Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Phân tầng xã hội thực trạng và giải quyết vấn đề phân tầng xã hội ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (329.84 KB, 20 trang )

LỜI MỞ ĐẦU.
Việt Nam là nước đã trải qua hơn 25 năm đổi mới, thực hiện chuyển đổi từ nền kinh tế
vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp, khép kín sang nền kinh
tế mở, vận hành theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh hội nhập
khu vực và quốc tế. Quá trình đó, một mặt, làm cho nền kinh tế phát triển nhanh, góp
phần cải thiện, nâng cao mức sống của nhân dân, cải thiện môi trường đầu tư, thực hiện
có hiệu quả công cuộc xóa đói, giảm nghèo được thế giới ghi nhận và đánh giá cao, đồng
thời qua đó nâng cao vị thế, uy tín đất nước trên trường quốc tế. Nhưng mặt khác, nó
cũng bộc lộ những mặt trái, những hệ quả xã hội không mong muốn cần tập trung giải
quyết. Một trong những hệ quả đó là vấn đề phân tầng xã hội, gắn với nó là bất bình đẳng
xã hội, phân hóa giàu nghèo và những hiện tượng tiêu cực khác, nếu không nghiên cứu,
tìm ra những phương thức và biện pháp hóa giải kịp thời sẽ đe dọa sự ổn định xã hội, ảnh
hưởng đến sự phát triển bền vững của đất nước. Và để hiểu hơn về vấn đề này, chúng ta
sẽ cùng đến với đề tài của nhóm: “ Phân tầng xã hội_thực trạng và giải quyết vấn đề
phân tầng xã hội ở Việt Nam hiện nay”.
I. CƠ SỞ LÝ THUYẾT.
1.1. Khái niệm.
• Tầng xã hội: Là tổng thể các cá nhân tạo thành một tập hợp có cùng hoàn
cảnh xã hội, ngang nhau về tài sản (địa vị kinh tế), quyền lực (địa vị chính trị), và
uy tín (địa vị xã hội) về khả năng thăng tiến xã hội cùng có được cơ may, ân huệ
hay thứ bậc xã hội.
• Phân tầng xã hội là sự phân chia cấu trúc xã hội thành các tầng xã hội
khác nhau về địa vị kinh tế, địa vị chính trị, địa vị xã hội cũng như một số khác
biệt về trình độ học vấn, kiểu dáng nhà ở, nơi cư trú, phong cách sinh hoạt, cách
ứng xử, sở thích nghệ thuật, …
Theo nhà xã hội học Mỹ Neil Smelser, "phân tầng xã hội liên quan đến những
cách thức, trong đó bất bình đẳng dường như từ thế hệ này truyền qua thế hệ
khác, tạo nên vị trí hoặc đẳng cấp xã hội". Một định nghĩa khác: "sự phân tầng
trong xã hội học thường được áp dụng để nghiên cứu về cấu trúc xã hội bất bình
đẳng, vì vậy, nghiên cứu về những hệ thống bất bình đẳng giữa những nhóm
người nảy sinh như là kết quả không chủ ý của những quan hệ xã hội và quá trình


xã hội"
1.2. Lý thuyết về phân tầng xã hội.
- Lý thuyết chức năng: việc phân tầng xã hội nhằm đáp ứng nhu cầu của xã hội,
nghĩa là mỗi tầng xã hội có chức năng xã hội riêng. Điều này giải thích vì sao cần
phải có các tầng lớp, đẳng cấp, giai cấp xã hội và tổ chức xã hội. Lý thuyết này
cho rằng phân tầng xã hội và bất bình đẳng xã hội là hiện tượng phổ biến, tất yếu,
không tránh được của xã hội bởi chúng thực hiện được một số chức năng cần thiết
và tích cực nào đó của xã hội.
Nhờ có phân tầng xã hội mới đảm bảo được những địa vị quan trọng cho những
người tài năng nhất đảm nhiệm một cách có ý thức. Lý thuyết này cho rằng trong
một xã hội có một số địa vị quan trọng hơn những địa vị khác, do vậy xã hội phải
thiết chế hoá sự bất bình đẳng về uy tín, quyền lực và thu nhập của mọi người. Xét
về mặt chức năng trong xã hội có những địa vị then chốt chỉ những người có kỹ
năng đặc biệt mới đảm nhận được. Muốn thế người ta phải trải qua quá trình học
tập, rèn luyện, hy sinh và cả những chi phí tốn kém về mặt tiền bạc, thời gian,
công sức. Do đó, họ phải nhận được những lợi ích xứng đáng, gắn với địa vị khi
họ được đảm nhận. Vì vậy xã hội phải có sự phân phối lợi ích bất bình đẳng, phù
hợp với những thang bậc địa vị khác nhau.
- Lý thuyết xung đột: việc phân tầng xã hội là do nguyên nhân từ bất bình đẳng xã
hội gây nên. Các bất bình đẳng sẽ dẫn đến các xung đột trong xã hội. Chính vì
vậy, các tầng lớp trong xã hội sẽ không được ổn định. Lý thuyết này cho rằng
phân tầng xã hội liên quan trực tiếo đến sự bất bình đẳng giai cấp (chủ yếu là sự sở
hữu về tư liệu sản xuất).
Sự đấu tranh giai cấp nhằm xoá bỏ những mâu thuẫn, xung đột trong các quan hệ
sở hữu, tạo điều kiện cho các quan hệ sản xuất phát triển. Đó mới chính là động
lực thúc đẩy sự phát triển xã hội trong xã hội có giai cấp.
Do đó, lý thuyết này phản đổi kịch liệt lý thuyết chức năng về phân tầng. Họ vạch
rõ chính hệ thống phân tầng đã làm kìm hãm sự phát triển tài năng của những
người ở tầng lớp dưới. Sự phân phối không đồng đều của cải trong xã hội phân
tầng đã khiến cho kẻ có của được hưởng những cơ hội học hành, giáo dục để phát

triển tài năng còn những người ở tầng lớp dưới phải chịu những thiệt thòi, bất lợi.
Xã hội phân tầng sẽ tích tụ, làm gay gắt thêm những xung đột và bất bình xã hội.
Đó là nguyên nhân của mọi cuộc khủng hoảng.
Ngoài hai lý thuyết cơ bản nói trên còn có những lý thuyết khái quát về sự phân tầng xã
hội trong các xã hội khác nhau mà tiêu biểu là lý thuyết của Max Weber, Lenski và của
các nhà lý luận về sự tiến hóa xã hội, lý luận phân tầng xã hội khác.
Trong lịch sử, tương ứng với các loại xã hội khác nhau, có những hệ thống phân tầng
khác nhau. Theo các nhà xã hội học, có 4 kiểu chủ yếu về hệ thống phân tầng xã hội:
1. Nô lệ;
2. Đẳng cấp;
3. Địa chủ;
4. Các giai cấp xã hội.
 Nhìn chung lý thuyết về phân tầng xã hội nhấn mạnh việc nghiên cứu hình
thành các giai cấp xã hội, các cuộc đấu tranh giữa giai cấp, quy luật hình thành,
chuyển hóa giai cấp. Trong đó tính cơ động xã hội là đặc điểm quan trọng của lý
thuyết.
1.3. Nguyên nhân dẫn đến phân tầng xã hội.
- Thứ nhất: đó là do sự bất bình đẳng mang tính cơ cấu của tất cả các chế độ xã hội
(trừ giai đoạn đầu của thời kỳ nguyên thuỷ). Thực tế, mỗi con người trong mỗi một
xã hội, luôn có sự khác biệt về thể chất, trí tuệ (có người khoẻ, yếu, thông minh,
kém cỏi, người gặp những cơ may thăng tiến, người chịu rủi ro, thiệt thòi…). Chính
sự khác biệt một cách tự nhiên, khách quan này tạo ra những khả năng chiếm giữ
các địa vị xã hội cao thấp, khác nhau.
- Thứ hai: do sự phân công lao động. Đưa đến sự khác nhau về nghề nghiệp, thu
nhập, các điều kiện làm việc, đó cũng là những yếu tố tạo nên sự khác nhau về địa
vị xã hội. Ngoài ra, còn có những yếu tố chủ quan cá nhân tác động vào qúa trình
phân tầng xã hội. Ví dụ: trong xã hội cực quyền, sự lạm dụng và thao túng quyền
lực của các lãnh chúa (xã hội cũ) và giáo hội cũng tạo ra sự phân tầng hoặc làm gay
gắt hơn, làm biến dạng những trật tự vốn có trong xã hội.
 Có thể nói, phân tầng xã hội là một hiện tượng tự nhiên, phổ biến, khách

quan. Tuy nhiên mức độ phân tầng khác nhau trong những xã hội khác nhau, vào
những thời kỳ khác nhau.
1.4. Đặc trưng của phân tầng xã hội.
- Phân tầng xã hội là sự phân hoá các cá nhân thành những tầng lớp, thứ bậc khác
nhau trong cơ cấu xã hội (phân chia thành lớp trên, dưới).
- Phân tầng xã hội luôn gắn với bất bình đẳng xã hội và phân công lao động: Bất
bình đẳng xã hội mang tính tự nhiên trong cơ cấu xã hội của tất cả các chế độ xã
hội, nó không phải bất công xã hội. Cùng với bât bình đẳng xã hội thì phân công
lao động xã hội góp phần quan trọng tạo ra sự phân tầng xã hội. Sự phân công lao
động nghề nghiệp tạo ra những ngành những người có thu nhập cao, dần dần họ
tham gia vào tầng lớp trên của xã hội có địa vị cao trong hệ thống cơ cấu xã hội
trong khi đó những người có thu nhập thấp họ sẽ trở thành người có địa vị thấp
trong hệ thống cơ cấu xã hội.
- Phân tầng xã hội được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, nhưng không
phải là bất biến mà có thể có sự thay đổi nhất định, đó là sự di chuyển từ tầng lớp
này sang tầng lớp khác trong cơ cấu xã hội hoặc trong cùng một tầng xã hội nào
đó.
1.5. Các tiêu chí phân tầng xã hội.
a. Các tiêu chí
- Dựa vào vị trí kinh tế: sở hữu về tư liệu sản xuất và của cải.
- Dựa vào chính trị quyền lực: địa vị xã hội
- Dựa vào uy tín: danh tiếng, ảnh hưởng trong xã hội.
- Học vấn: Học vị, học hàm.
- Tôn giáo
- Dân tộc…
b. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp đồng nhất giai cấp: là phương pháp để mọi người, mọi nhóm xã hội,
tự mô tả phân tầng xã hội như thế nào.
- Phương pháp chủ quan: là phương pháp để mọi người tự xếp mình vào một tầng
nào đó trong xã hội.

- Phương pháp điều tra: là phương pháp thông qua các tiêu chí nghiên cứu để xác
định tầng xã hội: thu nhập, sinh hoạt vật chất, sinh hoạt văn hóa, tư liệu sản xuất…
II. TÌNH HÌNH PHÂN TẦNG XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ NHỮNG
VẤN ĐỀ ĐẶT RA.
Trong lý luận, các nhà khoa học chú ý đến cả 3 hệ thống phân tầng: theo tài sản, thu nhập
( dấu hiệu kinh tế ), theo quyền lực (chính trị ) và theo uy tín (địa vị ). Trong những xã
hội cụ thể, thường có sự đan xen các yếu tố, dấu hiệu của sự phân tầng vì chúng thường
có liên hệ chặt chẽ với nhau. Tuy nhiên, mỗi dấu hiệu đều có những khó khăn riêng trong
việc tiếp cận và đo lường chúng, đặc biệt đối với các dấu hiệu quyền lực và uy tín.
Nhìn chung, người ta đều thừa nhận rằng, việc đo lường các khác biệt về kinh tế (tài sản
và thu nhập ) dễ hơn nhiều so với hai lĩnh vực còn lại trong định nghĩa về phân tầng xã
hội. Đồng thời, trong việc đo lường chính xác các khác biệt về tài sản và thu nhập cũng
không dễ dàng, nhất là trong các xã hội đang phát triển. Vì vậy, ở nước ta tại thời điểm
hiện tại, các nhà nghiên cứu thường chấp nhận việc sử dụng các chỉ báo về thu nhập và
mức sống để xem xét sự phân tầng xã hội. Điều này có thể coi là hợp lý bởi vì sẽ cần rất
nhiều thời gian để xử lý các vấn đề phương pháp luận và phương pháp cụ thể nếu muốn
đo lường đông thời cả 3 loại dấu hiệu trên để xác định sự phân tầng xã hội thực tế. Do đó,
đối với đề tài này, vì không đủ thời gian và năng lực cho nên chúng tôi xin được chỉ
nghiên cứu về phân tầng xã hội theo thu nhập, mức sống thay cho việc nghiên cứu về
toàn bộ hệ thống phân tầng xã hội Việt Nam hiện nay.
2.1. Thực trạng tầng xã hội theo mức sống, thu nhập ở Việt Nam hiện nay
2.1.1. Nền tảng và xu hướng chung.
Nền tảng cơ bản nhất của hiện trang phân tần xã hội ở VN là mức sống của đại đa số
dân cư tăng lên trong 10 năm qua. Theo báo cáo, tỷ lệ hộ nghèo đói đã giảm khá mạnh, từ
khoảng 22% năm 2005 xuống còn khoảng 9,45% năm 2010 ( theo tiêu chuẩn cũ). Đối với
giai đoạn 2010- 2013 (áp dụng chuẩn nghèo mới): Tỷ lệ hộ nghèo cả nước đã giảm từ
14,2% (năm 2010) xuống còn 11,76% (năm 2011) và 9,6% (năm 2012), năm 2013 chỉ
còn khoảng 7,6%-7,8%. Chênh lệch giàu nghèo tiếp tục tăng trên nền tảng chung nói
trên. Sự chênh lệch về mức sống càng tăng, tạo nên một sự phân tầng xã hội trong hầu hết
các nhóm xã hội. Chẳng hạn, ở Việt Nam chênh lệch về chi tiêu giữa nhóm 20% giàu

nhất và nhóm 20% nghèo nhất khoảng 4,5 lần năm 2002, năm 2012 đã tăng lên 5,6 lần.
Còn chênh lệch theo thu nhập thì cao hơn, khoảng cách chênh lệch giàu nghèo đã tăng
từ 8,3 lần (năm 2004) lên 9,2 lần (năm 2010) và hiện nay, đã lên khoảng 9,4-9,5 lần (năm
2012). Năm 2010, chỉ số Gini (hệ số bất bình đẳng thu nhập) của Việt Nam tính được là
0,43 và theo Tổng Cục Thống kê Việt Nam (GSO) cho biết, con số này được xem là báo
động ở mức nguy hiểm đối với khoảng cách thu nhập tại một quốc gia.
2.1.2. Khác biệt về nhân khẩu và học vấn.
Sự khác biệt mức sống hiện nay giữa các hộ gia đình liên quan đến nhân khẩu học bao
gồm: tỉ lệ phụ thuộc ( tỷ lệ người ngoài độ tuổi lao động so với người trong độ tuổi lao
động), số nhân khẩu, nghề ghiệp, giới tính, Về tỷ lệ phụ thuộc năm 2010 là 1,4, giảm
so với các năm trước. Tỷ lệ này năm 2010 của 20% hộ nghèo nhất cao hơn 1,8 lần so với
nhóm 20% hộ giàu nhất Tỷ lệ phụ thuộc cũng cao hơn ở các hộ dân cư thuộc khu vực
nông thôn, các hộ có trình độ học vấn của chủ hộ thấp hơn, các dân tộc khác dân tộc
Kinh. Về số nhân khẩu: Nhóm hộ nghèo nhất có số nhân khẩu bình quân 1 hộ là 4,22
người, cao gấp 1,22 lần so với nhóm hộ giàu nhất. Nhân khẩu bình quân 1 hộ dân cư
thuộc khu vực nông thôn cao hơn khu vực thành thị, của hộ dân cư nghèo cao hơn hộ
giàu, vùng núi cao hơn vùng đồng bằng. Về nghề nghiệp, có thể dễ dàng nhận thấy: nhóm
nhân lực có thu nhập cao nhất hầu như đều là các giám đốc điều hành, trưởng đại diện,
trưởng phòng, cán bộ phụ trách kinh doanh,… đang làm việc tại các doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài, các công ty liên doanh, các công ty hoạt động trong lĩnh vực tài chính,
ngân hàng,…hay bác sỹ tại một số bệnh viện, phòng khám tư nhân…Còn nhóm có thu
nhập thấp nhất thường là công nhân, nhân viên văn phòng nhỏ,…hoặc thất nghiệp.
Bên cạnh đó, học vấn càng cao thì càng có nhiều khả năng thuộc vào nhóm có mức
sống cao. Theo Tổng cục thống kê, trong những chủ hộ có học vấn đại học, cao đẳng trở
lên, 70% thuộc nhóm 20% giàu nhất, chỉ có 1,5% thuộc nhóm 20% nghèo nhất. Chi tiêu
của hộ gia đình có học vấn đại học, cao đẳng trở lên có sự chênh lệch đáng kể so với hộ
có chủ hộ chưa bao giờ đến trường.
2.1.3. Sự khác biệt đô thị- nông thôn và vùng kinh tế.
Nguồn: Tổng cục thống kê.

Theo số liệu trên ta thấy thu nhập bình quân/người/tháng ở khu vực thành thị năm
2002 gấp 2,26 lần so với nông thôn, đến nay đang có xu hướng giảm dần: năm 2006,
2010 là 2,02 lần và 1,92 lần; nhưng đến năm 2012 con số này vẫn còn 1,89 lần. Bên cạnh
đó, tổng chi tiêu bình quân người/tháng ở thành thị năm 2012 (đạt 2,288 triệu đồng) cũng
hơn 1,74 lần so với mức chi tiêu ở nông thôn (1,315 triệu đồng). Mức độ bất bình đẳng
về kinh tế ở thành thị tăng chậm hơn ở nông thôn, nhưng lại cao hơn nông thôn. Cụ thể
là: khoảng cách về thu nhập giữa hai nhóm 20% giàu nhất và 20% nghèo nhất ở thành thị
tăng từ 4,5 lần (năm 2002) lên 4,9 lần (năm 2012) trong khi ở nông thôn là 3,1 lần (năm
2002) lên tới 4,7 lần (năm 2012). Ngoài ra, 97% dân số trong độ tuổi lao động thuộc
nhóm 20% nghèo nhất là ở nông thôn. 65% dân số trong độ tuổi lao động thuộc nhóm
20% giàu nhất là ở đô thị. Sự chệnh lệch mức sống giữa thành thị và nông thôn là lớn hơn
rất nhiều so với sự chênh lệch này trong nội bộ mỗi khu vực. Vì vậy chênh lệch giữa
thành thị và nông thôn đóng góp chủ yếu ( tới 96%) vào mức độ phân tầng mức sống nói
chung trên quy mô toàn quốc.
Ngoài ra, phần lớn dân số trong độ tuổi lao động thuộc nhóm 20,5% giàu nhất sống ở
vùng Đông Nam Bộ (37%) đồng bằng sông Hồng (21%) và đồng bằng sông Cửu Long
(18%). Sống ở vùng miền núi phía Bắc chỉ có gần 7% và ở Bắc Trung Bộ là 6%. Từ bảng
số liệu cũng thấy rõ, năm 2012, thu nhập bình quân ở vùng Đông Nam Bộ (vùng cao
nhất) đạt 3,016 triệu đồng/tháng, cao gấp gần 3lần con số tương ứng của vùng trung du
và miền núi Tây Bắc (thấp nhất) là 0,998 triệu đồng/tháng. Mức chi tiêu bình quân
người/tháng của Đông Nam Bộ cũng cao hơn hẳn (đạt 2,086 triệu đồng) so với vùng Tây
Bắc ( đạt 0,987 triệu đồng).
Như vậy, xu hướng khác biệt theo vùng trong sự phân tầng xã hội cũng có thể được
khái quát như sau: Theo chiều không gian từ Nam ra Bắc, từ đồng bằng đến miền núi thì
sự phân hóa ở các tỉnh phía Nam rõ hơn ngoài Bắc, đồng bằng rõ hơn miền núi. Nếu lấy
các đô thị làm tâm và theo chiều từ đô thị về nộng thôn, về tiếp các vùng sâu, cùng xa thì
sự phân hóa ở đô thị diễn ra mạnh nhất, càng lan tỏa ra các vùng nông thôn xung quanh,
sự phân hóa càng yếu dần và hầu như còn phẳng lặng ở vùng miền núi.
2.1.4. Khác biệt về khu vực kinh tế.
Phân tầng mức sống liên quan đặc biệt rõ rệt theo các khu vực kinh tế. Phần lớn người

làm việc trong khu vực kinh tế thuộc về nhà nước có mức sống thuộc nhóm 20% giàu
nhất hoặc rơi vào 2 nhóm trên (75-80%). Hiện nay, đa số các doanh nghiệp nhà nước là
các doanh nghiệp lớn, các tập đoàn và tổng công ty nên chính sách tiền lương cho người
lao động cũng tốt hơn so với khu vực khác. Tuy nhiên, thu nhập của người lao động trong
các doanh nghiệp nhà nước đã bị giảm 6,9% trong năm 2012 . Tuy vậy, thu nhập của lao
động vẫn cao gấp 1,7 lần khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước và 1,2 lần khu vực doanh
nghiệp FDI. Tình hình cũng tương tự như vậy ở nhóm làm việc trong doanh nghiệp nước
ngoài. Chỉ có 1/3 lao động trong doanh nghiệp tư nhân và gần 1/5 lao động trong hộ sản
xuất kinh doanh nhỏ thuộc nhóm 20% giàu nhất. Khoảng 40% những người lao động
thuộc hợp tác xã, doanh nghiệp tư nhân và hộ sản xuất kinh doanh nhỏ thuộc nhóm có
mức sống dưới trung bình ¾ người thuộc nhóm 20% nghèo nhất là lao động trong hộ sản
xuất kinh doanh nhỏ và “ khác”, trong khi 60% người thuộc nhóm 20% giàu nhất làm
việc trong 3 khu vực nhà nước.
Như vậy, phân tầng mức sống gắn với những tiêu chí mang tính kinh tế - chính trị sau
đây: có khả năng sẽ có mức sống cao hơn nếu gắn với khu vực nhà nước ( bao gồm kinh
tế, hành chính, sự nghiệp, chính trị-xã hội), với khu vực chính quy ( chẳng hạn, doanh
nghiệp có đăng ký), với khu vực đầu tư nước ngoài. Ngược lại, mức sống thấp hơn
thường gắn với những người làm việc trong khu vực ngoài nhà nước, khu vực phi chính
qui ( như hộ sản xuất nhỏ, hợp tác xa, nếu xem hợp tác xa là một lĩnh vực bán chính quy).
2.1.5. Phúc lợi xã hội và phân tầng xã hội
Trợ cấp phúc lợi xã hội ( tức trợ cấp mang tính công cộng) là công vụ mà nhà nước có
thể sử dụng để làm giảm bớt những chệnh lệch quá lớn, bảo đảm công bằng xã hội hiện
nay. Tuy nhiên, những trợ cấp này yêu cầu còn chiếm tỷ trọng rất thấp trong tổng thu
nhập của dân cư ( khoảng 4,4%). Có nghĩa là dân cư VN chủ yếu có thu nhập từ lao động
cá nhân và gia đình. Thu nhập do phân phối mang lại tính xã hội còn thấp. Trong việc
phân phối phúc lợi xã hội, chiếm tỷ trọng cao nhất là chi cho bảo hiểm xã hội, bao gồm
chi hưu chí và mất sức lao động ( 82,4%), tiếp theo là chi cho bảo trợ xã hội (16%). Chi
cho xóa đói giảm nghèo là 1,1%. Tương quan giữa phúc lợi xã hội và phân tầng xã hội
chỉ ra rằng hiện nay chủ yếu là nhóm có mức sống “ trung bình” và “ trên trung bình”
được hưởng phúc lợi cao hơn các nhóm khác.

Tóm lại: Hiện trạng phân tầng xã hội ở VN là rất đặc trưng cho thời kì đầu chuyển đổi
từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường dưới sự quản lý của nhà
nước xã hội chủ nghĩa.
2.2. Nguyên nhân cơ bản của phân tầng xã hội
Có hàng loạt nguyên nhân dẫn đến phân tầng xã hội, đặc biệt là các nguyên nhân
kinh tế - xã hội như: sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư, cơ cấu nghề nghiệp,
trình độ học vấn, vai trò của quyền lực, tính chất độc quyền hoặc có ưu thế của một số
ngành, lĩnh vực hoạt động,
Trước hết, đó là tác động của quá trình thực hiện công bằng xã hội trong điều kiện
cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước.
Về kinh tế, việc chú trọng và tập trung quá mức các hình thức đầu tư vào đô thị và
công nghiệp, tác động của việc tập trung đất đai ở một số vùng, việc sử dụng không hợp
lý các nguồn lực trong và ngoài nước vì lợi ích của một số vùng đô thị, sự hình thành
những người hưởng lợi trung gian và nhóm đặc quyền đặc lợi, những cản trở ngại lớn đối
với các doanh nghiệp địa phương và nông thôn trong việc tiếp cận tới thị trường là những
yếu tố có tác động nhất định đến phân tầng xã hội.
Việc thị trường hoá các dịch vụ xã hội (đặc biệt sự phát triển các dịch vụ tư nhân
trong giáo dục và y tế) đã gây tác động tiêu cực, làm tăng cường sự phân tầng xã hội, đặc
biệt đối với nhóm nghèo.
Học vấn được thừa nhận là một yếu tố tác động quan trọng đối với sự phân tầng xã
hội. Bên cạnh đó, hai yếu tố tác động khác, rất quan trọng là quyền lực và môi trường
pháp ý hiện nay ở nước ta.
Quyền lực ở đây được hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm cả quyền lực kinh tế (các
nguồn lực, đặc biệt là tiền vốn), hành chính, chính trị, xã hội (các quan hệ). Trong nhiều
trường hợp, các quyền lực này thường được kết hợp với nhau, cùng phát huy sức mạnh
và kết quả là đã hình thành nên một “tầng lớp trung lưu” mới. Đã quan sát thấy một số
gia đình hội nhập được nhiều nguồn lực để gia nhập nhóm trung lưu trong một thời gian
ngắn.
Môi trường pháp lý ở Việt Nam rõ ràng là còn chưa hoàn thiện, chưa ổn định và
có nhiều khiếm khuyết. Nhiều đạo luật còn thiếu đang được bổ sung. Những cái đã có

cũng cần được sửa đổi, hoàn thiện thường xuyên. Tính khả thi của nhiều đạo luật và văn
bản dưới luật còn chưa cao, điều này tất yếu tạo ra nhiều khe hở cho các hành động thao
túng pháp luật, làm giàu bất chính. Đây là một trong những tác nhân tiêu cực, làm gia
tăng phân tàng xã hội một cách không bình thường.
2.3. Những tác động của phân tầng xã hội hiện nay
2.3.1. Tác động tích cực
Mặt tích cực của phân tầng xã hội là khơi dậy, thúc đẩy tính tích cực, năng động, chủ
động, sáng tạo của mỗi cá nhân, nhóm xã hội trong việc phát hiện khai thác các cơ hội để
làm giàu chính đáng, vươn lên thành đạt trong các lĩnh vực của đời sống, thích ứng nhanh
với cơ chế thị trường. Những biến đổi trong cơ cấu giai tầng xã hội dưới tác động của
phân tầng xã hội có tác động tích cực, góp phần kích thích mạnh mẽ sự chuyển đổi mô
hình và cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển hợp lý, bền vững, làm tăng tính cơ động xã
hội và sự phân công lại lao động xã hội phù hợp với yêu cầu phát triển mới của đất nước.
Thông qua phân tầng xã hội mà sàng lọc, tuyển chọn, hình thành được những tầng lớp
mới, những nhóm ưu tú, vượt trội, có những phẩm chất và năng lực cần thiết, thích ứng
được với sự biến đổi của xã hội. Nhìn chung, sự phân tầng xã hội có xu hướng chuyển
mạnh và rõ nét từ trì trệ, khép kín sang cởi mở, năng động, linh hoạt, mềm dẻo nhằm tạo
ra các cơ hội và đáp ứng tốt hơn các nhu cầu ngày càng đa dạng, phong phú của các cá
nhân và các giai tầng xã hội trong nền kinh tế thị trường.
2.3.2. Tác động tiêu cực
Bên cạnh đó, những tác động tiêu cực của phân tầng xã hội cũng rất đáng lưu ý vì
chúng có thể trở thành nguyên nhân gây ra những sự bất ổn định xã hội.
a) Sự phân tầng xã hội gia tăng làm cho khác biệt giàu - nghèo ngày càng dãn
rộng. Những cơ hội phát triển cho người giàu sẽ nhiều hơn. Những khác biệt như vậy
diễn ra trước hết trong lĩnh vực kinh tế (cơ hội có việc làm, tăng thu nhập ) sau đó sẽ
lan sang các lĩnh vực khác như giáo dục (cơ hội có học vấn cần thiết để vào đời, đặc biệt
là cho thanh niên), chăm sóc sức khoẻ, nhà ở và các dịch vụ cơ bản khác.
Những thành quả của công cuộc Đổi mới, do vậy không phải tất cả các nhóm xã
hội đều được thụ hưởng ở mức độ tương xứng với sự đóng góp của họ. Rõ ràng đó là
những hậu quả không mong muốn khi chúng ta xây dựng nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa, và theo đuổi những nguyên tắc công bằng xã hội. Và một khi
những bất bình đẳng xã hội vượt quá mức hạn hợp lý của chúng sẽ có thể gây nên những
bất ổn định, tiêu cực và xung đột xã hội.
b) Trong điều kiện quá độ sang nền kinh tế thị trường, hiện tượng phân tầng xã hội
thường có những biểu hiện bột phát, cực đoan. Sự đối lập, đôi khi đến mức tương phản 2
cực giàu - nghèo trong đời sống cũng đặt ra nhiều vấn đề mà xã hội phải có trách nhiệm
lưu tâm.
Xuất hiện những nhóm xã hội dễ bị tổn thương trong cơ chế thị trường. Những hộ
nghèo, phụ nữ, trẻ em, người già, dân nhập cư tự do, Và đặc biệt khi nhóm người nghèo
lại rơi vào một số gia đình là đối tượng quan tâm của các chính sách xã hội thì vấn đề
càng trở nên phức tạp hơn.
c) Trên bình diện lối sống, phân tầng xã hội góp phần tạo ra sự đa dạng trong các
hình mẫu lối sống. Đáng lưu ý là sự phát triển của lối sống tiêu dùng trong bộ phận dân
cư khá giả, đặc biệt trong nhóm giàu “mới”. Trong khi đó nhóm người nghèo bị bần cùng
hoá, cũng sẽ hành động không như xã hội mong đợi. ở cả hai cực của sự phân hoá đó đều
chứa đựng nguy cơ tiềm tàng gây ra những bất ổn định xã hội.
d) Và cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng, là những tác động về mặt tư
tưởng, tâm lý, niềm tin về công bằng xã hội, một khái niệm vốn gắn bó với mô hình của
nghĩa xã hội trước đây trong một bộ phận dân cư (người già, người về hưu, các gia đình
chính sách, ). Bên cạnh đại đa số chấp nhận tính tất yếu của sự phân tầng xã hội, vẫn
còn một bộ phận dân cư coi đó là hiện thượng không bình thường, khó chấp nhận và dễ
tạo ra một tâm lý xã hội bi quan trước tác động của cơ chế thị trường.
Phân tầng xã hội với hai mặt tích cực và tiêu cực nêu trên, vừa là kết quả của sự phát
triển kinh tế - xã hội, sự phân công lao động trong cơ chế thị trường, vừa là động lực vừa
là lực cản của quá trình đó, tùy thuộc vào năng lực quản trị xã hội của hệ thống quản lý
xã hội. Điều đó đòi hỏi phải có những nghiên cứu sâu rộng hơn về phân tầng xã hội, qua
đó giúp cơ quan quản lý hiểu rõ hơn xu hướng vận động của cơ cấu xã hội với các giai
tầng khác nhau trong nền kinh tế thị trường, từ đó có những chính sách, giải pháp quản trị
phù hợp, phát huy mặt tích cực, hạn chế mặt tiêu cực, bảo đảm sự ổn định và phát triển
xã hội bền vững.

III. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ PHÂN TẦNG XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY.
Phân tầng xã hội là một hiện tượng khách quan, phổ biến và khó có thể tránh khỏi.
Chúng ta cần có những giải pháp để khắc phục những tác động tiêu cực và khuếch trương
mặt tích cực của phân tầng xã hội trong quá trình thực hiện công bằng xã hội. Đây là một
vấn đề mang tính lâu dài và cần có những giải pháp đồng bộ, hỗ trợ lẫn nhau và cần phải
có một thái độ tích cực nhất để có thể giải quyết vấn để một cách hiệu quả nhất.
Có thể gộp thành 3 nhóm giải pháp chính như sau:
3.1. Tạo cơ hội bình đẳng cho tất cả các tầng lớp dân cư, phát triển con người và
phát triển nông thôn.
Đảng ta đã chủ trương phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, khuyến khích
mọi tầng lớp dân cư đầu tư sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên trên thực tế, vẫn còn sự phân
biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế khác nhau, người dân vẫn chưa có được niềm tin
đầy đủ khi đầu tư phát triển sản xuất. Môi trường kinh doanh bất ổn định và thiếu tính
minh bạch là căn nguyên của sự trì trệ trong sản xuất và nảy sinh nhiều hiện tượng xã hội
tiêu cưc, vì vậy nó cản trở cả tăng trưởng kinh tế và làm gia tăng bất bình đẳng.
Cần tạo ra mặt bằng pháp lý chung đối với mọi thành phần kinh tế. Vai trò chủ đạo của
kinh tế nhà nước phải được hiểu là sức mạnh tự thân do tính ưu việt của thành phần kinh
tế đó so với các thành phần kinh tế khác do đó mà có lợi thế cạnh tranh trong môi trường
pháp lý như nhau. Các chính sách về thị trường lao động, tín dụng, tiêu thụ sản phẩm bao
gồm cả hoạt động ngoại thương cần được thống nhất cho mọi thành phần kinh tế.
Môi trường kinh doanh bình đẳng trong một nền kinh tế thị trường tự nó tạo ra động
lực cho đầu tư. Đầu tư công bằng có một ưu thế và vai trò đặc biệt trong việc giải quyết
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, do nó có khả năng kết hợp những
lợi ích nước mắt và lâu dài, hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội.
Nếu nhà nước vẫn tiếp tục hỗ trợ các doanh nghiệp quốc doanh làm ăn kém hiệu quả
thì nguồn vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng và giáo dục sẽ giảm đi. Đầu tư của nhà nước lúc
đó sẽ bị tổn thất cả trong ngắn hạn và dài hạn. Kết quả là sẽ không được bảo đảm được cả
tăng trưởng kinh tế lẫn công bằng xã hội.
Vì vậy, đầu tư của nhà nước nên tập trung vào cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội cũng
như các ngành và lĩnh vực mang lại những lợi ích dài hạn, cung cấp những hàng hóa

công cộng, tạo dựng môi trường kinh doanh cho các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần
kinh tế, đầu tư có mục tiêu xã hội. Chẳng hạn những khoản đầu tư để duy trì các xí
nghiệp quốc doanh làm ăn thua lỗ sẽ được chuyển sang đầu tư cho phát triển cơ sở hạ
tầng nông thôn hoặc trợ giúp phát triển nông nghiệp ở những vùng khó khăn.
Phát triển con người là yếu tố quan trọng bậc nhất để đảm bảo tăng trưởng kinh tế và
giảm nghèo đói. Lợi thế cạnh tranh của một quốc gia cũng như cơ sở đảm bảo cho sự
phát triển bền vững trong những thập kỷ tới phụ thuộc rất nhiều vào trình độ phát triển
con người ở mỗi nước. Sự phân hoá giàu nghèo cũng có nguyên nhân một phần bởi sự
khác biệt về trình độ học vấn nói riêng và sự phát triển con người (bao gồm cả thể chất và
tinh thần) nói chung.
Phát triển con người cũng cần nhìn từ hai phía: vừa phải xoá đói giảm nghèo, hỗ trợ
người nghèo, đặc biệt cho các nhóm thiệt thòi, đồng thời phải khuyến khích sự vượt trội,
làm giàu chính đáng, hợp pháp, góp phần tạo lực đẩy cho sự tăng trưởng kinh tế và phát
triển con người. Nguyên tắc là hỗ trợ, nâng đỡ các nhóm xã hội bị thiệt thòi, không có lợi
thế, song lại không được làm thui chột động lực kích thích những nhóm có ưu thế hay
những nhóm vượt trội tiếp tục phát triển lành mạnh, đúng hướng và hợp pháp.
Nâng cao học vấn và dân trí là một biện pháp có ý nghĩa trước mắt và lâu dài. Tăng
cường đầu tư cho giáo dục nghề nghiệp bao gồm cả tái đào tạo nghề nghiệp người giúp
cho người trong độ tuổi lao động có thể dễ dàng thích ứng với những đòi hỏi thường
xuyên biến đổi của thị trường lao động.
Cải cách giáo dục toàn diện nhằm làm cho hệ thống giáo dục gắn liền với yêu cầu phát
triển của đất nước. Tăng cường đầu tư cho giáo dục bằng nhiều nguồn khác nhau, trong
đó đầu tư từ ngân sách cần tăng lên tới mức 15% - 25% như các nước khác.
Phát triển nông thôn là một trong những biện pháp, chính sách đặc thù mang tính ưu
tiên ở nước ta. Nhìn từ góc độ tăng trưởng và công bằng xã hội bao gồm:
- Khuyến khích đa dạng hoá nông nghiệp nhằm tạo ra nhiều việc làm phi nông
nghiệp, tăng thu nhập cho cư dân nông thôn.
- Ưu tiên đầu tư vào kỹ thuật nông nghiệp, cơ sở hạ tầng nông thôn.
- Khuyến khích dịch chuyển lao động ra khỏi ngành nông nghiệp.
- Phát triển công nghiệp nông thôn, chú trọng xây dựng các điểm đô thị ở các vùng

nông nghiệp.
- Có chính sách ưu đãi về tài chính, tiêu thụ sản phẩm đối với khu vực nông nghiệp,
tăng khả năng tiếp cận các nguồn vốn cho nông dân, đặc biệt là các hộ nông dân nghèo.
- Thực hiện triệt để việc giao quyền sử dụng đất đai lâu dài.
3.2. Hoàn thiện các chính sách phân phối và phân phối lại có tác động trực tiếp đến
việc tạo lập công bằng xã hội và điều tiết quá trình phân hoá xã hội.
Trong đó có hai chính sách quan trọng là chính sách thuế và chính sách tiền lương.
Chính sách thuế và các biện pháp kiểm soát hợp lý góp phần điều chỉnh thu nhập, phân
bổ sử dụng ngân sách cho các mục tiêu xã hội, phát triển con người, giảm bớt sự khác
biệt quá lớn giữa thành thị và nông thôn, đồng bằng và miền núi, giữa các vùng miền, các
nhóm xã hội
Chính sách thuế cũng phải khuyến khích hoạt động kinh doanh và tạo cơ hội cho các
tầng lóp nghèo có khả năng tăng thu nhập, cần giảm hoặc miễn thuế đối với các hoạt
động nông nghiệp, kinh doanh nhỏ hoặc những hoạt động tự làm của những người lao
động. Đối với các hoạt động kinh doanh lớn, công cụ thuế có tác động không chỉ phân
phối lại mà có có nghĩa là những khoản tái đầu tư cho tương lai.
Chính sách tiền lương, đặc biệt là tiền lương trong khu vực hành chính sự nghiệp cần
được cải cách sao cho tiền lương phản ánh đúng giá trị sức lao động. Từ đó có thể “chính
thức hóa” các nguồn thu nhập, loại trừ các hình thức thu nhập không chính thức ngoài
lương, vừa không thể kiểm soát được, vừa là kẻ hở cho các loại hình tham nhũng, lãng
phí. Lúc đó tiền lương mới thực sự là "đòn bẩy" khuyến khích nâng cao hiệu quả, năng
suất và chất lượng lao động, mới có cơ sở kinh tế cho việc duy trì trật tự và kỷ cương
trong kinh tế.
Hoàn thiện hệ thống các chính sách xã hội, BHXH, an sinh xã hội, đặc biệt đối với các
tầng lớn nghèo, những người dễ bị tổn thương trước những biến động trong đời sống kinh
tế xã hội. Nhà nước cần tạo điều kiện để các tầng lớp nghèo có thể tiếp cận đến các
nguồn tài chính, cũng như tạo cơ sở để đảm bảo cho họ giải quyết các khó khăn khi gặp
bất trắc (thiên tai, mất mùa, bệnh tật, )
3.3. Hoàn thiện môi trường pháp lý đế thế chế.
Bao gồm: cải cách hành chính, làm trong sạch bộ máy nhà nước nhằm ngăn ngừa sự

làm giàu bất hợp pháp; chống tham nhũng và phát huy dân chủ cũng là những giải pháp
nhằm tạo lập cơ sở xã hội và thể chế cho tăng trưởng trong công bằng.
KẾT LUẬN
Nhìn chung, khi nói về thực trạng phân tầng xã hội ở nước ta hiện nay, có thể khẳng
định rằng: đang tồn tại khá phổ biến sự phân tầng xã hội theo mức sống, thu nhập. Tính
phổ biến của hiện tượng thể hiện ở chỗ: sự phân tầng diễn ra ở mọi địa bàn ( đô thị, nông
thôn, vùn miền địa lý- lạnh thổ) trong suốt quá trình phát triển và trong mọi bộ phận hợp
thành của cơ cấu xã hội.
Về cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu PTXH ở Việt Nam trong đề tài này mới
chỉ là nghiên cứu về sự phân hoá giàu nghèo, khoảng cách giữa các nhóm theo chỉ báo
kinh tế, thu nhập, mức sống. Tức là, nhóm mới chỉ nghiên cứu về hệ thống phân tầng
theo địa vị kinh tế, tuy nhiên đây là hệ thống phân tầng cơ bản và có ảnh hưởng lớn tới
hai lĩnh vực phân tầng còn lại( địa vị chính trị và địa vị xã hội). Và từ đó chúng ta cũng
có thể thấy được phần nào tình hình phân tầng xã hội ở nước ta hiện nay, những vấn đề
cần đặt ra và một số giải pháp hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực từ phân tầng xã hội
mang lại.
Tài liệu tham khảo:
- Giáo trình Xã hội học_ Lê Tất Dong, Lê Ngọc Hùng.
- Tổng cục thống kê: số liệu về khảo sát mức sống hộ gia đình năm 2012.
- Các webside: dantri.com.vn, nld.com.vn, baodientu.chinhphu.vn, luanvan.net.vn,…
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập- Tự do- Hạnh phúc
BIÊN BẢN ĐÁNH GIÁ THẢO LUẬN
Môn: Xã hội học đại cương.
Nhóm: 02
ST
T
Họ tên Công việc Điểm tự
đánh giá
Nhóm

trưởng
đánh giá
Chữ ký
1 Đinh Thị Châu Hoàn chỉnh bài
2 Đỗ Thị Đào Làm slide
3 Nguyễn Tiến Đức Thuyết trình
4 Trần Thị Thu Hà Lý thuyết
5 Nguyễn Thị Thu Hà Lý thuyết
6 Phạm Thị Thanh Hiền Thực trạng
7 Phạm Thảo Hương Thực trạng
8 Vũ Thị Diệu Linh Giải pháp
9 Nguyễn Thị Thơ Giải pháp
Hà Nội, ngày tháng 5 năm 2014
Thư ký Nhóm trưởng

×