các chủ thể sản xuất và kinh
doanh RAT phải thực hiện đúng những quy định đã đề ra. Từ đó, người
sản xuất và kinh doanh RAT có thể đưa ra phương thức phát triển hợp
lý, đồng thời không vi phạm quy định của nhà nước.
Vai trò của văn bản quy phạm pháp luật:

Thể chế hóa các chủ trương chính sách của đảng và nhà nước về quản lý
thị trường RAT.
Đặt ra và điều chỉnh quan hệ xã hội.
Nội dung của văn bản quy phạm pháp luật về QLNN đối với thị trường RAT bao
gồm:
Đối tượng áp dụng: các cơ sở sản xuất, sơ chế và kinh doanh RAT.
Điều kiện sản xuất, sơ chế và kinh doanh RAT.
Đăng ký và các giấy chứng nhận cho cơ sở đủ điều kiện sản xuất và kinh
doanh RAT.
Chỉ định tổ chức chứng nhận.
Quyền và trách nhiệm của các tổ chức được chứng nhận.
Tổ chức chứng nhận chất lượng đánh giá và cấp giấy chứng nhận rau được
sản xuất theo quy trình RAT.
Tổ chức, cá nhân sản xuất RAT tự đánh giá quá trình sản xuất.
Công bố rau được sản xuất theo quy trình RAT.
Thời gian vừa qua, nhà nước đã đưa ra nhiều văn bản, quyết định về
quản lý thị trường RAT như:
Quyết định số 04/2007/QĐ-BNN ban hành “quy định về quản lý và chứng nhận
RAT”.
Quyết định số 106/2007/QĐ-BNN ban hành “quy định về quản lý sản xuất
và kinh doanh RAT”.
Quyết định số 99/2008/QĐ-BNN ban hành “quy định quản lý sản xuất, kinh
doanh rau, quả, chè an toàn”.
Quyết định số 107/2008/QĐ-TTg ban hành “một số chính sách hỗ trợ phát
triển sản xuất, chế biến, tiêu thụ rau, quả, chè an toàn.
Quyết định số 104/2009/QĐ-UBND ban hành “quy định về quản lý sản xuất
và kinh doanh RAT trên địa bàn thành phố Hà Nội”…
1.2.3.2. Quản lý chấp hành chế độ quy định và luật pháp trong hoạt
động sản xuất và kinh doanh RAT
Kiểm tra việc đăng ký sản xuất và kinh doanh RAT của các cá nhân và tổ chức.

Sở NN và PTNT: thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các Quy trình kỹ
thuật sản xuất RAT, các quy định về sơ chế RAT. Kiểm tra chất lượng
RAT ở các khâu từ sản xuất, sơ chế, kinh doanh RAT theo quy định.
Sở Công thương: thanh tra, kiểm tra việc thực hiện các quy định về
điều kiện kinh doanh RAT của các cửa hàng, quầy hàng kinh doanh RAT
trên địa bàn thành phố Hà Nội.
Sở Y tế: thanh tra, kiểm tra công tác vệ sinh an toàn thực phẩm và
chất lượng RAT ở các cơ sở chế biến, các cửa hàng, quầy hàng kinh
doanh RAT trên địa bàn thành phố Hà Nội. Phát hiện và xử lý theo thẩm
quyền những hành vi vi phạm chế độ quy định và luật pháp trong hoạt
động sản xuất và kinh doanh RAT.
Tổ chức, cá nhân và hộ gia đình vi phạm các quy định trong “Quy định
về quản lý sản xuất và kinh doanh RAT trên địa bàn thành phố Hà Nội”
sẽ bị xử lý theo quy định tại Quyết định số 99/2008/QĐ-BNN ngày
15/10/2008 của Bộ Nông nghiệp và kênh phân phối RAT
1.2.3.3. Quản lý cơ sở hạ tầng và hệ thống kênh phân phối
Cơ sở hạ tầng và hệ thống kênh phân phối có vai trò quan trọng trong
việc sản xuất và tiêu thụ RAT hiệu quả. Cơ sở hạ tầng cho kinh doanh
RAT bao gồm hệ thống cửa hàng, chợ đầu mối, siêu thị, đường giao thông
và cho sản xuất RAT là hệ thống tưới, tiêu nước, hệ thống điện, nhà
lưới, nhà sơ chế, bể chứa chất thải vật tư nông nghiệp… Hệ thống kênh
phân phối bao gồm: từ người sản xuất - người bán buôn - người bán lẻ -
người tiêu dùng, người sản xuất - người bán lẻ - người tiêu dùng,
người sản xuất - người tiêu dùng.
Nội dung quản lý cơ sở hạ tầng và hệ thống kênh phân phối của Nhà nước
tập trung vào các vấn đề cơ bản sau:
Nhà nước phải trực tiếp quy hoạch các chợ đầu mối, xây dựng hệ thống
đường giao thông, nhà kho, sơ chế… đầu tư hỗ trợ người nông dân về
vốn, kỹ thuật…
Tăng cường quản lý hệ thống kênh phân phối theo kế hoạch và khuyến

khích các cá nhân, tổ chức tham gia đầu tư và phát triển mạng lưới
phân phối RAT.
1.2.3.4. Quản lý, kiểm tra chất lượng RAT cung cấp trên thị trường
Quản lý, kiểm tra chất lượng RAT trên thị trường là một nội dung quan
trọng của nhà nước đối với thị trường RAT, góp phần định hướng, dẫn
dắt các chủ thể tham gia sản xuất và cung cấp RAT một cách hiệu quả.
Quản lý và kiểm soát chất lượng RAT trên thị trường tập trung vào các
nội dung chủ yếu sau:
Cấp giấy chứng nhận cho các cơ sở đủ điều kiện sản xuất RAT theo
nguyên tắc GAP.
Ban hành các tiêu chuẩn cụ thể để đánh giá chất lượng RAT.
Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để các cơ sở sản xuất
và kinh doanh RAT hoạt động tốt trên thị trường.
Kiểm tra chặt chẽ các loại rau nhập khẩu từ Trung Quốc và đặc biệt là
các loại rau không rõ nguồn gốc.
Ngoài các nội dung chủ yếu trên, Nhà nước còn tham gia vào quản lý giá
rau, thuốc BVTV, khuyến khích đội ngũ các nhà khoa học tham gia nghiên
cứu và tạo ra giống cây trồng mới và thuốc BVTV mới giúp người sản
xuất nâng cao năng suất.
PHẦN II: THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG RAU AN TOÀN VÀ QUẢN LÝ
NHÀ NƯỚC VỀ THỊ TRƯỜNG RAU AN TOÀN TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI
HIỆN NAY
2.1. Thực trạng thị trường RAT trên địa bàn Hà Nội hiện nay
2.1.1. Nguồn cung RAT trên địa bàn Hà Nội hiện nay
Đến nay, đại bộ phận người tiêu dùng Thủ đô đã biết đến RAT. Để có RAT
đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn của người tiêu dùng, thành phố Hà Nội đã
quy hoạch các vùng trồng RAT tập trung ở các huyện ngoại thành: Đông
Anh, Gia Lâm, Từ Liêm... với tổng diện tích gần 3.000 ha gieo trồng,
đồng thời xây dựng các mô hình sản xuất RAT có chất lượng cao.
Tính đến ngày 25/3/2009, trên địa bàn thành phố Hà Nội có 20 cơ sở,

HTX được cấp giấy chứng nhận đủ điều kiện sản xuất và sơ chế RAT. 20
cơ sở này đều nằm trong vùng quy hoạch sản xuất RAT của thành phố với
đầy đủ các điều kiện về đất, nước tưới và vị trí. Theo đánh giá của
Chi cục BVTV Hà Nội, các hộ sản xuất RAT trong khu vực được cấp giấy
chứng nhận bước đầu sử dụng thuốc BVTV và sản xuất rau theo quy trình
đảm bảo VSATTP tương đối tốt. Các đợt lấy mẫu phân tích hàm lượng dư
lượng thuốc BVTV đều dưới ngưỡng cho phép.
Bảng 2.1: Diện tích, năng suất và sản lượng RAT cung ứng trên địa bàn Hà
Nội
Xã, huyện Diện tích (ha) Số vụ/năm Năng suất
(tấn/ha) Sản lượng
( tấn/năm) Chủng loại rau
1.Đông Anh
Xã Vân Nội 60 3 20 - 25 3600-4500 Theo mùa 43 loại
Xã Nam hồng 35 3 16 -18 1700-1900 Xu hào, bắp cải, bí xanh
Xã Bắc hồng 30 3 16 - 18 1400-1650 Cà chua, xu hào, cải bắp, đậu
quả
Xã Nguyên Khê, Tiên Dương, Kim Chung, Kim Nổ 100 3 15-16 4500-
4800 Cà
chua, xu hào, khoai tây, cải các loại
2.Gia Lâm
Xã Văn Đức 100 3 16-17 4800-5000 Cải bắp, cà chua, đậu hà lan, xu
hào, cải các loại
Xã Đăng Xá 50
3 15-16 2200-2400 Cải các loại, đậu quả, cà chua, cải bắp
Xã Đông dư 40 3 16-17 1900-2000 Các loại rau gia vị: mùi, rau
thơm và
rau các loại
Xã Lệ chi 50 3 15-16 2250-2400 Các loại rau theo mùa vụ
3.Thanh Trì

Xã Lĩnh Nam 20 3 19-20 1140-1200 Các loại rau muống, ngót,
mồng tơi, bí…
Xã Yên Mỹ 15 3 15-16 675-720 Súp lơ, bí và cải các loại
Xã Duyên Hà 25 3 15-16 1120-1200 Cà chua và cải các loại…
4.Từ Liêm
Minh Khai, Phú Diễn, Liên mạc 185 3 19,5 108225 Rau gia vị và các
loại
rau ăn lá theo mùa vụ
5.Sóc sơn
Xã Đông Xuân 50 3 15 2300 Bắp cải, xu hào, ngô bao tử, cải các
loại…
Xã Thanh Xuân 10 3 15 450 Bắp cải, xu hào, cải các loại, dưa chuột,
bí xanh…
Nguồn :rauhoaquavietnam.vn
Trên đây là bảng số liệu về diện tích, năng suất và sản lượng của một
số huyện trên địa bàn Hà Nội năm 2009. Sản lượng RAT và rau đại trà
của Hà Nội đạt 175.000 tấn/ năm, trong khi nhu cầu tiêu thụ của Hà Nội
hiện khoảng 1.200 tấn/ ngày. Như vậy chưa cần bàn đến chất lượng thì
cung cũng chỉ mới đáp ứng được 40% lượng cầu, còn 60% phải nhập từ các
địa phương khác. Riêng về sản xuất RAT mới chỉ đáp ứng 18% nhu cầu vào
khoảng gần 300 tấn/ngày. Vì vậy, lượng rau thiếu hụt tất yếu sẽ được
nhập từ các địa phương khác, trong đó chủ yếu là các tỉnh, thành phố
gần với Hà Nội về khoảng cách địa lý như Hải Dương, Vĩnh Phúc, Hưng
Yên, Nam Định, Phú Thọ…
Ngoài ra, mỗi ngày có khoảng 400 tấn rau, củ, quả nhập khẩu từ Trung
Quốc vào Việt Nam qua các cửa khẩu Tân Thanh (Lạng Sơn), Móng Cái
(Quảng Ninh), Hà Khẩu (Lào Cai)… Tuy nhiên, chất lượng các loại rau
quả nhập khẩu, đặc biệt là về dư lượng các thuốc BVTV, hóa chất bảo
quản lại chưa được các cơ quan chức năng kiểm định. Trên thực tế các
cơ quan chức năng đang buông lỏng quản lý, “đá bóng” trách nhiệm cho

nhau, tạo kẽ hở để rau củ không an toàn tràn vào nội địa. Hầu hết
lượng rau quả nhập khẩu từ Trung Quốc không phải là RAT.
Nguồn cung RAT cho các cơ sở kinh doanh RAT trên địa bàn Hà Nội rất đa
dạng. Trong phiếu điều tra trắc nghiệm câu hỏi số 2: “Cửa hàng của ông
(bà) chủ yếu nhập RAT từ đâu?” Có 6,67% cửa hàng chủ yếu nhập rau từ
địa phương khác, 33,33% cửa hàng cho biết họ chủ yếu nhập RAT từ các
cơ sở sản xuất RAT trên địa bàn Hà Nội. Đây chủ yếu là các cửa hàng
kinh doanh với quy mô nhỏ, mới mở. Khối lượng rau tiêu thụ mỗi ngày
không lớn do còn gặp khó khăn trong việc tiêu thụ rau. Có 60% cửa hàng
cho biết họ không chỉ nhập RAT từ các cơ sở sản xuất RAT tại Hà Nội mà
còn nhập từ các địa phương khác như Hải Dương, Hải Phòng... Họ cho
biết thêm nếu chỉ nhập rau từ các cơ sở sản xuất tại Hà Nội nhiều khi
không được cung cấp rau kịp thời và chủng loại rau bán không được
phong phú. Điều này cho thấy rằng các cơ sở sản xuất RAT trên địa bàn
Hà Nội cần phát triển nhiều hơn nữa cả về quy mô và cơ cấu cây trồng
để đáp ứng nhu cầu của thị trường.
2.1.2. Tình hình cung - cầu, giá cả, cạnh tranh trên thị trường RAT Hà
Nội hiện nay
2.1.2.1. Tình hình cung RAT trên thị trường Hà Nội hiện nay
Hiện nay RAT được cung cấp trên thị trường Hà Nội chủ yếu là do các
HTX sản xuất RAT ở các vùng ngoại thành như: HTX tổng hợp Văn Đức, Gia
Lâm, Hà Nội; HTX dịch vụ nông nghiệp Đông Dư; HTX dịch vụ Đồng Tâm,
phường Giang Biên; HTX dịch vụ nông nghiệp Lĩnh Nam, quận Hoàng
Mai…còn lại được nhập từ các địa phương khác trong cả nước. Tính đến
năm 2009 Hà Nội đã có khoảng 12.000 ha rau trong đó có khoảng 2.105 ha
diện tích sản xuất RAT, chiếm khoảng 18% trên tổng diện tích trồng rau
của toàn thành phố. Sản lượng RAT làm ra mỗi năm mới chỉ đáp ứng được
18% nhu cầu, nhưng việc tiêu thụ loại rau này lại rất chật vật. Tại
nhiều vùng trồng RAT, người trồng rau luôn khốn đốn tìm đầu ra.
Sản xuất RAT đòi hỏi chi phí bỏ ra nhiều hơn chi phí sản xuất rau đại

trà khoảng 30 - 35%. Khác với sản xuất rau thông thường, sản xuất RAT
đòi hỏi yêu cầu khắt khe trong cả quá trình sản xuất. Ngoài việc đảm
bảo các tiêu chuẩn về đất trồng, nước tưới, từ khâu giám sát đầu vào,
quy trình gieo trồng chăm sóc, đến khâu thu hoạch tiêu thụ sản phẩm
đều phải đảm bảo theo các tiêu chuẩn quy định. Khi sản xuất RAT những
người dân mong muốn cung cấp cho thị trường những sản phẩm RAT đảm bảo
chất lượng. Tuy nhiên, với chi phí cao như vậy thì đòi hỏi giá RAT
cao hơn giá rau đại trà là điều tất yếu. Trên thực tế không phải tất
cả RAT được sản xuất ra đều được bán với đúng giá trị của nó. Trừ
những nơi sản xuất có thương hiệu như: Đặng Xá, Đông Dư, Lĩnh Lam… có
cơ sở đứng ra thu mua tận ruộng, đầu ra của những địa phương này được
đảm bảo nên giá rau bán ra phù hợp với chi phí mà người nông dân đã bỏ
ra. Tuy nhiên, bên cạnh đó còn nhiều HTX sản xuất RAT nhưng chưa
tìm được đầu ra cho sản phẩm của mình. Do vậy, nhiều người dân tuy đã
tham gia vào HTX sản xuất RAT nhưng khi thu hoạch thì phải mang ra chợ
bán. Trong chợ được bày bán rất nhiều loại rau mà chủ yếu là rau đại
trà. Giá rau ngoài chợ thường không ổn định, biến động từng ngày nên
thu nhập của người nông dân rất bấp bênh.
Hiện nay, trên thị trường có nhiều sản phẩm được gắn nhãn RAT nhưng
không đảm bảo chất lượng. Những nguyên nhân chủ yếu dẫn tới tình
trạng có thể kể đến là: Nguyên nhân thứ nhất là do người nông dân
còn yếu kém về trình độ. Quy trình sản xuất RAT đòi hỏi yêu cầu khắt
khe trong tất cả các khâu của quá trình sản xuất. Tuy nhiên, với các
xã viên trong các HTX sản xuất RAT vốn quen với phương thức canh tác
rau truyền thống, lại thiếu vốn đầu tư cơ sở hạ tầng, quy mô nhỏ lẻ do
đó việc đảm bảo đúng các tiêu chuẩn trồng RAT và tiêu thụ sản phẩm
trên thị trường là việc vô cùng khó khăn. Từ đó cho ra đời những sản
phẩm RAT không thật sự đạt tiêu chuẩn quy định. Những sản phẩm RAT
không đảm bảo chất lượng này lại được cung cấp cho các cơ sở kinh
doanh RAT và được bán ra thị trường. Nguyên nhân thứ hai do các chủ cơ

sở kinh doanh RAT gặp khó khăn trong việc kiểm tra chất lượng rau.
Trong câu hỏi số 5 của phiếu điều tra trắc nghiệm: “Cửa hàng của ông
(bà) có kiểm tra chất lượng RAT cung cấp cho cửa hàng không?” Có
32,67% cơ sở kinh doanh RAT cho biết họ không tiến hành kiểm tra chất
lượng rau mà chỉ kiểm tra số lượng có đủ theo đặt hàng hay không. Có
24% của cơ sở kinh doanh RAT trả lời rằng họ có thể kiểm tra chất
lượng RAT nhập về. Đó là cơ sở kinh doanh lớn có uy tín có quy trình
kiểm tra hiện đại. Có 53,33% cơ sở kinh doanh RAT trả lời là họ chỉ
kiểm tra được một phần RAT nhập về. Họ chỉ kiểm tra bao gói sản phẩm
có đạt yêu cầu không, RAT có dập nát hay thối không… còn dư lượng
thuốc BVTV trong rau thì họ không thể kiểm tra được. Các phương
pháp có thể sử dụng để kiểm tra, đánh giá chất lượng của
rau như: phương pháp cảm quan, phương pháp thí nghiệm, phương
pháp chuyên viên, phương pháp sử dụng thử. Việc đánh giá chất
lượng rau bằng phương pháp cảm quan đơn giản, tiện lợi, chi phí
thấp nhưng độ chính xác không cao, khó khách quan. Việc xác định
các chỉ tiêu về VSATTP bằng phương pháp thí nghiệm độ chính xác
cao, khách quan, tin cậy nhưng đòi hỏi thời gian dài (2-3 ngày) và
chi phí quá lớn (1,5-3 triệu đồng/1 mẫu), tốn công sức và không
phải lúc nào cũng thực hiện được và không phải ai cũng làm
được, phương pháp này hầu như chỉ có các cán bộ chi cục BVTV
và quản lý thị trường thực hiện... Mà rau quả là mặt hàng thực
phẩm tươi sống, nhanh hư hỏng nên việc dùng các biện pháp kỹ thuật để
kiểm tra chất lượng rau là không khả thi trên thực tế. Nguyên nhân thứ
ba do việc sản xuất RAT cho năng suất thấp và chi phí cao nhưng trong
thực tế nhiều người dân lại phải bán như giá rau thường. Vì vậy một
bộ phận người sản xuất đã không mặn mà với việc sản xuất RAT.
Một nguyên nhân khác là do các cơ sở kinh doanh RAT muốn thu lợi nhuận
cao nên đã mua rau trôi nổi trên thị trường về gắn nhãn RAT và bán với
giá của RAT khiến người tiêu dùng nghi ngờ chất lượng của RAT.

Tình trạng này khá phổ biến trên thị trường hiện nay.
Một phần RAT được cung cấp đến người tiêu dùng thông qua hệ thống cửa
hàng kinh doanh RAT và siêu thị. Khoảng cách từ các hệ thống cửa hàng,
siêu thị kinh doanh RAT trên thị trường Hà Nội đến nơi sống của người
tiêu dùng còn khá xa. Theo phiếu điều tra ý kiến người tiêu dùng trong
câu hỏi số 9 “Khoảng cách từ nơi bạn sống đến cửa hàng kinh doanh RAT
gần nhất?” Chỉ có 3% người tiêu dùng được hỏi trả lời dưới 1km, 15%
người tiêu dùng trả lời khoảng cách từ 1km đến 3km, và có tới 82%
người tiêu dùng trả lời là cách địa điểm kinh doanh RAT trên 5km. Điều
này cho thấy rằng, hệ thống kinh doanh RAT trên thị trường Hà Nội hiện
nay còn rất ít chưa tạo được sự thuận lợi để người tiêu dùng đến với
RAT. Theo phiếu điều tra ý kiến người tiêu dùng, trong câu hỏi số 8
“Bạn có biết cửa hàng kinh doanh RAT nào không?” Có tới 65% người tiêu
dùng trả lời rằng họ chưa biết địa điểm nào để mua RAT, chỉ có 35%
người tiêu dùng biết được một vài địa điểm kinh doanh RAT trong thành
phố Hà Nội hiện nay. Một nguyên nhân khác khiến cho nhiều người tiêu
dùng còn chưa biết đến các cửa hàng kinh doanh RAT là do các cửa hàng
này còn chưa chú trọng đến việc giới thiệu cửa hàng và sản phẩm RAT
tới người tiêu dùng. Trong câu hỏi số 6 của phiếu điều tra trắc nghiệm
“Ông (bà) có quan tâm đến việc quảng cáo cho cửa hàng của mình để được
người tiêu dùng biết đến không?” Có 13,33% cơ sở kinh doanh rất quan
tâm, có 33,33% cơ sở kinh doanh là quan tâm, có tới 53,34% cơ sở kinh
doanh không quan tâm đến việc quảng cáo để người tiêu dùng có thể biết
đến cửa hàng của họ.
Lượng cung cụ thể của một số loại rau cho thị trường Hà Nội được thể
hiện trong bảng dưới đây:
Bảng 2.2: Tình hình cung một số loại RAT trên địa bàn Hà Nội
Tên rau Lượng rau ( tấn/ ngày) Tôc độ tăng năm sau so với năm trước (%)
2007 2008 2009 2008/2007 2009/2008
Rau muống 18 20 21 11,1 5

Cải ngọt 16 18 20 12,5 11,1
Bắp cải 15 16 17 6,7 6.25
Súp lơ xanh 12 16 19 16,8 18,8
Cải thảo 17 21 22 23,4 4,8
Rau ngót 13 15 18 15,3 20
… … … … … …
Tổng cung 220 255 300 15,9 17,6
Nguồn: rauhoaquavietnam.vn
Qua bảng trên cho thấy cung RAT trung bình từng ngày tăng lên hàng
năm. Năm 2007 lượng cung RAT là 220tấn/ ngày, đến năm 2008 tăng lên
255 tấn/ ngày (tương đương tăng 15,9%), năm 2009 lượng cung tiếp tục
tăng lên 300 tấn/ ngày (tăng 17,6%) so với năm 2008. Lượng cung RAT
tăng lên hàng năm do diện tích trồng RAT tiếp tục được mở rộng theo
các đề án phát triển sản xuất RAT. Đến năm 2009, diện tích trồng RAT
trên địa bàn Hà Nội là 2105ha, tăng gần 500 ha so với năm 2007. Hầu
hết các địa phương khác như Hải Dương, Hưng Yên … đều tăng diện tích
trồng RAT lên. Trong quá trình sản xuất, người nông dân tích cực áp
dụng khoa học công nghệ và trồng nhiều giống mới cho năng suất cao
hơn. Đó cũng là nguyên nhân mà lượng RAT được cung cấp cho thị trường
ngày càng tăng.
2.1.2.2. Tình hình cầu về RAT trên thị trường Hà Nội hiện nay
Sau khi mở rộng địa giới hành chính vào tháng 8 năm 2008, Hà Nội có
diện tích 3324,92 km2, gồm 1 thị xã, 10 quận và 18 huyện ; dân số
6,233 triệu dân; thu nhập bình quân đầu người năm 2008 đạt 960
USD/người. Dân số của Hà Nội đã tăng lên nhanh chóng. Ngoài ra, Hà Nội
còn thường xuyên tiếp nhận một lượng khách vãng lai lớn bao gồm cả
khách du lịch trong và ngoài nước. Trên địa bàn Hà Nội cũng tập trung
một lượng lớn các khu công nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, các trường Đại
học, Cao đẳng, trung học chuyên nghiệp.Vì vậy nhu cầu tiêu thụ hàng
hóa, dịch vụ nói chung, nông sản phẩm nói riêng của Hà Nội là rất lớn,

đặc biệt là các sản phẩm có chất lượng cao. Thêm vào đó, trong những
năm gần đây, nền kinh tế ngày một phát triển, chất lượng cuộc sống của
người dân Hà Nội ngày càng được nâng cao, do vậy, một bộ phận người
dân đã chuyển sang sử dụng các sản phẩm RAT thay vì các sản phẩm rau
đại trà.
Hàng năm, trên địa bàn TP Hà Nội đã xảy ra hàng nghìn vụ ngộ độc thực
phẩm. Có hàng trăm nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, trong đó, các
loại rau quả với dư lượng thuốc BVTV vượt mức cho phép là một tác nhân
ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe của người tiêu dùng. Ở mức độ nhẹ, nó
gây ngộ độc thực phẩm, nặng sẽ ảnh hưởng đến quá trình hô hấp, gây đột
biến và phát sinh các căn bệnh ung thư. Việc sử dụng các loại thực
phẩm không đảm bảo VSATTP gây ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe con
người. Xu hướng chung là người tiêu dùng dần chuyển sang sử dụng các
sản phẩm đảm bảo VSATTP.
Theo phiếu điều tra ý kiến người tiêu dùng đối với câu hỏi 1 “Bạn có
biết đến sản phẩm RAT không?” Có 97% người tiêu dùng trả lời rằng họ
biết đến RAT, chỉ có 3% chưa biết đến RAT. Điều này cho thấy RAT đã
trở nên quen thuộc đối với người tiêu dùng. Đối với câu hỏi 2 “Bạn
biết đến sản phẩm RAT qua phương tiện nào?” Phần lớn người tiêu dùng
đều trả lời là biết đến RAT thông qua giới thiệu của bạn bè, người
thân (40%) và qua internet (35%), còn lại 25% là biết qua sách báo và
các phương tiện thông tin đại chúng khác. Đối với câu hỏi 3 “Khi mua
rau bạn có quan tâm đó là RAT không?” Một tỷ lệ khá cao có tới 90%
người tiêu dùng cho biết khi mua rau họ không để ý tới rau họ mua là
RAT hay rau đại trà. Điều này cho thấy do thói quen mua bán hàng ngày
của người tiêu dùng rất “dễ tính” trong sự lựa chọn sản phẩm.
Ý kiến của người tiêu dùng về địa điểm họ mua rau hàng ngày được thể
hiện trong bảng dưới đây:
Bảng 2.3: Kết quả điều tra về địa điểm mua rau của người tiêu dùng
STT Địa điểm Số lượng ( người) Tỷ lệ (%)

1 Chợ cóc, chợ tạm gần nhà, gần trường, gần nơi làm việc 59 59
2 Siêu thị 37 37
3 Cửa hàng kinh doanh RAT 4 4
Tổng số 100 100
Nguồn: Điều tra thực tế
Trong 100 người tiêu dùng được hỏi có tới 59% người tiêu dùng vẫn giữ
thói quen mua rau không an toàn tại các chợ gần nhà, gần nơi làm việc.
Tuy nhiên, hiện có nhiều người tiêu dùng đang chuyển dần từ thói quen
mua ở các chợ hay các cửa hàng rau gần nhà sang mua các sản phẩm RAT
trong các siêu thị (42%). Khi được hỏi thêm lý do khiến họ mua rau
trong siêu thị, nhiều bà nội trợ cho biết vì chất lượng rau trong các
siêu thị vượt trội so với rau bán ở bên ngoài. Sản phẩm rau quả trong
siêu thị thường được bảo quản và chế biến dựa trên nguyên tắc chặt
chẽ, đảm bảo độ tươi, ngon, chất lượng cao, đem lại sự an toàn vệ sinh
cho người tiêu dùng. Các loại rau tươi được đóng gói và bảo quản đông
lạnh như các loại rau cải, rau cần, rau dền, rau muống, xà lách...và
các loại rau được sấy khô như các loại nấm, măng tây, hành, tỏi khô...
được bán ngay tại quầy, đảm bảo chất lượng VSATTP. Trong đó số người
tiêu dùng đến cửa hàng kinh doanh RAT mua còn chiếm tỷ lệ khá thấp
(7%). Họ cho biết: do cửa hàng kinh doanh RAT không gần nhà, đi xa lại
không tiện đường nên không tới đó.

×