Tải bản đầy đủ (.pdf) (115 trang)

Phát triển du lịch Hồ Núi Cốc – Thái Nguyên theo hướng bền vững

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.78 MB, 115 trang )




đại học quốc gia hà nội
Tr-ờng đại học khoa học xã hội và nhân văn



trịnh thủy anh


phát triển du lịch hồ núi cốc - thái nguyên
theo h-ớng bền vững


Chuyên ngành : du lịch
(ch-ơng trình đào tạo thí điểm)

Luận văn thạc sĩ du lịch

Ng-ời h-ớng dẫn khoa học:
TS. Phạm Lê Thảo

hà nội - 2013

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan rằng luận văn này là sản phẩm nghiên cứu của Tôi. Số
liệu trong luận văn được điều tra trung thực. Tôi xin chịu trách nhiệm về việc
nghiên cứu của mình.
Học viên thực hiện




Trịnh Thủy Anh


Lời cảm ơn
Với tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc, tác giả luận văn xin
trân trọng cảm ơn:
Khoa Du lịch - Tr-ờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, cùng
các Thầy, Cô giáo tham gia giảng dạy, cung cấp những kiến thức cơ bản, sâu
sắc và giúp đỡ tác giả trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Đặc biệt xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến TS. Phạm Lê Thảo, ng-ời
trực tiếp h-ớng dẫn, đã tận tâm chỉ dẫn cho tác giả về kiến thức cũng nh- ph-ơng
pháp luận trong suốt thời gian nghiên cứu để hoàn thành luận văn này.
Xin cảm ơn bạn bè, đồng nghiệp cùng gia đình đã luôn giúp đỡ, động
viên tôi trong suốt quá trình học tập.
Mặc dù đã có nhiều cố gắng, song chắc chắn luận văn không thể tránh
khỏi những thiếu sót. Tác giả kính mong nhận đ-ợc những ý kiến đóng góp quý
báu của các thày giáo, cô giáo và bạn bè đồng nghiệp để luận văn đ-ợc hoàn
thiện hơn.
Hà Nội, tháng 11 năm 2013
Tác giả luận văn

Trịnh Thủy Anh


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

AECID
Spanish Agency for International Development Cooperate

Cơ quan Hợp tác Phát triển Quốc tế Tây Ban Nha
BVMT
Bảo vệ môi trường
CBCNV
Cán bộ công nhân viên
CSLTDL
Cơ sở lưu trú du lịch
DLBV
Du l ịch bền vững
FDI
Foreign Direct Investment
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
IUCN
International Union for Conservation of Nature and Natural
Resources
Liên minh quốc tế bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên
UBND
Uỷ ban nhân dân
UNCED
United Nations Conference on Environment and Development
Hội nghị liên hợp quốc tế về môi trường và phát triển
UNEP
United nations environment programme
Chương trình môi trường liên hợp quốc
VHTT&DL
Văn hóa, Thể Thao và Du Lịch

WCED
Wourld council Environmonet and Developmemt
Tổ chức thế giới về phát triển và môi trường

WTTC
The world travel and tourism council
Hội đồng lữ hành du lịch thế giới
WTO
World tourism organization
Tổ chức du lịch thế giới




DANH MỤC CÁC BẢNG TRONG LUẬN VĂN

Bảng 2.1. Doanh thu du lịch toàn tỉnh từ 2008 – 2012 35
Bảng 2.2: Số lượng cơ sở kinh doanh lưu trú tại tỉnh từ 2008 - 2012 37
Bảng 2.3: Số lượng khách du lịch đến Thái Nguyên giai đoạn 2008 – 2012 38
Bảng 2.4. Lượng khách du lịch đến khu du lịch Hồ Núi Cốc từ 2008 – 2012 51
Bảng 2.5. Doanh thu hoạt động du lịch tại khu du lịch Hồ Núi Cốc 52
Bảng 2.6. Số lượng và trình độ nguồn nhân lực du lịch tại Hồ Núi Cốc 56
Bảng 2.7. Cơ cấu lao động theo giới tính tại khu du lịch Hồ Núi Cốc 58





MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Mục đích, nhiệm vụ và giới hạn nghiên cứu 2
3. Đối tượng nghiên cứu 3

4. Những quan điểm và phương pháp nghiên cứu 3
5. Những đóng góp chủ yếu của luận văn 5
6. Lịch sử nghiên cứu 5
7. Bố cục của luận văn 6
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH VÀ PHÁT TRIỂN
DU LỊCH BỀN VỮNG 8
1.1. Khái niệm về du lịch 8
1.1.1. Tài nguyên du lịch 9
1.1.2. Khách du lịch 11
1.1.3. Khu du lịch 112
1.1.4. Điểm du lịch 13
1.1.5. Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch 13
1.1.6. Cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch 13
1.1.7. Lao động trong du lịch 14
1.1.8. Doanh thu du lịch 15
1.1.9. Đầu tư trong du lịch 15
1.1.10. Quảng bá xúc tiến du lịch 17
1.2. Phát triển du lịch bền vững 17
1.2.1. Khái niệm về phát triển du lịch bền vững 17
1.2.2. Những nguyên tắc đảm bảo phát triển du lịch bền vững 20
1.2.3.Các tiêu chí phát triển du lịch bền vững 25
Tiểu kết chương 1 33
CHƢƠNG 2: TIỀM NĂNG VÀ THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DU LỊCH
HỒ NÚI CỐC - THÁI NGUYÊN 34
2.1.Tổng quan về du lịch Thái Nguyên 34
2.1.1. Giao thông 34

2.1.2. Kinh tế-xã hội 34
2.1.3. Doanh thu du lịch 35
2.1.4. Đầu tư cho du lịch 36

2.1.5. Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch 37
2.1.6. Khách du lịch 38
2.1.7. Nguồn nhân lực 39
2.2. Tiềm năng du lịch Hồ Núi Cốc 40
2.2.1. Vị trí địa lý 40
2.2.2. Tài nguyên du lịch tự nhiên 41
2.2.3. Tài nguyên du lịch nhân văn 43
2.3. Hiện trạng phát triển du lịch Hồ Núi Cốc 47
2.3.1. Sản phẩm du lịch 48
2.3.2. Khách du lịch 50
2.3.3. Doanh thu tại khu du lịch Hồ Núi Cốc 52
2.3.4. Đầu tư cho du lịch 53
2.3.5. Cơ sở vật chất – kĩ thuật du lịch 55
2.3.6. Nguồn nhân lực 55
2.3.7. Công tác quản lý hoạt động du lich tại khu du lịch Hồ Núi Cốc 57
2.3.8. BVMT tại khu vực tham quan 62
2.3.9. Vấn đề môi trường 70
Tiểu kết chương 2 72
CHƢƠNG 3. ĐỊNH HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH HỒ NÚI
CỐC TỈNH THÁI NGUYÊN THEO HƢỚNG BỀN VỮNG 73
3.1. Định hướng phát triển thị trường và sản phẩm du lịch 73
3.1.1. Thị trường du lịch 73
3.1.2. Sản phẩm du lịch 75
3.2. Định hướng tuyên truyền quảng bá du lịch 77
3.2.1. Xây dựng hình ảnh của điểm đến 77
3.2.2. Chiến lược tuyên truyền quảng bá du lịch 78
3.3. Định hướng đào tạo nhân lực và giáo dục cộng đồng 79
3.3.1. Đào tạo nguồn nhân lực 79
3.3.2. Tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức về du lịch cho cộng đồng dân cư 80



3.4. Định hướng phát triển du lịch Hồ Núi Cốc theo hướng bền vững 81
3.4.1. Quan điểm phát triển du lịch 81
3.4.2. Mục tiêu phát triển ngành du lịch 82
3.4.3. Định hướng phát triển du lịch Hồ Núi Cốc theo hướng bền vững 83
3.5. Đề xuất các giải pháp 84
3.5.1. Giải pháp về nâng cao nhận thức xã hội về du lịch 84
3.5.2. Giải pháp về quản lý phát triển khu du lịch 86
3.5.3. Giải pháp về chính sách phát triển du lịch 87
3.5.4. Giải pháp về quảng bá và tiếp thị 91
3.5.4. Giải pháp về phát triển nguồn nhân lực 91
3.5.6. Giải pháp về tài chính92
KẾT LUẬN 94
TÀI LIU THAM KHẢO 97
PHỤ LỤC



1
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong xu hướng toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra mạnh mẽ, du lịch
đang phát triển không ngừng. Hiện nay du lịch chiếm khoảng 10% hoạt động kinh tế thế
giới và là một trong những nguồn tạo công ăn việc làm chính. Tuy nhiên du lịch cũng có
tác động lên môi trường tự nhiên và nhân tạo, sức khỏe và văn hóa của dân cư sở tại.
Khái niệm phát triển bền vững đã được chấp nhận rộng rãi như là một con đường để tiến
tới một tương lai tốt đẹp hơn. Đối với Việt Nam, du lịch không chỉ tạo ra nguồn thu rất
lớn cho nền kinh tế quốc dân mà còn góp phần đưa bạn bè quốc tế đến với nước ta, tạo
ra mối quan hệ toàn cầu về kinh tế, văn hoá và thúc đẩy việc quảng bá sâu rộng hình ảnh

Việt Nam đến các quốc gia trên thế giới.
Để phát triển du lịch bền vững cần phải có sự thay đổi chiến lược, phương pháp
quản lý trong phát triển du lịch. Trong quá trình phát triển, chúng ta cần phải thấy
được vai trò của các đối tượng, các thành phần tham gia vào quá trình phát triển du
lịch của toàn ngành. Xác định được vai trò, vị trí và mối quan hệ giữa các đối tượng
các thành phần với nhau, với quá trình phát triển của du lịch có nghĩa là cần phải hiểu
được làm thế nào để trong quá trình phát triển du lịch chúng ta không làm tổn hại đến
các yếu tố trong du lịch như tài nguyên nhân văn và tài nguyên thiên nhiên. Du lịch là
một ngành có quan hệ qua lại với các ngành khác, là phương tiên để giao lưu, trao đổi
thông tin, thông qua du lịch con người có tìm hiểu, khám phá thế giới. Chính vì vậy,
để du lịch có thể phát triển bền vững chúng ta cần có chính sách, có kế hoạch phát
triển cụ thể sao cho sự phát triển của du lịch không làm tổn hại đến tự nhiên và văn
hoá xã hội, sự phát triển của du lịch phải song song với sự phát triển của các thành
phần kinh tế khác trong xã hội, trong quan hệ tương hỗ hai bên cùng có lợi, sự phát
triển của du lịch cũng phải đem lại lợi ích cho người dân và đặc biệt là cư dân bản địa,
nơi có các nguồn tài nguyên du lịch.
Cùng với sự phát triển và định hướng chung của du lịch quốc gia, du lịch Hồ
Núi Cốc - Thái Nguyên cũng đang có những bước khởi sắc. Với đặc điểm địa lí của
một vùng đất trung du miền núi phía đông bắc nước ta, nằm cách thủ đô Hà Nội
2
khoảng 80km, Hồ Núi Cốc được nhiều du khách trong và ngoài nước biết đến như
một điểm du lịch hấp dẫn với cảnh quan sông nước, vùng chè đặc sản Tân Cương,
với các phong tục tập quán phong phú của các dân tộc sinh sống ở đây. Tuy
nhiên, khu du lịch này phát triển chưa tương xứng với tiềm năng, hoạt động du
lịch mang lại hiệu quả thấp, môi trường tự nhiên đang bị xuống cấp, bản sắc văn hóa
của các dân tộc phần nào bị mai một. Đó là vấn đề bức xúc đang đặt ra cho ngành du
lịch Thái Nguyên nói chung và khu du lịch Hồ Núi Cốc nói riêng. Đề tài “Phát triển
du lịch Hồ Núi Cốc- Thái Nguyên theo hướng bền vững ” được đưa vào thực hiện
với mong muốn trả lời được các câu hỏi mà thực tiễn đang đặt ra.
2. Mục đích, nhiệm vụ và giới hạn nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu
Vận dụng những kiến thức đã được học về phát triển du lịch và phát triển du
lịch bền vững để phân tích thực trạng và đề xuất các giải pháp nhằm mục tiêu phát
triển du lịch một cách bền vững ở khu du lịch Hồ Núi Cốc.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tổng quan những vấn đề lý luận và thực tiễn về phát triển du lịch và phát
triển du lịch bền vững để vận dụng vào đề tài;
- Thu thập và hệ thống hóa các thông tin về khu du lịch Hồ Núi Cốc;
- Khảo sát, đánh giá tài nguyên du lịch và thực trạng hoạt động kinh doanh du
lịch và việc khai thác các tiềm năng cho phát triển du lịch khu du lịch Hồ Núi Cốc trên
quan điểm phát triển bền vững;
- Đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm phát triển du lịch khu du lịch Hồ Núi
Cốc theo hướng bền vững.
2.3. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung:
Đề tài tập trung đánh giá tiềm năng, phân tích thực trạng du lịch tại khu du lịch
Hồ Núi Cốc tỉnh Thái Nguyên và đề xuất một số giải pháp phát triển du lịch theo
hướng bền vững.
Về không gian:
Đề tài nghiên cứu trong phạm vi khu du lịch Hồ Núi Cốc tỉnh Thái Nguyên.
3
Bao gồm 9 xã và 1 thị trấn thuộc thành phố Thái Nguyên và 2 huyện Đại Từ và
Phổ Yên.
Về thời gian:
Đề tài nghiên cứu chủ yếu giai đoạn 2008 đến 2012 giải pháp phát triển đến
năm 2015 tầm nhìn 2020.
3. Đối tƣợng nghiên cứu
- Tài nguyên du lịch tự nhiên như rừng, núi, hồ.
- Tài nguyên du lịch nhân văn như phong tục tập quán, lễ hội, ẩm thực, sản
phẩm thủ công mỹ nghệ, di tích lịch sử văn hoá.

- Hệ thống cơ sở hạ tầng xã hội, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch.
- Nguồn nhân lực du lịch.
- Khách du lịch đến Thái Nguyên và khu du lịch Hồ Núi Cốc.
4. Những quan điểm và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Những quan điểm nghiên cứu
4.1.1. Quan điểm hệ thống tổng hợp
Nghiên cứu du lịch không thể tách rời hệ thống kinh tế - xã hội của địa phương
và cả nước. Quan điểm hệ thống giúp chúng ta có cái nhìn tổng thể, khái quát của
toàn bộ hệ thống du lịch trong khi vẫn bao quát được hoạt động của mỗi phân hệ
trong hệ thống đó. Du lịch Hồ Núi Cốc cần được nghiên cứu trong mối quan hệ
tương hỗ: kinh tế - xã hội - môi trường không chỉ riêng Hồ Núi Cốc mà của cả tỉnh
Thái Nguyên. Quan điểm này được áp dụng trong suốt quá trình thực hiện luận văn.
4.1.2. Quan điểm lịch sử, viễn cảnh
Mọi sự vật, hiện tượng đều có quá trình phát sinh, vận động và biến đổi. Quá
trình ấy có thể bắt đầu từ trong quá khứ, hiện tại vẫn tiếp diễn và kéo dài đến tương
lai. Đứng trên quan điểm lịch sử, phân tích nguồn gốc phát sinh, đánh giá đúng đắn
hiện tại sẽ là cơ sở để đưa ra các dự báo xác thực về xu hướng phát triển trong thời
gian sắp tới. Quan điểm này được vận dụng trong khi phân tích các giai đoạn chủ
yếu của quá trình phát triển du lịch ở khu vực.
4.1.3. Quan điểm lãnh thổ
Lãnh thổ du lịch được tổ chức như là một hệ thống liên kết không gian của các
4
đối tượng du lịch trên cơ sở các nguồn tài nguyên và dịch vụ cho du lịch. Việc nghiên
cứu sự phát triển du lịch của khu du lịch Hồ Núi Cốc- Thái Nguyên và của vùng trung
du miền núi phía Bắc. Quá trình phát triển du lịch của khu du lịch Hồ Núi Cốc là một
phần trong quá trình phát triển du lịch của tỉnh Thái Nguyên và của cả nước.
4.1.4. Quan điểm sinh thái
Phát triển du lịch phải gắn liền với bảo vệ môi trường sinh thái. Quan điểm
sinh thái cho thấy sự cần thiết phải bảo vệ tính toàn vẹn của hệ sinh thái, đánh giá
tác động của du lịch đến môi trường và khả năng chịu đựng của môi trường trước sự

phát triển của kinh tế nói chung, du lịch nói riêng.
4.1.5. Quan điểm du lịch bền vững
Mục tiêu của du lịch bền vững là bảo vệ tài nguyên và môi trường, tăng cường
bảo tồn và chia sẻ lợi ích cho cộng đồng, đảm bảo sự phát triển kinh tế một cách bền
vững. Kết hợp hài hoà nhu cầu của hiện tại và tương lai trên cả hai góc độ sản xuất
và tiêu dùng du lịch nhằm đạt đến sự cân bằng giữa các yếu tố kinh tế, xã hội và môi
trường. Luận văn quán triệt quan điểm này trong suốt quá trình đánh giá tiềm năng,
phân tích hiện trạng và đề xuất giải pháp.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
4.2.1. Phương pháp thu thập, xử lí số liệu,tài liệu
Phương pháp này thực hiện nhằm nghiên cứu, sử lý các tài liệu trong phòng dựa
trên cơ sở dữ liệu, tư liệu, tài liệu từ các nguồn khác nhau và từ thực tế. sau đó sử lý chúng
để có được những kết luận cần thiết. tư liệu có thể là các công trình nghiên cứu trước đó,
các bài viết, các báo cáo kinh doanh, báo cáo tổng kết … Phương pháp này giúp tiết kiệm
thời gian, tiền bạc mà vẫn có được tầm nhìn khái quát về vấn đề nghiên cứu.
Số liệu thống kê là một dạng tài liệu cần thiết trong quá trình thu thập tài liệu.
Các bảng biểu với những số liệu tương đối cũng như tuyệt đối chính là nguồn tài liệu
nói lên thực trạng hoạt động cũng như phát triển của đối tượng. Số liệu phục vụ cho
nghiên cứu đề tài được lấy từ các nguồn: Tổng cục Thống kê, Cục Thống kê Thái
Nguyên, Sở VH_TT&DL tỉnh Thái Nguyên….
4.2.2. Phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh
Thông tin, số liệu sau khi thu thập sẽ được so sánh, phân tích, tổng hợp cho
phù hợp với mục đích của từng phần. Quá trình tổng hợp sẽ có được cái nhìn bao quát
5
về khu du lịch Hồ Núi Cốc. Qua phân tích, các thông tin được chắt lọc với độ tin
cậy và mang lại hiệu quả cao nhất.
4.2.3. Phương pháp thực địa
Đây là phương pháp không thể thiếu nhằm góp phần làm cho kết quả mang
tính xác thực, khắc phục hiệu quả của những hạn chế của phương pháp thu thập, xử lý
số liệu trong phòng. Các hoạt động chính khi tiến hành phương pháp này bao gồm:

quan sát, mô tả, điều tra, ghi chép chụp ảnh tại điểm nghiên cứu: gặp gỡ trao đổi với
các cơ quan quản lý tài nguyên, các cơ quan quản lý chuyên nghành của địa phương.
4.2.4. Phương pháp khai thác phần mềm hệ thống thông tin
Các thông tin, số liệu và dự báo trong luận văn được xử lý bởi phần mềm MS
Word, Excel để thể hiện các phân tích, đánh giá, so sánh và xu hướng du lịch của du
lịch Hồ Núi Cốc - Thái Nguyên.
4.2.5. Phương pháp thống kê
Sau khi thu thập thông tin, số liệu, tiến hành thống kê, sắp xếp chúng lại cho phù
hợp với cấu trúc của đề tài, trình tự thời gian và lập ra các bảng biểu về quá trình phát
triển kinh tế - xã hội của khu vực Hồ Núi Cốc cũng như ngành du lịch tỉnh Thái Nguyên.
5. Những đóng góp chủ yếu của luận văn
- Đúc kết và xây dựng được cơ sở lý luận và thực tiễn của đề tài.
- Kiểm kê toàn diện tiềm năng du lịch của khu vực Hồ Núi Cốc-Thái Nguyên
- Đánh giá thực trạng phát triển du lịch Hồ Núi Cốc -Thái Nguyên giai đoạn
2008-2012 và đề xuất một số giải pháp phát triển DLBV du lịch Hồ Núi Cốc trong giai
đoạn tới.
6. Lịch sử nghiên cứu
Trên thế giới: Nhiều nước trên thế giới đã tiến hành nghiên cứu về vấn đề phát
triển du lịch bền vững từ những năm 80, đặc biệt là các quốc gia sớm có định hướng
xác định du lịch là một ngành kinh tế mũi nhọn. Các nghiên cứu này được tiến hành
theo hai hướng:
- Nghiên cứu một cách tổng thể những vấn đề đặt ra liên quan đến phát triển du
lịch bền vững trên quy mô quốc gia rồi sau đó tiến tới xây dựng các mô hình điểm về
du lịch bền vững như ở Australia, Mỹ, Malaysia [42].
6
- Dựa trên việc xây dựng các mô hình điểm về phát triển du lịch bền vững để
rút kinh nghiệm xây dựng các chính sách triển khai trên toàn quốc như ở Nepal,
Ecuado, Senegal [42].
Ở Việt Nam: : trước năm 2000, do nhiều điều kiện khách quan và chủ quan,
nghiên cứu về phát triển du lịch bền vững mới chỉ hạn chế ở một số công trình có

liên quan như nghiên cứu cơ sở cho phát triển DLST [7],[23], đánh giá tác động
của hoạt động du lịch đến tài nguyên môi trường [21], [23]. Từ năm 2000, đứng
trước những vấn đề thực tiễn đặt ra trong quá trình phát triển, ngành du lịch Việt
Nam đã tiến hành nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn cho phát triển du lịch
bền vững ở Việt Nam, trong đó, đề tài khoa học độc lập cấp nhà nước “Cơ sở khoa
học và giải pháp phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam” (2000-2001) là công trình
có giá trị cao về lý luận và thực tiễn cho phát triển du lịch bền vững.
Tại Thái Nguyên đã có một số công trình nghiên cứu về du lịch như : “Quy hoạch
phát triển du lịch Thái Nguyên điều chỉnh bổ xung đến năm 2010, định hướng đến năm
2015 và tầm nhìn chiến lược đến năm 2020” (2006) do Sở Thương mại và Du lịch Thái
Nguyên chủ trì ; “Đề án phát triển du lịch Thái Nguyên giai đoạn 2009-2015” (2009).
Kế thừa kết quả của các nghiên cứu trên, nhiều dự án quy hoạch phát triển
du lịch các khu, điểm du lịch thời gian gần đây đã được thực hiện có xét đến các
yếu tố về PTBV như các dự án quy hoạch phát triển khu du lịch Mộc Châu, quy
hoạch phát triển khu du lịch Phú Quốc Đề tài "Phát triển du lịch Hồ Núi Cốc-
Thái Nguyên theo hướng bền vững" là đề tài đầu tiên kế thừa các kết quả nghiên
cứu trên, áp dụng vào địa bàn Hồ Núi Cốc, tỉnh Thái Nguyên. Kết quả nghiên cứu
của đề tài sẽ có những đóng góp đối với việc phát triển du lịch khu vực Hồ Núi Cốc
nói riêng, tỉnh Thái Nguyên nói chung một cách bền vững.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
chính của luận văn được trình bày qua 3 chương:

7
Chương 1. Cơ sở lý luận về du lịch và phát triển du lịch bền vững.
Chương 2. Tiềm năng và thực trạng phát triển du lịch Hồ Núi Cốc tỉnh Thái
Nguyên.
Chương 3. Định hướng và giải pháp phát triển du lịch Hồ Núi Cốc-Thái
Nguyên theo hướng bền vững.


8

CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN
DU LỊCH VÀ PHÁT TRIỂN DU LỊCH BỀN VỮNG

1.1. Khái niệm về du lịch
Ở mỗi thời đại, quan niệm về du lịch có sự thay đổi bắt đầu ngay từ thời kì đồ
đá, khi mà con người phải “đi” vì lí do sinh tồn trước cái đói và sự sợ hãi.
Đến thời kì cường thịnh của đế quốc La Mã, các chuyến du ngoạn bằng ngựa
đã mang mục đích tiêu khiển của tầng lớp thống trị. Khi tàu hoả ra đời vào thế kỉ
XIX, nó tạo động lực cho du lịch phát triển hơn. Rồi lần lượt đến tàu thuỷ, ô tô,
máy bay, chúng ngày càng làm cho du lịch gắn bó mật thiết với con người[30].
Năm 1925, Hiệp hội quốc tế các tổ chức du lịch được thành lập tại Hà Lan,
đánh dấu bước ngoặt trong việc thay đổi, phát triển các khái niệm về du lịch. Đầu
tiên, du lịch được hiểu là việc đi lại của từng cá nhân hoặc một nhóm người rời
khỏi chỗ ở của mình trong khoảng thời gian ngắn đến các vùng xung quanh để nghỉ
ngơi, giải trí hay chữa bệnh[29].
Năm 1985, I.I.Pirogionic đưa ra khái niệm: “Du lịch là một dạng hoạt động của
dân cư trong thời gian rỗi liên quan tới sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi
cư trú thường xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần,
nâng cao trình độ nhận thức – văn hoá hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ những giá
trị về tự nhiên, kinh tế và văn hoá” [30].
Ở Việt Nam, theo luật du lịch ban hành từ tháng 6 thăm 2005 và có hiệu lực từ
ngày 1 tháng 1 năm 2006: “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con
người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm
hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong khoảng thời gian nhất định”. WTO định nghĩa: “Du lịch
theo nghĩa hành động được định nghĩa là một hoạt động di chuyển vì mục đích giải trí,
tiêu khiển và tổ chức các dịch vụ xung quanh hoạt động này. Người đi du lịch là người
đi ra khỏi nơi mình cư trú một quãng đường tối thiểu là 80 km trong khoảng thời gian
hơn 24 giờ với mục đích giải trí tiêu khiển” [10].

Còn nhiều quan niệm khác nữa về du lịch nhưng luận văn này, sử dụng định nghĩa
về du lịch do Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam ban hành trong luật Du lịch năm 2005.
9
1.1.1.Tài nguyên du lịch
’’Tài nguyên du lịch là cảnh quan thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử - văn
hoá, công trình lao động sáng tạo của con người và các giá trị nhân văn khác có thể
được sử dụng nhằm đáp ứng nhu cầu du lịch; là yếu tố cơ bản để hình thành các KDL,
điểm du lịch, tuyến du lịch, đô thị du lịch”[11].
Tài nguyên du lịch được chia ra làm hai loại là tài nguyên du lịch tự nhiên và tài
nguyên du lịch nhân văn.
+ Tài nguyên du lịch tự nhiên.
Tài nguyên du lịch tự nhiên là các đối tượng, hiện tượng trong môi trường tự
nhiên xung quanh chúng ta được sử dụng vào việc phục vụ cho mục đích du lịch.[11]
Các thành phần của tự nhiên với tư cách là tài nguyên du lịch là địa hình, khí
hậu, nguồn nước và sinh vật.
- Địa hình là một thành phần quan trọng của tự nhiên, nơi diễn ra mọi hoạt động
của con người. Đối với hoạt động du lịch, các dạng địa hình là yếu tố nền tạo phong
cảnh ; một số kiểu địa hình đặc biệt (hang động, bãi biển ) và các di tích tự nhiên gắn
với các truyền thuyết có giá trị để phát triển nhiều loại hình du lịch hấp dẫn.
- Khí hậu là thành phần cơ bản của tự nhiên đã sớm được khai thác như một
dạng tài nguyên du lịch quan trọng phục vụ du lịch nghỉ dưỡng. Các điều kiện khí hậu
như nhiệt độ, bức xạ, gió đã được khai thác để phục vụ cho các mục đích du lịch
khác nhau.
- Nguồn nước: bao gồm nguồn nước biển ven bờ, các thuỷ vực, các nguồn nước
khoáng v.v là một dạng tài nguyên du lịch quan trọng. Nhiều loại hình du lịch được phát
triển trên cơ sở khai thác tài nguyên nước có sức hấp dẫn rất cao đối với khách du lịch.
- Sinh vật: thảm thực vật cùng địa hình có giá trị tạo nên phong cảnh hấp dẫn và
sống động hơn. Đối với một số loại hình du lịch như DLST, tham quan, nghiên cứu
khoa học, tài nguyên sinh vật, trước hết là giá trị đa dạng sinh học, có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng.

Các dạng tài nguyên du lịch luôn có quan hệ chặt chẽ với nhau, bổ sung và hỗ
trợ cho nhau và cùng được khai thác để tạo nên các sản phẩm du lịch hoàn chỉnh, có
10
tính tổng hợp cao. Vì thế, các tài nguyên du lịch tự nhiên luôn được xem xét dưới góc
độ tổng hợp tại mỗi một đơn vị lãnh thổ trong thời gian xác định.
Ngoài các tài nguyên du lịch tự nhiên cơ bản trên, một số hiện tượng thiên
nhiên đặc biệt như sự xuất hiện của sao chổi, hiện tượng nhật thực, núi lửa hoạt động,
hiện tượng cực quang hoặc mưa sao v.v cũng được xem là những tài nguyên du lịch
giá trị, có sức hấp dẫn lớn đối với khách du lịch.
Trong phân loại tài nguyên du lịch tự nhiên, tuỳ thuộc vào mục đích sử dụng,
tài nguyên du lịch tự nhiên có thể phân chia thành nhiều loại khác nhau theo các tiêu
chí khác nhau. Căn cứ vào khả năng tái tạo của tài nguyên, tài nguyên du lịch tự nhiên
có thể được phân chia thành: tài nguyên tái tạo được và tài nguyên không tái tạo được.
Tài nguyên tái tạo được là những tài nguyên dựa vào nguồn năng lượng được
cung cấp hầu như là liên tục và vô tận từ vũ trụ vào trái đất, dựa vào qui luật thiên
nhiên đã hình thành để tiếp tục tồn tại, phát triển và chỉ mất đi khi không còn nguồn
năng lượng và thông tin. Tài nguyên tái tạo được là những tài nguyên có thể tự duy trì
hoặc tự bổ sung một cách liên tục nếu được khai thác và quản lý tốt. Năng lượng mặt
trời, năng lượng nước, gió, tài nguyên sinh học là những tài nguyên tái tạo được[14].
Tài nguyên không tái tạo được tồn tại một cách hữu hạn, chúng sẽ bị mất đi
hoặc hoàn toàn bị biến đổi, không còn giữ được tính chất ban đầu sau quá trình sử
dụng. Các loại khoáng sản, nhiên liệu khoáng, các thông tin di truyền bị mai một
không giữ lại được cho đời sau là tài nguyên không tái tạo được. Về lý thuyết thì với
thời gian hàng trăm triệu năm các tài nguyên này cũng có khả năng được tái tạo lại
một cách tự nhiên, nhưng xét một cách thực tế theo yêu cầu của đời sống con người
hiện nay thì các tài nguyên này phải được xem là không tái tạo được.
Việc xác định tài nguyên du lịch tái tạo và không tái tạo sẽ là cơ sở quan trọng
cho việc xây dựng chiến lược/kế hoạch sử dụng tài nguyên du lịch một cách có hiệu
quả, góp phần đảm bảo phát triển du lịch bền vững.
+ Tài nguyên du lịch nhân văn

Tài nguyên du lịch nhân văn là các đối tượng, hiện tượng do con người tạo ra
trong suốt quá trình phát triển và có giá trị phục vụ cho nhu cầu du lịch. Tài nguyên du
lịch nhân văn có giá trị nhận thức nhiều hơn giá trị giải trí, ít bị phụ thuộc vào các điều
11
kiện tự nhiên, thường tập trung ở các khu vực quần cư và thu hút du khách có mức thu
nhập, có trình độ văn hoá cũng như yêu cầu nhận thức cao hơn.
Tài nguyên du lịch nhân văn bao gồm các loại DTLS, lễ hội, các đối tượng du lịch
gắn với dân tộc học, các đối tượng văn hoá, thể thao và các hoạt động nhận thức khác.
DTLSVH là những không gian vật chất cụ thể, khách quan, trong đó chứa đựng
các giá trị điển hình về lịch sử, văn hoá do con người sáng tạo ra trong lịch sử. Nhìn
chung, các DTLSVH dựa trên tính chất, đặc điểm hình thành, giá trị có thể được chia
thành các nhóm di tích văn hoá khảo cổ, di tích lịch sử, di tích văn hoá nghệ thuật và
các loại danh lam thắng cảnh
Lễ hội là loại hình sinh hoạt văn hoá tổng hợp hết sức đa dạng và phong phú,
một kiểu sinh hoạt tập thể của nhân dân sau thời gian lao động mệt nhọc, hoặc một dịp
để con người hướng về một sự kiện lịch sử trọng đại: ngưỡng mộ tổ tiên, ôn lại truyền
thống, hoặc là để thể hiện những khao khát, ước mơ mà cuộc sống thực tại chưa giải
quyết được.
Các đối tượng du lịch gắn với dân tộc học có ý nghĩa đối với du lịch là các tập
tục lạ về cư trú, về tổ chức xã hội, về thói quen ăn uống, sinh hoạt, về kiến trúc cổ, các
nét truyền thống đặc thù trong quy hoạch cư trú và xây dựng, trang phục dân tộc
Các đối tượng văn hoá - thể thao và các hoạt động nhận thức có ý nghĩa đối với
du lịch bao gồm các trung tâm khoa học đào tạo nổi tiếng, các thư viện lớn có giá trị
khu vực và quốc tế, các bảo tàng, các triển lãm nghệ thuật, triển lãm các thành tựu
kinh tế, hội chợ, các trung tâm liên hoan âm nhạc, sân khấu, điện ảnh, các cuộc thi đấu
thể thao quốc tế, các cuộc thi sắc đẹp, thời trang
1.1.2. Khách du lịch
Khách du lịch là những người đi ra khỏi môi trường sống thường xuyên của
mình để đến một nơi khác trong thời gian ít hơn 12 tháng liên tục, với mục đích chính
của chuyến đi là tham quan, nghỉ ngơi, vui chơi giải trí hay các mục đích khác ngoài

việc tiến hành các hoạt động để đem lại thu nhập và kiếm sống ở nơi đến. Khái niệm
khách du lịch này được áp dụng cho cả khách du lịch quốc tế, khách du lịch trong nước
và áp dụng cho cả khách du lịch trong ngày và đi du lịch dài ngày có nghỉ qua đêm.
12
Khách du lịch quốc tế: được hiểu là những người đi ra khỏi môi trường sống
thường xuyên của một nước đang thường trú đến một nước khác trong thời gian ít hơn
12 tháng với mục đích của chuyến đi không phải để tiến hành các hoạt động nhằm thu
được thù lao ở nơi đến.
Khách du lịch trong nước: là những người đi ra khỏi môi trường sống thường
xuyên của mình ở trong nước với thời gian liên tục ít hơn 12 tháng cùng các mục đích
của chuyến đi không phải để tiến hành các công việc nhằm thu được thù lao ở nơi đến.
Nhìn chung, quan niệm về khách du lịch ít nhiều có những điểm khác nhau,
nhưng chúng đều đề cập đến:
- Động cơ khởi hành (có thể là đi tham quan, nghỉ dưỡng, thăm người thân,
kết hợp kinh doanh…trừ động cơ lao động kiếm tiền).
- Yếu tố thời gian (đặc biệt chú ý tới sự phân biệt giữa khách tham quan trong
ngày và khác du lịch là những người nghỉ qua đêm hoặc có dụng một tối trọ).
Ở nước ta, theo Luật Du lịch Việt Nam (năm 2005), tại điều 4, chương I thì
“Khách du lịch là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm
việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến” [10].
Tại điều 34, chương V qui định: “Khách du lịch gồm khách du lịch nội địa và
khách du lịch quốc tế.
Khách du lịch nội địa là công dân Việt Nam, người nước ngoài thường trú tại
Việt Nam đi du lịch trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
Khách du lịch quốc tế là người nước ngoài, người Việt Nam định cư ở nước
ngoài vào Việt Nam du lịch; công dân Việt Nam, người nước ngoài thường trú ở Việt
Nam ra nước ngoài du lịch” [10].
1.1.3. Khu du lịch
Là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn với ưu thế về tài nguyên du lịch tự nhiên,
được quy hoạch, đầu tư phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của khách du lịch,

đem lại hiệu quả về kinh tế - xã hội và môi trường.


13
1.1.4. Điểm du lịch
Là những nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, phục vụ nhu cầu tham quan của
khách du lịch.
1.1.5. Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch
Cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch gồm các tiện nghi lưu trú, ăn uống, các tiện nghi thể
thao vui chơi giải trí, phương tiện vận chuyển và các tiện nghi phục vụ du lịch khác. Do
vậy mà cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch là một trong những thành phần quan trọng nhất của
sản phẩm du lịch, là tiêu chí cho sự lựa chọn của du khách, là yếu tố tạo nên sự độc đáo
khác biệt của sản phẩm du lịch, tạo dựng hình ảnh riêng cho một điểm du lịch.
1.1.6. Cơ sở hạ tầng phục vụ du lịch
Giao thông: Đối với sự phát triển KT-XH nói chung và du lịch nói riêng, mạng
lưới giao thông và phương tiện giao thông luôn được coi là những yếu tố quan trọng
hàng đầu vì nó có vai trò đẩy mạnh hoạt động du lịch. Du lịch luôn gắn với sự di
chuyển của con người từ nơi này đến nơi khác, vì vậy nó phụ thuộc nhiều vào mạng
lưới và phương tiện giao thông.
Mỗi loại hình giao thông đều có những đặc điểm riêng biệt và ảnh hưởng trực
tiếp tới hành vi tiêu dùng trong du lịch của khách. Hơn nữa, sự thuận tiện về mạng lưới
giao thông còn cho phép khai thác các nguồn tài nguyên du lịch. Chỉ có thông qua
mạng lưới giao thông thuận tiện, nhanh chóng thì du lịch mới trở thành hiện tượng phổ
biến trong xã hội. Giao thông là một bộ phận của kết cấu hạ tầng kinh tế, nhưng cũng
có các phương tiện được sản xuất phục vụ chủ yếu cho nhu cầu du lịch (tầu thuỷ, máy
bay chuyên dụng, cáp treo, máng trượt).
Thông tin liên lạc là một phần quan trọng trong CSHT của hoạt động du lịch, là
điều kiện cần thiết để đảm bảo giao lưu cho du khách trong nước và quốc tế. Chính sự
thuận lợi của các mạng lưới giao thông và phương tiện giao thông góp phần vào việc
thực hiện các mối giao lưu giữa các vùng, các nước. Không những thế, sự thuận tiện

của mạng lưới thông tin liên lạc còn giúp cho việc giao dịch trong kinh doanh du lịch
được thông suốt, nhanh chóng trên phạm vi toàn cầu, khiến cho hoạt động du lịch trở
nên phổ biến hơn, hiệu quả cao hơn.
14
Hệ thống cấp điện và cấp thoát nước đóng vai trò quan trọng trong việc đáp
ứng các nhu cầu thiết yếu của khách. Ngoài ra, các sản phẩm của chúng phục vụ trực
tiếp cho việc nghỉ ngơi giải trí của khách. Xã hội càng phát triển, các phương tiện phục
vụ cuộc sống càng hiện đại thì nhu cầu về điện càng lớn. Hoạt động du lịch, một hoạt
động của con người mang tính hưởng thụ, nghỉ ngơi, giải trí, để tái sản xuất sức lao
động thì nhu cầu về điện là rất lớn và hiển nhiên, kể cả đối với những loại hình du lịch
ít đòi hỏi tiện nghi nhất như DLST.
Hệ thống cấp và thoát nước: Nhu cầu về nước sạch của khách du lịch trong các
chuyến đi là rất lớn. Hơn thế nữa, các điểm du lịch thường lại ở xa các khu đô thị lớn
nên đòi hỏi phải có hệ thống cấp nước sạch với mạng lưới đường ống phát triển mới
đủ đáp ứng nhu cầu của khách. Bên cạnh đó, hoạt động du lịch cũng thải ra môi trường
một lượng nước thải khá lớn với những hoá chất có hại cho môi trường. Điều này có
thể dẫn đến suy thoái môi trường ở tại và xung quanh các điểm du lịch, làm hỏng môi
trường và cảnh quan của KDL và làm ảnh hưởng đến môi trường sống của dân cư địa
phương. Một hệ thống thoát nước hợp lý với các trạm xử lý nước thải đúng công suất
là giải pháp gần như duy nhất cho vấn đề này.
Như vậy có thể nói, kết cấu hạ tầng hoàn hảo chính là đòn bẩy cho các hoạt
động kinh tế, trong đó có hoạt động du lịch và là điều kiện quan trọng cho PTBV KT-
XH nói chung và du lịch nói riêng[14].
1.1.7. Lao động trong du lịch
Trong hoạt động du lịch, chất lượng đội ngũ lao động luôn là yếu tố quan trọng
có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển. Điều này càng trở nên cấp thiết trong bối
cảnh canh tranh gay gắt của hoạt động du lịch. Chất lượng đội ngũ lao động là nhân tố
quan trọng trong việc quyết định chất lượng sản phẩm du lịch, chất lượng dịch vụ và
kết quả cuối cùng là ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh, đến sự tăng trưởng du lịch
đứng từ góc độ kinh tế. Như vậy, chất lượng cao của đội ngũ lao động không chỉ là

yếu tố thu hút khách, nâng cao uy tín, hình ảnh du lịch điểm đến mà còn là yếu tố quan
trọng trong cạnh tranh thu hút khách, đảm bảo sự phát triển du lịch bền vững và được
coi là một trong những dấu hiệu quan trọng để nhận biết sự PTBV của du lịch.

15
1.1.8. Doanh thu du lịch
Cũng như các ngành kinh tế khác, sự phát triển của du lịch được đánh giá thông
qua sự gia tăng về doanh thu, về giá trị đóng góp cho nền kinh tế quốc dân. Với quan
điểm phát triển thông thường, sự gia tăng các giá trị này sẽ là dấu hiệu về sự phát triển.
Tuy nhiên, trên quan điểm PTBV thì ngoài sự gia tăng các chỉ số này cần xem xét
nhiều yếu tố khác như: giá trị gia tăng đều qua các năm, ảnh hưởng của sự phát triển
ngành đến sự phát triển của các ngành kinh tế khác và đến xã hội.
Mặc dù không phải là yếu tố duy nhất quyết định nhưng sự tăng trưởng về GDP
vẫn là dấu hiệu đầu tiên và quan trọng nhất để nhận biết sự phát triển của một ngành
kinh tế nói chung và du lịch nói riêng.
Tỷ lệ GDP du lịch trong cơ cấu GDP của địa phương (M) được xác định thông
qua công thức sau:
T
GDP

M = x 100%
N
GDP

Trong đó: - T
GDP
= GDP du lịch
- N
GDP
= Tổng GDP của nền kinh tế


Tỷ lệ M phản ánh tình trạng phát triển thực tế của ngành du lịch trong nền kinh
tế quốc dân. Giá trị M càng cao và tăng theo thời gian thì ngành du lịch càng phát triển
gần với mục tiêu PTBV.
Bên cạnh đó, dấu hiệu để đánh giá mức độ bền vững của hoạt động du lịch
có thể được xem xét thông qua mức độ đóng góp vào ngân sách Nhà nước của
ngành du lịch.
1.1.9. Đầu tư trong du lịch
Đối với bất kỳ ngành kinh tế nào, đầu tư luôn là đòn bẩy thúc đẩy sự tăng trưởng
của ngành kinh tế đó. Các nguồn vốn đầu tư tồn tại dưới hai dạng là các nguồn vốn huy
động và các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nếu như các nguồn vốn đầu tư trong
nước, đặc biệt là các nguồn vốn huy động trong xã hội để phát triển các doanh nghiệp tư
nhân vừa và nhỏ, có tác dụng làm phong phú thêm các loại hình dịch vụ và tạo công ăn
16
việc làm, tránh rủi ro, thì các nguồn vốn đầu tư nước ngoài lại có vai trò như đòn bẩy,
thúc đẩy sự phát triển của ngành du lịch nói riêng và nền kinh tế nói chung.
Trong một khoảng thời gian nghiên cứu xác định (có thể là 5 năm, 10 năm)
mức độ biến đổi của các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào du lịch sẽ cho thấy
những nhận định cơ bản về tương lai phát triển của ngành. Trong đó tỷ số “K” sẽ là
dấu hiệu nhận biết về tính bền vững của ngành du lịch đứng ở góc độ đảm bảo vốn đầu
tư cho phát triển.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào du lịch
K =
Tổng lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào nền kinh tế
Phát triển kinh tế trong nền kinh tế thị trường đòi hỏi có sự thích nghi nhanh đối
với những thay đổi bởi nhiều yếu tố khách quan và chủ quan để hạn chế được những
rủi ro. Điều này có thể thực hiện được nhờ việc phát triển hệ thống các doanh nghiệp
vừa và nhỏ. Với tư cách là một ngành kinh tế, hoạt động phát triển du lịch cần quan
tâm đến vấn đề này để đảm bảo sự PTBV đứng ở góc độ kinh tế. Điều này càng có ý
nghĩa đối với những quốc gia đang phát triển, nơi năng lực quản lý ở quy mô quốc gia

còn nhiều hạn chế. Đầu tư mang tính địa phương sẽ hạn chế được tỷ lệ “rò rỉ” lợi
nhuận du lịch. Ngoài ý nghĩa về mặt kinh tế, việc phát triển hệ thống doanh nghiệp
vừa và nhỏ còn có ý nghĩa về xã hội, tạo điều kiện để một bộ phận lớn người lao động
địa phương có việc làm. Bên cạnh đó, đây còn là môi trường thu hút được nguồn lực to
lớn của xã hội cho phát triển du lịch, phù hợp với tính chất xã hội hóa cao của du lịch,
đảm bảo sự PTBV.
Ngoài việc xem xét đến nguồn và giá trị vốn đầu tư, trên quan điểm phát triển
bền vững, đối tượng đầu tư (CSHT, cơ sở vật chất phục vụ du lịch, tôn tạo tài nguyên,
bảo vệ môi trường, đào tạo nguồn nhân lực) cũng là yếu tố quan trọng cần được đánh
giá và xem xét như một dấu hiệu quan trọng của phát triển bền vững. Việc xem xét,
đánh giá dấu hiệu này có thể thông qua các chỉ tiêu về tỷ lệ vốn đầu tư cho tôn tạo tài
nguyên, bảo vệ môi trường trong một dự án hoặc tỷ lệ các khu, điểm du lịch của một
17
địa phương được đầu tư tôn tạo, bảo vệ. Khu vực nào, quốc gia nào càng có nhiều các
khu, điểm du lịch được đầu tư bảo vệ, tôn tạo chứng tỏ hoạt động phát triển du lịch ở
khu vực, quốc gia đó càng gắn với mục tiêu PTBV. Theo WTO, nếu tỷ số này vượt
quá 50% thì hoạt động du lịch được xem là trong trạng thái PTBV.
Thêm vào đó, trong việc đầu tư, ngoài nguồn đầu tư từ Nhà nước hỗ trợ phát
triển CSHT, nguồn đầu tư quan trọng là từ thu nhập du lịch. Nguồn đầu tư này càng
lớn càng chứng tỏ được ý thức của ngành du lịch đối với tầm quan trọng của PTBV.
Chính vì vậy, quy mô đầu tư bảo tồn, tôn tạo tài nguyên, môi trường du lịch từ thu
nhập du lịch (tỷ lệ tái đầu tư) sẽ được xem là dấu hiệu nhận biết quan trọng của phát
triển du lịch bền vững từ góc độ đảm bảo bền vững của tài nguyên, môi trường. Không
những vậy, tỷ lệ doanh thu mà ngành du lịch trích lại cho cơ quan chủ quản các nguồn
tài nguyên du lịch để tái đầu tư càng cao chứng tỏ khả năng phối hợp liên ngành tốt.
1.1.10. Quảng bá xúc tiến du lịch
Hoạt động tiếp thị, quảng bá là một công cụ rất quan trọng và cần thiết trong
kinh doanh nói chung và kinh doanh du lịch nói riêng. Với đặc tính là sản phẩm vô
hình, sản phẩm du lịch càng cần phải có sự hỗ trợ của tiếp thị, quảng bá để tạo được
hình ảnh về mình

1.2. Phát triển du lịch bền vững
1.2.1. Khái niệm về phát triển du lịch bền vững
Năm 1980, IUCN cho rằng “phát triển bền vững” phải cân nhắc đến hiện
tượng khai thác đến các nguồn tài nguyên tái tạo và không tái tạo, đến các điều kiện
thuận lợi cũng như khó khăn trong việc tổ chức các kế hoạch hành động ngắn hạn và
dài hạn đan xen nhau [29].
Đến năm 1987, Uỷ ban môi trường và phát triển thế giới WCED do bà
GroHarlem Brundtland thành lập đã công bố thuật ngữ “phát triển bền vững” trong
báo cáo “tương lai của chúng ta” như sau: “Phát triển bền vững được hiểu là sự phát
triển có thể đáp ứng được những nhu cầu hiện tại mà không ảnh hưởng, tổn hại đến
những khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau” [30].

×