Tải bản đầy đủ (.pdf) (160 trang)

Nghiên cứu phát triển du lịch tại Thành nhà Hồ, Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.97 MB, 160 trang )

Đại học quốc gia hà nội
TRNG I HC KHOA HC X HI V NHN VN


đào Thanh xuân

~150 trang, màu xB16,6 quyen


Nghiên cứu phát triển du lịch tại
thành nhà hồ, thanh hóa




Chuyên ngành: Du lịch
(
Chng trỡnh o to thớ im
)



luận văn thạc sĩ du lịch

NGI HNG DN KHOA HC: PGS.TS NGUYN PHM HNG





Hà Nội, 2014



1

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 6
1. Lý do chọn đề tài 6
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu 7
3. Mục đích và nội dung nghiên cứu 10
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 11
5. Phương pháp nghiên cứu 11
6. Bố cục luận văn 11
7. Đóng góp của luận văn 12
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐIỂM DU LỊCH VÀ SỨC HẤP DẪN CỦA
ĐIỂM DU LỊCH DI TÍCH LỊCH SỬ, KIẾN TRÚC NGHỆ THUẬT VÀ KHẢO
CỔ 13
1.1. Điểm du lịch 13
1.1.1. Những quan niệm về điểm du lịch 13
1.1.2. Các yếu tố cấu thành điểm du lịch 16
1.1.3. Quan niệm về tính hấp dẫn của điểm du lịch 17
1.1.4. Các tiêu chí xác định điểm du lịch hấp dẫn 18
1.1.4.1. Các yếu tố chủ quan (Các yếu tố tạo nên khả năng hấp dẫn của điểm du lịch) 19
1.1.4.2. Các yếu tố khách quan (Các tiêu chí định lượng và định tính) 19
1.1.5. Vai trò của điểm du lịch 20
1.2. Phân loại điểm du lịch 21
1.2.1. Phân loại điểm du lịch theo vị trí địa lý 21
1.2.2. Phân loại điểm du lịch theo tài nguyên du lịch 22
1.3. Điểm du lịch di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật và khảo cổ 24
1.3.1. Các quan niệm về du lịch di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật và khảo cổ 24
1.3.2. Đặc điểm của du lịch di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật và khảo cổ 27

1.3.3. Các nguyên tắc trong phát triển du lịch di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật và
khảo cổ 28
1.4. Những bài học kinh nghiệm 30

2

1.4.1. Kinh nghiệm của Nhật Bản về bảo tồn di sản và du lịch 30
1.4.2. Bài học về phát triển du lịch tại quần thể di tích Angkor, Campuchia 32
1.4.3. Kinh nghiệm bảo tồn và phát triển du lịch tại Thánh địa Mỹ Sơn 35
Chương 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TẠI THÀNH NHÀ HỒ 39
2.1. Giới thiệu chung về Thành nhà Hồ 39
2.1.1. Vị trí địa lý, cảnh quan, môi trường 39
2.1.2. Lịch sử hình thành của Thành nhà Hồ 41
2.1.3. Những giá trị văn hóa tiêu biểu của Thành nhà Hồ 46
2.2. Hoạt động du lịch tại Thành nhà Hồ 50
2.2.1. Thị trường và khách du lịch tại Thành nhà Hồ 50
2.2.2. Sản phẩm du lịch tại Thành nhà Hồ 52
2.2.2.1. Du lịch tham quan di tích, danh thắng 52
2.2.2.2. Du lịch lễ hội tại Thành nhà Hồ 61
2.2.2.3. Du lịch nông nghiệp, nông thôn vùng phụ cận Thành nhà Hồ 64
2.2.2.4. Du lịch ẩm thực xứ Thanh tại Thành nhà Hồ 67
2.2.2.5. Đồ lưu niệm du lịch tại Thành nhà Hồ 69
2.2.2.6. Các tuyến du lịch tại di sản Thành nhà Hồ 69
2.2.3. Cơ sở vật chất, kỹ thuật du lịch tại Thành nhà Hồ 71
2.2.3.1. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ lưu trú 71
2.2.3.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ ăn uống 72
2.2.3.3. Cơ sở vật chất phục vụ vui chơi, giải trí 73
2.2.3.4. Cơ sở vật chất – kỹ thuật phục vụ vận chuyển du lịch 74
2.2.3.5. Cơ sở vật chất- kỹ thuật dịch vụ bổ sung 77
2.2.4. Đội ngũ nhân lực trong du lịch tại Thành nhà Hồ 78

2.2.5. Công tác tổ chức, quản lý, quy hoạch du lịch tại Thành nhà Hồ 83
2.2.5.1. Về công tác tổ chức, quản lý 83
2.2.5.2. Quy hoạch phát triển du lịch tại Thành nhà Hồ 85
2.2.6. Công tác tuyên truyền, quảng bá du lịch tại Thành nhà Hồ 87
2.2.7. Thực trạng bảo tồn di sản văn hóa tại Thành nhà Hồ 92

3

2.2.7.1.Thuận lợi trong công tác bảo tồn 92
2.2.7.2. Khó khăn trong công tác bảo tồn 92
2.2.7.3. Thực trạng bảo tồn di sản Thành nhà Hồ 93
2.2.8. Đánh giá hoạt động du lịch tại Thành nhà Hồ 96
2.2.8.1. Đánh giá về hiện trạng hoạt động du lịch thông qua phiếu điều tra khách du
lịch tại Thành nhà Hồ 96
2.2.8.2. Những hạn chế, yếu kém trong thực trạng hoạt động du lịch 99
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DU LỊCH 102
TẠI THÀNH NHÀ HỒ 102
3.1. Những căn cứ đề xuất giải pháp 102
3.1.1. Chủ trương, chính sách, chiến lược phát triển du lịch của tỉnh Thanh Hóa 102
3.1.1.1. Chủ trương, chính sách phát triển 102
3.1.1.2. Chiến lược phát triển 103
3.1.2. Quy hoạch phát triển du lịch Thành nhà Hồ 109
3.2. Những giải pháp cụ thể 112
3.2.1. Giải pháp về tổ chức, quản lý, quy hoạch 112
3.2.2. Giải pháp về phát triển cơ sở vật chất, kỹ thuật 113
3.2.3. Giải pháp về phát triển nhân lực 115
3.2.3.1. Các giải pháp về nguồn nhân lực và đạo tạo đối với đội ngũ cán bộ công nhân
viên tại TTBTDS Thành nhà Hồ 116
3.2.3.2. Các giải pháp về nguồn nhân lực du lịch địa phương 117
3.2.4. Giải pháp về sản phẩm du lịch 117

3.2.5. Giải pháp về thị trường và khách du lịch 119
3.2.6 Giải pháp về tuyên truyền, quảng bá du lịch 120
3.2.7. Giải pháp về bảo tồn văn hóa trong du lịch 121
3.2.7.1. Đề xuất các giải pháp bảo tồn cho các di sản đề cử 122
3.2.7.2. Đề xuất các giải pháp bảo tồn cho vùng đệm 125
KẾT LUẬN 129
TÀI LIỆU THAM KHẢO 131

4

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


DSVH Di sản Văn hóa
DSVHTG Di sản Văn hóa Thế giới
GS Giáo sư
QL Quốc lộ
Tr Trang
TS Tiến sĩ
Tp Thành phố
TTBTDS Trung tâm bảo tồn di sản
UBND Ủy ban nhân dân
UNESCO United Nations Educational Scientific and Cultural Organization
Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục Liên hiệp quốc
VHTT&DL Văn hóa Thể thao và Du lịch

5

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Hình 1.1: Mô hình các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của du khách. 20

Hình 2.1: Sơ đồ tổ chức hành chính TTBTDS Thành nhà Hồ 80
Bảng 2.1: Số lượng khách tới thăm Thành nhà Hồ giai đoạn 2009- 2012 50
Bảng 2.2: Số lượng khách tới thăm Thành nhà Hồ năm 2011 51
Bảng 2.3: Số lượng khách tới thăm Thành nhà Hồ năm 2012 51
Bảng 2.4: Danh sách khách sạn đã được thẩm định trên địa bàn tỉnh Thanh
Hóa năm 2013 71

6

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Di sản thế giới là những di tích vĩ đại, lâu đời và có sức hấp dẫn. Xét trong
phạm vi quốc gia, chúng đóng vai trò là biểu tượng ảnh hưởng không ngừng đến giá
trị hiện tại. Nói cách khác, những di tích ấy thực sự là kho báu của đất nước. Vì vậy
công tác quản lý nhằm duy trì và bảo tồn phải được tiến hành song song với nhiệm
vụ giới thiệu, quảng bá cho cộng đồng.
Du lịch tìm hiểu các giá trị văn hóa là loại hình được nhiều du khách ưa thích
trong các loại hình du lịch ở bất kỳ quốc gia nào. Những năm qua, du lịch tham
quan tìm hiểu di tích, di sản văn hóa nói chung và các DSVHTG nói riêng phát triển
rất nhanh ở Việt Nam, góp phần nâng cao nhận thức và thúc đẩy sự phát triển của
ngành du lịch nước ta.
Trong một cuộc khảo sát mới đây của Tổng cục Du lịch, hơn 70% khách quốc
tế đến Việt Nam với lý do để khám phá những nét độc đáo của bản sắc dân tộc Việt
Nam thông qua những chuyến tham quan thực tế tại các di sản, đặc biệt là các di sản
thế giới. Điều đó đã khẳng định vai trò của các di sản đối với sự phát triển của
ngành du lịch. Như vậy có thể khẳng định, không có giá trị văn hóa thì ngành kinh
doanh du lịch của quốc gia không thể có tiềm năng phát triển.
Bởi vậy, các di sản thế giới sau khi được công nhận của Việt Nam luôn được
đánh giá cao và được định hướng khai thác để phát triển trở thành các khu, điểm du
lịch có ý nghĩa quốc gia và quốc tế, làm động lực cho sự phát triển du lịch của cả

nước.
Những năm qua du lịch Thanh Hóa không ngừng tăng trưởng dựa trên khai
thác những tài nguyên du lịch đặc sắc như du lịch biển, du lịch văn hóa, sinh thái,
ẩm thực, làng nghề với các địa danh như Sầm Sơn, Lam Kinh, Bến En, Hàm
Rồng, Cẩm Lương, Pù Luông và không thể không kể đến Thành nhà Hồ -
DSVHTG. Theo số liệu thống kê của Sở VHTT&DL Thanh Hóa chỉ có khoảng 300
khách du lịch mỗi ngày tại Thành nhà Hồ cho thấy di sản này chưa thực sự hấp dẫn
về du lịch. Tại đây chủ yếu đơn thuần diễn ra hoạt động tham quan, tìm hiểu di tích

7

của khách du lịch nội địa mà chưa hình thành sản phẩm du lịch đầy đủ, chưa thu hút
được khách quốc tế.
Khu di tích Thành nhà Hồ được UNESCO công nhận là DSVHTG vào tháng
6/2011 là một sự kiện quan trọng cho thấy tầm vóc của di tích đã vươn xa khỏi
phạm vi tỉnh Thanh Hóa, của Việt Nam mà là một di sản của nhân loại. Từ thực tế
Hạ Long, Hội An, Mỹ Sơn, Phong Nha- Kẻ Bàng sau khi được UNESCO công
nhận là di sản thế giới, số lượng khách du lịch đến tham quan di sản tăng đột biến
1,5-2 lần năm sau so với năm trước và 10-20% trong những năm kế tiếp. Di sản
Thành nhà Hồ cũng sẽ không chệch quỹ đạo tăng trưởng đó nếu các hoạt động vinh
danh, quảng bá thu hút khách được thực hiện tốt. Đối với Thanh Hóa nói chung và
Thành nhà Hồ nói riêng, đây là cơ hội to lớn để phát triển du lịch với tầm nhìn và
đẳng cấp mới, nhưng đồng thời cũng đối diện với thách thức không nhỏ để làm sao
có được những sản phẩm du lịch xứng tầm mà vẫn bảo tồn các giá trị nổi bật toàn
cầu của di sản Thành nhà Hồ.
Tính đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu đầy đủ, toàn diện về du
lịch tại DSVH Thành nhà Hồ, cùng với những lý do trên nên tôi quyết định lựa chọn
đề tài: “Nghiên cứu phát triển du lịch tại Thành nhà Hồ, Thanh Hóa” cho luận
văn thạc sỹ của mình.
2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu

Trước đây Thành nhà Hồ được ghi chép lại nhiều trong các bộ chính sử của
nước ta như Đại Việt sử ký toàn thư (thời Lê), Đại Nam nhất thống chí, Việt sử
thông giám cương mục (thời Nguyễn). Các sử gia, học giả cũng dành cho Thành nhà
Hồ những lời nhận xét ưu ái và trang trọng như: Ngô Thì Sĩ trong Đại Việt sử ký
tiền biên, Phan Huy Chú trong Lịch triều hiến chương loại chí, Hoàng Việt địa dư
chí, Lưu Công Đạo trong Thanh Hóa Vĩnh Lộc huyện chí,
Đặng Xuân Bảng trong
Sử học bị khảo…Tuy nhiên các ghi chép đều ngắn gọn và đề cập rải rác ở các tác
phẩm của từng thời, từng triều đại.
Hiện nay có rất nhiều công trình nghiên cứu về Thành nhà Hồ nhưng chỉ
dừng lại ở mức khảo cứu, tìm hiểu về các giá trị văn hóa, kiến trúc, nghệ thuật, quân

8

sự. Nghiên cứu về Thành nhà Hồ nhiều và chuyên sâu nhất phải kể đến các công
trình của các học giả thuộc Viện Khảo cổ học. Sách “Thành nhà Hồ Thanh Hóa”
(Nxb Khoa học Xã hội, 2011) của PGS.TS Tống Trung Tín là tác phẩm nghiên cứu
sớm nhất, hệ thống những giá trị lịch sử- văn hóa của di sản Thành nhà Hồ. Tác
phẩm song ngữ Việt- Anh này gồm 5 phần chính: Vị trí địa lí; Lịch sử; Quy hoạch
tổng thể, cấu trúc các vòng thành và kĩ thuật xây dựng; Những di sản văn hóa phong
phú trong vùng đệm; Giá trị lịch sử - văn hóa. Dưới lăng kính nhìn nhận của một
nhà khảo cổ cuốn sách khẳng định và giải trình rõ những giá trị nổi bật toàn cầu của
di sản Thành Nhà Hồ, mô tả được những di tích phụ cận mang tính chất lịch đại và
đồng đại có liên quan đến vùng kinh đô cổ Tây Đô.
Sách “Thành nhà Hồ - Di sản Thế giới” do nhóm cán bộ Trung tâm Bảo tồn
Di sản Thành nhà Hồ biên soạn đã hệ thống lại vị trí địa lý, lịch sử kinh thành Tây
Đô, di sản văn hóa Thành nhà Hồ, giá trị nổi bật toàn cầu và các tiêu chí được
UNESCO ghi nhận là Di sản Thế giới. Cuốn sách cung cấp một cách đầy đủ một
cách tổng thể và chi tiết các giá trị văn hoá lịch sử, kiến trúc của di sản văn hoá
Thành Nhà Hồ, là tài liệu quan trọng hữu ích cho du khách và các nhà nghiên cứu.

Tạp chí Khảo cổ học số 2/2012- số chuyên đề kỉ niệm 1 năm Thành nhà Hồ
được UNESCO vinh danh Di sản Thế giới (27/6/2011 - 27/6/2012) với 9 bài viết về
Thành nhà Hồ là tài liệu nghiên cứu chuyên sâu công phu nhất về khảo cổ của Viện
Khảo cổ. Ngoài việc giới thiệu những giá trị tiêu biểu của di sản Thành nhà Hồ, các
bài viết trong tạp chí còn tổng kết lại kết quả những lần khai quật các di tích, địa
điểm khảo cổ chính tại Thành nhà Hồ như đàn tế Nam Giao, Cửa Nam, Thành Nội
và La Thành, công trường khai thác đá An Tôn…Do đây là công trình nghiên cứu
của các nhà khảo cổ nên chưa có bài viết nào nghiên cứu vấn đề phát triển du lịch
tại Thành nhà Hồ.
Thành nhà Hồ còn được đề cập nhiều trong các tác phẩm viết về Hồ Quý Ly
và triều đại nhà Hồ như: Sách Hồ Quý Ly (1997) của Nguyễn Danh Phiệt; Cải cách
Hồ Quý Ly (2011) của Phan Đăng Thanh, Trương Thị Hòa; Thành nhà Hồ và những
truyện xây thành đắp lũy (2009) của Phạm Văn Chấy; La Province De Thanh Hoa -

9

cuốn sách nghiên cứu, giới thiệu về lịch sử và địa lý của tỉnh Thanh Hóa của học giả
người Pháp Le Proton viết vào những năm đầu của thế kỷ XX.…Cùng với đó là rất
nhiều bài nghiên cứu trên các báo, tạp chí: Từ Ly Cung đến Tây Đô (Lê Tạo- Tạp
chí Nghiên cứu Lịch sử 1990), Hồ Quý Ly và ý thức dân tộc (Lâm Bá Nam -Tạp chí
Nghiên cứu Lịch sử 1992), Hồ Quý Ly và nhà Hồ (Trần Bá Chí- Tạp chí nghiên cứu
lịch sử 1992), Thành Tây Đô –góc nhìn của thuật phong thủy (Nguyễn Thị Thúy-
Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á 2009)…
Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu đặt Thành nhà Hồ là đối tượng
nghiên cứu để phát triển du lịch hầu như rất ít. Gần gũi và thiết thân nhất với đề tài
này có thể kể đến công trình Khai thác các giá trị di sản văn hóa Thành Tây Đô
trong du lịch văn hóa xứ Thanh của Trịnh Thị Hạnh (Khóa luận tốt nghiệp Trường
ĐH Khoa học Xã hội & Nhân văn Hà Nội, 2012). Xuất phát từ việc nghiên cứu
những giá trị văn hóa tiêu biểu của Thành nhà Hồ như nghệ thuật, kiến trúc, quân
sự… tác giả Trịnh Thị Hạnh đã phân tích thực trạng phát triển du lịch tại di sản

Thành nhà Hồ về các mặt thị trường và khách du lịch, sản phẩm du lịch, cơ sở vật
chất kĩ thuật phục vụ du lịch, nhân lực du lịch; đồng thời đánh giá những tồn tại,
yếu kém trong hoạt động du lịch tại di sản này. Khóa luận cũng đề xuất rất nhiều
giải pháp nhằm phát triển du lịch tại Thành nhà Hồ. Công trình này là công trình
công phu nhất về nghiên cứu phát triển du lịch tại Thành nhà Hồ. Tuy nhiên công
trình mới chỉ đề cập đến vấn đề khai thác văn hóa để phát triển du lịch tại di sản
Thành nhà Hồ trong bối cảnh du lịch văn hóa xứ Thanh nên vẫn còn chưa thật đầy
đủ.
Bài viết Phát triển sản phẩm du lịch gắn với di sản thế giới Thành nhà Hồ-
Cơ hội và thách thức của TS Hà Văn Siêu (Viện Nghiên cứu Phát triển Du lịch
,

2012) tuy ngắn nhưng lại có đóng góp hết sức quý báu và thiết thực về mặt lí luận
khi nêu ra được vai trò của du lịch với bảo tồn và phát huy giá trị di sản, những yêu
cầu đặt ra đối với một sản phẩm du lịch đầy đủ, hoàn chỉnh tại điểm đến Thành Nhà
Hồ. Từ mục tiêu và yêu cầu phát triển sản phẩm du lịch xứng tầm di sản văn hóa thế
giới Thành Nhà Hồ có thể phân tích, đánh giá những cơ hội và thách thức đan xen

10
để có chương trình hành động đáp ứng hợp lý. Tác giả đã đề xuất và kiến nghị với
ngành Du lịch Thanh Hóa cần cân nhắc một số nội dung hành động ưu tiên như:
Xây dựng và thực hiện chương trình phát triển sản phẩm du lịch gắn với di sản thế
giới Thành Nhà Hồ; Các chính sách, chiến lược liên quan; Các chương trình, dự án
bổ trợ.
Những công trình viết về du lịch Thành nhà Hồ đa phần là các bài báo ngắn
xuất hiện tản mạn trên internet, báo in.
Như vậy, đã có nhiều công trình nghiên cứu bằng nhiều hình thức khác nhau
(sách, tạp chí, báo, luận văn…), ở nhiều mảng khác nhau (lịch sử, khảo cổ, kiến
trúc, văn hóa học…) về Thành nhà Hồ nhưng việc nhìn nhận Thành nhà Hồ dưới
góc độ du lịch học vẫn chưa được thấu đáo. Với đề tài nghiên cứu này, tác giả hi

vọng đóng góp được phần nào khoảng trống nghiên cứu trên.
3. Mục đích và nội dung nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Góp phần nâng cao nhận thức về di sản, bảo vệ di sản của các bên tham gia
trong hoạt động du lịch.
- Đưa ra một số kiến nghị về công tác quản lý di sản, giảm thiểu tác động tiêu
cực của du lịch đến vấn đề bảo tồn di tích và chiến lược phát triển du lịch, thu hút
du khách tại di sản Thành nhà Hồ.
- Mong muốn kết quả nghiên cứu nhận được sự quan tâm và đầu tư của các tổ
chức trong và ngoài nước cho công tác bảo tồn khu di tích Thành nhà Hồ.
3.2. Nội dung nghiên cứu
- Những vấn đề lí luận chung về điểm du lịch và sức hấp dẫn của điểm du lịch
di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật và khảo cổ.
- Khảo sát, phân tích thực trạng hoạt động du lịch tại Thành nhà Hồ.
- Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển du lịch tại Thành nhà
Hồ.



11
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Toàn bộ hoạt động du lịch tại DSVHTG Thành nhà
Hồ - một điểm du lịch.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Không gian: Khu vực Thành nhà Hồ và vùng phụ cận
+ Thời gian: Từ 2009 đến 2013.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được hoàn thiện dựa trên nhiều phương pháp khác nhau:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu
Tác giả sử dụng các loại tài liệu từ sơ cấp và thứ cấp, các tài liệu từ tạp chí,

sách báo và nhiều phương tiện thông tin đại chúng sau đó phân tích, tổng hợp
những thông tin cần thiết cho luận văn.
- Phương pháp khảo sát, điều tra thực địa
Tác giả đã đến khu di tích Thành nhà Hồ và vùng phụ cận, tiến hành khảo sát,
điều tra ở toàn bộ khu di tích; gặp gỡ các cán bộ tại TTBTDS Thành nhà Hồ; trò
truyện với người dân địa phương; khảo sát các cơ sở kinh doanh du lịch như lưu trú,
ăn uống, vui chơi giải trí.
- Phương pháp điều tra xã hội học: Tác giả tiến hành lập bảng hỏi và phiếu
điều tra để điều tra mức độ hài lòng của khách du lịch nội địa và quốc tế đến tham
quan đối với điểm du lịch Thành nhà Hồ.
- Phương pháp liên ngành: Trong luận văn sử dụng, tìm hiểu nhiều ngành khoa
học khác nhau để làm rõ vấn đề nghiên cứu: lịch sử, địa lý, văn hóa, du lịch, khảo
cổ, kinh tế…
6. Bố cục luận văn
Luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận được kết cấu thành ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của điểm du lịch và sức hấp dẫn của điểm du lịch di
tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật và khảo cổ
Chương 2: Thực trạng hoạt động du lịch tại Thành nhà Hồ
Chương 3: Một số giải pháp phát triển du lịch tại Thành nhà Hồ

12
7. Đóng góp của luận văn
Đề tài “Nghiên cứu phát triển du lịch tại Thành nhà Hồ, Thanh Hóa” đã đạt
được kết quả mà mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu đề ra:
Một là: Đề tài đã nghiên cứu và khái quát được một số vấn đề lý luận liên quan
đến đề tài như là: Điểm du lịch, phân loại điểm du lịch, các tiêu chí đánh giá điểm
du lịch hấp dẫn và điểm du lịch di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật, khảo cổ.
Hai là: Đề tài đã khảo sát, nghiên cứu thực trạng hoạt động du lịch tại Thành
nhà Hồ từ khi được công nhận là DSVHTG cho đến nay, qua đó đưa ra đánh giá về
những thành tựu, hạn chế của hoạt động du lịch tại đây.

Ba là: Đề tài đã đề xuất một số giải pháp nhằm bảo tồn, quản lý, tôn tạo và
khai thác tốt di sản văn hóa để phát triển du lịch tại Thành nhà Hồ.

13

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐIỂM DU LỊCH VÀ SỨC HẤP
DẪN CỦA ĐIỂM DU LỊCH DI TÍCH LỊCH SỬ, KIẾN TRÚC NGHỆ
THUẬT VÀ KHẢO CỔ
1.1. Điểm du lịch
1.1.1. Những quan niệm về điểm du lịch
Khái niệm du lịch không còn xa lạ đối với bất kỳ nhà nghiên cứu nào về du
lịch. Ở mỗi góc độ tiếp cận khác nhau thì lại có nhiều quan điểm nghiên cứu khác
nhau về du lịch. Theo quan điểm của các nhà kinh tế du lịch thì du lịch là một hệ
thống tinh thần và vật chất, là một hiện tượng kinh tế xã hội tổng hợp do ba yếu tố
cơ bản cấu thành là chủ thể du lịch (khách du lịch), khách thể du lịch (tài nguyên du
lịch) và hoạt động du lịch.
Trong phạm vi nghiên cứu, luận văn sẽ đi sâu phân tích về phần khách thể của
du lịch, đó là tài nguyên du lịch hay cụ thể là điểm đến du lịch và điểm du lịch.
Các sách và tài liệu về du lịch của Tổ chức Du lịch thế giới (UN-WTO) và của
nước ngoài thường sử dụng các khái niệm: Điểm đến du lịch (Tourism Destination);
Điểm tham quan du lịch (Tourism Spot).
Trong tiếng Anh, từ “Tourism Destination” được dịch sang tiếng Việt là “Điểm
đến du lịch”. Còn từ “Tourism spot” được dịch ra tiếng Việt với nhiều nghĩa khác
nhau, nhưng với du lịch có nghĩa là nơi vui chơi, giải trí, thể thao, câu cá…v.v, như
một điểm tham quan du lịch.
Tác giả Giuseppe Marzano (2007) cho rằng: “Một điểm đến du lịch là một
thành phố, thị xã, khu vực khác của nền kinh tế trong số đó phụ thuộc đến mức độ
tích lũy đáng kể từ các khoản thu du lịch. Nó có thể chứa một hoặc nhiều điểm tham
quan du lịch hấp dẫn”.
Trên phương diện địa lý, điểm đến du lịch được xác định theo phạm vi không

gian lãnh thổ. Điểm đến du lịch là một vị trí địa lý mà du khách thực hiện hành trình
đến đó nhằm thỏa mãn như cầu theo mục đích của chuyến đi. Có thể phân biệt hai
loại điểm đến:

14
+ Điểm đến cuối cùng: (Final destination) thường là điểm xa nhất tính từ điểm
xuất phát gốc của du khách và (hoặc) là địa điểm mà người đó dự định tiêu dùng
phần lớn thời gian.
+ Điểm đến trung gian (Intermediate destination) hoặc nơi ghé thăm (enroute)
là địa điểm mà du khách dành thời gian ngắn hơn để nghỉ ngơi qua đêm hoặc viếng
thăm một điểm hấp dẫn.
Một điểm đến du lịch có thể được định nghĩa, hay được hiểu theo nhiều cách
khác nhau. Khái niệm tổng quát đầu tiên về một điểm đến du lịch xem nó như một
không gian vật chất mà trong đó diễn ra các hoạt động về du lịch.
Từ quan điểm này, khách du lịch là người tích cực tham gia vào việc xây dựng
các không gian du lịch, tích cực hoạt động trong không gian du lịch, tác động đến
không gian du lịch và đóng góp để không gian du lịch được duy trì.
Một điểm đến du lịch có thể được xem là một hỗn hợp của sản phẩm, tiện nghi
và dịch vụ tạo nên sự trải nghiệm du lịch. Do đó, điểm đến du lịch chỉ là một phần
của sản phẩm du lịch và bản thân nó không được xem là một sản phẩm. Đơn giản
nó chỉ là một khu vực địa lý trong đó các sản phẩm du lịch được mua và bán.
Theo tác giả Bodlender
1
, đã đưa ra một định nghĩa về điểm đến du lịch là tập
hợp các yếu tố vật chất và dịch vụ cùng với sự kết hợp các biểu tượng nhằm đáp
ứng trọn vẹn nhu cầu của khách hàng. Các điểm đến du lịch vừa là các không gian
giải trí dành cho khách, không gian ở và làm việc của các cơ sở cung ứng dịch vụ.
Các cách tiếp cận khác nhau về khái niệm điểm đến du lịch được tóm tắt tại
định nghĩa của Tổ chức Du lịch Thế giới (UN-WTO) (2004):
“Điểm đến du lịch là một không gian vật chất mà du khách ở lại ít nhất là một

đêm. Nó bao gồm các sản phẩm du lịch như các dịch vụ hỗ trợ, các điểm đến và
tuyến điểm du lịch trong thời gian một ngày. Nó có các giới hạn vật chất và quản lý
giới hạn hình ảnh, sự quản lý xác định tính cạnh tranh trong thị trường. Các điểm
đến du lịch địa phương thường bao gồm nhiều bên hữu quan như một cộng đồng tổ
chức và có thể kết nối lại với nhau để tạo thành một điểm đến du lịch lớn hơn.”

15
Ở Việt Nam hai khái niệm về điểm du lịch và khu du lịch được Luật Du lịch
2005 xác định:
“Khu du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn với ưu thế về tài nguyên du
lịch tự nhiên, được quy hoạch, đầu tư phát triển nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng
của khách du lịch, đem lại hiệu quả về kinh tế - xã hội và môi trường.
Điểm du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, phục vụ nhu cầu tham quan
của khách du lịch.” [25, tr.2]
Theo nghĩa chung nhất, điểm du lịch là những địa điểm hoặc cơ sở mà khách
du lịch hướng đến và lưu trú. Điểm du lịch có thể là những nơi không có dân cư. Đó
là nghĩa rộng của điểm du lịch. Tuy nhiên, trong kinh tế du lịch, điểm du lịch là một
nơi, một vùng hay một đất nước có sức hấp dẫn đặc biệt đối với du khách (không
phải người dân địa phương) và có những thay đổi nhất định trong kinh tế do hoạt
động du lịch tạo ra.
Như vậy, theo quan điểm của tác giả thì điểm du lịch có thể là bất cứ điểm lớn
hay nhỏ có tài nguyên du lịch (tài nguyên tự nhiên, nhân văn…) và có hoạt động du
lịch phát triển.
Khái niệm Điểm du lịch của Việt Nam hay Điểm đến du lịch (Tourism
Destination) của nước ngoài đều xuất phát từ tài nguyên du lịch, nhưng quan điểm
về tài nguyên du lịch có sự khác nhau.
Luật Du lịch Việt Nam (2005) xác định: “Tài nguyên du lịch là cảnh quan
thiên nhiên, yếu tố tự nhiên, di tích lịch sử - văn hoá, công trình lao động sáng tạo
của con người và các giá trị nhân văn khác có thể được sử dụng nhằm đáp ứng nhu
cầu du lịch, là yếu tố cơ bản để hình thành các khu du lịch, điểm du lịch, tuyến du

lịch, đô thị du lịch”. [25, tr.2]
Có nhiều quan điểm khác nhau về tài nguyên du lịch, nhưng một quan điểm
thực tiễn là “tất cả các nhân tố có thể kích thích được động cơ du lịch của con người
được ngành du lịch tận dụng kinh doanh để sinh ra lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội
đều gọi là tài nguyên du lịch”. Hoặc “Bất kỳ nhân tố thiên nhiên, nhân văn và xã hội
có thể thu hút được khách du lịch đều gọi là tài nguyên du lịch”. Điều này có nghĩa

16
rằng không chỉ tài nguyên tự nhiên, tài nguyên nhân văn mà cả các sự kiện xã hội
như: Kinh tế, chính trị, văn hoá, thể thao được tổ chức có khả năng thu hút khách
du lịch được gọi là tài nguyên du lịch. Mặt khác, không phải tài nguyên du lịch nào
cũng được khai thác và trở thành điểm du lịch. Điều này phụ thuộc vào rất nhiều
yếu tố như: Cơ sở hạ tầng kỹ thuật, cơ sở dịch vụ phục vụ khách, các cơ chế, chính
sách, luật pháp cho sự phát triển điểm du lịch, thời gian khai thác điểm du lịch
(thường xuyên, theo thời vụ, ngắn ngày ), số lượng khách đến tham quan du lịch
trong đó có khách du lịch quốc tế và khách du lịch nội địa có tính hấp dẫn và có
sức thu hút khách du lịch càng cao thì lượng khách du lịch trong nước và quốc tế
đến càng lớn. Dịch vụ và hàng hoá phục vụ khách tiêu thụ càng nhiều về số lượng,
đa dạng về cơ cấu và chủng loại, chất lượng cao thì doanh thu càng lớn và hiệu quả
kinh tế - xã hội càng cao.
1.1.2. Các yếu tố cấu thành điểm du lịch
Để hình thành một điểm du lịch thì cần phải đáp ứng các yếu tố cơ bản sau:
- Điểm đến phải có tài nguyên du lịch đa dạng, phong phú, độc đáo và có sức
hấp dẫn với du khách. Các điểm hấp dẫn của điểm đến dù mang đặc điểm nhân tạo,
đặc điểm tự nhiên hoặc là các sự kiện thì cũng tạo ra động lực ban đầu cho sự viếng
thăm của du khách.
- Giao thông đi lại (Khả năng tiếp cận điểm đến): Sự phát triển và duy trì giao
thông có hiệu quả nối liền với các thị trường nguồn khách là điều kiện căn bản cho
sự thành công của các điểm du lịch.
- Nơi ăn nghỉ: Các dịch vụ lưu trú và ăn uống của điểm đến không chỉ cung

cấp nơi ăn nghỉ mang tính vật chất mà còn tạo được cảm giác chung về sự tiếp đãi
nồng nhiệt, lưu lại ấn tượng khó quên về các món ăn hoặc đặc sản địa phương Các
tiện nghi và dịch vụ hỗ trợ: Khả năng cung cấp các tiện nghi và dịch vụ hỗ trợ biểu
lộ bản chất đa ngành của yếu tố cung trong du lịch và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa
các lĩnh vực kinh doanh trong ngành du lịch.
Tài nguyên du lịch, giao thông đi lại, nơi ăn nghỉ, tiện nghi và dịch vụ hỗ trợ,
các hoạt động bổ sung là những tiêu chuẩn cho sự tồn tại của một điểm du lịch.

17
Trong thực tế, điểm du lịch được hình thành dưới tác động của ba nhóm nhân
tố, những nhóm nhân tố này quyết định vai trò và sự phát triển của điểm du lịch.
Những nhân tố đó là:
Nhóm thứ nhất là các nhân tố liên quan đến sức hấp dẫn của điểm du lịch.
Nhóm này bao gồm vị trí địa lý, tài nguyên du lịch, các nhân tố kinh tế, xã hội và
chính trị (không khí chính trị hòa bình, chính sách của Nhà nước, mức giá, chất
lượng dịch vụ, các sự kiện có tính chất định kỳ, quảng cáo du lịch…)
Nhóm thứ hai gồm những nhân tố đảm bảo giao thông cho khách đến điểm du
lịch (bao gồm những điều kiện đã và có khả năng xây dựng, phát triển mạng lưới và
phương tiện giao thông khác nhau).
Nhóm thứ ba gồm những nhân tố liên quan đến việc đảm bảo cho khách lưu lại
điểm du lịch. Đó là các cơ sở ăn uống (cửa hàng ăn uống, giải khát…), các cơ sở
lưu trú ( resort, khách sạn, nhà nghỉ…), các cơ sở phục vụ vui chơi, giải trí…
Nếu nhóm nhân tố thứ nhất thể hiện sức hấp dẫn của điểm du lịch thì nhóm
nhân tố thứ hai và thứ ba có ý nghĩa quyết định cho việc hình thành điểm du lịch vì
chúng tạo ra khả năng cho việc đi đến và lưu lại điểm du lịch của du khách.
1.1.3. Quan niệm về tính hấp dẫn của điểm du lịch
Có nhiều quan điểm khác nhau về các nhân tố tạo nên tính hấp dẫn của điểm
du lịch:
- Theo Var, Beck và Loftus (1977): Các nhân tố tạo nên khả năng hấp dẫn của
điểm du lịch bao gồm: Các nhân tố tự nhiên, xã hội, lịch sử; cơ hội giải trí và mua

sắm; khả năng tiếp cận (Accesibility) và dịch vụ lưu trú đạt chuẩn chất lượng tối
thiểu trong du lịch.
- Theo Mill và Morrison (1992): Các nhân tố tạo nên khả năng hấp dẫn của
điểm du lịch bao gồm: Sự hấp dẫn; các tiện nghi; cơ sở hạ tầng; cơ sở vật chất kỹ
thuật; dịch vụ vận chuyển; dịch vụ khách sạn.
- Theo Laws (1995)

thì khả năng hấp dẫn của điểm du lịch gồm hai nhân tố
chính đó là: Những đặc điểm cơ bản, nguyên thủy (Primary) và những đặc điểm
phái sinh (secondary) của điểm đến. Những đặc điểm cơ bản, nguyên thủy hay còn

18
gọi là điều kiện cần để khách du lịch lựa chọn điểm đến gồm: Khí hậu, môi trường
sinh học, văn hóa và kiến trúc truyền thống. Những đặc điểm phái sinh hay còn gọi
là điều kiện đủ để tăng tính hấp dẫn của điểm du lịch gồm: Khách sạn, vận chuyển,
nơi vui chơi, giải trí.
- Theo Kozak (2002) thì các nhân tố tạo nên khả năng hấp dẫn của điểm đến
bao gồm: Vẻ đẹp tự nhiên; cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật; các dịch vụ du
lịch; khí hậu.
Cũng có thể phân chia các nhân tố tạo nên khả năng hấp dẫn của điểm du lịch
bao gồm:
Nhân tố vật lý: Cơ sở vật chất kỹ thuật, cơ sở hạ tầng xã hội, phong cảnh, bãi
biển, khí hậu, di tích lịch sử.
Nhân tố tâm lý xã hội: Thái độ của người dân sở tại, các sự kiện văn hóa, cuộc
sống ban đêm và vui chơi, giải trí, tính mới lạ của điểm du lịch, khả năng tiếp cận,
đồ ăn, sự yên tĩnh…; môi trường chính trị, xã hội và giá cả; khả năng về thời gian.
Tính hấp dẫn của điểm du lịch còn phụ thuộc vào các nhân tố chính trị, kinh tế,
xã hội tại điểm du lịch như: Vấn đề an ninh, an toàn cho khách, nhận thức của cộng
đồng dân cư về việc phục vụ du khách, các cơ chế, chính sách đối với khách du lịch
và các doanh nghiệp du lịch.

Như vậy: Tính hấp dẫn của điểm du lịch được thể hiện ở sự độc đáo, đặc sắc,
khác biệt của tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch nhân văn; ở khả năng
đáp ứng được nhiều loại hình du lịch có sức thu hút khách du lịch cao và đáp ứng
được khả năng tiếp cận điểm du lịch của du khách một cách dễ dàng, thuận tiện,
nhanh chóng và an toàn.
1.1.4. Các tiêu chí xác định điểm du lịch hấp dẫn
Một điểm du lịch có được đánh giá là hấp dẫn hay không thì phải dựa trên các
tiêu chí để đánh giá mức độ hấp dẫn của điểm du lịch đó.
Điểm du lịch hấp dẫn được xác định trước hết là dựa vào các yếu tố tạo nên
khả năng hấp dẫn của điểm du lịch (các yếu tố chủ quan) và các tiêu chí định lượng,
định tính (các yếu tố khách quan)

19
1.1.4.1. Các yếu tố chủ quan (Các yếu tố tạo nên khả năng hấp dẫn của điểm
du lịch)
- Sự phù hợp của tài nguyên cho các hoạt động du lịch
- Sản phẩm du lịch đặc thù hấp dẫn
- Thuận lợi trong việc tiếp cận
- Cơ sở hạ tầng và cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch
- Sức chứa khách du lịch của điểm du lịch đó
- Khả năng về thời gian
1.1.4.2. Các yếu tố khách quan (Các tiêu chí định lượng và định tính)
Các tiêu chí định lượng: Đánh giá sự hấp dẫn của điểm du lịch dựa vào:
- Thống kê số lượng khách du lịch đến
- Doanh thu du lịch theo năm
- Mức chi tiêu của khách du lịch
- Thời gian lưu lại của du khách
Một điểm du lịch được đánh giá là hấp dẫn khi số lượng du khách đến điểm du
lịch đó ngày càng đông, doanh thu từ hoạt động du lịch tăng, mức độ chi tiêu của du
khách cao và thời gian lưu lại của du khách ở điểm du lịch đó dài ngày.

Các tiêu chí định tính: Không có những số liệu rõ ràng và cụ thể như các tiêu
chí định lượng nên khi đánh giá sự hấp dẫn của điểm du lịch dựa vào các tiêu chí
định tính thì người ta thường căn cứ vào: Mức độ hài lòng hay không hài lòng của
du khách và sự trung thành của du khách (Khách quay trở lại điểm du lịch).
Theo Cadotte, Woodruff và Jenkins (1982) đã đưa ra định nghĩa: “Sự hài lòng
là sự so sánh của những kỳ vọng với những trải nghiệm”
Theo Oliver (1997): “Sự hài lòng của khách hàng là trạng thái tâm lý mà
khách hàng cảm nhận về một công ty (tổ chức) khi những kỳ vọng của họ được thỏa
mãn hoặc là thỏa mãn vượt qua sự mong đợi thông qua tiêu dùng sản phẩm hoặc
dịch vụ”
Tribe và Snaith (1998) đưa ra mô hình các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng
của du khách như sau:

20
Hình 1.1: Mô hình các yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của du khách.














Nguồn: Tribe, J., & Snaith, T. (1998), From SERVQUAL to HOLSAT: Holiday

satisfaction in Varadero, Cuba, Tourism Management.
1.1.5. Vai trò của điểm du lịch
Điểm du lịch có vai trò rất lớn trong việc tạo ra sản phẩm du lịch, tạo ra các giá
trị khai thác du lịch, tạo ra giá trị hưởng thụ và ý nghĩa cho du khách sử dụng
chuyến đi.
1

Thứ nhất, điểm du lịch tạo ra sản phẩm du lịch. Điểm du lịch đóng vai trò là
sản phẩm chủ đạo cho chuyến đi. Nó quyết định chính các dịch vụ mà du khách
được hưởng và sử dụng trong chuyến đi.
Thứ hai, điểm du lịch đóng vai trò lớn trong việc phát triển kinh tế, xã hội của
một địa phương, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao đời sống vật chất tinh thần
cho cộng đồng dân cư và tạo việc làm.


Tài nguyên thiên nhiên và đi

u
ki

n v

t

ch

t

Môi trư


ng

Các d

ch v


ăn u

ng
-

tham quan
-

gi

i trí
-

mua s

m

Ch




Chuy


n ti

n

Sự hài
lòng

Di s

n và văn hóa


21
Thứ ba, điểm du lịch tạo ra giá trị hưởng thụ và ý nghĩa cho du khách sử dụng
chuyến đi. Du khách đến các điểm tham quan được khám phá, tìm hiểu về tài
nguyên du lịch, cuộc sống con người, văn hóa bản địa, thưởng thức ẩm thực. Mỗi
điểm du lịch lại có những cảm nhận, khám phá riêng hoặc cùng một điểm du lịch
nhưng mỗi lần đến thăm lại mang một phong vị khác.
Thứ tư, điểm du lịch tạo ra thị trường tiêu thụ sản phẩm cho rất nhiều ngành,
nghề; là nơi xuất khẩu tại chỗ và xuất khẩu vô hình với giá trị kinh tế cao.
Thứ năm, điểm du lịch là nơi mở rộng nhận thức, tình yêu quê hương, truyền
thống lịch sử, văn hóa cho mọi công dân.
1.2. Phân loại điểm du lịch
1.2.1. Phân loại điểm du lịch theo vị trí địa lý
Khi phân loại điểm du lịch theo vị trí địa lý thì người ta thường chia theo các
cấp độ sau: Điểm du lịch mang tính chất khu vực; Điểm du lịch mang phạm vi quốc
gia; Điểm du lịch mang tính địa phương.
Luật Du lịch Việt Nam phân loại điểm du lịch thành: Điểm du lịch quốc gia và
điểm du lịch địa phương. Điều 24- chương IV, Luật Du lịch Việt Nam (2005) đã

nêu rõ:
“Các điều kiện để công nhận điểm du lịch gồm:
- Điểm du lịch có đủ các điều kiện sau được công nhận là điểm du lịch quốc
gia:
+ Có tài nguyên du lịch đặc biệt hấp dẫn đối với nhu cầu tham quan của khách
du lịch
+ Có kết cầu hạ tầng và dịch vụ du lịch cần thiết, khả năng đảm bảo phục vụ ít
nhất một trăm nghìn lượt khách tham quan một năm.
- Điểm du lịch có đủ các điều kiện sau được công nhận là điểm du lịch địa
phương:
+ Có tài nguyên du lịch hấp dẫn đối với nhu cầu tham quan của khách du lịch

22
+ Có kết cầu hạ tầng và dịch vụ du lịch cần thiết, khả năng đảm bảo phục vụ ít
nhất mười nghìn lượt khách tham quan một năm”. [26, tr.10]
2

1.2.2. Phân loại điểm du lịch theo tài nguyên du lịch
Khi phân loại điểm du lịch theo tài nguyên du lịch, có thể phân thành bốn
nhóm chính là: Điểm du lịch thiên nhiên, điểm du lịch văn hóa, điểm du lịch đô thị
và đầu mối giao thông.
Nhóm thứ nhất là điểm du lịch thiên nhiên, gồm những điểm du lịch mà hoạt
động của nó chủ yếu dựa vào việc khai thác giá trị các tài nguyên du lịch tự nhiên
như: Điểm du lịch vùng biển; điểm du lịch vùng núi; điểm du lịch ở các vùng nước
khoáng; điểm du lịch ở các khu vườn quốc gia Đối với những vùng có nguồn tài
nguyên này người ta thường xây dựng các trung tâm điều dưỡng và thể thao.
Các trung tâm nghỉ dưỡng bao gồm các điểm nghỉ dưỡng được xây dựng trên
các nguồn nước khoáng như: Quang Hanh, Kim Bôi… Các điểm du lịch phát triển
trong nền khí hậu núi và biển như: Đà Lạt, Tam Đảo, Ba Vì, Sầm Sơn… Một loại
trung tâm nữa là các nhà nghỉ dưỡng hoạt động trên nguồn tài nguyên thiên nhiên

khác (chữa bệnh bằng hoa quả, bằng bùn…).
Các trung tâm thể thao phải được xây dựng và trang bị những thiết bị đặc biệt
và cần thiết để thực hành các môn thể thao dựa vào điều kiện tự nhiên như leo núi,
trượt tuyết, bơi thuyền, golf, cưỡi ngựa…
Nhóm hai gồm những điểm du lịch phát triển các thể loại du lịch văn hóa như
các trung tâm lịch sử, trung tâm khoa học, trung tâm nghệ thuật, trung tâm tôn
giáo…
Trung tâm lịch sử (điểm du lịch lịch sử) là những nơi có các công trình được
xây dựng từ xa xưa. Đó là những thành phố, đô thị hoặc làng cổ. Đây là những nơi
vẫn còn lưu giữ được nhiều nét văn hóa truyền thống như kiến trúc nhà ở, các công
trình tôn giáo tín ngưỡng và phong tục tập quán, lễ hội



23
Trung tâm khoa học: Có nhiều cơ sở dạy học nổi tiếng như trường đại học, các
viện nghiên cứu khoa học, thư viện, viện bảo tàng… Viện Nghiên cứu Hạt nhân Đà
Lạt, Viện Nghiên cứu Biển Nha Trang, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Bảo tàng Dân tộc
học Việt Nam là những điểm du lịch rất hấp dẫn du khách trong và ngoài nước.
Điểm du lịch dựa trên các sinh hoạt văn hóa là các địa phương có lối sống
truyền thống, phong tục tập quán đặc sắc. Tại những nơi này thường tổ chức các lễ
hội truyền thống, các phiên chợ… để thu hút du khách. Sapa với chợ tình đầy mầu
sắc, Mai Châu với những điệu múa dân tộc…là những hình ảnh mà du khách lưu lại
sau mỗi chuyến đi.
Điểm du lịch tôn giáo là những trung tâm tôn giáo nổi tiếng của thế giới, quốc
gia, khu vực. Nơi đây có những vật từ cổ xưa có ý nghĩa tôn giáo hoặc mang mầu
sắc tôn giáo. Những trung tâm tôn giáo nổi tiếng của thế giới là: Tòa thánh Vatican
ở Roma, nhà thờ Notre Dame ở Pháp, thánh địa Mecca ở Saudi Arabia…
Nhóm ba là các điểm du lịch đô thị gồm các điểm du lịch mà ở đó chủ yếu phát
triển các loại hình du lịch liên quan đến các nhân tố kinh tế và chính trị. Đó là các

đô thị, trung tâm kinh tế và chính trị của thế giới, quốc gia hay khu vực.
Nhóm thứ tư là các điểm du lịch đầu mối giao thông như nơi có ga xe lửa, cảng
sân bay, nơi giao cắt của các trục đường lớn… thường trở thành nơi dừng chân tạm
thời của du khách. Tại các đầu mối giao thông này có hệ thống cơ sở lưu trú đặc
trưng như khách sạn, cửa hàng ăn uống, cửa hàng lưu niệm, điểm vui chơi, giải
trí…
Cách phân loại trên đây dựa trên cơ sở tính chất của tài nguyên du lịch. Nhưng
thực tế, những nhân tố này có những ảnh hưởng đồng thời, không tách rời nhau do
vậy ít gặp các trung tâm du lịch nào đơn thuần một loại điểm du lịch.
Liên quan đến phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả luận văn sẽ làm rõ hơn
về điểm du lịch là các di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật và khảo cổ hay gọi chung
là điểm du lịch di sản – nằm trong nhóm các điểm du lịch phát triển các thể loại du
lịch văn hóa.


24
1.3. Điểm du lịch di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật và khảo cổ
1.3.1. Các quan niệm về du lịch di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật và
khảo cổ
Di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật và khảo cổ đều là những di sản văn hóa.
Trước khi đưa ra các quan niệm về du lịch di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật và
khảo cổ, luận văn sẽ trình bày về các khái niệm về di sản văn hóa, di tích lịch sử -
văn hoá, kiến trúc nghệ thuật và khảo cổ.
Trên bình diện quốc tế, năm 1989, UNESCO đã định nghĩa di sản văn hóa như
sau: Di sản văn hóa là tập hợp các biểu hiện vật thể- hoặc biểu tượng di sản quá
khứ truyền lại cho mỗi nền văn hóa, và do đó là của toàn thể nhân loại. Là một
phần của việc khẳng định cũng như làm giàu thêm bản sắc văn hóa, một dạng di
sản của nhân loại, di sản văn hóa mang lại những đặc điểm riêng cho mỗi địa danh
cụ thể, và vì thế nên là nơi cất giữ kinh nghiệm của con người. Việc bảo tồn và giới
thiệu những di sản văn hóa này là cốt lõi của mọi chính sách văn hóa.

Như vậy, di sản văn hóa được khái quát lại là tổng thể những tài sản văn hóa
truyền thống trong hệ thống giá trị của nó, được chủ thể nhận biết và đưa vào sử
dụng nhằm đáp ứng những nhu cầu và đòi hỏi của hiện tại. Hay nói theo một cách
khác thì di sản văn hóa thể hiện những lối sống được phát triển bởi một cộng đồng
và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Năm 2001, lần đầu tiên ở nước ta “Luật Di sản Văn hóa” được Quốc hội phê
chuẩn. Điều 1 của "Luật Di sản Văn hóa " đã xác định: “Di sản văn hóa gồm DSVH
vật thể và DSVH phi vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn
hóa, khoa học được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác”. [27, tr.1]
Điều 4, Luật Di sản Văn hóa đã đưa ra định nghĩa về DSVH phi vật thể và
DSVH vật thể như sau:


Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hóa,
khoa học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng truyền miệng,
truyền nghề, trình diễn và các hình thức lưu giữ, lưu truyền khác, bao gồm tiếng
nói, chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, ngữ văn truyền miệng, diễn

×