Tải bản đầy đủ (.doc) (65 trang)

Thực trạng quản lý và thu thuế GTGT tại Chi cục thuế huyện Kinh Môn - Tỉnh Hải Dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (393.22 KB, 65 trang )


Khoá luận tốt nghiệp
VIỆN ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
KHOA TÀI CHÍNH - NGÂN HÀNG
_______________________________
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài :
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ VÀ THU THUẾ GIÁ TRỊ GIA TĂNG
TẠI CHI CỤC THUẾ HUYỆN KINH MÔN - TỈNH HẢI DƯƠNG
Giảng viên hướng dẫn : ThS Phạm Văn Nghĩa
Họ và tên : Trương Thị Hải Anh
MSSV : 09A450206
Niên khóa : 2009 - 2013
Chuyên ngành hẹp : Tài chính doanh nghiệp

HÀ NỘI, 6 - 2013
SV: Trương Thị Hải Anh Lớp: K2-TC
Khoá luận tốt nghiệp
MỤC LỤC
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP 1
SV: Trương Thị Hải Anh Lớp: K2-TC
Khoá luận tốt nghiệp
DANH MỤC VIẾT TẮT
STT
Chữ viết tắt
Dịch nghĩa
1
GTGT
Giá trị gia tăng
2
NSNN


Ngân sách nhà nước
3
NN
Nhà nước
4
BLHS
Bộ Luật hình sự
5
KT – XH
Kinh tế xã hội
6
KTVM
Kinh tế vĩ mô
7
BTC
Bộ tài chính
8
ĐTNT
Đối tượng nộp thuế
9
TTĐB
Tiêu thụ đặc biệt
10
MST
Mã số thuế
11
UBND
Ủy ban nhân dân
12
DN

Doanh nghiệp
13
CCT
Chi cục thuế
14
DNTN
Doanh nghiệp tư nhân
15
LN
Lợi nhuận
16
Cty CP
Công ty cổ phần
17
Cty TNHH
Công ty trách nhiệm hữu hạn
18
HTX
Hợp tác xã
19
HCT
Hộ cá thể
20
NQD
Ngoài quốc doanh
21
DNNQD
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
22
KH

Kế hoạch
23
TH
Thực hiện
SV: Trương Thị Hải Anh Lớp: K2-TC
Khoá luận tốt nghiệp
DANH MỤC BẢNG BIỂU
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP 1
SV: Trương Thị Hải Anh Lớp: K2-TC
Khoá luận tốt nghiệp
LỜI NÓI ĐẦU
Trong nền kinh tế hiện đại, thuế không chỉ là công cụ đảm bảo nguồn thu
cho Ngân sách Nhà nước mà còn là một công cụ quan trọng của Nhà nước để quản
lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Đối với hầu hết các quốc gia trên thế giới, thuế là
nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước. Còn ở các nước đang phát triển như
Việt Nam, thuế gián thu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu Ngân sách Nhà nước, đặc
biệt là thuế GTGT. Thuế GTGT là một loại thuế tiến bộ, điều tiết rộng rãi hầu hết
mọi đối tượng trong nhân dân, những người tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ chịu thuế.
Do đó, thuế GTGT có vai trò rất to lớn trọng mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội.
Trong tiến trình hội nhập, thuế lại càng có vị thế quan trọng trong chiến lược toàn
cầu hoá. Vì vậy, công tác quản lý thuế mặc nhiên trở thành mối quan tâm hàng đầu
của mỗi quốc gia. Những tri thức về thuế và quản lý thuế đang là nhu cầu thường
trực không chỉ với các nhà quản lý, các doanh nhân và còn phổ cập đến tất cả mọi
công dân, những ai chịu sự điều chỉnh của các sắc thuế hiện hành.
Do mới được áp dụng tại Việt Nam, nhiều người chưa hiểu rõ về thuế
GTGT, ý thức chấp hành nghĩa vụ nộp thuế cũng như ý thức trong việc góp phần
tham gia chống thất thu thuế chưa cao. Đồng thời, do thời gian áp dụng chưa lâu
nên luật thuế GTGT còn một số bất hợp lý chưa được thay đổi phù hợp với điều
kiện của Việt Nam hiện nay, do công tác quản lý thuế GTGT còn gặp một số khó
khăn, hạn chế. Một trong những vấn đề quan trọng góp phần khắc phục những hạn

chế trên là phải tăng cường hiệu quả công tác quản lý thuế GTGT cho cơ quan thuế
từ trung ương đến địa phương.
Chi cục thuế huyện Kinh Môn được thành lập từ năm 1990. Từ đó đến nay
Chi cục đã luôn cố gắng phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Trong những
năm đầu của thế kỷ XXI, điều kiện kinh tế - xã hội khá phát triển, cùng với sự cố
gắng, nỗ lực phấn đấu trong công tác quản lý của Chi cục thuế huyện Kinh Môn nên
kết quả thu Ngân sách đạt kết quả khá cao, hầu hết đều đạt và vượt mức dự toán.
Tuy nhiên, do công tác quản lý còn nhiều yếu kém, lúng túng, chưa phát huy hết
SV: Trương Thị Hải Anh Lớp: K2-TC
5
Khoá luận tốt nghiệp
khả năng, hiệu quả của mình nên kết quả thu Ngân sách chưa tương xứng với khả
năng và điều kiện của Chi cục. Đặc biệt là các khoản thu về thuế GTGT, vẫn còn
tình trạng nợ đọng, vẫn còn thất thu cả về đối tượng nộp thuế lẫn doanh thu và mức
thuế.
Do yêu cầu bức thiết của tình hình thực tiễn, trong quá trình thực tập tại Chi
cục thuế Huyện Kinh Môn, với sự giúp đỡ của thầy Phạm Văn Nghĩa và các cán bộ
thuế ở Chi cục thuế huyện Kinh Môn, cùng với những kiến thức đã tiếp thu được
trong quá trình học tập tại trường, em đã tìm hiểu và nghiên cứu về công tác quản lý
và thu thuế GTGT vơi đề tài “ Thực trạng quản lý và thu thuế GTGT tại Chi cục
thuế huyện Kinh Môn - Tỉnh Hải Dương”
Mục đích của khoá luận là tìm hiểu và đánh giá thực trạng công tác quản lý
và thu thuế GTGT tại Chi cục thuế huyện Kinh Môn trong thời gian qua, trên cơ sở
đó tìm ra những mặt hạn chế và nguyên nhân của chúng nhằm đưa ra những giải
pháp, kiến nghị phù hợp để công tác quản lý thuế GTGT tại Chi cục được hoàn
thiện hơn, đảm bảo hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Kết cấu khoá luận gồm 3 chương:
Chương I : Lý luận chung về thuế GTGT và quản lý thuế GTGT
Chương II : Thực trạng quản lý thu thuế GTGT tại Chi cục thuế huyện Kinh
Môn giai đoạn 2010-2012

Chương III : Giải pháp và kiến nghị để nâng cao hiệu quả quản lý thu thuế
tại Chi cục thuế huyện Kinh Môn.

SV: Trương Thị Hải Anh Lớp: K2-TC
6
Khoá luận tốt nghiệp
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ THUẾ GTGT VÀ QUẢN LÝ
THUẾ GTGT
1.1 Khái niệm và đặc điểm của thuế
1.1.1 Khái niệm về thuế.
Thuế là “ sản phẩm” tất yếu từ sự xuất hiện của hệ thống bộ máy quản lý
Nhà nước, thuế xuất hiện cùng với sự xuất hiện của Nhà nước, nó là công cụ đảm
bảo cung cấp điều kiện kinh tế và các phương tiện vật chất cần thiết cho sự tồn tại
và hoạt động của hệ thống bộ máy Nhà nước. Nhà nước là cơ quan quản lý và điều
hành chế độ xã hội của mỗi quốc gia. Nhà nước ra đời kéo theo một hệ thống các cơ
quan chức năng và các công cụ thực hiện quyền lực nhằm giữ cho xã hội tồn tại và
phát triển trong vòng trật tự nhất định, mà bản thân các cơ quan này không tạo ra
của cải vật chất, do vậy để đảm bảo cho sự tồn tại và phát huy quyền lực của Nhà
nước, đòi hỏi phải có một nguồn tài chính nhất định. Để có được nguồn tài chính
đó, Nhà nước chỉ có thể và cần phải dùng quyền lực của mình đề bắt buộc các thành
viên trong xã hội có nghĩa vụ đóng góp một phần sản phẩm, một phần thu nhập của
họ cho Nhà nước, hình thức đóng góp ấy chính là thuế.
Trong hệ thống thuế của mỗi quốc gia đều tồn tại nhiều sắc thuế khác nhau,
mỗi sắc thuế được áp dụng cho một số đối tượng, trường hợp nhất định. Như thuế
tiêu thụ đặc biệt được áp dụng đối với các trường hợp sản xuất, nhập khẩu những
loại hàng hoá, dịch vụ cá biệt mà Nhà nước muốn hạn chế sản xuất, nhập khẩu và
tiêu dùng. Thuế xuất nhập khẩu áp dụng đối với các trường hợp xuất khẩu, nhập
khẩu hàng hoá, sản phẩm qua biên giới quốc gia. Thuế GTGT được tính trên phần
giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình từ sản xuất, lưu

thông đến tiêu dùng, kể cả trường hợp nhập khẩu, v vv
Ra đời và cùng tồn tại với Nhà nước, từ đó đến nay, thuế đã trải qua một quá
trình phát triển lâu dài. Với mỗi cách tiếp cận khác nhau, các nhà nghiên cứu sẽ đưa
SV: Trương Thị Hải Anh Lớp: K2-TC
7
Khoá luận tốt nghiệp
ra khái niệm riêng phục vụ cho mục đích nghiên cứu của mình về thuế. Vì vậy đã có
rất nhiều khái niệm khác nhau . Tuy nhiên, thuế sẽ phải có những đặc tính nhất định
để phân biệt với các khoản phí, lệ phí và các khoản đóng góp tự nguyện khác, để
hiểu rõ bản chất của thuế, khi nghiên cứu chúng ta cùng làm rõ đặc điểm của thuế.
“ Thuế là khoản thu bắt buộc mang tính cưỡng chế bằng sức mạnh của nhà
nước mà các tổ chức, cá nhân có nghĩa vụ phải nộp vào NSNN khi có đủ điều kiện
nhất định. Các khoản thu này không mang tính đối giá và hoàn trả trực tiếp cho
người nộp thuế.”
Từ định nghĩa trên, chúng ta đi đến tìm hiểu đặc điểm của thuế.
1.1.2 Đặc điểm của thuế
*Thuế là khoản thu bắt buộc vào Ngân sách. Vì không ai tự nguyện từ bỏ
quyền lợi của mình để nộp thuế cho nhà nước. Hơn nữa, để nhà nước tồn tại, nguồn
thu từ thuế phải thường xuyên và ổn định. Nếu tự nguyện nộp thuế thì không thể
thường xuyên và ổn định được. Tính bắt buộc được thể hiện ở hai khía cạnh sau:
Đối với các cơ quan thu thuế : Thu thuế là nghĩa vụ bắt buộc đối với cán bộ,
cơ quan thu thuế. Cán bộ cơ quan thu thuế không được quyền lựa chọn đối tượng
nộp thuế, đối tượng chịu thuế, căn cứ tính thuế, Khoản 1 Điều 8 Luật Quản lý
Thuế quy định : Trách nhiệm của cơ quan quản lý thuế là “ Tổ chức thực hiện thu
thuế theo quy định của pháp luật” lấy pháp luật làm căn cứ duy nhất để thực hiện .
Đối với người nộp thuế: Đây là nghĩa vụ chuyển giao tài sản của họ cho nhà
nước khi có đủ điều kiện do pháp luật thuế quy định mà không phải quan hệ thanh
toán trong hợp đồng hay ngoài hợp đồng. Dù được thực hiện dưới hình thức nào,
thuế vẫn thể hiện tính bắt buộc, đối tượng nộp thuế không có quyền trốn thuế hoặc
mong muốn tự mình ấn định hay thoả thuận mức đóng góp của mình mà chỉ có

quyền chấp thuận. Những đối tượng nộp thuế vi phạm pháp luật sẽ bị cơ quan nhà
nước có thẩm quyền xử lý vi phạm hoặc cưỡng chế thi hành theo quy định của pháp
luật để buộc họ phải làm tròn nghĩa vụ nộp thuế. Đây là điểm khác biệt giữa thuế và
các khoản đóng góp mang tính chất tự nguyện.
SV: Trương Thị Hải Anh Lớp: K2-TC
8
Khoá luận tốt nghiệp
*Thuế luôn gắn liền với quyền lực Nhà nước. Thuế do Quốc Hội ban hành
dưới hình thức là một đạo luật – là hình thức văn bản có tính pháp lý cao nhất do cơ
quan quyền lực cao nhất, cơ quan lập pháp đặt ra. Đây là một điểm phân biệt giữa
thuế với các khoản phí và lệ phí.
Có thể thấy, thuế và quyền lực NN là hai phạm trù không thể tách rời: NN là
chủ thể duy nhất đặt ra các khoản thuế và ngược lại thuế là phương tiện vật chất chủ
yếu để duy trì quyền lực NN. Bằng quyền lực chính trị, NN tạo ra cho thuế tính cố
định, sự tuân thủ của đối tượng nộp thuế. Vì vậy, chỉ có gắn với yếu tố quyền lực
NN, thuế mới đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ tạo nguồn thu nhập tài chính cho NN.
Theo quy định của pháp luật, thuế được đảm bảo bằng sức mạnh cưỡng chế:
NN có thể sử dụng các biện pháp cưỡng chế hành chính hoặc cưỡng chế hình sự
( quy định tại điều 161 BLHS 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009 ). Qua đó NN gián
tiếp đảm bảo tính ổn định trong việc xác định nguồn thu nhập tài chính của NN và
đảm bảo tính ổn định của thuế.
*Thuế không mang tính đối giá, không hoàn trả trực tiếp. Khác với các khoản
vay, phí và lệ phí, thuế không hoàn trả trực tiếp cho người nộp thuế ( tuy nhiên một
phần được hoàn trả gián tiếp thông qua các khoản phúc lợi xã hội, phúc lợi công
cộng). Sự không hoàn trả trực tiếp thể hiện ở cả trước và sau khi thu thuế. Trước khi
thu thuế, NN không hề cung ứng trực tiếp hay hứa hẹn một khoản dịch vụ hay lợi ích
cụ thể nào cho người nộp thuế. Sau khi thu thuế, NN cũng không có sự bồi hoàn trực
tiếp nào cho người nộp thuế. Bởi kết quả sử dụng các khoản thu từ thuế chủ yếu là
các sản phẩm công ( lợi ích không thể xác định chính xác theo giá trị vật chất ).
Thuế được thu nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của NN, nên thuế không có

đối khoản cụ thể. Điều này thể hiện rõ ở chỗ nguồn thu từ mỗi loại thuế không được
quy định gắn với mục đích chi tiêu cụ thể nào mà đều được sử dụng để đáp ứng nhu
cầu chi tiêu của NN trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Vì thế
khi xem xét khái niệm thuế cũng phải hiểu thuế trên hai góc độ : thuế vừa là công
cụ để đáp ứng nhu cầu chi tiêu của NN và vừa là công cụ giúp NN thực hiện các
mục tiêu KT-XH hay công cụ quản lý KTVM
SV: Trương Thị Hải Anh Lớp: K2-TC
9
Khoá luận tốt nghiệp
*Thuế có phạm vi áp dụng rộng. So với phí và lệ phí thuế có phạm vi áp
dụng rộng hơn. Phạm vi áp dụng của thuế không có giới hạn, khác biệt giữa các địa
phương, vùng lãnh thổ. Hầu như mọi đối tượng hàng hoá dịch vụ (được phép lưu
thông và lưu thông hợp pháp ), mọi cá nhân, tổ chức có tư cách chủ thể đều chịu sự
điều chỉnh của thuế. Bởi vì thuế là khoản thu có tính bắt buộc đối với tất cả các cá
nhân, tổ chức có đủ những điều kiện nhất đinh.
Như vậy, từ việc nghiên cứu các đặc điểm của thuế, chúng ta có thể phần nào
hiểu được bản chất của thuế, có thể phân biệt được thuế với các khoản thu khác.
Còn trên phương diện điều chỉnh pháp luật, việc nghiên cứu các đặc điểm của thuế
giúp cho các nhà làm luật lựa chọn sự điều chỉnh pháp luật một cách phù hợp đối
với thuế, mặt khác giúp cho các đối tượng có liên quan thực hiện đầy đủ chức trách
và nhiệm vụ của mình.
1.2 Lịch sử ra đời và phát triển của thuế GTGT
Thuế GTGT (hay còn gọi là VAT- Value Added Tax) được phát kiến ra bởi
một người Đức tên là Carl Friedrich Von Simens, nhưng những lý luận của ông đã
không đủ sức thuyết phục Chính phủ Đức áp dụng loại thuế này. Đến năm 1954,
loại thuế này được áp dụng đầu tiên tại Pháp với tên gọi là TVA ( Tex Surla Valeur
Ajoutee). Ban đầu, thuế GTGT chỉ được áp dụng cho lĩnh vực sản xuất trong một số
ngành nghề đặc biệt với mức thuế suất là 16.8%. Mãi đến năm 1968, thuế GTGT
mới được áp dụng trong mọi lĩnh vực, ngành nghề với 4 mức thuế suất là : 6,4% -
13,6% - 20% và 25 %. Sau một thời gian chuyển đổi, đến năm 1986 thì 4 mức thuế

suất đó được thay đổi thành : 5,5 % - 7% - 18,6% - 33,3 %. Từ đó thuế GTGT đã
nhanh chóng được áp dụng rộng rãi trên toàn thế giới, trở thành nguồn thu quan
trong của Chính Phủ nhiều nước. Hiện nay đã có hơn 130 quốc gia đưa thuế GTGT
vào hệ thống thuế khoá của mình. Còn Đức tuy là nước được hiểu biết về thuế sớm
hơn cả nhưng mãi đến năm 1969 mới bắt đầu áp dụng thuế GTGT với mức thuế
suât 10% và đến năm 1995 là 15% Lịch sử áp dụng thuế GTGT ở các nước trên
thế giới là bài học kinh nghiệm rất quý giá cho Việt Nam học hỏi trong thời gian
đầu áp dụng thuế GTGT.
SV: Trương Thị Hải Anh Lớp: K2-TC
10
Khoá luận tốt nghiệp
Ở Việt Nam, trước giải phóng Miền Nam, chính quyền Sài Gòn cũng đã cho
áp dụng thuế GTGT từ năm 1973 thay thế cho thuế sản xuất, thuế xay lúa, thuế tiêu
thụ nước đá. Nhưng sau khi thống nhất đất nước, thuế GTGT đã bị bãi bỏ. Đến
05/07/1993, thông qua Quyết định số 468/1993/QĐ – BTC của Bộ Tài Chính, Nhà
nước ta mới cho thực hiện thí điểm thuế GTGT trên một số lĩnh vực, ngành nghề.
Qua đó đã cho thấy thuế GTGT là một loại thuế tiến bộ và rất cần thiết cho nền kinh
tế Việt Nam. Sau khi nghiên cứu thấy nước ta đã có đủ điều kiện, Quốc Hộ đã xây
dựng và đưa luật thuế GTGT vào áp dụng thay thế cho thuế doanh thu.
Luật thuế GTGT chính thức được Quốc Hội thông qua ngày 10/05/1997 và
có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/1999. Luật thuế GTGT ra đời đã khắc phục được
những nhược điểm của thuế doanh thu như : tránh tình trạng tính thuế trùng lặp,
việc thực hiện tổ chức quản lý dễ dàng và đơn giản hơn, mang tính trung lập và đân
chủ cao. Đồng thời, thuế GTGT cũng thể hiện được vai trò rất quan trọng trên mọi
lĩnh vực như : khuyến khích sản xuất, kinh doanh, xuất khẩu, thu hút được các
nguồn đầu tư nước ngoài, thúc đẩy công tác hạch toán, kế toán trong sản xuất kinh
doanh của các doanh nghiệp, góp phần tạo điều kiện chống thất thu thuế, tạo nguồn
thu lớn và ổn định cho Ngân sách Nhà nước, góp phần tăng cường quản lý các hoạt
động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Sau khi thuế GTGT ra đời thay thế cho thuế doanh thu thì hệ thống thuế của

Việt Nam đã có nhiều ưu điểm nổi bật hơn, mang lại nhiều thành công hơn, góp phần
quan trọng đưa đất nước phát triển về KT-XH, hội nhập với khu vực và thế giới.
Việc chuyển sang áp dụng thuế GTGT thay thế cho thuế doanh thu ở Việt
Nam vừa nhằm mục đích từng bước hoà nhập với chính sách thuế của các nước
trong khu vực và trên thế giới, đồng thời vươn tới việc cải cách hệ thống thuế khoá
thích hợp hơn cho việc chuyển từ nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế
thị trường.
1.3 Khái niệm và bản chất của thuế GTGT
Theo quan niệm của C.Mác, giá trị của hàng hoá dịch vụ = c +( v + m).
Trong đó c là lao động quá khứ được chuyển vào sản phẩm, (v + m) là phần giá trị
SV: Trương Thị Hải Anh Lớp: K2-TC
11
Khoá luận tốt nghiệp
sản phẩm mới tạo ra và đó chính là phần giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ.
Nếu sản phẩm này là tài sản cố định hay nguyên, vật liệu cho chu kỳ sản xuất, kinh
doanh tiếp theo thì nó lại đóng vai trò là c của sản phẩm mới. Cứ như vậy đến người
tiêu dùng cuối cùng, toàn bộ số c + ( v + m) là tổng giá trị của hàng hoá, dịch vụ,
đồng thời cũng là tổng các phần giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ qua các giai
đoạn sản xuất, kinh doanh khác nhau. Mỗi một sản phẩm, hàng hoá nếu không đi
vào tiêu dùng sẽ đi vào quá trình sản xuất, kinh doanh tiếp theo và lại làm tăng thêm
giá trị của hàng hoá. Những giá trị đó tất nhiên sẽ bị Nhà nước tính thuế, nhưng việc
tính thuế trên toàn bộ giá trị hay chỉ tính thuế đối với phần giá trị tăng thêm thì lại
phụ thuộc vào từng sắc thuế.
Quá trình sản xuất ra hàng hoá bao gồm một số giai đoạn, giá trị cuối cùng
của sản phẩm là tổng các giá trị tăng thêm ở các giai đoạn. Thuế đánh vào tổng giá
trị sản phẩm ở mỗi giai đoạn gọi là thuế doanh thu, còn thuế đánh vào phần giá trị
tăng thêm ở mỗi giai đoạn gọi là thuế GTGT.
Thuế GTGT là thuế gián thu, được tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng
hoá, dịch vụ phát sinh trong quá trình luân chuyển từ sản xuất, lưu thông đến tiêu
dùng.

Do thuế GTGT được tính trên phần giá trị tăng thêm nên dù hàng hoá được
mua đi bán lại kiểu gì, dù bán cho người tiêu dùng trực tiếp hay gián tiếp qua nhiều
giai đoạn, thì kết quả cuối cùng NN vẫn thu được một khoản thuế cố định, đó chính
là số thuế của toàn bộ giá trị hàng hoá mà người tiêu dùng cuối cùng phải trả. Tức là
thuế GTGT đánh trên hành vi tiêu dùng, còn các cơ sở sản cuất kinh doanh với tư
cách là những nhà trung gian nên không phải là người chịu thuế. Vì vậy có thể nói,
bản chất của thuế GTGT là thuế tiêu dùng đánh vào người tiêu dùng cuối cùng.
Cũng do thuế GTGT tính trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ
nên ĐTNT phải là các cơ sở sản xuất, kinh doanh đã bỏ thêm chi phí vào làm cho
giá cả của hàng hoá, dịch vụ tăng lên. Tuy nhiên, phần thuế mà họ nộp vào Ngân
sách thực chất lại do người mua hàng hoá, dịch vụ đã thanh toán trong giá cả, tức là
người tiêu dùng mới là người chịu thuế. Lúc này các cơ sở sản xuất đóng vai trò là
SV: Trương Thị Hải Anh Lớp: K2-TC
12
Khoá luận tốt nghiệp
người thu thuế hộ cho NN. Vì vậy, thuế GTGT là một loại thuế gián thu, điều tiết
vào thu nhập của người tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ một cách gián tiếp, thông qua
giá cả.
Thuế GTGT có tính xã hội hoá cao, đòi hỏi người tiêu dùng phải có ý thức
trong việc chấp hành nghĩa vụ nộp thuế và góp phần kiểm soát chống thất thu cho
Ngân sách Nhà nước. Đặc biệt là đối với ĐTNT trong việc tự kê khai, tính thuế và
nộp thuế GTGT như ở nước ta hiện nay đòi hỏi nhân dân phải có tinh thần tự giác
cao và ý thức chấp hành nghĩa vụ nộp thuế tốt
1.4 Đặc điểm của thuế GTGT
Thuế GTGT xuất phát từ nhu cầu chi tiêu của NN, nhằm đáp ứng nhu cầu
huy động Ngân sách ngày càng lớn của Nhà nước. Thuế GTGT là nguồn huy động
quan trọng và kịp thời, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu Ngân sách Nhà nước.
Thuế GTGT được tính và thu từng khâu, từng giai đoạn của quá trình sản xuất, kinh
doanh nên làm tăng nguồn thu cho Ngân sách Nhà nước.
Thuế GTGT có phạm vi điều chỉnh rất rộng, áp dụng cho hầu hết các hàng

hoá, dịch vụ sử dụng trong sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng trong tất cả các ngành,
nghề, ở tất cả các giai đoạn.
Thuế GTGT là một loại thuế gián thu, nó là môt yếu tố cấu thành trong giá cả
hàng hoá, dịch vụ, nhằm động viên một phần thu nhập thông qua sự đóng góp của
người tiêu dùng khi họ sử dụng hàng hoá, dịch vụ đó. Thuế GTGT được tính trong
giá bán nên người tiêu dùng chịu thuế ít có cảm giác là mình bị Nhà nước đánh
thuế, do đó thuế GTGT ít gây ra những phản ứng từ phía người chịu thuế.
Thuế GTGT tăng cường tính dân chủ. Thuế GTGT được thể hiện rõ bên cạnh
giá bán làm cho người tiêu dùng biết rõ được sự đóng góp của mình vào Ngân sách
Nhà nước thông qua việc tiêu dùng, đó là một biểu hiện của dân chủ công khai. Khi
chịu thuế GTGT, người tiêu dùng có thể cảm nhận được, thậm chí họ còn cảm thấy
hãnh diện hoặc phiền lòng nếu tiêu dùng những hàng hoá có thuế cao, hoặc họ cảm
thấy hài lòng khi đã chọn được những hàng hoá có thuế thấp. Đây là một ưu điểm
về tính dân chủ của thuế GTGT.
SV: Trương Thị Hải Anh Lớp: K2-TC
13
Khoá luận tốt nghiệp
Thuế GTGT mag tính trung lập cao. Một loại thuế được gọi là trung lập khi
nó không gây ra bất cứ hưởng nào đến hoạt động của doanh nghiệp nếu Chính phủ
không muốn thế. Nhưng thuế GTGT áp dụng các mức thuế suất khác nhau đối với
các loại hàng hoá khác nhau phần nào có tác động đến quan hệ xã hội, nhưng xét về
cơ bản, thuế GTGT không can thiệp sâu vào mục tiêu khuyến khích hay hạn chế sản
xuất, kinh doanh, tiêu dùng theo ngành nghề cụ thể.
1.5 Vai trò của thuế GTGT trong nền kinh tế thị trường
Trong nền kinh tế hiện đại, thuế không chỉ là công cụ thu Ngân sách mà còn
là công cụ quan trọng của Nhà nước để quản lý, kiểm soát, điều tiết vĩ mô nền kinh
tế, nó ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của hệ thống bộ máy quản lý Nhà nước.
Nhà nước sử dụng thuế nhằm hướng dẫn, điều tiết các lĩnh vực sản xuất, kinh
doanh, giải quyết công bằng xã hội, Trong đó, thuế GTGT là một khoản thu
chiếm tỷ trọng lớn, tác động đến mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội. Có thể khái

quát các vai trò đó thành ba vai trò cơ bản sau:
Thứ nhất, thuế GTGT là nguồn thu quan trọng của Ngân sách Nhà nước
Thuế GTGT là công cụ tập trung, huy động đầy đủ, kịp thời nguồn thu cho
NSNN. Thuế GTGT tập trung ngay từ khâu đầu ( sản xuất hoặc nhập khẩu ) đến
khaai tiêu thụ cuối cùng nên đảm bảo nguồn thu cho NSNN.
Việc khấu trừ thuế GTGT được thực hiện căn cứ trên hoá đơn mua hàng đã
thúc đẩy người mua phải đòi hỏi người bán hàng xuất hoá đơn, ghi đúng doanh thu
với giá trị thực của hoạt động mua bán, góp phần khắc phục được tình trạng thông
đồng giữa người mua và người bán để trốn lậu thuế, giảm thất thu cho Ngân sách
Nhà nước.
Thứ hai, thuế GTGT là công cụ để điểu tiết vi mô và vĩ mô nền kinh tế
Thuế GTGT điều tiết sản xuất và tiêu dùng. Luật thuế GTGT quy định đánh
thuế hoặc không đánh thuế, đánh thuế với mức thuế suất cao hay thấp vào các mặt
hàng cụ thể, thông qua đó mà tác động và làm thay đổi mối quan hệ giữa cung và
cầu trên thị trường, tác động tới việc lựa chọn những hàng hoá, dịch vụ để sản xuất,
kinh doanh và tiêu dùng, nhằm góp phần thực hiện điều tiết vĩ mô nền kinh tế.
SV: Trương Thị Hải Anh Lớp: K2-TC
14
Khoá luận tốt nghiệp
Thuế GTGT khuyến khích hoạt động đầu tư mở rộng sản xuất, Trong hoạt
động đầu tư tài sản cố định, toàn bộ số thuế GTGT mà doanh nghiệp phải trả khi
mua sắm tài sản cố định sẽ được Nhà nước cho khấu trừ và hoàn lại. Còn khi nhập
khẩu máy móc thiết bị, phương tiện vận tải chuyên dùng nằm trong dây chuyền
công nghệ và vật tư xây dựng thuộc loại trong nước chưa sản xuất được cần nhập
khẩu để tạo tài sản cố định cho doanh nghiệp thì doanh nghiệp cũng không phải nộp
thuế GTGT. Đồng thời việc thuế GTGT không đánh vào vốn đầu tư đã làm cho giá
thành các công trình đầu tư trong nước giảm rất nhiều. Do đó, thuế GTGT đã góp
phần khuyến khích đầu tư đổi mới công nghệ, thúc đẩy phát triến sản xuất, kinh
doanh và lưu thông hàng hoá.
Thuế GTGT khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu, góp phần bảo hộ

nền sản xất trong nước. Hàng hoá xuất khẩu được áp dụng thuế suất thuế GTGT là
0%, số thuế GTGT đầu vào mà doanh nghiệp đã nộp thì sẽ được nhà nước cho khấu
trừ, tăng cường sự hợp tác thương mại giữa Việt Nam với các nước trên thế giới.
Thuế GTGT tạo điều kiện cho hàng hoá xuất khẩu có thể cạnh tranh dễ dàng hơn
trên thị trường quốc tế, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, giải quyết nhu cầu lao
động trong xã hội
Thuế GTGT góp phần điều tiết thu nhập, thực hiện công bằng xã hội trong
phân phối. Thuế GTGT áp dụng mức thuế suất cao đối với các loại hàng hoá, dịch
vụ cao cấp mà chỉ những người có thu nhập cao mới sử dụng hoặc sử dụng nhiều
hơn, còn đối với các hàng hoá thông thường hoặc có tính thiết yếu thì thuế GTGT
quy định mức thuế suất thấp hơn, qua đó điều tiết một phần thu nhập của họ.
Thuế GTGT thúc đẩy các doanh nghiệp thực hiện chế độ hạch toán, kế toán
phát triển quan hệ thanh toán. Việc doanh nghiệp được phép khấu trừ thuế GTGT
của hàng hoá, dịch vụ mua vào cùng với việc thực hiện hoàn thuế GTGT của Nhà
nước đã khuyến khích các doanh nghiệp tự giác ghi chép, quản lý, sử dụng hoá đơn,
chứng từ, thúc đẩy việc hoàn thiện công tác hạch toán, kế toán tại đơn vị. Ngoài ra,
thuế GTGT góp phần phát triển hệ thống thanh toán. Việc thuế GTGT đòi hỏi
những doanh nghiệp có hàng hoá xuất khẩu phải thanh toán thông qua ngân hàng
SV: Trương Thị Hải Anh Lớp: K2-TC
15
Khoá luận tốt nghiệp
thì mới được hoàn thuế đã thúc đẩy các doanh nghiệp thực hiện thanh toán qua hệ
thống ngân hàng, góp phần phát triển hệ thống thanh toán.
Thứ ba, thuế GTGT là công cụ kiểm soát các hoạt động sản xuất kinh doanh.
Vai trò này hình thành ngay trong quá trình tổ chức thực hiện luật thuế
GTGT. Để thu được thuế và đảm bảo thực hiện đúng luật thuế, cơ quan thuế và các
cơ quan có liên quan phải bằng mọi biện pháp nắm vững số lượng, quy mô và tình
hình hoạt động của các cơ sở sản xuất, kinh doanh. Từ đó mà cơ quan thuế sẽ phát
hiện ra những việc làm sai trái, vi phậm pháp luật của các cá nhân, tổ chức sản xuất,
kinh doanh, cũng như phát hiện ra những khó khăn mà các cơ sở gặp phải để giúp

đỡ họ tìm biện pháp tháo gỡ. Thuế GTGT còn thúc đẩy việc mua bán hàng hoá sử
dụng đầy đủ hoá đơn, chứng từ hợp lệ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm tra,
kiểm soát các hoạt động sản xuất, kinh doanh. Như vậy, qua công tác quản lý thuế
có thể kiểm tra, kiểm soát toàn diện các mặt hoạt động của các cơ sở kinh tế, đảm
bảo thực hiện tốt các công tác quản lý Nhà nước.
1.6 Điều kiện cần thiết cho việc áp dụng thuế GTGT tại Việt Nam
Một là, các hoạt động sản xuất kinh doanh, mua bán hàng hoá lớn và vừa
phải thực hiện đầy đủ chế độ hoá đơn, chứng từ thuận tiện cho việc kiểm tra, xác
định doanh thu tính thuế và khấu trừ thuế đối với từng cơ sở kinh doanh.
Hai là, trình độ cán bộ quản lý, tính thuế được nâng cao về chế độ hoá đơn,
chứng từ, sổ kế toán, thông thạo về chế độ quản lý, tính thuế, khấu trừ thuế, hoàn
thuế GTGT. Các cơ quan từng bước được trang bị hệ thống máy tính, cán bộ cơ
quan thuế ngày càng thông thạo sử dụng các mạng máy tính, đạt hiệu quả cao , làm
cho công tác thu nộp thuế ngày càng được kiểm tra chặt chẽ hơn, nhanh gọn hơn.
Ba là, mở rộng diện thanh toán mua bán hàng hoá thông qua các tài khoản
ngân hàng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác định doanh thu bán hàng làm căn cứ
cho việc tính thuế được xác định.
Bốn là, ý thức tự nguyện, tự giác chấp hành các luật thuế của các doanh
nghiệp từng bước được nâng cao theo phương châm tăng cường “đức trị” gắn với
việc xử lý các vi phạm về thuế nghiêm minh theo phương châm “pháp trị”.
SV: Trương Thị Hải Anh Lớp: K2-TC
16
Khoá luận tốt nghiệp
Năm là, hệ thống pháp luật ngày càng hoàn chỉnh và đưa dần việc thực hiện
pháp luật vào nề nếp, kỷ cương, cả trong nhận thức tư tưởng và hoạt động thực tế.
Ngoài ra còn có các điều kiện khác vừa nhằm giúp cho việc áp dụng luật
thuế GTGT đạt hiệu quả cao. Mỗi điều kiện đều có vai trò và vị trí quan trọng khác
nhau, đồng thời có mối quan hệ bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau để việc triển khai luật thuế
GTGT được đồng bộ.
1.7 Nội dung cơ bản của luật thuế GTGT tại Việt Nam

Nội dung cơ bản của luật thuế GTGT được quy định rõ tại Luật số
13/2008/QH12 của Quốc Hội năm 2010. Luật này quy đinh về đối tượng chịu thuế,
đối tượng không chịu thuế, người nộp thuế, căn cứ tính thuế và phương pháp tính
thuế, khấu trừ thuế và hoàn thuế GTGT
Hàng hoá, dịch vụ sử dụng cho sản xuất, kinh doanh và tiêu dùng ở việt Nam
là đối tượng chịu thuế GTGT trừ các đối tượng quy định tại Điều 5 của luật số
13/2008/QH12.
1.7.1 Đối tượng nộp thuế
Người nộp thuế là các cá nhân, tổ chức sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ
chịu thuế GTGT và tổ chức cá nhân nhập khẩu hàng hoá chịu thuế GTGT.
Tổ chức cá nhân sản xuất, kinh doanh tại Việt Nam mua dịch vụ của tổ chức
nước ngoài không có cơ sở thường trú tại Việt Nam, cá nhân ở nước ngoài là đối tượng
không thường trú tại Việt Nam thì tổ chức, cá nhân mua dịch vụ là người nộp thuế.
Trường hợp mua dịch vụ như: sủa chữa phương tiện vận tải, máy móc, thiết
bị; quảng cáo, tiếp thị; xúc tiến đầu tư và thương mại; môi giới bán hàng hoá; đào
tạo; chia cước dịch vụ bưu chính, viễn thông quốc tế giữa Việt nam với nước ngoài
mà các dịch vụ này được thực hiện ở Việt Nam thì tổ chức, cá nhân mua dịch vụ
hoặc chia cước dịch vụ cho phía nước ngoài không phải nộp thuế GTGT
1.7.2 Căn cứ tính thuế
Căn cứ tính thuế GTGT là giá tính thuế và thuế suất
*Giá tính thuế :
SV: Trương Thị Hải Anh Lớp: K2-TC
17
Khoá luận tốt nghiệp
- Đối với hàng hoá, dịch vụ do cơ sở sản xuất, kinh doanh bán ra là giá bán
chưa có thuế GTGT. Đối với hàng hoá, dịch vụ chịu thuế TTĐB là giá bán đã bao
gồm thuế TTĐB nhưng chưa có thuế GTGT.
- Đối với hàng hoá nhập khẩu là giá nhập tại cửa khẩu cộng với thuế nhập
khẩu (nếu có), cộng với thuế TTĐB (nếu có ). Giá nhập tại cửa khẩu được xác định
theo quy định về giá tính thuế hàng nhập khẩu.

- Đối với hàng hoá dịch vụ dùng để trao đổi, tiêu dùng nội bộ, biếu, tặng, cho
là giá tính thuế GTGT của hàng hoá, dịch vụ cùng loại hoặc tương đương tại thời
điểm phát sinh hoạt động này.
- Đối với hoạt động cho thuê tài sản là số tiền chưa có thuế GTGT
- Đối với hàng hoá bán theo phương thức trả góp, trả chậm là giá tính theo
phương thức trả một lần chưa có thuế GTGT của hàng hoá đó, không bao gồm
khoản lãi trả góp, lãi trả chậm.
- Đối với gia công hàng hoá là giá gia công chưa có thuế GTGT.
- Đối với hoạt động xây dựng, lắp đặt là giá công trình, hạng mục công trình
hay phần công việc thực hiện bàn giao chưa có thuế GTGT. Trường hợp xây dựng,
lắp đặt không bao thầu nguyên, vật liệu, máy móc, thiết bị rhif giá tính thuế là giá
trị xây dựng, lắp đặt không bao gồm giá trị nguyên vật liệu và máy móc, thiết bị.
- Đối với hoạt động kinh doanh bất động sản là giá bất động sản chưa có thuế
GTGT, trừ giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất hoặc tiền thuê đất phải nộp Ngân
sách Nhà nước.
- Đối với hoạt động đại lý, môi giới mua bán hàng hoá, dịch vụ và hưởng
hoa hồng là tiền hoa hồng thu được từ các hoạt động này chưa có thuế GTGT.
- Đối với hàng hoá, dịch vụ được sử dụng chứng từ thanh toán ghi giá thanh
toán là giá đã có thuế GTGT thì giá tính thuế được xác định theo công thức sau:
Giá chưa thuế GTGT = Giá thanh toán / ( 1+ thuế suất %)
* Thuế suất
- Mức thuế 0% áp dụng đối với hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu, vận tải quốc tế
SV: Trương Thị Hải Anh Lớp: K2-TC
18
Khoá luận tốt nghiệp
và hàng hoá, dịch vụ không chịu thuế GTGT khi xuất khẩu, trừ các trường hợp
chuyển giao công nghệ, chuyển nhượng quyền sở hữu trí tuệ ra nước ngoài; dịch vụ
tái bảo hiểm ra nước ngoài; dịch vụ cấp tín dụng, chuyển nhượng vốn, dịch vụ tài
chính phát sinh; dịch vụ bưu chính, viễn thông, sản phẩm xuất khẩu là tài nguyên,
khoáng sản khai thác chưa qua chế biến.

- Mức thuế suất 5% áp dụng với các loại hàng hoá dịch vụ sau : Nước sạch
phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt; Phân bón, quặng để sản xuất phân bón, thuốc trừ
sâu bệnh và thuốc kích thích tăng trưởng vật nuôi – cây trồng ; Thức ăn gia súc, gia
cầm và thức ăn cho vật nuôi khác; Dịch vụ đào đắp- nạo vét kênh mương, ao hồ
phục vụ sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng, chăm sóc, phòng trừ sâu bệnh cho cây
trồng, sơ chế hoặc bảo quản sản phẩm nông nghiệp; Sản phẩm trồng trọt , chăn
nuôi, thuỷ sản chưa qua chế biến, và các loại hàng hoá, dịch vụ có tính chất thiết
yếu trong cuộc sống.
- Mức thuế suất 10% áp dụng cho các loại hàng hoá, dịch vụ thông thường,
không thuộc 2 mức trên.
1.7.3 Phương pháp tính thuế GTGT
Đặc trưng của thuế GTGT là chỉ đánh vào phần giá trị tăng thêm của sảm
phẩm, hàng hoá, dịch vụ ở mỗi công đoạn từ sản xuất, lưu thông đến tiêu dùng. Để
thực hiện được việc tính thuế trên phần giá trị tăng thêm đảm bảo không chồng
chéo, trùng lặp, trên thế giới hiện nay có 4 phương pháp tính thuế GTGT như sau:
(1) Phương pháp trực tiếp
Thuế GTGT phải nộp = ( Lợi nhuận + tiền công ) x thuế suất
(2) Phương pháp cộng gián tiếp
Thuế GTGT phải nộp = ( Lợi nhuận x thuế suất ) + ( Tiền công x thuế suất)
Về cơ bản phương pháp 2 cũng giống phương pháp 1 nhưng được sử
dụng với trường hợp có 2 mức thuế suất khác nhau với lợi nhuận và tiền công.
(3) Phương pháp khấu trừ trực tiếp
SV: Trương Thị Hải Anh Lớp: K2-TC
19
Khoá luận tốt nghiệp
Thuế
GTGT
phải nộp
=
=

Doanh số
bán ra
-
Doanh số
mua vào
x
Thuế suất thuế GTGT
của
hàng hoá dịch vụ
Hay
Thuế GTGT phải nộp = GTGT x Thuế suất thuế GTGT
(4) Phương pháp khấu trừ gián tiếp
Thuế
GTGT
phải nộp
=
Doanh
số bán ra
x
Thuế suất
thuế GTGT
-
Doanh số
mua vào
x
Thuế suất
thuế GTGT
Hay
Thuế GTGT phải nộp = Thuế GTGT thu hộ - Thuế GTGT trả hộ
Phương pháp này rất thuận lợi cho việc tính thuế trong trường hợp thuế suất

đầu ra và thuế suất đầu vào khác nhau.
Trong 4 phương pháp trên thì 2 phương pháp đầu có nhiều hạn chế và thiếu
chính xác. Hiện nay, hầu hết các quốc gia đều sử dụng cách tính thuế GTGT theo
phương pháp khấu trừ gián tiếp.
Ở Việt Nam hiện nay đang áp dụng 2 phương pháp tính thuế GTGT là
(1) Phương pháp khấu trừ
Thuế GTGT phải nộp = Thuế GTGT đầu ra - Thuế GTGT đầu vào
Trong đó
Thuế
GTGT
đầu ra
=
Giá tính thuế
của hàng hoá,
dịch vụ
x
Khối lượng hàng
hoá dịch vụ bán
ra
x
Thuế suất thuế
GTGT của hàng hoá,
dịch vụ đó
Còn thuế GTGT đầu vào là số thuế được ghi trên hoá đơn GTGT khi mua
hàng của hàng hoá, dịch vụ mà cơ sở đó mua vào hoặc trên chứng từ nộp thuế
GTGT của hàng hoá nhập khẩu theo tỷ lệ % quy định.
SV: Trương Thị Hải Anh Lớp: K2-TC
20
Khoá luận tốt nghiệp
Nếu thuế GTGT đầu vào lớn hơn thuế GTGT đầu ra thì doanh nghiệp sẽ

được Nhà nước khấu trừ số chênh lệch vào số thuế GTGT phải nộp của kỳ sau. Nếu
số chênh lệch đó lớn hơn 200 triệu đồng hoặc 3 tháng liên tiếp số thuế đầu vào lớn
hơn số thuế đầu ra thì doanh nghiệp sẽ được Nhà nước hoàn lại phần chênh lệch đó.
(2) Phương pháp tính thuế trực tiếp trên GTGT
Số thuế GTGT
phải nộp
=
GTGT của hàng hoá,
dịch vụ chịu thuế
x
Thuế suất thuế GTGT của
hàng hoá, dịch vụ đó
Trong đó
GTGT của hàng hoá,
dịch vụ chịu thuế
=
Giá của hàng hoá,
dịch vụ bán ra
-
Giá của hàng hoá dịch
vụ mua vào
Chương 2
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ THU THUẾ GTGT
TẠI CHI CỤC THUẾ HUYỆN KINH MÔN - TỈNH HẢI DƯƠNG
SV: Trương Thị Hải Anh Lớp: K2-TC
21
Khoá luận tốt nghiệp
2.1 Khái quát về Chi cục thuế huyên Kinh Môn- tỉnh Hải Dương
2.1.1 Lịch sử ra đời và phát triển của Chi cục thuế huyện Kinh Môn
Năm 1990, bộ máy quản lý thuế Nhà nước được tổ chức theo hệ thống ngành

dọc từ trung ương đến địa phương trên cơ sở hợp nhất bộ máy và biên chế 3 ngành
là Cục thu quốc doanh, Cục thuế Công thương nghiệp ngoài quốc doanh và Vụ thuế
nông nghiệp thành Tổng Cục Thuế trực thuộc Bộ Tài Chính. Hệ thống ngành thuế
có nhiệm vụ quản lý thống nhất trên phạm vi cả nước về tất cả các sắc thuế, phí và
lệ phí của NSNN. Dưới Tổng Cục Thuế ở cấp Tỉnh, Thành Phố trực thuộc trung
ương là các Cục Thuế trực thuộc Tổng Cục thuế, dưới các Cục thuế là các Chi cục
thuế ở các huyện, quận.
Theo cơ cấu chung như vậy, Chi cục thuế huyện Kinh Môn được thành lập
và có trụ sở tại khu Kinh Hà- Thị Trấn Kinh Môn- Huyện Kinh Môn - Tỉnh Hải
Dương. Đến nay Chi cục đã được xây dựng khang trang, hiện đại. Các phòng làm
việc đã được trang bị đầy đủ máy móc, thiết bị cần thiết cho công tác thuế. Chi cục
thuế huyện Kinh Môn có đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao,
trên 95% đạt trình độ Đại Học và trên Đại Học.
Được sự quan tâm, chỉ đạo của cấp trên, sự phối hợp của các ban, ngành chức
năng liên quan, cùng sự nỗ lực phấn đấu cảu cán bộ nhân viên ngành thuế huyện
Kinh Môn và sự cố gắng chấp hành nghĩa vụ thuế của các đối tượng nộp thuế
trên toàn huyện nên ngành thuế Tỉnh Hải Dương nói chung và ngành thuế huyện
Kinh Môn nói riêng trong những năm qua đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được
giao, góp phần vào công cuộc phát triển hệ thống ngành thuế và công tác quản lý
các sắc thuế.
2.1.2 Chức năng, nhiệm vụ của Chi cục thuế huyện Kinh Môn.
Chi cục thuế huyện Kinh Môn được giao cho thực hiện chức năng nhiệm vụ
sau: tổ chức thực hiện công tác quản lý thuế, phí, lệ phí, các khoản thi khác NSNN
thuộc phạm vi nhiệm vụ của ngành thuế trên địa bàn huyện theo quy định của pháp
SV: Trương Thị Hải Anh Lớp: K2-TC
22
Khoá luận tốt nghiệp
luật. Chi cục có tư cách pháp nhân, con dấu riêng, được mở tài khoản tại Kho bạc
Nhà nước theo quy định của pháp luật và có nhiệm vụ cụ thể:
1. Tổ chức triển khai thực hiện thống nhất các văn bản quy phạm pháp luật

về thuế, quy trình, biện pháp nghiệp vụ quản lý thu thuế trên địa bàn.
2. Tổ chức thực hiện dự toán thu thuế hàng năm được giao; tổng hợp, phân
tích, đánh giá công tác quản lý thuế; phối hợp chặt chẽ với các ban, ngành có liên
quan để thực hiện nhiệm vụ được giao.
3. Tổ chức thực hiện công tác tuyên truyền, hướng dẫn, giải thích chính
sách thuế của NN; hỗ trợ người nộp thuế trên địa bàn thực hiện nghĩa vụ nộp thuế
theo đúng quy định của pháp luật.
4. Kiến nghị với Cục trưởng Cục thuế về những vấn đề vướng mắc cần sửa
đổi, bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về thuế, các quy trình chuyên môn,
nghiệp vụ, các quy định quản lý nội bộ và những vấn đề vượt quá thẩm quyền giải
quyết của Chi cục.
5. Tổ chức thực hiện nhiệm vụ quản lý thuế đối với người nộp thuế thuộc
phạm vi quản lý của Chi cục : đăng ký thuế, cấp MST, xử lý hồ sơ khai thuế, tính
thuế, miễn thuế, đôn đốc người nộp thuế thực hiện nghĩa vụ nộp thuế đầy đủ,
kịp thời vào NSNN.
6. Quản lý thông tin về người nộp thuế; xây dựng hệ thống dữ liệu thông tin
về ngươi nộp thuế trên địa bàn huyện.
7. Thanh tra, kiểm tra, giám sát việc kê khai thuế, nộp thuế, hoàn thuế, miễn
thuế, quyết toán thuế và chấp hành chính sách, pháp luật thuế đối với người nộp
thuế và các cá nhân, tổ chức thuộc thẩm quyền quản lý của Chi cục.
8. Quyết định hoặc đề nghị cấp có thẩm quyền quyết định miễn giảm, hoàn
thuế, gia hạn thời hạn khai thuế, nộp thuế, truy thu, xoá nợ, miễn xử phạt tiền thuế
theo quy định của pháp luật.
9. Được quyền yêu cầu người nộp thuế, các cơ quan NN, các tổ chức, cá
nhân có liên quan cung cấp kịp thời các thông tin cần thiết phục vụ cho công tác
quản lý thu thuế; đề nghị cơ quan có thẩm quyền xử lý các tổ chức, cá nhân không
thực hiện trách nhiệm trong việc phối hợp với cơ quan thuế để thực hiện nhiệm vụ
thu NSNN.
SV: Trương Thị Hải Anh Lớp: K2-TC
23

Khoá luận tốt nghiệp
10. Được quyền ấn định thuế, thực hiện biên pháp cưỡng chế thi hành quyết
định hành chính thuế theo quy định của pháp luật; thông báo trên phương tiện thông
tin đại chúng về hành vi vi phạm pháp luật về thuế của người nộp thuế.
11. Bồi thường thiệt hại cho người nộp thuế do lỗi của cơ quan thuế theo quy
định của pháp luật; giữ bí mật thông tin của người nộp thuế; xác nhận việc thực
hiện nghĩa vụ của người nộp thuế theo quy định của pháp luật.
12. Tổ chức thực hiện thống kê, kế toán thuế, quản lý biên lai, ấn chỉ thuế; lập
báo cáo về kết quả thu thuế và báo cáo khác phục vụ cho việc chỉ đạo, điều hành của
cơ quan cấp trên; tổng kết, đánh giá tình hình và kết quả công tác của Chi cục thuế.
13. Tổ chức thực hiện kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo về thuế và khiếu
nại tố cáo liên quan đến việc thi hành công vụ của công chức, viên chức thuế thuộc
thẩm quyền quản lý của Chi cục thuế theo quy định của pháp luật.
14. Xử lý vi phạm hành chính về thuế, lập hồ sơ đề nghị cơ quan có thẩm
quyền khởi tố các tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật thuế theo quy định của Luật
quản lý thuế và pháp luật khác có liên quan.
15. Giám định để xác định số thuế phải nộp của người nộp thuế theo yêu cầu
của cơ quan NN có thẩm quyền.
16. Thực hiện việc cải cách thuế theo mục tiêu nâng cao chất lượng hoạt động,
công khai hoá thủ tục, cải tiến quy trình nghiệp vụ quản lý thuế và cung cấp thông tin
để tạo thuận lợi phục vụ cho người nộp thuế thực hiện sách pháp luật về thuế.
17.Tổ chức tiếp nhận và triển khai ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ
thông tin và phương pháp quản lý hiện đại vào các hoạt động của Chi cục thuế.
18. Quản lý bộ máy, lao động, tổ chức đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ công chức
viên chức của Chi cục thuế theo quy đinh của NN và của ngành thuế.
19. Quản lý kinh phí, tài sản được giao, lưu trữ hồ sơ, tài liệu, ấn chỉ thuế
theo quy định của pháp luật và của ngành.
20. Thực hiện nhiệm vụ khác do Cục trưởng Cục thuế giao phó.
2.1.3 Tổ chức bộ máy quản lý
Chi cục thuế huyện Kinh Môn hiện nay được chia thành 12 Đội và chịu sự

SV: Trương Thị Hải Anh Lớp: K2-TC
24
Khoá luận tốt nghiệp
quản lý của đội ngũ lãnh đạo, bao gồm:
1. Đội kê khai- kế toán thuế & tin học: Giúp Chi cục trưởng thực hiện công
tác đăng ký thuế, xử lý hồ sơ khai thuế, kế toán thuế, thống kê thuế théo phân cấp
quản lý, quản lý và vận hành hệ thống trang thiết bị tin học, triển khai, cài đặt,
hướng dẫn sử dụng các phần mềm ứng dụng tin học phục vụ công tác quản lý thuế.
2. Đội kiểm tra thuế : Giúp Chi cục trưởng Chi cục thuế thực hiện công tác
kiểm tra, giám sát kê khai thuế, giải quyết tố cáo liên quan đến người nộp thuế, chịu
trách nhiệm thực hiện dự toán thu thuộc phạm vi của Chi cục thuế.
3. Đội Quản lý Nợ: Giúp Chi cục Trưởng Chi cục Thuế thực hiện cong tác
quản lý nợ thuế cưỡng chế thu tiền thuế nợ, tiền phạt đối với người nộp thuế thuộc
phạm vi quản lý của Chi cục thuế.
4. Đội trước bạ và thu khác: Giúp Chi cục trưởng quản lý thu lệ phí trước
bạ, thuế chuyển nhượng quyền sử dụng đất, tiền cấp quyền sử dụng đất, các khoản
đấu giá về đất, tài sản, tiền thuê đất, phí, lệ phí và các khoản thu khác phát sinh trên
địa bàn thuộc phạm vi Chi cục thuế quản lý.
5. Đội thuế TNCN: Giúp Chi cục trưởng quản lý thu nhập cá nhân đối với
cá nhân có thu nhập thuộc diện phải nộp thuế thu nhập cá nhân thuộc phạm vi Chi
cục quản lý.
6. Đội Tuyên truyền và hỗ trợ người nộp thuế : Giúp Chi cục trưởng thực
hiện công tác tuyên truyền về chính sách pháp luật thuế, hỗ trợ người nộp thuế
trong phạm vi quản lý của Chi cục.
7. Đội nghiệp vụ - Tổng hợp - Dự toán: Giúp Chi cục trưởng hướng dẫn về
nghiệp vụ quản vụ thuế, chính sách, pháp luật thuế cho cán bộ, công chức thuế
trong Chi cục thuế; xây dựng và tổ chức thực hiện dự toán thu NSNN được giao của
Chi cục thuế.
8. Đội Hành chính – Nhân sự - Tài vụ - Ấn chỉ : Giúp Chi cục trưởng thực
hiên công tác hành chính, văn thư, lưu trữ; công tác quản lý nhân sự ; quản lý tài

chính, quản trị, quản lý ấn chỉ trong nội bộ Chi cục thuế quản lý.
SV: Trương Thị Hải Anh Lớp: K2-TC
25

×