Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích hoạt động kinh doanh của Ngân hàng TMCP Quân đội giai đoạn 20032008 và dự đoán cho các năm tiếp theo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (528.51 KB, 90 trang )

Chuyên đề thực tập

MC LC

SV: Ngô Thị Minh Hiền
Khoa: Thống kª kinh doanh


Chuyên đề thực tập

LI M U
Ngõn hng l mt trong những tổ chức tài chính quan trọng nhất của
nền kinh tế. Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi
nền kinh tế. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức
kinh tế- xã hội đều gửi tiền tại ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trị là người
thủ quỹ cho toàn xã hội. Thu nhập từ Ngân hàng là nguồn thu nhập quan
trọng của nhiều hộ gia đình. Ngân hàng là tổ chức cho vay chủ yếu đối với
các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần đối với Nhà nước. Đối
với các doanh nghiệp, ngân hàng thường là tổ chức cung cấp tín dụng để phục
vụ cho việc mua hàng hóa dự trữ hoặc xây dựng nhà máy, mua sắm trang thiết
bị. Khi doanh nghiệp và người tiêu dùng phải thanh tốn cho các khoản mua
hàng hóa và dịch vụ, họ thường sử dụng séc, uỷ nhiệm chi, thẻ tín dụng hay
tài khoản điện tử....Ngân hàng là một trong những tổ chức trung gian tài chính
quan trọng nhất, thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền
tệ, vì vậy, nó là một kênh quan trọng trong chính sách kinh tế của Chính phủ
nhằm ổn định kinh tế.
Phân tích hoạt động kinh doanh là một cơng tác có tầm quan trọng đặc biệt
giúp cho các nhà quản lý đánh giá hoạt động ngân hàng, xây dựng các mục
tiêu và tìm biện pháp nâng cao hơn nữa hiệu quả hoạt động. Cơng tác phân
tích sẽ làm rõ thực trạng hoạt động ngân hàng, những nhân tố tác động tới
thực trạng đó, so sánh với các tổ chức tín dụng khác nhằm thúc đẩy cạnh


tranh. Ban lãnh đạo ngân hàng phải thường xuyên phân tích hoạt động của
ngân hàng để phát hiện kịp thời mặt mạnh, chỗ yếu của đơn vị mình, trên cơ
sở đó có những biện pháp thích hợp trong sử dụng lao động, vốn, góp phần
hạn chế rủi ro và nâng cao lợi nhuận cho ngân hàng.
Phương pháp thống kê là công cụ rất hữu hiệu để phân tích hoạt động
kinh doanh của ngân hàng. Con số thống kê là cơ sở quan trng kim nh,
SV: Ngô Thị Minh Hiền
Khoa: Thống kê kinh doanh

1


Chuyên đề thực tập

ỏnh giỏ tỡnh hỡnh thc hin k hoạch, chiến lược mà ngân hàng đề ra. Từ đó,
giúp ngân hàng có thể dự báo, hoạch định chiến lược, xây dựng kế hoạch phát
triển trong ngắn hạn và dài hạn. Qua thời gian thực tập tại Ngân hàng TMCP
Quân đội, em nhận thấy phương pháp thống kê rất quan trọng trong cơng tác
hoạt động của Ngân hàng. Chính vì vậy, em đã chọn đề tài: “ Vận dụng một
số phương pháp thống kê phân tích hoạt động kinh doanh của Ngân hàng
TMCP Quân đội giai đoạn 2003-2008 và dự đoán cho các năm tiếp theo”
làm chuyên đề thực tập của mình.
Kết cấu chuyên đề của em bao gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề cơ bản và đặc trưng hoạt động kinh doanh của
Ngân hàng thương mại
Chương II: Một số chỉ tiêu và phương pháp thống kê phân tích hoạt động
kinh doanh của Ngân hàng thương mại.
Chương III: Vận dụng một số phương pháp thống kê phân tích hoạt động
kinh doanh của Ngân hàng TMCP Quân đội giai đoạn 20032008 và dự đoán cho các năm tiếp theo.
Đây là một đề tài nghiên cứu rộng và phức tạp. Do trình độ cịn hạn chế

nên bài chun đề của em khơng tránh khỏi thiếu sót. Kính
mong thầy giúp đỡ em để bài chun đề của em được hồn
thiện hơn.

SV: Ng« Thị Minh Hiền
Khoa: Thống kê kinh doanh

2


Chuyên đề thực tập

CHNG I
NHNG VN C BN V ĐẶC TRƯNG HOẠT ĐỘNG KINH
DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
I. Những vấn đề cơ bản về Ngân hàng thương mại:
1.Khái niệm và bản chất của Ngân hàng thương mại:
1.1. Khái niệm:
Ở mỗi nước có một cách định nghĩa riêng về ngân hàng thương mại. Ví
dụ: Ở Mỹ: ngân hàng thương mại là một công ty kinh doanh chuyên cung cấp
các dịch vụ tài chính và họat động trong ngành dịch vụ tài chính. Ở Pháp:
ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở nào thường xuyên nhận
tiền của cơng chúng dưới hình thức kí thác hay hình thức khác các số tiền mà
họ dùng cho chính họ vào nghiệp vụ chiết khấu, tín dụng hay dịch vụ tài
chính. Ở Ấn Độ: ngân hàng thương mại là cơ sở nhận các khoản kí thác để
cho vay hay tài trợ và đầu tư. Ở Thổ Nhĩ Kì: ngân hàng thương mại là hội
trách nhiệm hữu hạn thiết lập nhằm mục đích nhận tiền kí thác và thực hiện
các nghiệp vụ hối đối, nghiệp vụ cơng hối phiếu, chiết khấu và những hình
thức vay mượn khác…
Ở Việt Nam, theo quy định tại điều 20 khoản 2 và 7 Luật các tổ chức tín

dụng (luật số 02/1997/QH10) được Quốc hội nước cộng hồ xã hội chủ nghĩa
Việt Nam ban hành thì: Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp kinh
doanh tiền tệ, là một tổ chức tín dụng thực hiện huy động vốn nhàn rỗi từ các
chủ thể trong nền kinh tế để tạo lập nguồn vốn tín dụng và cho vay phát triển
kinh tế, tiêu dùng cho xã hội.
1.2. Bản chất:
- NHTM là một tổ chức kinh tế.
- NHTM hoạt động mang tính chất kinh doanh.
- NHTM hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ tín dụng và dịch vụ
ngân hng.
SV: Ngô Thị Minh Hiền
Khoa: Thống kê kinh doanh

3


Chuyên đề thực tập

Ngõn hng va l ngi cung cp đồng vốn, đồng thời cũng là người
“tiêu thụ” đồng vốn của khách hàng. Tất cả những hoạt động “mua, bán” này
thường thông qua một số công cụ và nghiệp vụ của ngân hàng. Là một doanh
nghiệp kinh doanh đồng vốn, NHTM ln tìm cách tối đa hố lợi nhuận.
NHTM kiếm lợi nhuận bằng cách đi vay và cho vay. Để thu hút tiền vào,
ngân hàng đưa ra các điều kiện thuận lợi cho người gửi tiền. Tiếp đó, ngân
hàng phải tìm ra những cách có lợi để đem cho vay những gì đã vay được.
Với tư cách là trung gian tài chính,ngân hàng hoạt động theo nguyên tắc phát
hành các phiếu ghi nợ (sổ tiết kiệm, tín phiếu, mở tài khoản...) để thu hút tiền
của cơng chúng, sau đó sử dụng tiền vay được để mua các chứng khoán (cổ
phiếu, trái phiếu, vật cầm cố...) và để cho vay. Nói theo ngôn ngữ thị trường,
ngân hàng thu nhận vốn bằng cách bán (phát hành) các tài sản nợ (nguồn

vốn), rồi vốn này có thể dùng để mua những tài sản có (cho vay, đầu tư vào
các giấy tờ có giá...) mang lại thu nhập.
Sơ đồ: Hoạt động của Ngân hàng thương mại

Các DN,
cá nhân

Gửi tiền
Thanh toán

Ngân hàng
thương mại

Tiết kiệm

Cho vay
Cung cấp

Các DN,
cá nhân
khác

Dịch vụ NH

2. Đặc điểm của Ngân hàng thương mại:
- NHTM là một doanh nghiệp đặc thù kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệtín dụng. Các hoạt động của NHTM nhằm thúc đẩy và lưu chuyển các dòng
tiền tệ phục vụ cho việc giao dịch, thanh toán phát sinh hàng ngày trong nền
kinh tế, đồng thời thông qua các hoạt động huy động vốn và cho vay các
NHTM có khả năng tạo tiền từ các nghiệp vụ kinh doanh của mình thơng qua
các cơng cụ lãi suất, tỷ giá.

- Sản phẩm, hàng hoá mà NH kinh doanh và lm dch v l hng húa ti
SV: Ngô Thị Minh HiỊn
Khoa: Thèng kª kinh doanh

4


Chuyên đề thực tập

chớnh (ti sn ti chớnh) ú l tiền và các chứng từ có giá như cổ phiếu,
thương phiếu, hối phiếu, trái phiếu, tín phiếu...đó là sản phẩm cao cấp của nền
kinh tế thị trường. Vì vậy, nó vận động theo một quy trình và phải được điều
hành bởi nguồn nhân lực có trình độ chun mơn nhất định, dựa trên những
cơ sở pháp lý do Luật pháp quy định.
- Trong q trình hoạt động, NHTM khơng tạo ra sản phẩm dở dang, tồn kho
mà tạo ra sản phẩm hàng hoá trực tiếp cung ứng cho người tiêu dùng khi có nhu
cầu, bởi lẽ đó hoạt động của NH dựa vào thương hiệu, uy tín tạo ra đối với khách
hàng. Vì vậy, các NH phải khơng ngừng nâng cao chất lượng, dịch vụ cung cấp
và không ngừng quảng bá tiếp thị hình ảnh của mình tới khách hàng.
- Hoạt động của NH là cầu nối giữa các nhà đầu tư, các doanh nghiệp, cá
nhân có vốn nhàn rỗi và các nhà đầu tư, các doanh nghiệp, các cá nhân có nhu
cầu vay vốn. Vì vậy, các NH góp phần không nhỏ vào việc giải quyết nạn thất
nghiệp, nâng cao thu nhập và mức sống của dân cư, góp phần ổn định trật tự
xã hội cũng như góp phần đảm bảo vốn đối với các ngành kinh tế nhằm phát
triển ngành nghề, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong một quốc gia.
3. Chức năng của Ngân hàng thương mại:
3.1.Chức năng trung gian tín dụng:
Đây là chức năng đặc trưng và cơ bản nhất của NHTM và có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Quan hệ tín dụng trực tiếp giữa chủ thể có tiền chưa sử dụng và chủ thể có

nhu cầu tiền tệ cần bổ sung gặp phải nhiều hạn chế. Hoạt động tín dụng của
NHTM đã góp phần khắc phục các hạn chế đó. Thực hiện chức năng này, một
mặt, NHTM huy động và tập trung các nguồn vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi
của các chủ thể trong nền kinh tế để hình thành nguồn vốn cho vay; mặt khác,
trên cơ sở vốn đã huy động được, ngân hàng cho vay để đáp ứng nhu cầu vốn
sản xuất, kinh doanh, tiêu dùng ...của các chủ thể kinh tế, góp phần đảm bảo
sự vận động liên tục của guồng máy kinh tế xã hội, thúc đẩy tăng trưởng kinh
SV: Ng« Thị Minh Hiền
Khoa: Thống kê kinh doanh

5


Chuyên đề thực tập

t. Nh vy, NHTM va l ngi đi vay vừa là người cho vay, hay nói cách
khác, nghiệp vụ tín dụng của NHTM là đi vay để cho vay.
Vốn sản xuất kinh doanh của các chủ thể trong nền kinh tế vận động liên
tục và biểu hiện các hình thái khác nhau qua mỗi giai đoạn của q trình sản
xuất, tạo thành chu kỳ tuần hồn và luân chuyển vốn, điểm xuất phát và kết
thúc của một vịng tuần hồn này thể hiện dưới dạng tiền tệ. Trong quá trình
sản xuất kinh doanh, để duy trì hoạt động liên tục đòi hỏi vốn của các doanh
nghiệp phải đồng thời tồn tại ở 3giai đoạn: dự trữ- sản xuất- lưu thơng. Từ đó
xảy ra hiện tượng thừa và thiếu vốn tạm thời: tại một thời điểm nhất định có
những đơn vị kinh tế có vốn tiền tệ tạm thời nhàn rỗi (thừa vốn) và có những
đơn vị khác tạm thời thiếu vốn. Hiện tượng này làm nảy sinh yêu cầu ngày
càng bức thiết phải giải quyết cho được vấn đề điều hồ vốn. NHTM với vai
trị là một trung gian tín dụng đứng ra tập trung và phân phối lại vốn tiền tệ,
điều hoà cung và cầu vốn trong các doanh nghiệp của nền kinh tế, đã góp
phần điều tiết các nguồn vốn, tạo điều kiện cho quá trình sản xuất kinh doanh

của các doanh nghiệp khơng bị gián đoạn.
Để mở rộng sản xuất, đối với từng doanh nghiệp yêu cầu về vốn là một
trong những mối quan tâm hàng đầu được đặt ra. Các doanh nghiệp không thể
chỉ trơng chờ vào vốn tự có, mà cịn phải biết dựa vào vốn của nhiều nguồn
khác nhau trong xã hội. NHTM với tư cách là nơi tập trung đại bộ phận vốn
nhàn rỗi, sẽ là trung tâm đáp ứng nhu cầu vốn bổ sung cho đầu tư phát triển.
Như vậy, tín dụng ngân hàng vừa giúp cho doanh nghiệp rút ngắn được thời
gian tích luỹ vốn nhanh chóng cho đầu tư mở rộng sản xuất, vừa góp phần
đẩy nhanh tốc độ tập trung và tích luỹ vốn cho nền kinh tế.
Ngày nay, quan niệm vai trị trung gian tín dụng trở nên biến hoá hơn. Sự
phát triển của thị trường tài chính làm xuất hiện những khía cạnh khác của
chức năng này. Ngân hàng có thể đứng làm trung gian giữa công ty (khi phát
hành cổ phiếu ) với những nhà đầu tư: chuyển giao các mệnh lệnh trên th
SV: Ngô Thị Minh Hiền
Khoa: Thống kê kinh doanh

6


Chuyên đề thực tập

trng chng khoỏn; m nhn vic mua bán trái phiếu công ty...theo cách
này, ngân hàng làm trung gian giữa người đầu tư và người cần vay vốn trên
thị trường.
Do đó, ngân hàng khơng chỉ làm trung gian giữa người gửi tiền và người
vay tiền mà còn làm trung gian giữa người đầu tư và người cần vay vốn trên
thị trường. Những trung gian tài chính làm việc này để kiếm lời bằng việc đặt
ra một lãi suất cao hơn cho các món vay so với món lãi họ thanh toán cho
người cho vay. Như vậy,tác dụng của trung gian tài chính là giảm thiểu những
chi phí thơng tin và chi phí giao dịch trong nền kinh tế.

Thơng qua chức tín dụng, NHTM đã góp phần điều hồ vốn trong nền
kinh tế, đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục, là cầu nối
giữa tiết kiệm, tích luỹ và đầu tư, động viên vật tư hàng hố đưa vào sản xuất
lưu thơng, mở rộng nguồn vốn thúc đẩy tiến bộ kỹ thuật, đẩy nhanh quá trình
tái sản xuất.
3.2.Chức năng làm trung gian thanh tốn và quản lý các phương tiện
thanh toán:
Trong NHTM, chức năng trung gian thanh tốn gắn bó chặt chẽ và hữu cơ
với chức năng trung gian tín dụng: ngân hàng dùng số tiền gửi của người này
để cho người khác vay. Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, họ sẽ được
đảm bảo an toàn trong việc cất giữ tiền và thực hiện thu chi một cách nhanh
chóng, tiện lợi, nhất là đối với các khoản thanh tốn có giá trị lớn. NHTM ra
đời và phát triển, thì hầu hết các khoản thanh toán chi trả về hàng hoá, dịch vụ
giữa các chủ thể kinh tế đều được chuyển giao cho ngân hàng thực hiện. Mọi
quan hệ thanh toán được thực hiện bằng cách các chủ thể mở tài khoản tại
ngân hàng và yêu cầu ngân hàng thực hiện các khoản chi trả hoặc uỷ nhiệm
cho ngân hàng thực hiện việc thu nhận các khoản tiền vào tài khoản của mình.
Trong khi làm trung gian thanh toán, ngân hàng tạo ra những cơng cụ lưu
thơng tín dụng và độc quyền quản lý cỏc cụng c ú (sec, giy chuyn ngõn,
SV: Ngô Thị Minh HiỊn
Khoa: Thèng kª kinh doanh

7


Chuyên đề thực tập

th thanh toỏn...) ó tit kim cho xã hội rất nhiều về chi phí lưu thơng, đẩy
nhanh tốc độ luân chuyển vốn, thúc đẩy quá trình lưu thơng hàng hố. Ban
đầu ngân hàng đã sử dụng tiền ngân hàng thay cho tiền vàng trong lưu thông

tiết kiệm được chi phí đúc tiền, vận chuyển, bảo quản và hao mịn tiền vàng
trong lưu thơng. Kế tiếp, ngân hàng lại sử dụng các cơng cụ lưu thơng tín
dụng như séc, giấy chuyển ngân, thẻ thanh toán...để thay thế cho tiền mặt, đã
tiết kiệm được nhiều chi phí trong việc in, đếm, vận chuyển tiền. Từ các
phương tiện thanh toán, khách hàng của ngân hàng không phải chi trả với
nhau bằng những bao tiền mặt rất tốn kém, mà chỉ cần ra lệnh NHTM thông
qua các phương tiện, ngân hàng sẽ ghi nợ cho tài khoản người này, ghi có cho
tài khoản người kia nhanh chóng.
Việc làm trung gian thanh toán của ngân hàng ngày nay đã phát triển đến
mức đa dạng, khơng chỉ là trung gian thanh tốn truyền thống như trước, mà
còn quản lý các phương tiện thanh toán. Ở các nước phát triển và các nước
đang phát triển, phần lớn cơng tác thanh tốn được thực hiện thơng qua séc và
phần lớn séc thanh tốn ở trong nước được thực hiện bằng thanh tốn bù
trừ,thơng qua hệ thống NHTM. Nếu việc phát hành séc để rút tiền từ tài khoản
tiền gửi và ký thác trong cùng một ngân hàng chỉ là một động tác làm chuyển
dịch vốn từ tài khoản này sang tài khoản khác và nếu chỉ 2ngân hàng trong
cùng một địa bàn, sẽ tiến hành việc trao đổi séc trực tiếp, nhưng nếu xảy ra
trong một số ngân hàng trong cùng một địa bàn, buộc phải được tiến hành
thơng qua thanh tốn bù trừ.
Trong q trình hiện đại hố các phương pháp cơng nghệ, các nước cơng
nghiệp hố, hiện tại có những đổi mới quan trọng và được đưa ra ứng dụng,
theo hướng hoạt động ngân hàng không dùng séc, nghĩa là họ sử dụng hình
thức chuyển tiền bằng điện tử và chính điều này, đưa đến việc không sử dụng
séc ngân hàng, vốn đã từng được sử dụng một cách rộng rãi và trên cơ sở đó,
loại khỏi các cơng việc có liên quan trong vic phỏt hnh v s dng sộc.Cỏc
SV: Ngô Thị Minh HiỊn
Khoa: Thèng kª kinh doanh

8



Chuyên đề thực tập

ngõn hng tin hnh ni mng cỏc máy tính nhằm thực hiện việc chuyển vốn
từ tài khoản trong nước nhằm thực hiện việc chuyển vốn từ tài khoản người
mua sang tài khoản người bán một cách dễ dàng và nhanh chóng. Nét thuận
lợi cơ bản của hệ thống này là với một hệ thống máy vi tính đặt trong các NH,
thẻ tín dụng có thể được dùng để rút tiền từ một tài khoản nhất định, thực hiện
việc ký thác, thanh tốn cơng nợ và chuyển vốn giữa tài khoản tiết kiệm và tài
khoản séc của cùng một chủ tài khoản.
3.3.Chức năng tạo tiền:
Các ngân hàng có khả năng tạo ra tiền gửi khi họ cho vay hoặc đầu tư, tức
là ngân hàng mở rộng cung tiền tệ bằng cho vay và đầu tư. Khi một ngân
hàng cho một cá nhân hoặc doanh nghiệp vay, nó tạo ra trên sổ sách của nó
một khoản tiền gửi dành cho quyền lợi của người đi vay. Tương tự như vậy,
khi ngân hàng mua trái phiếu kho bạc hoặc các loại chứng khốn khác cho
danh mục của mình, thì tiền gửi được tạo ra cho quyền lợi của người bán
những chứng khoán này.
Ý nghĩa kinh tế của các chức năng tạo tiền của các NHTM phản ánh trước
hết từ nhu cầu bên trong của chính hệ thống và từng NHTM riêng lẻ. Điều
hiển nhiên ai cũng phải thừa nhận là, để có thể hoạt động, và đặc biệt cho sự
phát triển của các hoạt động tín dụng và đầu tư của các NHTM, yêu cầu bản
thân các NHTM, bằng các nghiệp vụ kinh doanh truyền thống phải tạo điều
kiện cho sự tăng trưởng nguồn vốn, phù hợp với yêu cầu tăng trưởng kinh tế.
Hơn thế nữa, năng lực của hệ thống NHTM trong việc tạo tiền không chỉ đáp
ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của bản thân các NHTM mà còn mang ý
nghĩa kinh tế to lớn: với một hệ thống tín dụng năng động có vai trị cực kỳ
quan trọng như là người mở đầu, người tham gia và có khi là người nâng đỡ
và quyết định đối với mọi q trình sản xuất. Nếu tín dụng khơng tạo được
tiền nhằm mở ra các q trình sản xuất và với các hoạt động của nó thì trong

nhiều trường hợp, khơng thể tiến hành trơi chảy q trình sn xut v do ú
SV: Ngô Thị Minh Hiền
Khoa: Thống kª kinh doanh

9


Chuyên đề thực tập

khụng to c cỏc ngun tớch lu cần thiết cho chính bản thân NHTM và
cho nền kinh tế. Đặc biệt cần lưu ý rằng, trong mỗi một doanh nghiệp và
trong mỗi một thành viên trong xã hội, q trình tích luỹ và sử dụng vốn ln
ln diễn ra giống nhau, lúc tạm thời thừa và có lúc xuất hiện nhu cầu bổ
sung vốn. Góp phần khắc phục tình trạng này, vai trị của các NHTM chiếm
vị trí đặc biệt quan trọng, nhằm sử dụng tốt nhất vốn tạm thời thừa của các
doanh nghiệp và các nhân và nói rộng ra là của nền kinh tế, và đồng thời bổ
sung kịp thời nhu cầu vốn khi thiếu.
3.4.Chức năng làm dịch vụ tài chính và các dịch vụ khác:
Trong q trình thực hiện nghiệp vụ tín dụng và ngân quỹ, ngân hàng có
những điều kiện thuận lợi về kho quỹ, thông tin, quan hệ rộng rãi với các
doanh nghiệp. Với những điều kiện đó, ngân hàng có thể làm tư vấn về tài
chính và đầu tư cho các doanh nghiệp, làm đại lý phát hành cổ phiếu, bảo đảm
đạt hiệu quả cao và tiết kiệm chi phí. Khi một doanh nghiệp muốn phát hành
chứng khốn, họ có thể nhờ ngân hàng cung cấp các dịch vụ như: lựa chọn
loại chứng khoán phát hành, tư vấn các vấn đề về lãi suất chứng khoán, thời
hạn chứng khoán và các vấn đề kỹ thuật khác. Ngồi ra, ngân hàng cịn cung
cấp dịch vụ lưu trữ và quản lý chứng khoán cho khách hàng, làm dịch vụ thu
lãi chứng khốn...
Ngân hàng cịn cung cấp cho các khách hàng các dịch vụ khác như:
- Dịch vụ bảo quản an tồn vật có giá của khách hàng:

Dịch vụ bao gồm: cho thuê két sắt, bảo quản ký thác và trực tiếp bảo quản
an toàn các giấy tờ có giá. Với dịch vụ két sắt, bảo quản ký thác, ngân hàng
cung cấp kho bảo quản két sắt và thực hiện việc đảm bảo. Còn dịch vụ bảo
quản an tồn các giấy tờ có giá, ngân hàng thực hiện như là một đại lý cho
khách hàng để nhận tiền hoa hồng, vừa đạt hiệu quả cao v tit kim chi phớ
cho doanh nghip

SV: Ngô Thị Minh HiỊn
Khoa: Thèng kª kinh doanh

10


Chuyên đề thực tập

- Dch v cho thuờ kột ngõn buổi tối:
Ngân hàng lắp đặt hệ thống két đặc biệt trước cửa ngân hàng, khách hàng
thuê dịch vụ này được phép cất giữ tiền mặt hay séc để đảm bảo vào buổi tối
khi ngân hàng đã đóng cửa
- Dịch vụ tín thác hoặc uỷ thác ngân hàng:
+ Dịch vụ tín thác đối với cá nhân bao gồm việc thực hiện các dịch vụ đại
diện phục vụ như người bảo vệ và bảo quản tài sản, vì ở hầu hết các nước,
người vị thành niên được xem là khơng có năng lực pháp lý về quản lý và
nắm giứ tài sản.
+ Dịch vụ uỷ thác thanh lý tài sản:
Một số người khi chết có để lại di chúc nói lên những ý muốn của họ liên
quan đến việc phân chia tài sản và họ thường chỉ định cụ thể người thực hiện,
thường là yêu cầu văn phòng uỷ thác thuộc cá ngân hàng thương mại đứng ra
thực hiện di chúc đó. Các văn phịng uỷ thác có trách nhiệm quản lý số vốn,
sử dụng vốn đó để đầu tư. Văn phịng uỷ thác cịn có thể thực hiện một số

dịch vụ khác đối với doanh nghiệp như quản lý tiền hưu trí, phân chia lợi tức,
chia tiền thưởng cổ phần.
3.5.Chức năng tài trợ ngoại thương, mở rộng nghiệp vụ ngân hàng
quốc tế:
Hoạt động ngân hàng quốc tế là hoạt động mang tính cạnh tranh cao.
Trong thế giới cạnh tranh đó, nguồn thu nhập có được khơng phải dựa trên
cho vay mà dựa trên cách ngân hàng giải quyết vấn đề tài chính cho cơng ty,
và biết cách giải quyết nhanh gọn, chính vì vậy, các giám đốc tài chính cơng
ty mong muốn các ngân hàng thực hiện được vấn đề, hơn là gia tăng các
khoản cho vay; họ mong muốn các ngân hàng có được những giải pháp phù
hợp đối với những vấn đề tài chính. Rất nhiều cơng ty lớn mong muốn các
ngân hàng hoạt động như là những người tư vấn, những người giải quyết sự
cố. Mong muốn này đã giúp ngân hàng có cơ hội thực hiện nhiều dch v cú
thu phớ vi giỏ cao hn.
SV: Ngô Thị Minh HiỊn
Khoa: Thèng kª kinh doanh

11


Chuyên đề thực tập

Ngõn hng ó cú nhiu chn la trong việc mở rộng hoạt động ở nước
ngoài: hoạt động ngân hàng đại lý, văn phòng đại diện, mua lại các ngân hàng
địa phương...Ngày này, xu hướng tồn cầu hố, khu vực hoá với những đặc
trưng tự do hoá thương mại và tự do hố tài chính ngày càng rộng khắp và
mạnh mẽ, đã và đang đẩy mạnh hoạt động kinh doanh đối ngoại. Kinh doanh
đối ngoại là một loại hình kinh doanh vừa mang đặc tính truyền thống, vừa
mang tính hiện đại. Truyền thống được hiểu với ý nghĩa là kinh doanh tiền tệ
khơng có biên giới, đồng vốn dịch chuyển khơng biên giới, đã có từ xa xưa,

gắn với giao lưu quốc tế, với lưu thông tiền vàng, kim loại quý, với uy tín
quốc gia, thương nhân, ngân hàng nổi tiếng. Hiện đại là nói về hình thức,
phương thức, nội dung ngày càng khác trước, đa dạng hơn, tinh vi hơn trên tất
cả các hoạt động: kinh doanh ngoại hối, chứng khốn, thanh tốn quốc
tế....thơng qua các nghiệp vụ đa dạng.
4. Vai trò của Ngân hàng thương mại:
4.1. Vai trị thực thi chính sách tiền tệ:
Việc hoạch định chính sách tiền tệ thuộc về Ngân hàng Trung ương; để
thực thi chính sách tiền tệ đó phải sử dụng các công cụ như lãi suất, dự trữ bắt
buộc, tái chiết khấu, thị trường mở, hạn mức tín dụng...Chính các NHTM là
chủ thể chịu sự tác động trực tiếp của những cơng cụ này và đồng thời đóng
vai trị cầu nối trong việc chuyển tiếp các tác động của chính sách tiền tệ đến
khu vực phi ngân hàng và đến nền kinh tế. Ngược lại, cũng qua NHTM và các
định chế tài chính trung gian khác, tình hình, sản lượng, giá cả, công ăn việc
làm, nhu cầu tiền mặt, tổng cung tiền tệ, lãi suất, tỷ giá...của nền kinh tế được
phản hồi về cho Ngân hàng Trung ương có những chính sách điều tiết thích
hợp với từng tình hình cụ thể.
Vai trị điều tiết kinh tế vi mơ của Ngân hàng thương mại được thể hiện
qua việc tiếp nhận, thu hút khối lượng tiền mặt từ trong nền kinh tế vào
NHTM (thu nhận tiền bán hàng do các doanh nghiệp gi vo ti khon, thu
SV: Ngô Thị Minh Hiền
Khoa: Thống kª kinh doanh

12


Chuyên đề thực tập

nhn tin gi ca cụng chỳng...), ng thời NHTM cũng cung ứng tiền mặt
theo nhu cầu khi các doanh nghiệp rút tiền mặt từ tài khoản của mình để trả

lương cho cơng nhân viên chức, trả tiền mua ngun vật liệu, thu mua hàng
hố..., khi cơng chúng rút tiền gửi để chi dùng cho những nhu cầu của mình
như mua sắm tài sản, trả nợ,...Qúa trình thu nhận và cung ứng khối lượng tiền
mặt trong nền kinh tế đã tạo ra mối quan hệ giữa lưu thông hàng hố và lưu
thơng tiền tệ trong từng khu vực. Khối lượng tiền mặt trong nền kinh tế đi qua
quỹ nghiệp vụ NHTM là những công cụ tác động trực tiếp vào hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế, ảnh hưởng trực tiếp đến đời
sống của các tầng lớp dân cư. Bằng chính sách thu hút và nghệ thuật kinh
doanh, ngân hàng sẽ tiếp nhận một khối lượng tiền mặt khơng nhỏ, rồi từ đó
lưu thơng về ngân hàng khối lượng tiền mặt này sẽ đáp ứng nhu cầu tiền mặt
cho các doanh nghiệp và công chúng, đảm bảo cho nền kinh tế thường xuyên
có một khối lượng tiền mặt cần thiết và hợp lý, phục vụ cho hoạt động kinh
doanh và các hoạt động khác trong phạm vi từng doanh nghiệp, từng khu vực,
cũng như trong phạm vi tồn nền kinh tế phát triển bình thường.
Cùng với các nghiệp vụ kinh doanh trong lĩnh vực tín dụng và tiền tệ,
NHTM cịn thực hiện các dịch vụ ngân hàng khác trong nền kinh tế. Đây là
những dịch vụ trung gian tạo cho NHTM những nguồn lợi đáng kể góp phần
tăng thêm các khoản thu nhập cho NHTM, đồng thời cũng tạo ra những điều
kiện thuận lợi cho sự phát triển toàn diện và thoả mãn các yêu cầu trong hoạt
động sản xuất kinh doanh của các chủ thể kinh tế. Với tư cách là trung gian
thanh tốn khơng dùng tiền mặt, NHTM đã giúp các chủ thể tham gia thanh
tốn, tiết kiệm được các chi phí trong mua bán hàng, tiết kiện thời gian, đồng
thời giúp doanh nghiệp thu hồi tiền bán hàng nhanh để tiếp tục quá trình luân
chuyển vốn tiếp theo, tạo thuận lợi cho sự phát triển của doanh nghiệp.
Như vậy, với vai trị thực thi chính sách tiền tệ, điều tiết kinh tế vi mô,
NHTM đã xâm nhập vào các hoạt động sn xut kinh doanh ca cỏc doanh
SV: Ngô Thị Minh HiỊn
Khoa: Thèng kª kinh doanh

13



Chuyên đề thực tập

nghip, cỏ nhõn, cỏc lnh vc khỏc của nền kinh tế thơng qua nghiệp vụ tín
dụng, tiền mặt, thanh tốn khơng dùng tiền mặt, các quan hệ về tham gia hùn
vốn, tư vấn... Thơng qua đó, NHTM giúp các hoạt động của các doanh nghiệp
được phát triển bình thường và ngày càng phát triển.
4.2. Vai trị góp phần vào hoạt động điều tiết vĩ mô thông qua chức
năng tạo tiền của NHTM:
Trong nền kinh tế thị trường, chức năng điều tiết kinh tế vĩ mô thuộc về
Ngân hàng Trung ương. Chức năng này được thể hiện trên hai mặt:
Thứ nhất, tham gia xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội và soạn
thảo chính sách tiền tệ. Chính sách tiền tệ là loại cơng cụ của chính sách can
thiệp bằng kinh tế, dựa trên bản thân cơ chế thị trường và các quy luật vận
động của nó. Nhưng NH Trung ương khơng trực tiếp giao dịch với cơng
chúng, do đó phải dựa vào thơng tin phản hồi từ các định chế tài chính trung
gian để làm căn cứ soạn thảo chính sách tiền tệ. Như vây, rõ ràng là nếu
khơng có hệ thống NHTM hồn chỉnh, khơng có thơng tin phản hồi do hệ
thống NHTM cung cấp, thì việc hoạch định chiến lược và soạn thảo chính
sách tiền tệ của NH Trung ương sẽ khơng hồn hảo.
Thứ hai, chính sách tiền tệ, được thiết kế và khởi động từ NH Trung ương,
lan ra đến mọi ngóc ngách của nền kinh tế thông qua hoạt động dây chuyền
của hệ thống NH trung gian và các tổ chức tài chính trong nước.
Trong việc điều hành thực thi chính sách tiền tệ, NH trung ương sử
dụng các công cụ chính sách tiền tệ trong phạm vi tồn xã hội, mà trước hết là
trong hệ thống NHTM. Các công cụ này là những thao tác hoạt động hàng
ngày của Ngân hàng Trung ương. Vì thế, có thể nói rằng, mọi hoạt động của
Ngân hàng Trung ương đều tác động đến nền kinh tế vĩ mơ trong khn khổ
của chính sách tiền tệ đã vạch ra.

5. Các dịch vụ của Ngân hàng thương mại:
So với các doanh nghiệp sản xuất, tính c thự ca doanh nghip ngõn
SV: Ngô Thị Minh Hiền
Khoa: Thèng kª kinh doanh

14


Chuyên đề thực tập

hng th hin trong c im riờng biệt của sản phẩm ngân hàng. Nếu các
doanh nghiệp sản xuất sáng tạo ra hàng hố hữu hình (như lúa,gạo, vải, giày
dép, máy móc...) thì các NHTM sản xuất ra các hàng hố vơ hình, hay đúng
hơn là các dịch vụ.
5.1.Các dịch vụ truyền thống của ngân hàng:
5.1.1.Thực hiện trao đổi ngoại tệ:
Lịch sử cho thấy rằng một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được
thực hiện là trao đổi ngoại tệ - một nhà ngân hàng đứng ra mua, bán một loại
tiền này, chẳng hạn USD lấy một lại tiền khác, chẳng hạn Franc hay Pesos và
hưởng phí dịch vụ. Sự trao đổi đó là rất quan trọng đối với khách du lịch vì họ
sẽ cảm thấy thuận tiện và thoải mái hơn khi có trong tay đồng bản tệ của quốc
gia hay thành phố họ đến. Trong thị trường tài chính ngày nay, mua bán ngoại
tệ thường chỉ do các ngân hàng lớn nhất thực hiện bởi vì những giao dịch như
vậy có mức độ rủi ro cao, đồng thời u cầu phải có trình độ chun môn cao.
5.1.2.Chiết khấu thương phiếu và cho vay thương mại:
Ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế
là cho vay đối với các doanh nhân địa phương những người bán các khoản nợ
(khoản phải thu) của khách hàng cho ngân hàng để lấy tiền mặt. Đó là bược
chuyển tiếp từ chiết thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các khách
hàng, giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ hoặc xây dựng văn phòng và thiết bị

sản xuất.
5.1.3.Nhận tiền gửi:
Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng đã tìm
kiếm mọi cách để huy động nguồn vốn cho vay. Một trong những nguồn vốn
quan trọng là các khoản tiền gửi tiết kiệm gửi tiết kiệm của khách hàng – một
quỹ sinh lợi được gửi tại ngân hàng trong khoảng thời gian nhiều tuần, nhiều
tháng, nhiều năm, đôi khi được hưởng mức lãi suất tương đối cao. Trong lịch
sử đã có những kỷ lục về lãi suất, chẳng hạn các ngân hàng Hy Lạp đã trả lói
SV: Ngô Thị Minh Hiền
Khoa: Thống kê kinh doanh

15


Chuyên đề thực tập

sut 16% mt nm thu hỳt các khoản tiết kiệm nhằm mục đích cho vay đối
với các chủ tàu ở Địa Trung Hải với lãi suất gấp đôi hay gấp ba lãi suất tiết
kiệm.
5.1.4.Bảo quản vật có giá trị:
Ngay từ thời Trung Cổ, các ngân hàng đã bắt đầu thực hiện việc lưu giữ
vàng và các vật có giá khác cho khách hàng trong kho bảo quản. Một điều hấp
hẫn là các giấy chứng nhận do ngân hàng ký phát cho khách hàng (ghi nhận
về các tài sản đang được lưu giữ) có thể được lưu hành như tiền – đó là hình
thức đầu tiên của séc và thẻ tín dụng. Ngày nay, nghiệp vụ bảo quản vật có
giá trị cho khách hàng thường do phịng “Bảo quản” của ngân hàng thực hiện.
5.1.5.Tài trợ các hoạt động của Chính phủ:
Trong thời kỳ Trung Cổ và vào những năm đầu cách mạng Công nghiệp,
khả năng huy động và cho vay với khối lượng lớn của ngân hàng đã trở thành
trọng tâm chú ý của các Chính phủ Âu – Mỹ. Thông thường, ngân hàng được

cấp giấy phép thành lập với điều kiện là họ phải mua trái phiếu Chính phủ
theo một tỷ lệ nhất định trên tổng lượng tiền gửi mà ngân hàng huy động
được. Các ngân hàng đã cam kết cho Chính phủ Mỹ vay trong thời kỳ chiến
tranh. Ngân hàng Bank of North America được Quốc hội cho phép thành lập
năm 1781, ngân hàng này được thành lập để tài trợ cho cuộc đấu tranh xóa bỏ
sự đơ hộ của nước Anh và đưa Mỹ trở thành quốc gia có chủ quyền. Cũng
như vậy, trong thời kỳ nội chiến, Quốc hội đã lập ra một hệ thống ngân hàng
liên bang mới, chấp nhận các ngân hàng quốc gia ở mọi tiểu bang miễn là các
ngân hàng này phải lập Quỹ phục vụ chiến tranh.
5.1.6.Cung cấp các tài khoản giao dịch:
Cuộc cách mạng công nghiệp ở Châu Âu và Châu Mỹ đã đánh dấu sự ra
đời những hoạt động và dịch vụ ngân hàng mới. Một dịch vụ mới, quan trong
nhất được phát triển trong thời kỳ này là tài khoản tiền gửi giao dịch – một tài
khoản tiền gửi cho phép người gửi tiền viết sộc thanh toỏn cho vic mua hng
SV: Ngô Thị Minh HiỊn
Khoa: Thèng kª kinh doanh

16


Chuyên đề thực tập

húa v dch v. Vic a ra loại tài khoản tiền gửi mới này được xem là một
trong những bước đi quan trọng nhất trong công nghiệp ngân hàng bởi vì nó
cải thiện đáng kể hiệu quả của q trình thanh tốn, làm cho các giao dịch
kinh doanh trở nên dễ dàng hơn, nhanh chóng hơn và an toàn hơn.
5.1.7.Cung cấp dịch vụ ủy thác:
Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã thực hiện việc quản lý tài sản và
quản lý hoạt động tài chính cho cá nhân và doanh nghiệp thương mại. Theo
đó ngân hàng sẽ thu phí trên cơ sở giá trị của tài sản hay quy mô họ quản lý.

Chức năng quản lý tài sản này được gọi là dịch vụ ủy thác. Hầu hết các ngân
hàng đều cung cấp cả hai loại: dịch vụ ủy thác thơng thường cho cá nhân, hộ
gia đình; và ủy thác thương mại cho các doanh nghiệp.
Thông qua phịng Ủy thác cá nhân, các khách hàng có thể tiết kiệm các
khoản tiền để cho con đi học. Ngân hàng sẽ quản lý và đầu tư khỏan tiền đó
cho đến khi khách hàng cần. Thậm chí phổ biến hơn, các ngân hàng đóng vai
trị là người được ủy thác trong di chúc quản lý tài sản cho khách hàng đã qua
đời bằng cách công bố tài sản, bảo quản các tài sản có giá, đầu tư có hiệu quả,
và đảm bảo cho người thừa kế hợp pháp việc nhận được khoản thừa kế. Trong
phòng ủy thác thương mại, ngân hàng quản lý danh mục đầu tư chứng khoán
và kế hoạch tiền lương cho các công ty kinh doanh. Ngân hàng đóng vai trị
như những người đại lý cho các công ty trong hoạt động phát hành cổ phiếu,
trái phiếu. Điều này đòi hỏi phòng ủy thác trả lãi hoặc cổ tức cho chứng
khốn của cơng ty, thu hồi các chứng khốn khi đến hạn bằng cách thanh tốn
tồn bộ cho người nắm giữ chứng khoán.
5.2.Những dịch vụ ngân hàng mới phát triển gần đây:
5.2.1.Cho vay tiêu dùng:
Trong lịch sử, hầu hết các ngân hàng khơng tích cực cho vay đối với cá
nhân và hộ gia đình bởi vì họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng nói chung
có quy mô rất nhỏ với rủi ro vỡ nợ tương đối cao và do đó làm cho chúng trở
SV: Ng« Thị Minh Hiền
Khoa: Thống kê kinh doanh

17


Chuyên đề thực tập

nờn cú mc sinh li thp. u thế ký này, các ngân hàng bắt đầu dựa nhiều
hơn vào tiền gửi của khách hàng để tài trợ cho những món vay thương mại

lớn. Và rồi sự cạnh tranh khốc liệt trong việc giành giật tiền gửi và cho vay đã
buộc các ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng như là một khách hàng
trung thành tiềm năng. Người tiêu dùng là nguồn vốn chủ yếu của ngân hàng
và tạo ra một trong số những nguồn thu quan trọng nhất.
5.2.2.Tư vấn tài chính:
Các ngân hàng từ lâu đã được khách hàng yêu cầu thực hiện hoạt động tư
vấn tài chính, đặc biệt là về tiết kiệm và đầu tư. Ngân hàng ngày nay cung cấp
nhiều dịch vụ tư vấn tài chính đa dạng, từ chuẩn bị về thuế và kế hoạch tài
chính cho các cá nhân đến tư nhân về các cơ hội thị trường trong nước và
ngoài nước cho các khách hàng kinh doanh của họ.
5.2.3.Quản lý tiền mặt.
Qua nhiều năm, các ngân hàng đã phát hiện ra rằng một số dịch vụ mà họ
làm cho bản thân mình cũng có ích đối với các khách hàng. Một trong những
ví dụ nổi bật nhất là dịch vụ quản lý tiền mặt, trong đó ngân hàng đồng ý quản
lý việc thu và chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng
dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoản sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho
đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán.
5.2.4.Dịch vụ thuê mua thiết bị:
Rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng kinh doanh quyền lựa chọn
mua các thiết bị, máy móc cần thiết thơng qua hợp đồng thuê mua, trong đó
ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê. Ban đầu các qui định yêu cầu
khách hàng sử dụng dịch vụ thuê mua thiết bị phải trả tiền thuê (mà cuối cùng
sẽ đủ để trang trải chi phí mua thiết bị) đồng thời phải chịu chi phí sửa chữa
và thuế. Năm 1987, quốc hội Mỹ đã bỏ phiếu cho phép ngân hàng quốc gia sở
hữu ít nhất một số tài sản cho thuê sau khi hợp đồng thuê mua đã hết hạn.
Điều đó có lợi cho các ngân hàng cũng như khách hàng bởi vì bi t cỏch l
SV: Ngô Thị Minh Hiền
Khoa: Thống kê kinh doanh

18



Chuyên đề thực tập

mt ngi ch thc s ca ti sản cho thuê, ngân hàng có thể khấu hao chúng
nhằm làm tăng lợi ích về thuế.
5.2.5.Cho vay tài trợ dự án:
Các ngân hàng ngày càng trở nên năng động trong việc tài trợ cho chi phí
xây dựng nhà máy mới đặc biệt là trong các ngành công nghệ cao. Do rủi ro
trong loại hình tín dùng này nói chung là cao nên chúng thường được thực
hiện qua một công ty đầu tư, là thành viên của công sở hữu ngân hàng, cùng
với sự tham gia của các nhà thầu, là thành viên của công ty sở hữu ngân hàng,
cùng với sự tham gia của các nhà đầu tư khác để chia sẻ rủi ro.
5.2.6.Bán các dịch vụ bảo hiểm:
Từ nhiều năm nay, các ngân hàng đã bán bảo hiểm tín dụng cho khách
hàng, điều đó bảo đảm việc hịan trả trong trường hợp khách hàng vay vốn bị
chết hay bị tàn phế. Trong khi các quy định ở Mỹ cấm ngân hàng thương mại
trực tiếp bán các dịch vụ bảo hiểm, nhiều ngân hàng hi vọng có thể đưa ra các
hợp đồng bảo hiểm cá nhân thông thường và hợp đồng bảo hiểm tổn thất tài
sản như ôtô hay nhà cửa trong tương lai. Hiện nay, ngân hàng thường bảo
hiểm cho khách hàng thông qua các liên doanh hoặc các thỏa thuận đại lý
kinh doanh độc quyền theo đó một cơng ty bảo hiểm đồng ý đặt một văn
phịng đại lý tại hành lang của ngân hàng và ngân hàng sẽ nhận một phần thu
nhập từ các dịch vụ ở đó.
5.2.7.Cung cấp các kế hoạch hưu trí:
Phịng ủy thác ngân hàng rất năng động trong việc quản lý kế hoạch hưu
trí mà hầu hết các doanh nghiệp lập cho người lao động, đầu tư vốn và phát
lương hưu cho những người đã nghỉ hưu hoặc tàn phế. Ngân hàng cũng bán
các kế hoạch tiền gửi hưu trí cho các cá nhân và giữ nguồn tiền gửi cho đến
khi người sở hữu các kế hoạch này cần đến.

5.2.8.Cung cấp các dịch vụ mơi giới đầu tư chứng khốn:
Trên thị trường tài chính hiện nay, nhiều ngân hàng đang phấn đấu để tr
SV: Ngô Thị Minh Hiền
Khoa: Thống kê kinh doanh

19


Chuyên đề thực tập

thnh mt bỏch húa ti chớnh thc sự, cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho
phép khách hàng thỏa mãn mọi nhu cầu tại một địa điểm. Đây là một trong
những lý do chính khiến các ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới
chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các
chứng khốn khác mà khơng phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán.
5.2.9.Cung cấp dịch vụ quỹ tương hỗ và trợ cấp:
Do ngân hàng cung cấp các tài khoản tiền gửi truyền thống với lãi suất quá
thấp, nhiều khách hàng đã hướng tới việc sử dụng cái gọi là sản phẩm đầu tư đặc
biệt là các tài khoản của quỹ tương hỗ và hợp đồng trợ cấp, những loại hình cung
cấp triển vọng thu nhập cao hơn tài khoản tiền gửi dài hạn cam kết thanh toán
một khoản tiền mặt hàng năm cho khách hàng bắt đầu từ một ngày nhất định
trong tương lai (chẳng hạn ngày nghỉ hưu). Ngược lại, quỹ tương hỗ bao gồm
các chương trình đầu tư được quản lý một cách chuyên nghiệp nhằm vào việc
mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán phù hợp với mục tiêu của quỹ
5.2.10.Cung cấp dịch vụ ngân hàng đầu tư và ngân hàng bán buôn:
Ngân hàng ngày nay đang theo chân các tổ chức tài chính hàng đầu trong
việc cung cấp dịch vụ ngân hàng đầu tư và dịch vụ ngân hàng bán buôn cho
các tập đoàn lớn. Những dịch vụ này bao gồm xác định mục tiêu hợp nhất, tài
trợ mua lại Công ty, mua bán chứng khốn cho khách hàng (ví dụ: bảo lãnh
phát hành chứng khốn), cung cấp cơng cụ Marketing chiến lược, các dịch vụ

hạn chế rủi ro để bảo vệ khách hàng. Các ngân hàng cũng dấn sâu vào thị
trường bảo đảm, hỗ trợ các khoản nợ do chính phủ và công ty phát hành để
những khách hàng này có thể vay vốn với chi phí thấp nhất từ thị trường tự do
hay từ các tổ chức cho vay khác.
II. Đặc trưng hoạt động kinh doanh của Ngân hàng thương mại:
1. Quan hệ tín dụng ngân hàng dựa trên cơ sở hoàn trả:
NHTM với tư cách là một doanh nghiệp kinh tế tiền tệ hoạt động trên cơ
sở “đi vay” để “cho vay” thơng qua nghiệp vụ tín dụng ca mỡnh.
SV: Ngô Thị Minh Hiền
Khoa: Thống kê kinh doanh

20


Chuyên đề thực tập

Trc ht, vn m ngõn hng mua quyền sử dụng của những chủ thể có
vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế phải được trả lại cả vốn và lãi cho chủ sở hữu
của nó theo những cam kết đã được giao ước. Là người đi vay, NHTM phải
đảm bảo hoàn trả đúng hạn vốn huy động hoặc đáp ứng yêu cầu thanh toán
của khách hàng với một món lợi tức hợp lý kèm theo.
Là người cho vay, NHTM sử dụng vốn đi thuê để cho thuê lại, tức là tạm
thời bán quyền sử dụng vốn cho người khác, NHTM vẫn ln mong muốn
khách hàng của mình sử dụng vốn vay có hiệu quả và hồn trả đầy đủ vốn và
lãi đúng kỳ hạn theo những quy định đã cam kết. Như vây, trong mối quan hệ
tay ba giữa NHTM, người gửi tiền ký thác và người đi vay đều dựa vào lòng
tin của nhau để giải quyết tình trạng thừa hay thiếu vốn của các chủ thể nêu
trên.
Khác với các quan hệ mua bán thông thường khác (sau khi trả tiền người
mua trở thành chủ sở hữu vật mua), quan hệ tín dụng ngân hàng chỉ trao đổi

quyền sử dụng giá trị khoản vay chứ không trao đổi quyền sử hữu khoản vay.
Người cho vay giao giá trị khoản vay dưới dạng hàng hoá hay tiền tệ cho
người kia sử dụng khoản vay trong thời hạn nhất định, sau khi khai thác giá
trị sử dụng khoản vay trong thời hạn cam kết, người vay phải hoàn trả toàn
bộ giá trị khoản vay cộng thêm khoản lợi tức trả cho người cho vay.
2. Lãi suất- biểu hiện đặc trưng về hoạt động kinh doanh của một trung
gian tài chính:
Lãi suất biểu hiện giá cả khoản tiền mà người cho vay đòi hỏi khi tạm thời
trao quyền sử dụng khoản tiền của mình cho người khác. Người đi vay coi lãi
suất như là khoản chi phí phải trả cho nhu cầu sử dụng tạm thời tiền của
người khác. Như vậy, lãi suất hàm chứa một mâu thuẫn: người cho vay muốn
có lãi suất cao nhất, trong khi người đi vay muốn có lãi suất thấp nhất. Vì vậy,
như giá cả của mọi loại hàng hoá khác, lãi suất được xác định bởi cung và
cầu. Cung vốn có được chủ yếu từ các khoản ký thác của công chúng và
SV: Ngô Thị Minh Hiền
Khoa: Thống kê kinh doanh

21


Chuyên đề thực tập

lng vn c cung ng ph thuc nhiều vào giá cả (lãi suất). Do đó nếu lãi
suất quá thấp, đa số dân chúng sẽ quyết định là khơng đáng kể cho vay các
khoản tiết kiệm của mình, họ sẽ giữ các khoản tiền này dưới dạng khả dụng
(tức là dễ chuyển thành tiền mặt hơn) và để chi tiêu khi cần. Khi lãi suất tăng
cao, lượng tiền tiết kiệm mà dân chúng sẵn sàng cho vay tăng lên, và số lượng
vốn cung sẽ trở nên lớn hơn. Những người đi vay vốn coi lãi suất là một
khoản chi phí và như vậy, chi phí càng giảm thì cầu càng tăng, khi lãi suất
tăng thì cầu vay vốn giảm xuống.

3. Yếu tố lòng tin trong hoạt động kinh doanh tín dụng ngân hàng:
Trong giới tài chính, một người được xem là có uy tín khi người khác tin
tưởng và sẵn sàng ký thác tài sản hoặc tiền bạc cho anh ta. Tín dụng là sự cho
vay có hứa hẹn thời gian hoàn trả. Sự hứa hẹn biểu hiện mức tín nhiệm của
người cho vay, yếu tố tín nhiệm là yếu tố bao trùm trong hoạt động tín dụng,
là điều kiện cần cho quan hệ tín dụng phát sinh.
Kinh doanh tín dụng ngân hàng là kinh doanh “quyền sử dụng các khoản
tiền tệ”, ngân hàng chỉ bán “giá trị sử dụng của tiền” chứ không bán “tiền”,
nên khi hết thời gian sử dụng theo cam kết, tiền quay về giữ ngun gía trị
của nó, phần chênh lệch theo thoả thuận nếu có là “giá bán” quyền sử dụng
khoản cho vay trong thời gian nhất định. Do vậy, tiền vay (phần gốc) chỉ là
vật chuyên chở giá trị sử dụng của tiền, nên nó được phát ra qua các thời gian
nhất định rồi sẽ thu về, nó khơng được bán đứt. Hơn nữa, giá bán (lãi suất)
quyền sử dụng tiền tệ thường rất nhỏ so với gía trị khoản cho vay, nên sự bù
đắp khi rủi ro xảy ra là q ít ỏi. Từ đó có thể thấy rằng quan hệ tín dụng buộc
phải có lịng tin, trong nhiều trường hợp, vì thiếu lịng tin nên người ta phải
tăng cường gia cố bằng các “quyền truy đòi”, bằng tài sản (thế chấp) hay bằng
pháp lý (bảo lãnh). Thiếu lòng tin quan hệ tín dụng có thể khơng phát sinh.
Trong quan hệ tín dụng, sự tín nhiệm là yếu tố tuy vơ hình nhưng khơng
thể thiếu. Một tính đặc thù của hoạt động ngân hàng là tình trạng tài chính của
SV: Ngô Thị Minh Hiền
Khoa: Thống kê kinh doanh

22


Chuyên đề thực tập

ngõn hng ph thuc vo nim tin của khách hàng gửi tiền vào giá trị tài sản
của ngân hàng đó. Nếu khách hàng gửi tiền tin rằng nhiều tài sản của ngân

hàng đã giảm giá trị thì ai cũng cố rút tiền của mình ra và gửi vào một ngân
hàng khác. Và nếu khơng khí hoảng loạn về tài chính phát triển, sự phá sản
ngân hàng có thể không chỉ giới hạn trong những ngân hàng quản lý kém tài
sản của họ. Các vấn đề của một ngân hàng có thể dễ dàng lan sang các ngân
hàng khác đang hoạt động tốt nếu người ta nghi là các ngân hàng đó đã cho
ngân hàng kia vay. Sự mất tín nhiệm tồn bộ như vậy đối với các ngân hàng
sẽ đem lại sự suy giảm nghiêm trọng trong khả năng của hệ thống ngân hàng
tài trợ cho đầu tư, do đó có thể đẩy nền kinh tế vào suy thối.
4. Tín dụng của ngân hàng tạo tiền ký thác, tạo tài nguyên cho hoạt
động kinh doanh ngân hàng:
Chức năng tạo tiền và huỷ tiền là chức năng riêng có của tín dụng ngân
hàng. Chức năng này đã làm cho hoạt động kinh doanh tín dụng của ngân
hàng khác hẳn với các hoạt động kinh doanh thông thường khác.
Thuở ban đầu, các ngân hàng có thể tạo tiền bằng việc phát hành các ngân
phiếu thanh toán thay cho vàng trong lưu thơng. Ngày nay nhìn chung việc
tạo tiền của ngân hàng vẫn như trước, nhưng chức năng phát hành ngân phiếu
được giao cho NH Trung ương, NHTM khơng cịn tạo tiền bằng cách phát
hành ngân phiếu, và tạo ra bút tệ (tiền ghi sổ) bằng cách cho khách hàng rút
quá số dư tiền gửi tài khoản séc qua hình thức thấu chi, hoặc vay thanh toán,
hoặc phát hành séc. Tóm lại, ban đầu ngân hàng đã sử dụng giấy bạc ngân
hàng thay cho tiền vàng trong lưu thông, tiết kiệm được chi phí đúc tiền, vận
chuyển, bảo quản và hao mịn tiền bạc trong lưu thơng. Kế tiếp, ngân hàng lại
sử dụng các cơng cụ lưu thơng tín dụng, như séc, giấy chuyển ngân hàng, thẻ
thanh toán…để thay thế cho tiền mặt, đẫ tiết kiệm được nhiều chi phí trong
SV: Ngô Thị Minh Hiền
Khoa: Thống kê kinh doanh

23



Chuyên đề thực tập

vic in,m, vn chuyn tin.
5. Cụng ngh ngânq hàng là công nghệ đặc biệt công nghệ biến đổi cơ
cấu thời hạn của các đồng tiền.
Hoạt động kinh tế trong xã hội ln có những người thừa tiền muốn cho
vay và những người thiếu tiền muốn đi vay. Vấn đề cơ bản nảy sinh là: người
cho vay muốn cho vay ngắn hạn, còn người đi vay muốn được vay dài hạn.
Thơng qua hoạt động tín dụng của mình, Ngân hàng sẽ hoà hợp được ý
nguyện của cả hai bên.
Ngân hàng họat động như một trung gian tài chính: nhận tiền gửi của
khách hàng và cho vay phần lớn tiền “thu gom” này cho các khách hàng khác.
Như vậy, trong bảng tổng kết tài sản ngân hàng, tài sản nợ lớn nhất là tiền gửi
trong các tài khoản của những người gửi tiền vào NH, “ tài sản có lớn nhất” là
số tiền cho khách hàng vay. Việc NH duy trì một lượng tiền mặt và một số tài
sản khả dụng cần thiết dùng để thanh toán cho người ký thác là cực kỳ quan
trọng. Tuy nhiên việc duy trì một lượng tài sản dưới dạng tiền mặt và vốn khả
dụng đã nẩy sinh một vấn đề: một tài sản có tính khả dụng càng cao thì khả
năng sinh lời càng thấp. Tài sản phải mất nhiều thời gian mới chuyển được
thành tiền mặt sẽ thu được lãi suất cao và tài sản có lãi suất cao nhất là tài sản
kém lưu hoạt nhất, đó là các khoản cho khách hàng vay. Do đó, ngân hàng
phải chọn một mức cân bằng giữa các tài sản có tính khả dụng tốt nhưng khả
năng sinh lời kém và tài sản có khả năng sinh lời cao nhưng tính khả dụng
kém, xem xét vấn đề đối nghịch giữa tính khả dụng và khả năng sinh lời trong
khả năng chấp nhận được.
Chìa khố đạt đến thành cơng địi hỏi NH phải có năng lực chuyển từ hoạt
động truyền thống về tiếp nhận ký thác, cho vay, chuyển tiền sang những lĩnh
vực mới như: mua bán tiền tệ, chứng khoán và sản phẩm dẫn xuất, nhưng phải
biết xử lý những rủi ro phức tạp trong cỏc th trng ny.
SV: Ngô Thị Minh Hiền

Khoa: Thống kª kinh doanh

24


×