Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

xác định hiệu quả kinh tế của du lịch Việt Nam năm 2005 theo quan điểm tiếp cận TSA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 110 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
*******


ĐÀO THỊ THANH MAI




XÁC ĐỊNH HIỆU QUẢ KINH TẾ CỦA DU LỊCH
VIỆT NAM
NĂM 2005 THEO QUAN ĐIỂM TIẾP CẬN TSA

CHUYÊN NGÀNH: DU LỊCH HỌC




LUẬN VĂN THẠC SĨ DU LỊCH HỌC


Người hướng dẫn: PGS.TS. TRẦN ĐỨC THANH





HÀ NỘI - 2006











1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Theo kết quả công bố của Tổng cục Thống kê, trong vòng 6 năm trở lại đây,
ngành du lịch Việt Nam (tính chủ yếu là khối khách sạn nhà hàng) đóng góp trung
bình khoảng 3,22% cho GDP cả nƣớc [7;242]. Trong khi đƣợc xác định là ngành
kinh tế mũi nhọn thì với kết quả thống kê này, du lịch dƣờng nhƣ giữ một vị trí rất
khiêm tốn so với các ngành kinh tế khác (trung bình giai đoạn 2000-2005, đóng
góp cho GDP của công nghiệp chế biến là 20,07%, thƣơng mại là 13,86%). Thực
tế cho thấy, du lịch đóng vai trò quan trọng trong cơ cấu kinh tế của đất nƣớc. Du
lịch không chỉ trực tiếp đóng góp cho GDP mà ảnh hƣởng ngoại biên về kinh tế
của du lịch là rất lớn. Du lịch gián tiếp góp phần vào sự tăng trƣởng nhiều ngành
kinh tế khác do hoạt động của du khách trong chuyến du lịch rất đa dạng: ăn uống,
lƣu trú, vận chuyển, mua sắm, giải trí, … Vì vậy, việc thống kê hiệu quả kinh tế
của du lịch chỉ dựa trên kết quả kinh doanh của 2 ngành lữ hành và khách sạn là
chƣa thật hợp lý. Điều này đặt ra yêu cầu: cần phải đánh giá lại hiệu quả kinh tế
của du lịch một cách toàn diện hơn, nhằm nhận thức đúng đán hơn về vai trò của
ngành du lịch đối với nền kinh tế đất nƣớc.
Vào thập kỷ 90 của thế kỷ 20, Tổ chức Du lịch thế giới (WTO) đã nghiên
cứu và đề xuất một quan điểm tiếp cận mới cũng nhƣ một phƣơng pháp mới về
thống kê du lịch là Tài khoản vệ tinh du lịch (TSA). Trên cơ sở đó, Hội đồng Lữ
hành và Du lịch thế giới (WTTC) đã xây dựng và phát triển quan điểm này thành

một hệ thống phƣơng pháp luận cụ thể. Hiện nay, TSA đã đƣợc ứng dụng rộng rãi
ở nhiều nƣớc trên thế giới và đƣợc xem là một phƣơng pháp thống kê du lịch hiệu
quả. Từ năm 2003, vận dụng TSA, WTTC phối hợp với Cơ quan Dự báo Kinh tế
Oxford (OEF) thống kê hiệu quả kinh tế của du lịch Việt Nam và đƣa ra kết quả

2
ƣớc tính: năm 2003, du lịch Việt Nam đóng góp cho GDP khoảng 9,18%, tƣơng
đƣơng với 3518,89 triệu USD. Năm 2004, du lịch Việt Nam đóng góp 10,16% cho
GDP, tƣơng đƣơng với 4190,69 triệu USD. Năm 2005, con số này là 10,63%,
tƣơng đƣơng 4745,17 triệu USD (xem bảng 1).
Bảng 1: Đóng góp của du lịch Việt Nam cho GDP giai đoạn 2001-2006
Chỉ tiêu
Đơn vị
tính
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
2006
Đóng góp của
ngành du lịch
1

%
3,16
3,31
2,67
2,94

3,13
3,21
triệu
USD
1054,
52
1181,4
6
1021,5
2
1211,8
1
1397,3
8
1537,3
0
Đóng góp của
du lịch Việt
Nam
2

%
9,72
10,43
9,18
10,16
10,63
10,90
triệu
USD

3238,
79
3721,6
4
3518,8
9
4190,6
9
4745,1
7
5217,3
4
Nguồn: [23;10]
Đặc biệt, nhờ sử dụng phƣơng pháp TSA, WTTC có thể đƣa ra con số dự
báo cho hiệu quả kinh tế của du lịch Việt Nam từ nay đến năm 2016 [23;10]. Với
kết quả này có thể thấy, quan điểm tiếp cận TSA cho phép nhìn nhận đầy đủ hơn
về vai trò của ngành du lịch đối với nền kinh tế. Tuy nhiên, các tổ chức này không
công bố cơ sở lý thuyết để tính toán đƣợc các con số nêu trên.
Tại Việt Nam, năm 2002, TS. Lý Minh Khái (Vụ Thƣơng mại – Dịch vụ –
Giá cả, Tổng cục Thống kê) đã chủ trì đề tài nghiên cứu cấp cơ sở: “Nghiên cứu
thống kê tài khoản vệ tinh du lịch”. Tuy nhiên đề tài mới chỉ dừng ở việc tìm hiểu
TSA là gì và điều kiện vận dụng TSA ở Việt Nam, chƣa có những tính toán cho
tình hình cụ thể của du lịch Việt Nam.
Xuất phát từ lý do trên, với mong muốn đƣợc góp phần nghiên cứu và ứng
dụng quan điểm tiếp cận TSA tại Việt Nam, tác giả đã lựa chọn đề tài luận văn:

1
Tourism industry: hoạt động kinh tế của các tổ chức, doanh nghiệp trong ngành du lịch
2
Nguyên văn: kinh tế du lịch (tourism economy): kết quả kinh tế mà du lịch mang lại không chỉ cho ngành du lịch

mà cho toàn bộ nền kinh tế [22;14]

3
“Xác định hiệu quả kinh tế của du lịch Việt Nam năm 2005 theo quan điểm tiếp
cận TSA”.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là quan điểm tiếp cận tài khoản vệ tinh
du lịch (TSA) và vai trò của du lịch đối với các ngành kinh tế khác của Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là việc xác định hiệu quả kinh tế của du
lịch Việt Nam năm 2005.
3. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là góp phần nghiên cứu hệ thống lý thuyết về tiếp cận
tài khoản vệ tinh du lịch (TSA) và ứng dụng ở Việt Nam; trên cơ sở đó, ứng dụng
quan điểm này để xác định hiệu quả kinh tế của ngành du lịch.
4. Quan điểm và phương pháp nghiên cứu
Quan điểm nghiên cứu
- Quan điểm hệ thống
Tác giả nghiên cứu về thống kê hiệu quả kinh tế của du lịch Việt Nam năm
2005 đƣợc xuất phát từ hoạt động thống kê du lịch thế giới, của Việt Nam từ trƣớc
đến thời điểm nghiên cứu
- Quan điểm tổng hợp
Tác giả tiến hành nghiên cứu hiệu quả kinh tế của du lịch trong mối quan hệ
với hiệu quả kinh tế nói chung, xem xét đánh giá về du lịch Việt Nam trong mối
quan hệ liên ngành.
Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phƣơng pháp thu thập thông tin
Tác giả đã thu thập thông tin từ sách chuyên khảo, tạp chí, báo cáo của Tổng
cục thống kê, Tổng cục Du lịch, các đề tài nghiên cứu khoa học, luận án tiến sỹ
- Phƣơng pháp phân tích, xử lý số liệu


4
Để xử lý các số liệu thu thập đƣợc, luận văn đã dùng phần mềm Excel , số
liệu đƣợc phân tích, kiểm định theo các biện pháp thống kê toán học, xây dựng
thành các biểu bảng tổng hợp phục vụ cho mục đích nghiên cứu.
- Phƣơng pháp chuyên gia
Tác giả đã tiến hành phỏng vấn một số cán bộ, chuyên viên của Tổng cục
Thống kê, Tổng cục du lịch, những chuyên gia nghiên cứu về du lịch và TSA.
5. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, luận văn gồm có
3 chƣơng:
Chƣơng 1: Khái quát chung về phƣơng pháp xác định hiệu quả kinh tế của du lịch
và mô hình khảo sát du khách
Chƣơng 2: Ứng dụng TSA để xác định hiệu quả kinh tế của ngành du lịch Việt
Nam năm 2005
Chƣơng 3: Một số giải pháp và kiến nghị



5
CHƢƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ PHƢƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH HIỆU
QUẢ KINH TẾ CỦA DU LỊCH VÀ MÔ HÌNH KHẢO SÁT DU KHÁCH
1.1. Hiệu quả kinh tế
1.1.1. Khái niệm
Theo quan điểm kinh tế học, “hiệu quả hiểu chung nhất là việc sử dụng
không lãng phí các yếu tố đầu vào” và “hiệu quả sản xuất diễn ra khi xã hội không
thể tăng sản lƣợng một loạt hàng hóa mà không cắt giảm một loạt hàng hóa khác.
Một nền kinh tế có hiệu quả nằm trên giới hạn khả năng sản xuất của nó”[16;357].
Thực chất quan điểm này đã đề cập đến khía cạnh phân bổ có hiệu quả các nguồn
lực của nền sản xuất xã hội. Việc phân bổ và sử dụng các nguồn lực sản xuất trên
đƣờng giới hạn khả năng sản xuất sẽ làm cho nền kinh tế có hiệu quả cao. Có thể

nói mức hiệu quả ở đây mà tác giả đƣa ra là cao nhất, là lý tƣởng và không có mức
hiệu quả cao hơn nữa.
Hai tác giả Wohe và Doring lại đƣa ra khái niệm khác về hiệu quả kinh tế.
Đó là hiệu quả kinh tế tính bằng đơn vị hiện vật và hiệu quả kinh tế tính bằng đơn
vị giá trị. Theo hai ông thì hai khái niệm này hoàn toàn khác nhau. “Mối quan hệ tỷ
lệ giữa sản lƣợng tính theo đơn vị hiện vật (chiếc, kg) và lƣợng nhân tố đầu vào
(giờ lao động, đơn vị thiết bị, nguyên vật liệu…) đƣợc gọi tính hiệu quả có tính
chất kỹ thuật hay hiện vật. Mối quan hệ giữa tỷ lệ chi phí kinh doanh phải chi ra
trong điều kiện thuận lợi nhất và chi phí kinh doanh thực tế chi ra đƣợc gọi là tính
hiệu quả xét về mặt giá trị. Để xác định tính hiệu quả về mặt giá trị, ngƣời ta còn
hình thành tỷ lệ giữa sản lƣợng tính bằng tiền và các nhân tố đầu vào bằng tiền”
[17;34]. Khái niệm hiệu quả kinh tế tính bằng đơn vị của hai ông chính là năng
suất lao động, máy móc thiết bị và hiệu suất tiêu hao vật tƣ, còn hiệu quả tính bằng
giá trị là hiệu quả hoạt động quản trị chi phí.

6
Một khái niệm khác đƣợc nhiều nhà kinh tế trong và ngoài nƣớc quan tâm
chú ý và sử dụng phổ biến là: “Hiệu quả kinh tế của một số hiện tƣợng (hoặc quá
trình) kinh tế phản ánh trình độ lợi dụng các nguồn lực để đạt đƣợc mục tiêu đã
xác định”. [17;35]. Điển hình cho quan điểm này là các tác giả Eugene L. Grant,
W.Grant Ireson, H.Speight và Ian M.T.Stewart.
Theo quan điểm thống kê, một số tác giả cho rằng hiệu quả kinh tế đƣợc xác
định bởi quan hệ giữa tỷ lệ tăng lên của hai đại lƣợng kết quả và chi phí, nói cách
khác hiệu quả kinh tế đƣợc đo lƣờng bằng tỷ số giữa kết quả đầu ra với số lƣợng
đầu vào. Các quan điểm này đề cập đến hiệu quả của phần tăng thêm chứ không
phải của toàn bộ phần tham gia vào quá trình kinh tế. Điển hình cho quan điểm này
là Manfred Bruhn. Theo ông: “Tính hiệu quả đƣợc xác định bằng cách lấy kết quả
tính theo nhiều đơn vị giá trị chia cho chi phí kinh doanh” [28;48]. Đây là quan
điểm đƣợc nhiều nhà kinh tế và quản trị kinh doanh áp dụng và tính hiệu quả của
các quá trình kinh tế. Robert Lanquar cũng đề cập đến 2 chỉ tiêu trong vấn đề lao

động việc làm:
- ICOR =
I
Y


, trong đó
Y
là sản lƣợng giá trị tăng thêm,
I
là sự tăng thêm
của giá trị đầu tƣ
- Hiệu quả lao động: hiệu quả gia tăng trên giá trị lao động [18;40]
Áp dụng quan điểm này, TS. Trần Thị Kim Thu cũng đề xuất một khái niệm
về hiệu quả kinh tế: “Hiệu quả kinh tế là phạm trù kinh tế biểu hiện quan hệ so
sánh giữa kết quả kinh tế đạt đƣợc với chi phí bỏ ra để đạt đƣợc kết quả đó” [20;4]
1.1.2. Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả kinh tế
Để xác định tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả kinh tế, cần xuất phát từ lợi ích và
động lực. Hiệu quả kinh tế đƣợc xem xét đánh giá trên cơ sở hai cách tiếp cận, kết
hợp hai loại lợi ích (lợi ích chung toàn xã hội và lợi ích tập thể doanh nghiệp), trên
cơ sở kết hợp 2 quan điểm (quan điểm xã hội và quan điểm doanh nghiệp). Vậy

7
tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả kinh tế cần xuất phát từ lợi ích, bao gồm cả lợi ích tập
thể doanh nghiệp và lợi ích chung toàn xã hội. Chỉ có nhƣ vậy mới tạo ra động lực
mạnh mẽ cho sự phát triển của các doanh nghiệp cũng nhƣ toàn xã hội, gắn hiệu
quả với hoạt động sản xuất kinh doanh. Xác định đúng đắn tiêu chuẩn đánh giá
hiệu quả là cơ sở để lựa chọn, xác định đúng các chỉ tiêu kết quả để tính hiệu quả
kinh tế.
1.1.3. Ý nghĩa của việc nâng cao hiệu quả kinh tế

Nâng cao hiệu quả kinh tế có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Chúng ta đang
thực hiện xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế
thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế thị trƣờng tất yếu không
tránh khỏi cạnh tranh quyết liệt. Đơn vị kinh tế nào, quốc gia nào có sức cạnh
tranh, khả năng cạnh tranh cao, đơn vị đó, quốc gia đó sẽ đứng vững, tồn tại và
phát triển. Khả năng cạnh tranh của từng đơn vị kinh tế cũng nhƣ của một quốc gia
liên quan đến hai yếu tố quan trọng là chất lƣợng và hiệu quả. Chất lƣợng càng
cao, hiệu quả càng cao thì khả năng cạnh tranh càng cao và ngƣợc lại. Ngày nay,
toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế khu vực và thế giới đã thành xu hƣớng tất yếu. Toàn
cầu hóa, hội nhập kinh tế vừa có mặt tích cực nhƣng cũng chứa nhiều mặt tiêu cực,
làm cho cạnh tranh càng trở nên khốc liệt. Trong điều kiện đó, nâng cao hiệu quả
kinh tế lại càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Nâng cao hiệu quả kinh tế cho phép
thu đƣợc kết quả kinh tế nhất định, có thể tiết kiệm nguồn lực và chi phí cho sản
xuất kinh doanh. Rõ ràng, nâng cao hiệu quả kinh tế có ý nghĩa đặc biệt lớn lao.
1.1.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả
Các nhân tố ảnh hƣởng đến hiệu quả gồm các nhóm sau:
- Thứ nhất, nhóm nhân tố thuộc về con ngƣời (sức khỏe, trình độ, tuổi tác,
giới tính …)

8
- Thứ hai, nhóm nhân tố thuộc về tƣ liệu sản xuất (máy móc, thiết bị, công
nghệ, kỹ thuật, tài nguyên …)
- Thứ ba, nhóm nhân tố thuộc về quan hệ sản xuất (quan hệ quản lý, phân
phối …)
- Thứ tư, nhóm nhân tố thuộc về quản lý bao gồm cả quản lý vĩ mô và quản lý
vi mô (các chính sách vĩ mô, trình độ ngƣời quản lý, đảm bảo thông tin cho quản lý
vv…)
- Thứ năm, nhóm nhân tố thuộc về môi trƣờng sản xuất kinh doanh (môi
trƣờng pháp lý, bạn hàng, đối tác, quan hệ hiệp hội, quan hệ quốc tế …)
- Thứ sáu, nhóm nhân tố thuộc về điều kiện thiên nhiên khí hậu …

1.2. Hiệu quả kinh tế trong du lịch
1.2.1. Khái niệm
Trên cơ sở lý luận chung nêu trên, vận dụng cho nghiên cứu hiệu quả kinh tế
của du lịch, có thể nói hiệu quả kinh tế của du lịch là quan hệ so sánh giữa kết quả
sản xuất kinh doanh du lịch đạt đƣợc với chi phí bỏ ra để đạt đƣợc kết quả đó
[20;17]. Quan điểm này đƣợc vận dụng ở phạm vi một doanh nghiệp du lịch, một
lĩnh vực hoạt động kinh doanh (lữ hành, lƣu trú…), một khu vực, một ngành du
lịch.
1.2.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế của du lịch
Vì hiệu quả kinh tế là một phạm trù kinh tế đặc biệt quan trọng phản ánh yêu
cầu tiết kiệm thời gian, trình độ sử dụng lực lƣợng sản xuất và mức độ hoàn thiện
quan hệ sản xuất trong nền sản xuất xã hội, do đó, có rất nhiều yếu tố tác động đến
hiệu quả kinh tế. Có những yếu tố tác động trực tiếp và cả những yếu tố tác động
gián tiếp. Có thể nêu các nhân tố ảnh hƣởng đến hiệu quả kinh tế của ngành du lịch
nói chung và của doanh nghiệp du lịch nói riêng
1.2.2.1. Các nhân tố khách quan

9
- Điều kiện kinh tế – chính trị – xã hội
Đó là cơ sở hạ tầng của địa phƣơng nơi có hoạt động kinh doanh du lịch (hệ
thống đƣờng sá, sự phát triển mạng lƣới giao thông, thông tin liên lạc…), các chủ
trƣơng chính sách của chính quyền trung ƣơng và địa phƣơng, tình trạng dân trí…
Điều kiện kinh tế xã hội ảnh hƣởng gián tiếp đến hiệu quả kinh tế thông qua nguồn
khách và chính sách giá cả đối với các dịch vụ và hàng hóa.
- Môi trƣờng kinh doanh
Môi trƣờng vĩ mô: bao gồm hệ thống pháp luật, các chủ trƣơng chính sách
của Nhà nƣớc và của các ngành. Các luật lệ, chế độ chính sách kinh tế xã hội nơi
có hoạt động kinh doanh du lịch ảnh hƣởng không ít tới hiệu quả kinh tế của các
doanh nghiệp, nhất là chính sách đối ngoại của Nhà nƣớc có ảnh hƣởng trực tiếp
đến lƣợng khách quốc tế.

Môi trƣờng trực tiếp: là môi trƣờng cạnh tranh giữa các lĩnh vực hoạt động,
giữa các doanh nghiệp trong ngành. Do sự phát triển nhanh chóng của du lịch
trong những năm gần đây, số lƣợng các doanh nghiệp du lịch tăng lên nhanh
chóng, dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt giữa các đơn vị sản xuất kinh doanh du lịch.
- Các nguồn lực sẵn có
Các nguồn lực sẵn có bao gồm tài nguyên du lịch và các nguồn lực khác: vị
trí địa lý, cơ sở hạ tầng…
- Cơ chế quản lý kinh tế
Cơ chế quản lý kinh tế là một yếu tố quan trọng, nó chi phối tác động của các
yếu tố khác tới hiệu quả của cả nền kinh tế nói chung và kinh doanh du lịch nói
riêng.
1.2.2.2. Các nhân tố chủ quan

10
- Cơ sở vật chất kỹ thuật của ngành du lịch: thể hiện về mặt vật chất dùng để
sản xuất kinh doanh. Nó bao gồm tài sản cố định và tài sản lƣu động. Về mặt giá
trị, nó bao gồm vốn cố định và vốn lƣu động.
- Đội ngũ lao động trong hoạt động sản xuất kinh doanh du lịch: đây cũng là
một yếu tố tác động trực tiếp đến kết quả kinh doanh du lịch. Chính vì vậy, ngành
và các đơn vị kinh doanh du lịch phải chú trọng đến công tác đào tạo, không ngừng
nâng cao trình độ của đội ngũ lao động, kể cả cán bộ quản lý và công nhân viên.
- Cơ cấu tổ chức quản lý: cơ cấu tổ chức quản lý phải gọn nhẹ và có hiệu quả,
tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị kinh doanh.
Các nhân tố trên tác động đến hiệu quả kinh tế theo các hƣớng khác nhau
nhƣng chúng có mối liên hệ và tác động qua lại lẫn nhau. Do đó, việc đánh giá một
cách đúng đắn và khai thác triệt để những tác động có lợi là điều kiện hết sức quan
trọng để nâng cao hiệu quả kinh tế.
1.3. Các phương pháp thống kê truyền thống nhằm xác định hiệu quả kinh
tế của ngành du lịch
1.3.1. Trên thế giới

Theo WTO, thống kê du lịch thế giới chủ yếu tập trung vào chi tiêu du lịch
và lƣợng khách du lịch. Chi tiêu du lịch đƣợc xác định là “tổng số tiền đã chi phí
của ngƣời đi tham quan hoặc thay mặt chi cho ngƣời đi tham quan trong suốt hành
trình của chuyến đi và chi tiêu ở nơi đến” [1;25].
Về thống kê khách du lịch quốc tế, hầu hết các nƣớc trên thế giới hiện nay
đều thống kê dựa trên số liệu thống kê về xuất nhập cảnh tại các cửa khẩu biên
giới, hải cảng, bao gồm các cửa khẩu biên giới đƣờng bộ, đƣờng thủy, đƣờng hàng
không. Tuy nhiên đối với một số quốc gia trong các khối liên minh, do quy chế
không phải làm thủ tục xuất nhập cảnh nên phải tiến hành thống kê qua các hãng

11
giao thông vận chuyển hành khách để xác định số lƣợng khách quốc tế đến và du
khách Việt Nam ra nƣớc ngoài.
Đối với khách du lịch nội địa, phƣơng pháp thống kê cơ bản đƣợc nhiều
nƣớc áp dụng bao gồm:
- Điều tra tại nơi khách đến du lịch: tiến hành bằng cách đếm (điều tra toàn
bộ) và điều tra chọn mẫu số khách tham quan tại các điểm du lịch
- Điều tra và đăng ký tại cơ sở lƣu trú: đăng ký cập nhật số lƣợng khách và
thực hiện chế độ báo cáo thống kê định kỳ; tổng điều tra số lƣợng khách; điều tra
chọn mẫu khách nghỉ; điều tra chọn mẫu các đơn vị kinh doanh du lịch.
- Điều tra qua mạng lƣới quản lý giao thông đi lại: điều tra thu thập thông tin
từ các hồ sơ hành chính tại các đầu mối giao thông (bến xe, bến cảng, nhà ga, sân
bay…); điều tra tại một số điểm dọc theo hành trình du lịch; điều tra thu thập thông
tin từ các công ty, tổ chức quản lý hành chính công, viện nghiên cứu du lịch; điều
tra chọn mẫu các cơ sở vận chuyển hành khách.
- Điều tra tại nơi ở của dăn cƣ: điều tra hộ gia đình.
1.3.2. Tại Việt Nam
Thống kê du lịch ở Việt Nam đã đƣợc quan tâm từ những ngày đầu ngành du
lịch mới đƣợc thành lập. Trong các thập kỷ 60, 70, 80 của thế kỷ trƣớc, thống kê
du lịch thƣờng đƣợc thông qua hình thức ban hành chế độ báo cáo định kỳ đối với

các cơ sở kinh doanh du lịch và khách sạn thuộc khu vực kinh tế Nhà nƣớc. Việc
thống kê số lƣợt khách, ngày khách du lịch chủ yếu thông qua số khách nghỉ ở các
cơ sở lƣu trú. Khái niệm về khách du lịch cũng rất hạn hẹp, chỉ dừng lại ở đối
tƣợng đi du lịch thuần túy (tham quan, nghỉ ngơi, vui chơi giải trí) và do đó cũng
làm hạn chế kết quả thống kê. Hiện nay, về phƣơng pháp thống kê, đã kết hợp giữa
việc ban hành chế độ báo cáo định kỳ cho các đơn vị cơ sở và các cấp quản lý
ngành với việc tổ chức các cuộc điều tra chuyên môn định kỳ và không định kỳ. Ở

12
nƣớc ta, thống kê du lịch chủ yếu dựa vào biểu mẫu thống kê quy chuẩn, các chỉ
tiêu báo cáo thống kê và các chỉ tiêu gắn với khách.
1.3.2.1. Biểu mẫu thống kê quy chuẩn
Hiện nay, biểu mẫu thống kê chủ yếu sử dụng hình thức báo cáo, trong đó
phổ biến là các báo cáo thống kê định kỳ. Trong báo cáo thống kê định kỳ lại chia
hai loại chính : báo cáo thống kê hàng tháng và báo cáo thống kê hàng năm.
Đối với các lĩnh vực thống kê ngoài doanh nghiệp nhƣ thống kê lƣợng
khách, ngày khách, thông tin đƣợc tổng hợp dựa trên kết quả báo cáo của các ban
ngành có liên quan (Bộ Quốc Phòng, Bộ Công an ) theo quy định trong Hệ thống
chỉ tiêu Thống kê Nhà nƣớc (National Indicator System_NIS)
3
.
Trên cơ sở số liệu đã thống kê, kết quả báo cáo về hoạt động sẽ đƣợc thành
lập, tuân thủ theo hệ thống chỉ tiêu quy định sẵn, có bổ sung thêm một số chỉ tiêu
đặc trƣng của ngành.
1.3.2.2. Các chỉ tiêu báo cáo thống kê
Trƣớc hết, có thể thấy, hệ thống chỉ tiêu thống kê quốc gia hiện hành quan
tâm đến các chỉ tiêu chính sau:
* Thống kê về lượt khách du lịch:
Khách du lịch quốc tế đến Việt Nam và người Việt Nam ra nước ngoài: Số
liệu về khách quốc tế đến Việt Nam đƣợc thu thập từ các cơ quan quản lý xuất

nhập cảnh. Trƣớc đây, việc thu thập, tổng hợp và công bố số liệu này do cơ quan
quản lý xuất nhập cảnh thuộc Bộ Công an đảm nhiệm. Từ năm 2000, việc thu thập
số liệu về khách quốc tế đến Việt Nam và ngƣời Việt Nam đi du lịch nƣớc ngoài
dựa vào hình thức báo cáo thống kê định kỳ hàng tháng về xuất nhập cảnh Việt
Nam. Chế độ này do Tổng cục Thống kê phối hợp với Tổng cục Du lịch và các cơ

3
Hệ thống chỉ tiêu thống kê là tập hợp những chỉ tiêu thống kê nhằm phản ánh bản chất của lĩnh vực nghiên cứu. Hệ
thống chỉ tiêu thống kê do cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền ban hành [Một số thuật ngữ thống kê thông dụng, mục
3, trang 3, website của Tổng cục Thống kê].

13
quan liên quan nghiên cứu xây dựng và ban hành cho các cơ quan xuất nhập cảnh
theo quyết định số 781/1999/TCTK-QĐ ngày 2/11/1999 của Tổng cục trƣởng
Tổng cục Thống kê. Với chế độ báo cáo này, số liệu đã đƣợc cập nhật thƣờng
xuyên theo tháng, quý, năm về tổng lƣợng khách cũng nhƣ đƣợc phân tích theo các
tiêu chí: mục đích chuyến đi, quốc tịch, thị trƣờng du lịch và phƣơng tiện vận
chuyển.
Khách du lịch trong nước: Lĩnh vực thống kê này lâu nay vẫn chƣa đƣợc
quan tâm đúng mức ở nƣớc ta. Cho đến nay chƣa có một công trình nghiên cứu và
phƣơng pháp cụ thể nào để thống kê số lƣợng khách du lịch trong nƣớc một cách
đầy đủ, có hệ thống và chính xác nhƣ lĩnh vực khách quốc tế, mặc dù số lƣợng này
ngày càng tăng. Việc thống kê lƣợng khách nội địa hiện nay chủ yếu chỉ thực hiện
đƣợc đối với số du khách có nghỉ tại các cơ sở lƣu trú du lịch có đăng ký kinh
doanh, các tổ chức quản lý hành chính công cộng nhƣ: Bảo tàng, các khu di tích
Còn số khách đi trong ngày và số khách nghỉ tại các nhà nghỉ, nhà khách chƣa
đăng ký kinh doanh, các nhà nghỉ nhà khách của các cơ quan, xí nghiệp, nhà nghỉ
cuối tuần, nhà nghỉ thứ hai, nhà nghỉ của ngƣời thân chƣa đƣợc thống kê một
cách đầy đủ và chính xác. Nên chăng ta có thể xem xét và áp dụng các phƣơng
pháp thống kê khách du lịch nôi địa theo kinh nghiệm của các nƣớc mà WTO đã

tổng kết.
* Thống kê về doanh thu của ngành du lịch: dựa trên kết quả tổng hợp của
các cục địa phƣơng kết hợp với các sở du lịch sau khi thu thập phiếu điều tra doanh
nghiệp. Thống kê doanh thu đƣợc đánh giá theo 2 chỉ tiêu cơ bản :
Tổng doanh thu xã hội của du lịch: đƣợc tính trên cơ sở tổng mức chi tiêu
của toàn bộ lƣợng khách du lịch thông qua con số báo cáo của các doanh nghiệp
trong lĩnh vực du lịch, bao gồm cả những khoản thu hộ cho các ngành khác.

14
Doanh thu từng lĩnh vực du lịch: bao gồm doanh thu trong lĩnh vực hoạt
động lữ hành, lĩnh vực hoạt động khách sạn, nhà hàng, lĩnh vực vận chuyển khách
và dịch vụ du lịch khác.
Ngoài ra còn có chỉ tiêu cho ngành kinh doanh dịch vụ lƣu trú, ngành kinh
doanh ăn uống, ngành lữ hành nhƣ sau :
+ Các chỉ tiêu của Ngành kinh doanh dịch vụ lƣu trú gồm một số chỉ tiêu cơ
bản nhƣ: Công suất sử dụng buồng, giƣờng; Thời gian lƣu lại trung bình
+ Các chỉ tiêu đặc trƣng cho ngành kinh doanh ăn uống: nhƣ hệ số sử dụng
chỗ ngồi
+ Các chỉ tiêu đặc trƣng cho kinh doanh lữ hành: gồm số ngày đi tour, chi
tiêu bình quân của một khách đi tour
Phƣơng pháp thống kê về hoạt động du lịch và cơ sở lƣu trú du lịch ở nƣớc
ta thƣờng đƣợc áp dụng theo hai hình thức cơ bản :
- Chế độ báo cáo thống kê định kỳ
Hiện nay vẫn áp dụng chế độ báo cáo thống kê định kỳ đối với các cơ sở
kinh tế là doanh nghiệp hoạt động kinh doanh du lịch và cơ sở lƣu trú. Đồng thời,
có cả chế độ báo cáo tổng hợp ban hành cho các Cục Thống kê, Sở Du lịch và Sở
Thƣơng mại Du lịch. Trên cơ sở các chế độ báo cáo thống kê định kỳ hàng tháng,
hàng quý, hàng năm, các cơ sở kinh doanh sẽ báo cáo cho các Cục Thống kê, Sở
Du lịch, Sở Thƣơng mại Du lịch để tổng hợp báo cáo về Tổng cục Thống kê và
Tổng cục Du lịch.

- Phƣơng pháp điều tra chuyên môn
Trong những năm qua, ở nƣớc ta đã tiến hành một số cuộc điều tra chuyên
đề hoặc kết hợp, lồng ghép về hoạt động du lịch vào các cuộc điều tra khác nhƣ
các cuộc điều tra số cơ sở, số lao động, vốn, tài sản, doanh thu, chi phí lỗ lãi đối
với các doanh nghiệp, các hộ sản xuất kinh doanh cá thể về hoạt động du lịch, kinh

15
doanh lƣu trú du lịch định kỳ 1/3, 1/7 và 1/10 hàng năm, điều tra doanh thu từ hoạt
động du lịch, hoạt động khách sạn nhà hàng hàng tháng, quý, tiến hành một số
cuộc điều tra chuyên đề về chi tiêu của khách quốc tế và khách du lịch trong nƣớc.
Năm 1994, Tổng cục Thống kê đã phối hợp với Tổng cục Du lịch tổ chức một
cuộc điều tra toàn bộ đối với tất cả các cơ sở kinh doanh du lịch và lƣu trú du lịch
thuộc mọi thành phần kinh tế và tiến hành cuộc điều tra chọn mẫu về chi tiêu của
khách quốc tế tại Việt Nam. Năm 1999, Tổng cục Du lịch đã tổ chức cuộc điều tra
về tình hình chi tiêu của khách trong những ngày ở Việt Nam tại một số cửa khẩu
quốc tế. Đặc biệt, năm 2003, Tổng cục Thống kê đã tiến hành cuộc điều tra khách
du lịch qua các cửa khẩu biên giới và điều tra chi tiêu của khách tại các cơ sở lƣu
trú du lịch. Cớ mẫu điều tra chi tiêu tƣơng đối lớn với 23.000 phiếu điều tra dành
cho khách nội địa và 7.000 phiếu đối với khách quốc tế. Nội dung điều tra khá
phong phú và chi tiết. Phiếu điều tra áp dụng đối với khách quốc tế đến Việt Nam
bao gồm các chi tiêu phản ánh tổng số tiền chi tiêu và cơ cấu chi tiêu theo các sản
phẩm và theo từng loại khách (theo phƣơng tiện, mục đích chuyến đi, độ tuổi, nghề
nghiệp, quốc tịch ). Đối với điều tra chi tiêu của khách nội địa cũng thu thập
những thống tin tƣơng tự khách quốc tế. Năm 2005, Tổng cục Thống kê cũng tiến
hành điều tra chi tiêu của khách du lịch với cỡ mẫu 25.500 khách nội địa và 8.500
khách quốc tế. Đây là nền tảng số liệu quan trọng cho phép áp dụng TSA để thống
kê du lịch tại Việt Nam.
Ngoài ra, thống kê ở cấp cơ sở còn có thêm một số chỉ tiêu khác nhƣ : thống
kê ngày khách (số cộng dồn các ngày du lịch của khách du lịch trong kỳ nghiên
cứu), vốn, lao động, nộp ngân sách Các chỉ tiêu này xét về thực chất, cũng chỉ là

các chỉ tiêu tham khảo. Chúng phục vụ thêm cho công tác nghiên cứu hoạt động
kinh tế, củng cố quan điểm xuất khẩu trực tiếp hay bổ sung một phần cho hoạt
động kinh doanh, đầu tƣ

16
Cùng với quá trình phát triển của ngành du lịch, để đáp ứng yêu cầu và
chuẩn thế giới, Tổng cục Thống kê có tổ chức một số đợt điều tra (điều tra toàn bộ
hoặc điều tra chọn mẫu) nhằm xây dựng, bổ sung và giới thiệu thêm các chỉ tiêu
thông dụng khác đƣợc nhiều quốc gia ban hành
Dựa vào các chỉ tiêu trên, cơ quan chuyên trách sẽ tổng hợp thành báo cáo
thống kê. Trong ngành du lịch, báo cáo thống kê cũng chia thành báo cáo thống kê
cấp cơ sở (doanh nghiệp, đơn vị kinh doanh) và báo cáo thống kê tổng hợp (do các
cấp cao hơn nhƣ Phòng Thống kê quận huyện, Cục Thống kê, Sở Du lịch, Tổng
cục Thống kê, Tổng cục Du lịch )
1.3.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động du lịch
Có thể nói các chỉ tiêu thống kê trên chủ yếu phục vụ cho các cấp quản lý
Nhà nƣớc. Còn đối với các tổ chức kinh doanh du lịch thì họ lại quan tâm nhiều
hơn đến tính hiệu quả của hoạt động du lịch. Xét về yêu cầu đánh giá hoạt động du
lịch, các nhà kinh tế hƣớng tới các chỉ tiêu về hiệu quả nhƣ sau :
Các chỉ tiêu gắn với khách: nhƣ chi tiêu ngày khách Hiện nay, các chỉ tiêu
này chƣa đảm bảo độ tin cậy cho các doanh nghiệp và nhà đầu tƣ.
Các chỉ tiêu hiệu quả kinh tế tổng hợp: là chỉ tiêu hiệu quả kinh tế cơ bản
nhất, đo bằng tỷ số giữa tổng thu nhập thuần với tổng chi phí thuần cho du lịch,
trong một khoảng thời gian nhất định. Chỉ tiêu này cho biết một đồng chi phí bỏ ra
sẽ thu đƣợc bao nhiêu đồng thu nhập, thƣờng dùng để đo lƣờng hiệu quả kinh tế
của từng doanh nghiệp, từng loại hoạt động kinh doanh.
Chỉ tiêu doanh lợi: đƣợc tính bằng tỷ lệ phần trăm giữa tổng lợi nhuận thu
đƣợc và tổng chi phí hoặc vốn sản xuất trong một thời kỳ. Chỉ tiêu này giúp so
sánh hiệu quả kinh doanh giữa các doanh nghiệp, hay giữa các ngành kinh tế.


17
Chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn: đƣợc đo bằng tỉ lệ giữa doanh thu và đồng
vốn, chia thành các chỉ tiêu nhƣ hiệu quả sử dụng vốn cố định, hiệu quả sử dụng
vốn lƣu động
Chỉ tiêu hiệu quả lao động (năng suất lao động, hiệu quả sử dụng lao động
của doanh nghiệp).
Đa số các chỉ tiêu trên chỉ đƣợc xem xét ở quy mô doanh nghiệp mà ít đƣợc
chú ý ở quy mô thống kê Nhà nƣớc.
Đối với ngành du lịch, các yếu tố đầu ra có thể đƣợc tính bằng các chỉ tiêu:
doanh thu, lƣợng khách, chi tiêu của du khách… Yếu tố đầu vào đƣợc xác định với
các chỉ tiêu về đầu tƣ, lao động … Ở Việt Nam, do có những khó khăn về kinh phí
cũng nhƣ phƣơng pháp điều tra thống kê nên ngay việc xác định chi tiêu của du
khách cũng chủ yếu sử dụng phƣơng pháp điều tra chọn mẫu, kết quả thống kê về
đầu tƣ tƣ nhân, số lƣợng lao động trong ngành du lịch cũng gặp nhiều khó khăn. Vì
vậy, để xác định hiệu quả kinh tế của du lịch Việt Nam có thể thông qua các chỉ
tiêu gián tiếp nhƣ:
- Tỷ lệ đóng góp của ngành du lịch cho GDP
- Số nhân Keynes: giúp đánh giá ảnh hƣởng lan tỏa của du lịch
1.4. Quan điểm tiếp cận tài khoản vệ tinh du lịch (TSA)
1.4.1. Lịch sử phát triển của hệ thống tài khoản vệ tinh du lịch
Từ sau hội nghị quốc tế về thống kê du lịch ở Ottawa – Canada năm 1991,
bên cạnh việc hoàn thiện các khái niệm, nội dung, phƣơng pháp thống kê, các bảng
phân loại về du lịch có tính chất chuẩn quốc tế thì một hệ thống tài khoản vệ tinh
du lịch đã đƣợc WTO đề xuất và khuyến nghị các quốc gia nghiên cứu, vận dụng.
Tiếp đó, Hội đồng Lữ hành và Du lịch thế giới (WTTC) tiến hành xây dựng TSA
thành một hệ thống phƣơng pháp luận và lƣợng hóa các tác động kinh tế của ngành
du lịch. Phƣơng pháp luận của họ tập trung vào định lƣợng tác động kinh tế của

18
tiêu dùng du khách (ngành du lịch) cũng nhƣ toàn bộ cầu du lịch (đối với kinh tế

du lịch) thông qua các mô hình có tính mô phỏng. Tác động kinh tế của tiêu dùng
du khách chỉ giới hạn trọng phạm vi tác động trực tiếp đối với sản xuất. Trong khi
đó, tổng cầu lại xem xét đến các tác động trực tiếp và gián tiếp có liên quan đến
nguồn vốn đầu tƣ, chi tiêu của chính phủ và ngoại thƣơng, kể cả mức tăng nhu cầu
hàng hóa và dịch vụ tạo ra do sự di chuyển của con ngƣời trên khắp thế giới (du
lịch thế giới). WTTC nghiêng về phƣơng pháp tiếp cận theo hƣớng cầu vì phƣơng
pháp này đƣa ra định nghĩa rất toàn diện về phạm vi và có mối liên hệ chặt chẽ với
các mô hình kinh tế có liên quan đến các khái niệm về nguồn cung. Nghiên cứu
của tổ chức này chủ yếu dựa vào các kỹ thuật mô hình kinh tế.
Tháng 9 năm 1999, ba tháng sau Hội nghị quốc tế về Đo lƣờng các tác động
kinh tế của ngành du lịch tại Enzo Paci do WTO tổ chức, một nhóm làm việc liên
thƣ ký giữa WTO, OECD và EUROSTAT (Cơ quan thống kê của Cộng đồng châu
Âu) đã đƣợc thành lập nhằm xây dựng khung khái niệm chung cho các phƣơng
pháp luận về tài khoản vệ tinh du lịch. Kết quả là ba tổ chức nói trên đã thống nhất
về “Dự thảo tài khoản vệ tinh du lịch – các tài liệu tham khảo về phƣơng pháp
luận”. Ba tổ chức đều nhất trí: họ là những cơ quan chịu trách nhiệm thúc đẩy việc
thực hiện tài khoản vệ tinh du lịch cho các nƣớc thành viên thuộc tổ chức của
mình.
Nhận thức đƣợc tính hữu ích và tầm quan trọng của TSA, nhiều nƣớc trên
thế giới đã tiến hành nghiên cứu, tổ chức thu thập thông tin, xử lý, tính toán và lập
đƣợc hệ thống tài khoản vệ tinh du lịch của nƣớc mình ngay từ những năm giữa
thập kỷ 90 của thế kỷ 20, điển hình là các nƣớc: Canada, Cộng hòa Dominica,
Pháp, New Zealand, Mexico, Chile, Ecuador, Cuba, Ba Lan, Na Uy, Singapore,
Thụy Điển, Mỹ, Australia, Philippinnes, Indonesia vv… Tính đến nay đã có

19
khoảng trên 170 quốc gia đã tiến hành (hoặc đƣợc) tính toán và lập tài khoản vệ
tinh du lịch.
Tại Canada tháng 10/1994, hai cơ quan Du lịch và Thống kê đã phối hợp
đƣa ra tài khoản vệ tinh đầu tiên. Tháng 6/1996, các chỉ tiêu du lịch quốc gia lần

đầu tiên đƣợc xuất bản. Kết quả hệ thống TSA cho biết doanh thu của ngành du
lịch Canada chiếm 2,5% GDP, tỷ lệ thuế thu từ ngành du lịch chiếm 7% so với
thuế các loại hàng hóa khác, lao động trong ngành du lịch chiếm 5% lao động
trong các ngành sản xuất kinh doanh.
Tại Australia, Cục Thống kê (ABS) và Vụ Du lịch của Bộ Công nghiệp Du
lịch và Tài nguyên (ITR) đã tiến hành thu thập thông tin, xử lý, tính toán và biên
soạn đƣợc hệ thống tài khoản vệ tinh du lịch Australia từ năm 1997. Tháng 5/2003,
ABS đã xuất bản ấn phẩm “Tài khoản quốc gia – tài khoản vệ tinh du lịch”. Ấn
phẩm này đã liệt kê 13 bảng số liệu bao gồm các tài khoản vệ tinh du lịch và kèm
theo một số tài khoản kinh tế quốc dân tổng hợp giai đoạn 1997-2002 với mục đích
trực tiếp so sánh, phân tích về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của ngành du lịch
trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Hệ thống tài khoản vệ tinh du lịch ở
Philippinnes (PTSA) gồm 11 biểu, nội dung không hoàn toàn giống với nội dung
trong 10 biểu của WTO. Chu kỳ thống kê TSA ở Philippines là 4 năm 1 lần. Tƣơng
tự nhƣ Philippinnes, Indonesia cũng lập 1 hệ thống TSA gồm 7 biểu, trong đó, các
biểu tiêu dùng cho các loại khách du lịch đã đƣợc gộp lại thành 1 biểu, các biểu
khác cũng đƣợc rút gọn cho phù hợp với điều kiện thực tế của Indonesia.
1.4.2. Nội dung tài khoản vệ tinh du lịch
Tài khoản vệ tinh du lịch (TSA) là một tập hợp các bảng biểu đo lƣờng, tính
toán phản ánh kết quả các mặt hoạt động du lịch trong mối quan hệ qua lại với các
ngành kinh tế quốc dân khác theo cùng một phƣơng pháp tính của tài khoản quốc
gia.

20
Kết cấu hệ thống tài khoản vệ tinh du lịch của WTO đƣợc trình bày thành
các bảng biểu thống kê với nhiều phân tổ theo nhiều tiêu thức khác nhau. Các bảng
biểu TSA cho phép đánh giá sự ảnh hƣởng tác động qua lại giữa ngành du lịch đối
với nền kinh tế quốc dân nói chung và cho phép phân tích đƣợc kết cấu và những
biến động của du lịch.
Những nội dung chủ yếu trong hệ thống TSA thƣờng đƣợc ngƣời sử dụng

quan tâm nhiều nhất là:
- Giá trị tăng thêm của ngành du lịch trong các ngành kinh tế quốc dân và sự
phụ thuộc của các ngành kinh tế quốc dân với du lịch
- Lao động trong ngành du lịch và GDP của ngành du lịch
- Quy mô tiêu dùng của khách du lịch và cơ cấu chi tiêu du lịch của khách du
lịch quốc tế cũng nhƣ nội địa
- Vốn đầu tƣ cho hoạt động du lịch
- Tiêu dùng chung, xúc tiến, đầu tƣ du lịch vv…
Tổ chức du lịch thế giới còn nhấn mạnh vai trò rất quan trọng của hệ thống
tài khoản vệ tinh du lịch (TSA). Nhờ TSA có thể:
- Đánh giá đƣợc hiệu quả kinh doanh du lịch của từng nƣớc, cho biết đƣợc số
lƣợng khách đến và khách đi cũng nhƣ đặc điểm của từng loại khách.
- Đánh giá mối quan hệ giữa các chỉ tiêu về lƣợng với các chỉ tiêu giá trị của
du lịch nhƣ số lƣợt khách, ngày khách, tỉ lệ sử dụng buồng, giƣờng…với các chỉ
tiêu doanh thu từ các cơ sở du lịch.
- Đƣa ra những đánh giá quan trọng về cán cân thanh toán quốc tế của một
nƣớc. Điều đó xuất phát từ chỗ: ngành du lịch nhiều nƣớc đã đƣợc coi nhƣ là giải
pháp rất quan trọng để cân đối các vấn đề thanh toán quốc tế.
- Đối với nhiều nƣớc, khách du lịch từ các nƣớc khác đến hầu hết đều thông
qua các cơ sở kinh doanh lữ hành. Vì vậy, để xác định đƣợc mức chi tiêu của du

21
khách, đặc biệt là xác định cơ cấu chi tiêu, không thể điều tra trực tiếp từ du khách.
Bởi vì gần nhƣ toàn bộ tổng số tiền trong chuyến đi của du khách đã nộp cho các
cơ sở kinh doanh lữ hành để các cơ sở này chi hộ, họ chỉ có thể biết đƣợc tổng số
tiền đã nộp cho tour, còn cơ cấu chi tiêu nhƣ thế nào thì không thể biết chính xác
đƣợc. Thông qua TSA ta lại có thể xử lý đƣợc cơ cấu chi tiêu này của du khách.
Mặt khác, TSA còn có thể giúp cải thiện chất lƣợng số liệu ƣớc lƣợng về chi tiêu
của du khách.
- Mỗi tài khoản vệ tinh du lịch trong hệ thống TSA đều cung cấp một khái

niệm cơ bản về mối quan hệ kinh tế giữa ngành du lịch với các ngành kinh tế khác.
Các tài khoản này đƣợc gọi là vệ tinh vì chúng đƣợc xem nhƣ công cụ giúp cho
ngƣời sử dụng thông tin có thể hiểu đầy đủ về du lịch và chức năng của nó nằm
trong khuôn khổ hệ thống tài khoản quốc gia. Trong đó, nhiều tài khoản có thể
cung cấp những thông tin riêng để đáp ứng nhu cầu nghiên cứu về các quan hệ
kinh tế, làm căn cứ xây dựng các chiến lƣợc, chính sách phát triển kinh tế xã hội.
Chẳng hạn, TSA cho biết các thông tin quan trọng nhƣ: tỷ trọng GDP du lịch trong
tổng sản phẩm trong nƣớc (GDP), lao động và việc làm trong ngành du lịch, tỷ
trọngdoanh thu từ khách du lịch nƣớc ngoài so với tổng giá trị xuất khẩu, tỷ lệ đầu
tƣ cho du lịch, vai trò của du lịch đối với phát triển kinh tế vùng.
- Cung cấp số liệu cụ thể về chi tiêu du lịch và nhu cầu của du lịch đối với
hoạt động kinh tế trong nƣớc và đƣợc thể hiện ở tài khoản “cung” và tài khoản
“cầu”.
- Cung cấp số liệu cụ thể về các sản phẩm đặc trƣng cho du lịch nhƣ lao động,
vốn cố định trong ngành du lịch.
- Cung cấp các số liệu tổng hợp vĩ mô nhƣ giá trị xuất, giá trị tăng thêm, GDP
của ngành du lịch nhằm so sánh ngành du lịch với các ngành kinh tế khác.

22
- Cung cấp thông tin đánh giá sự phát triển của du lịch đối với sự phát triển
kinh tế vùng địa phƣơng và toàn nền kinh tế quốc dân.
- TSA sẽ tiêu chuẩn hóa đƣợc các khái niệm và bảng phân loại để so sánh
đƣợc giữa các nƣớc và giữa các vùng, địa phƣơng với nhau.
Hệ thống tài khoản vệ tinh du lịch của Tổ chức du lịch thế giới hiện nay bao
gồm 10 bảng biểu có nguồn gốc từ hệ thống tài khoản quốc gia và liên quan đến
việc cung cấp và sử dụng các loại hàng hóa và dịch vụ.
Thông tin đƣợc sử dụng trong TSA gồm 2 mảng chính: thông tin về sản xuất
và thông tin về tiêu dùng. Hệ thống 10 bảng biểu tài khoản vệ tinh du lịch của Tổ
chức du lịch thế giới (WTO) hiện hành nhƣ sau:
Bảng 1. Tiêu dùng của khách quốc tế đến

Bảng 2. Tiêu dùng của khách du lịch trong nƣớc
Bảng 3. Tiêu dùng du lịch của khách trong nƣớc ra nƣớc ngoài
Bảng 4. Tiêu dùng cuối cùng của du lịch trong nƣớc (tổng hợp từ biểu 1&2)
Bảng 5. Giá trị sản xuất của ngành du lịch và các ngành khác
Bảng 6. Cung ứng và tiêu thụ nội địa theo sản phẩm
Bảng7. Lao động và việc làm trong ngành du lịch
Bảng 8. Tổng nguồn vốn cố định về du lịch
Bảng 9. Tiêu dùng du lịch chung chia theo chức năng và cấp quản lý nhà
nƣớc.
Bảng 10. Một số chỉ tiêu thống kê phi tiền tệ
1.5. Mô hình khảo sát du khách
Để đánh giá hiệu quả kinh tế của hoạt động du lịch, phƣơng pháp khảo sát
du khách sử dụng 3 yếu tố cơ bản:
- Số lƣợng và loại du khách
- Chi tiêu trung bình cho mỗi khách

23
- Hệ số nhân vùng
Các công thức tính toán:

T Lxc

I = T x hệ số nhân vùng
Trong đó:
T: tiêu dùng của du khách
L: số lƣợng du khách
c
: chi tiêu trung bình của 1 khách. Chi tiêu này có thể tính toán bằng các
nghiên cứu khách thông qua chọn mẫu tại 1 điểm đến hay khảo sát hộ gia đình về
chuyến đi gần đây của họ. Chi tiêu này thay đổi theo các chuyến đi nên khi tiến

hành tính toán ta cần phân đoạn thị trƣờng khách hay phân chia khách thành các
thành phần/ loại khách khác nhau.
I: Tác động kinh tế. I có thể đƣợc tính toán về các phƣơng diện: chi tiêu,
mua bán, thu nhập, giá trị gia tăng, thu nhập từ thuế, việc làm…
Hệ số nhân vùng: đƣợc sử dụng nhằm chuyển chi tiêu thành thu nhập và
nghề nghiệp cũng nhƣ để đánh giá các tác động thứ cấp từ việc tiêu dùng du lịch.
Có nhiều loại hệ số nhân vùng khác nhau: Hệ số nhân Keynes loại 1, 2, 3…; các hệ
số nhân về mua bán, thu nhập, việc làm; các hệ số nhân tổng và thành phần.
Hệ số nhân Keynes đƣợc xác định trong các trƣờng hợp :
- Đối với nền kinh tế đóng và không có sự can thiệp của chính phủ :
Y=

I G X
1 MPC
    


Trong đó : Y là khoản thu nhập quốc dân tăng thêm
I là đầu tƣ trong năm dành cho lĩnh vực du lịch
G là chi tiêu của chính phủ dành cho lĩnh vực du lịch

24
X là chi tiêu của khách quốc tế
MPC là khuynh hƣớng tiêu dùng cận biên
(MPC =
Y
C


, với Y là thu nhập tăng thêm sau thuế, C là chi tiêu từ thu

nhập tăng thêm sau thuế)
Gọi k
1
là số nhân Keynes đối với đầu tƣ trong nền kinh tế đóng và không có
sự can thiệp của chính phủ, ta có :
k
1
=
MPC1
1

- Đối với nền kinh tế mở và có sự can thiệp của chính phủ:
Y =
MPZtMPC
XGI


)1(1

Trong đó : t là mức thuế cận biên
MPZ là khuynh hƣớng tiêu dùng biên hàng nhập ngoại
(Z=MPZ x Y, trong đó Z là nhập khẩu)
Gọi k
2
là số nhân Keynes đối với đầu tƣ, chi tiêu của chính phủ và xuất khẩu
đối với nền kinh tế mở và có sự can thiệp của chính phủ, ta có :
k
2
=
MPZtMPC  )1(1

1


*Tiểu kết chương 1

Du lịch là một nhu cầu đặc biệt và tổng hợp của con ngƣời. Nhu cầu này
đƣợc hình thành và phát triển trên nền tảng của cả nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh
thần. Có thể phân chia nhu cầu du lịch thành các nhu cầu bộ phận nhƣ : nhu cầu
vận chuyển, đi lại; nhu cầu lƣu trú và ăn uống, nhu cầu cảm thụ cái đẹp, giải trí và
các nhu cầu khác. Tƣơng ứng với mỗi loại nhu cầu, cần thiết có các hoạt động dịch

×