Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng ngắn hạn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam Chi nhánh Mỹ Đình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (482.96 KB, 78 trang )

MỤC LỤC
CHƯƠNG I..............................................................................................................3
TÍN DỤNG NGẮN HẠN VÀ MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NGẮN
HẠN TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI...................................................3
2.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh Mỹ
Đình.......................................................................................................40


DANH MỤC BẢNG BIỂU
CHƯƠNG I..............................................................................................................3
TÍN DỤNG NGẮN HẠN VÀ MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG NGẮN
HẠN TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI...................................................3
2.3.2. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn tại chi nhánh Mỹ
Đình.......................................................................................................40
Biểu đồ 2.1. Sơ đồ cho vay ngắn hạn theo thành phần kinh tế.........Error: Reference
source not found


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

NHNo&PTNT

: Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn

AGRIBANK

: Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nơng Thơn

PGD

: Phịng giao dịch.



TDNN

: Tín dụng nhà nước.

TDTC

: Tín dụng tổ chức

QĐ-TT

: Quyết định thủ tướng

HĐQT

: Hội đồng quản trị

NHTM

: Ngân hàng thương mại

NĐ – CP

: Nghị định – chính phủ

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

TW


: Trung ương

VND

: Việt Nam Đồng

NHNN

: Ngân hàng Nhà nước.

TSCĐ

: Tài sản cố định.

TSLĐ

: Tài sản lưu động.

XNK

: Xuất nhập khẩu

CBCNV

: Cán bộ công nhân viên


LỜI MỞ ĐẦU


Việt Nam là một nước có một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Đảng và Nhà nước ta có nhiều chính sách tạo
mơi trường pháp lý đồng bộ và thơng thống, mở cửa nền kinh tế nhất là từ năm
2006 trở lại đây khi mà nước ta đã ra nhập vào tổ chức Thương Mại Thế Giới
(WTO) đã tạo điều kiện và khuyến khích các thành phần kinh tế có điều kiện phát
triển như: mở rộng quy mơ đầu tư sản xuất, đầu tư chun mơn hóa các ngành nghề
truyền thống và phát triển các ngành nghề trên tất cả các lĩnh vực như: nông nghiệp,
giao thông vận tải, xây dựng, thương mại du lịch, dịch vụ….điều này đồng nghĩa
với việc nền kinh tế cần một khối lượng vốn lớn để phục vụ cho công cuộc phát
triển nên kinh tế. Trước tình hình đó đặt ra cho hệ thống tài chính quốc gia phải đủ
mạnh cả về nguồn lực vốn, con người, phương tiện kỹ thuật hoạt động để cung ứng
kịp thời vốn và các tiện ích khác cho nền kinh tế. Tham gia vào các hoạt động kinh
tế trên thị trường gồm có các tổ chức: Ngân hàng thương mại, công ty bảo hiểm, các
tổ chức tín dụng, các quỹ đầu tư phát triển…tuy nhiên hệ thống Ngân hàng vẫn giữ
vai trị chủ đạo vì đây không những là kênh điều chuyển vốn cho nền kinh tế mà
cịn là kênh để Chính phủ quản lý hoạt động tiền tệ của quốc gia, ổn định thị trường
tiền tệ, tạo điều kiện cho các ngành khác tăng trưởng và phát triển.
Thực tập là khoảng thời gian quan trọng đối với sinh viên vì đây là dịp để
mỗi sinh viên có cơ hội liên hệ giữa lý luận và thực tiễn, để trao đổi, học hỏi và
tích lũy kinh nghiệp, kỹ năng, tác phong công tác. Từ việc xác định mục tiêu và
tầm quan trọng trong đợt thực tập vừa qua, bản thân em đã có thái độ nghiêm
túc, tự giác trong học tập, khiêm tốn học hỏi, nghiên cứu tài liệu, thu thập thông
tin để giúp cho đợt thực tập đạt được những kết quả tốt. Với hy vọng có thêm
kinh nghiệp về nghiệp vụ Ngân hàng, em đã chọn Ngân hàng Nông nghiệp và
Phát triển Nông thôn Chi nhánh Mỹ Đình làm địa điểm thực tập.
Từ thực tế ở NHNo&PTNT Chi nhánh Mỹ Đình, và sau thời gian học tập

1



nghiên cứu những vấn đề mang tính lý luận của công tác kinh doanh, em chọn đề
tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng ngắn hạn tại Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam Chi nhánh Mỹ Đình”
Nội dung đề tài bao gồm 3 chương:
Chương I: Tổng quan về tín dụng và chất lượng hoạt động tín dụng ngắn
hạn tại Ngân hàng Thương mại.
Chương II: Thực trạng chất lượng hoạt động tín dụng ngắn hạn tại Ngân
hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông Thôn Chi nhánh Mỹ Đình.
Chương III: Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng tín dụng
ngắn hạn tại Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Chi nhánh Mỹ Đình.
Trong suốt quá trình thực tập, em đã nhận được sự giúp đỡ nhiệt tình từ phía
nhà trường, ban giám đốc, cán bộ nhân viên trong phịng tín dụng của NHNo&PTNT
Chi nhánh Mỹ Đình và các thầy cơ giáo trong trường đặc biệt là thầy giáo ThS. Đặng
Ngọc Biên đã hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành bài viết của mình.
Em xin chân thành cám ơn!

2


CHƯƠNG I
TÍN DỤNG NGẮN HẠN VÀ MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG
NGẮN HẠN TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

1.1. Một số vấn đề cơ bản về Ngân hàng Thương mại
1.1.1. Khái niệm về ngân hàng thương mại
Cùng với sự phát triển của sản xuất lưu thơng hàng hố Ngân hàng thương
mại đã ra đời và trở thành một thứ dầu bôi trơn cho cỗ máy kinh tế hoạt động một
cách nhịp nhàng thơng suốt. Ngân hàng thương mại đã hình thành và tồn tại như
một tất yếu khách quan đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế hàng hoá. Sản xuất lưu
thơng hàng hố càng phát triển nhu cầu giao lưu giữa các vùng càng tăng, tuy nhiên

do sự khác biệt giữa các vùng về tiền tệ cũng như sự khác biệt về địa lý làm nhu cầu
đổi tiền cũng như gửi tiền và thanh toán hộ của các thương gia xuất hiện. Và cũng
chính nhờ hoạt động nhận tiền gửi và thanh toán hộ mà những người giữ tiền đã
nắm trong tay một khối lượng tiền lớn từ đó họ dễ dàng thực hiện hoạt động cho
vay do tính vô danh của tiền tệ. Ngân hàng thương mại đã ra đời từ đó cùng với
những nghiệp vụ cơ bản của nó, đến nay trải qua bao thăng trầm của nền kinh tế
hoạt động của Ngân hàng thương mại đã mở rộng không chỉ quy mô, chất lượng mà
số lượng, loại hình các dịch vụ cũng ngày càng mở rộng đáp ứng nhu cầu của khách
hàng. Từ đó Ngân hàng thương mại đã trở thành một bộ phận không thể thiếu của
nền kinh tế, hoạt động của Ngân hàng thương mại ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát
triển của nền kinh tế.
Trải qua thời gian tương đối dài với những biến động của nền kinh tế, rất
nhiều khái niệm về Ngân hàng thương mại đã được hình thành. Ta thấy rằng Ngân
hàng thương mại được xem xét ở rất nhiều khía cạnh khác như:
Ở Việt Nam theo sắc lệnh 018CT/LDGCQL/SL ngày 20/10/1969 của chính
quyền Sài Gịn cũ cho rằng: Ngân hàng thương mại là mọi xí nghiệp cơng hay tư

3


lập, kể cả những chi nhánh hay phân cục Ngân hàng ngoại quốc mà hoạt động
thường xuyên là thi hành cho chính mình nghiệp vụ tín dụng, chiết khấu, tài chính
với tiền ký thác của tư nhân hay chi nhánh hay chi nhánh công quyền.
Hay một cách tiếp cận Ngân hàng thương mại dựa trên những dịch vụ mà Ngân
hàng mang lại như Ngân hàng thương mại là loại hình tổ chức tài chính tiền tệ cung
cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất đặc biệt là nghiệp vụ tín dụng,
tiết kiệm và dịch vụ thanh tốn và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất
kỳ một tổ chức kinh tế nào trong nền kinh tế.
Theo pháp lệnh Ngân hàng 23/5/1990 của Hội đồng Nhà nước xác định:
Ngân hàng thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động chủ yếu thường

xuyên là nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hồn trả và sử dụng số tiền đó
để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh tốn.
> Như vậy nhìn chung từ khái niệm ta có thể thấy rằng Ngân hàng thương
mại có các đặc trưng :
+ Là tổ chức được phép nhận ký thác của cơng chúng với trách nhiệm hồn trả.
+ Được phép nhận ký thác để cho vay, chiết khấu và thực hiện các nghiệp vụ
tài chính khác.
Như vậy ta có thể hiểu Ngân hàng thương mại là một loại hình doanh nghiệp
đặc biệt hoạt động kinh doanh trên lĩnh vực tín dụng với với mục đích thu lợi
nhuận.
Do sự bùng nổ về thông tin và công nghệ thông tin, công nghệ Ngân hàng
ngày càng được hiện đại hố. Do đó để có thể cạnh tranh và hợp tác, hoạt động
Ngân hàng khơng chỉ bó hẹp trong phạm vi một vùng, một quốc gia mà hồ nhập
trong tồn cầu. Điều đó tạo ra một cơ hội mới cho các Ngân hàng trong việc phát
triển sản phẩm mở rộng thị trường nhưng cũng tạo ra rất nhiều thách thức cho các
Ngân hàng trong sự cạnh tranh.

4


Khơng những vậy, căn cứ vào tính chất sở hữu và hình thức góp vốn có rất
nhiều loại Ngân hàng thương mại như Ngân hàng thương mại quốc doanh, Ngân
hàng cổ phần, liên doanh, Ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam… góp phần đa dạng
hố các loại hình Ngân hàng tại Việt Nam. Từ đó thúc đẩy sự tự do cạnh tranh một
cách lành mạnh, giúp các Ngân hàng từng bước tự phát triển, đổi mới, mở rộng hoạt
động kinh doanh
1.1.2 Các nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng thương mại.
Ngân hàng thương mại là một đơn vị kinh doanh tiền tệ do đó các hoạt động
nghiệp vụ của Ngân hàng đều hướng tới mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận. Để đạt được
mục tiêu này Ngân hàng thương mại trong q trình phát triển đã khơng ngừng đổi

mới, khơng chỉ nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ sẵn có mà cịn thường xun
nghiên cứu nhằm cung cấp các sản phẩm dịch vụ mới phục vụ nhu cầu của người
dân. Tuy nhiên, một Ngân hàng thương mại luôn luôn tiến hành 3 nghiệp vụ cơ bản:
• Huy động vốn
Đối với hoạt động huy động vốn, đây là hoạt động “đầu vào” của ngân hàng,
Ngân hàng phần lớn dựa vào việc huy động tiền vốn nhàn rỗi tạm thời trong nền
kinh tế.
Thơng thường Ngân hàng có các loại tiền gửi là tiền gửi khơng kỳ hạn, tiền
gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm.
Để thực hiện được hoạt động huy động vốn, Ngân hàng cần có một lượng
vốn nhất định là vốn tự có. Lượng vốn này chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng vốn sử
dụng song nó rất quan trọng đối với hoạt động Ngân hàng. Đây là cơ sở thu hút tiền
gửi của khách hàng, là nguồn để trang trải rủi ro khi gặp phải trong kinh doanh và là
chỉ tiêu để Ngân hàng Trung ương quản lý Ngân hàng thương mại.
• Hoạt động sử dụng vốn
Hoạt động sử dụng vốn ở đây bao gồm: hoạt động cho vay, hoạt động ngân
quỹ, hoạt động đầu tư chứng khoán.

5


Hoạt động cho vay là hoạt động quan trọng nhất quyết định sự thành bại của
Ngân hàng bởi đây là hoạt động sinh lời chủ yếu của các Ngân hàng. Chính vì vậy
đây cũng là hoạt động chứa nhiều rủi ro nhất. Để tránh rủi ro tín dụng xảy ra, việc
quản lý tiền vay được tiến hành một cách rất chặt chẽ, đặc biệt với món vay lớn,
thời hạn cho vay dài. Theo đó Ngân hàng phải phân chia tín dụng ra nhiều hình thức
khác nhau nhằm mục đích dễ quản lý.
Hoạt động ngân quỹ nhằm bảo đảm khả năng thanh toán thường xuyên của
Ngân hàng cho khách hàng. Đây là tài sản không sinh lời hoặc sinh lời thấp nhưng tính
lỏng cao và được coi như tiền mặt. Do đó Ngân hàng phải duy trì tài sản này ở mức độ

hợp lý sao cho vừa đảm bảo tính thanh khoản vừa đảm bảo khả năng sinh lời.
Ngoài ra Ngân hàng còn sử dụng vốn vào hoạt động đầu tư chứng khoán trên
thị trường để thu lợi nhuận và một phần đảm bảo khả năng thanh tốn cho Ngân hàng.
• Hoạt động trung gian
Hoạt động trung gian là việc Ngân hàng cung cấp cho khách hàng một loạt
các dịch vụ liên quan như chuyển tiền, thanh toán hộ khách hàng thơng qua các
hình thức ghi chép trên tài khoản của khách hàng, phát hành séc, uỷ nhiệm thu, uỷ
nhiệm chi, thư tín dụng, mơi giới mua bán chứng khốn, quản lý hộ tài sản, tư vấn
cho doanh nghiệp.
Ngày nay trong xu thế hội nhập kinh tế toàn cầu, hoạt động Ngân hàng chịu
sự cạnh tranh gay gắt từ mọi hướng, chính vì vậy các Ngân hàng tiến tới hoạt động
đa năng trên nhiều lĩnh vực, cung cấp nhiều dịch vụ khác nhau. Vì vậy các dịch vụ
cung cấp cho khách hàng cũng ngày càng tăng thêm như: kinh doanh ngoại hối, bảo
lãnh, tư vấn, kinh doanh chứng khoán, dịch vụ rút tiền tự động, bảo đảm an tồn vật
có giá, nghiệp vụ thuê mua. Tất cả các nghiệp vụ đều có quan hệ chặt chẽ hỗ trợ
nhau một mặt thoả mãn nhu cầu của khách hàng một mặt mang lại lợi nhuận cho
Ngân hàng.

6


1.2. Tín dụng Ngân hàng và vai trị của tín dụng Ngân hàng trong nền
kinh tế
1.2.1. Khái niệm tín dụng Ngân Hàng
Tín dụng là hoạt động mang tính sơ khai, tính bản chất của Ngân hàng, là cơ sở
chủ yếu để đánh giá chất lượng hoạt động Ngân hàng. Thuật ngữ “ tín dụng” (credit)
xuất phát từ chữ La Tinh credo (tin tưởng, tín nhiệm). Trong thực tế cuộc sống thuật
ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau, ngay cả trong quan hệ tài chính,
tuỳ theo từng bối cảnh cụ thể mà thuật ngữ tín dụng có một nội dung riêng.
Theo luật NHNN, tín dụng được định nghĩa như sau: “Cấu thành một nghiệp

vụ tín dụng là bất cứ động tác nào qua đó người đưa hay người hứa đưa vốn cho
người khác dùng, hoặc cam kết bằng chữ ký cho người này như đảm bảo, bảo
chứng hay bảo lãnh có thu tiền”.
Trên cơ sở tiếp cận theo chức năng hoạt động của Ngân hàng thì tín dụng được
hiểu là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay ( Ngân hàng và
các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác),
trong đó bên cho vay chuyển giao tiền cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất
định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hồn trả vơ điều kiện vốn gốc và lãi cho
bên cho vay khi đến hạn thanh tốn.
Quan hệ tín dụng Ngân hàng chỉ được hình thành khi có những điều kiện
kinh tế xã hội cụ thể làm tiền đề cho nó. Chính vì vậy, mặc dù các NHTM xuất hiện
rất sớm nhưng quan hệ tín dụng chỉ được hình thành vào khoảng cuối thế kỉ 19.
Thơng thường q trình vận động của tín dụng Ngân hàng trải qua 3 giai đoạn :
- Phân phối tín dụng dưới hình thức cho vay
- Sử dụng vốn trong q trình sản xuất
- Hồn trả tín dụng

1.2.2. Đặc trưng của tín dụng Ngân hàng

7


Như vậy, dù định nghĩa cách này hay cách khác, quan điểm về tín dụng đều
thể hiện qua một số đặc trưng của tín dụng như sau:
Thứ nhất : Tín dụng là quan hệ chuyển nhượng mang tính tạm thời. Đối
tượng của sự chuyển nhượng có thể là tiền tệ hoặc là hàng hố dưới hình thức kéo
dài thời gian thanh toán trong quan hệ mua bán hàng hoá.
Thứ hai: Tín dụng mang tính hồn trả. Lượng vốn được chuyển nhượng phải
được hoàn trả đúng hạn về cả thời gian và về giá trị bao gồm hai bộ phận: gốc và
lãi. Phần lãi đảm bảo cho lượng giá trị hoàn trả lớn hơn lượng giá trị ban đầu. Sự

chênh lệch này là giá trả cho quyền sử dụng vốn tạm thời.
Thứ ba: Quan hệ tín dụng dựa trên cơ sở sự tin tưởng giữa người đi vay và
người cho vay. Có thể nói đây là điều kiện tiên quyết để thiết lập quan hệ tín dụng.
Người cho vay tin tưởng rằng vốn sẽ được hoàn trả đầy đủ khi đến hạn. Người đi vay
cũng tin tưởng vào khả năng phát huy hiệu quả của vốn vay. Sự gặp gỡ giữa người đi
vay và người cho vay về điểm này sẽ là điều kiện hình thành quan hệ tín dụng.
1.2.3. Chức năng của tín dụng Ngân hàng
Tín dụng có vị trí quan trọng trong quá trình phát triển của nền kinh tế quốc
dân. Vị trí đó trước hết được biểu hiện qua các chức năng sau đây của tín dụng :
Thứ nhất: Tín dụng Ngân hàng đáp ứng nhu cầu về vốn cho nền kinh tế.
Vốn là nguồn lực, là điều kiện kinh doanh.
Thứ hai: Với tư cách là trung gian chuyển vốn từ nơi thừa vốn sang nơi
thiếu vốn nên tín dụng Ngân hàng đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn trong nền kinh
tế, góp phần giúp cho việc sử dụng vốn trong nền kinh tế có hiệu quả hơn, góp phần
tăng tốc độ tăng trưởng.
Thứ ba: Tín dụng Ngân hàng thực hiện chức năng giám đốc. Đối với mỗi nền
kinh tế, Ngân hàng trung ương đảm nhiệm việc quản lý nhà nước về hoạt động tiền tệ,
tín dụng, Ngân hàng trong cả nước nhằm ổn định giá trị tiền tệ.

8


1.2.4. Phân loại tín dụng Ngân hàng
Tín dụng là một trong những nghiệp vụ cơ bản nhất và cũng mang lại lợi
nhuận chủ yếu cũng như rủi ro cho các Ngân hàng. Chính vì vậy, các nhà Ngân
hàng ln phải tìm ra các tiêu thức phân loại tín dụng để có thể dễ dàng quản lý,
kiểm tra từ đó phịng tránh rủi ro tín dụng. Dựa vào các tiêu thức khác nhau ta có
thể phân loại tín dụng như sau:
• Căn cứ vào thời gian của khoản vay:
Tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận về thời hạn cho vay theo hai loại:

tín dụng ngắn hạn và tín dụng trung, dài hạn.
Tín dụng ngắn hạn: Đây là hình thức tín dụng thường có thời hạn dưới một
năm và mục đích thường để đáp ứng nhu cầu thiếu vốn tạm thời như phục vụ cho
thanh toán tiền, hàng hoá, tài trợ vốn lưu động hay thanh tốn ngoại thương.
Tín dụng trung, dài hạn: Tín dụng trung hạn: Đây là hình thức tín dụng có
thời hạn từ một đến năm năm. Các khoản vay thường với mục đích để đầu tư, cải
tiến máy móc, trang thiết bị, đầu tư vào một ngành kinh doanh mới.Tuy nhiên các
máy móc trang thiết bị này cần có thời hạn khấu hao khơng q dài, hay dự án kinh
doanh cần có kế hoạch thu hồi vốn sớm, để có thể kịp thời trả vốn cho Ngân hàng.
Tín dụng dài hạn: Đây là các khoản tín dụng được cấp có thời hạn từ 6o
tháng trở lên và cũng thường được sử dụng với mục đích xây nhà xưởng, đầu tư dây
chuyền sản xuất lớn, những dự án có thời hạn thu hồi vốn dài. Tuy nhiên thời gian
cho vay khơng q thời hạn hoạt động cịn lại theo quyết định thành lập hoặc giấy
phép thành lập đơn vị, pháp nhân và không quá 15 năm đỗi với các dự án đầu tư
phục vụ đời sống.
• Căn cứ theo hình thức bảo đảm
Tín dụng khơng có bảo đảm bằng tài sản: trong trường hợp này Ngân hàng
cấp tín dụng cho khách hàng mà khơng cần có tài sản thế chấp, cầm cố hay bảo lãnh
mà dựa vào uy tín của khách hàng. Những khách hàng được cấp tín dụng loại này

9


thường là những khách hàng quen, đã có uy tín với Ngân hàng về việc trả đúng và
đầy đủ các khoản nợ của mình từ trước tới nay.
Tín dụng có bảo đảm bằng tài sản: ngân hàng cấp tín dụng cho khách hàng
dựa trên cơ sở có tài sản thế chấp, cầm cố hay bảo lãnh. Tài sản dùng để thế chấp
cầm cố có thể là nhà xưởng, xe cộ, các khoản phải thu, các trang thiết bị hay các tài
sản hình thành từ vốn vay, vật có giá hay giấy tờ có giá. Ngồi ra, để đảm bảo cho
khoản vay có thể được thực hiện bằng sự bảo lãnh của bên thứ ba được Ngân hàng

chấp nhận.
• Căn cứ vào mục đích sử dụng
Cho vay sản xuất kinh doanh: các khoản vay này thường được sử dụng để tài
trợ vốn lưu động của doanh nghiệp hay tài trợ cho việc xây dựng nhà xưởng, mua
sắm máy móc, thiết bị, mua nguyên vật liệu
Cho vay tiêu dùng: chủ yếu phục vụ cho nhu cầu mua sắm tiêu dùng của các
hộ gia đình và cá nhân như mua nhà cửa, xe máy, ơ tơ và các phương tiện cần thiết
khác.
• Căn cứ vào phương thức cho vay
Cho vay theo hạn mức tín dụng: theo hình thức này Ngân hàng và khách
hàng thoả thuận và ký kết một hợp đồng hạn mức tín dụng duy trì theo thời hạn nhất
định hoặc theo chu kì sản xuất kinh doanh.
Cho vay từng lần: đây là hình thức tín dụng mà Ngân hàng và khách hàng
thoả thuận và ký kết hợp đồng riêng với mỗi khoản vay khi khách hàng có nhu cầu.
Mỗi lần khách hàng có nhu cầu vay vốn thì việc ký kết hợp đồng sẽ được thực hiện
lại từ đầu.
Cho vay từng dự án đầu tư: tổ chức tín dụng cho khách hàng vay vốn để thực
hiện các dự án đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và các dự án đầu tư
phục vụ đời sống.

10


Cho vay hợp vốn: đối với những khoản vay lớn, một Ngân hàng không đủ
khả năng hay không được phép cho vay địi hỏi một nhóm các TCTD cùng cho vay.
Trong đó có một tổ chức tín dụng đứng ra làm đầu mối dàn xếp, phối hợp các
TCTD khác để cho vay.
Cho vay trả góp: khi vay vốn Ngân hàng và khách hàng xác định và thoả
thuận số lãi vốn vay phải trả cộng với nợ gốc được chia ra để trả nợ thành nhiều kỳ
trong hợp đồng vay.

Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phịng: Ngân hàng cam kết bảo đảm cho
khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. Tuy nhiên nhiều
trường hợp khách hàng cần một lượng vốn lớn hơn, do đó Ngân hàng và khách
hàng thường thoả thuận một hạn mức tín dụng dự phịng lớn hơn. Đồng thời khách
hàng và Ngân hàng thường phải quy định về thời hạn hiệu lực và mức phí trả cho
hạn mức tín dụng dự phịng.
Cho vay thơng qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Ngân hàng
chấp thuận cho khách hàng đựơc sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín
dụng để thanh tốn tiền mua hàng hố và rút tiền mặt tại máy rút tiền tự động hay
điểm ứng tiền mặt là đại lý của Ngân hàng.
Cho vay theo hạn mức thấu chi: Là việc cho vay mà TCTD thoả thuận bằng
văn bản pháp luật chấp thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản
thanh tốn của khách hàng.
• Căn cứ vào phương thức trả nợ
Trả nợ một lần: khách hàng và Ngân hàng thoả thuận sẽ trả cả lãi và gốc một
lần duy nhất.
Trả nợ làm nhiều lần: Ngân hàng tính tốn chia khoản nợ ra thành nhiều kỳ
để khách hàng có thể dễ dàng trả nợ.

11


Ngồi ra Ngân hàng cịn sử dụng nhiều phương thức để phân loại khác như
dựa vào hình thái tiền tệ hay dựa vào đối tượng vay... từ đó để Ngân hàng có thể dễ
dàng trong việc quản lý tránh nguy cơ xảy ra rủi ro tín dụng.
1.2.5. Vai trị của tín dụng Ngân Hàng
Một là: Tín dụng Ngân hàng là địn bẩy kinh tế quan trọng thúc đẩy q trình
mở rộng quan hệ giao lưu kinh tế quốc tế. Trong xu thế hội nhập quốc tế, mối quan
hệ giữa các nước trên thế giới và trong khu vực được mở rộng và phát triển đa dạng
cả về chiều rộng và chiều sâu. Đây là một trong những nhân tố quan trọng tạo điều

kiện đặc biệt cho các nước đang phát triển trên thế giới trong đó có nước ta. Thực
hiện chủ trương mở rộng hợp tác kinh tế, tăng cường các quan hệ đối ngoại do đó
đầu tư vốn tín dụng thúc đẩy xuất khấu hàng hoá là mối quan tâm của các Ngân
hàng trong tình hình hiện nay. Ngân hàng với tư cách là tổ chức kinh doanh tiền tệ,
thông qua hoạt động cho vay sẽ trở thành nền tảng, là người cung cấp vốn cho các
nhà đầu tư kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hố. Từ đó Ngân hàng sẽ trở thành địn
bẩy thúc đẩy q trình mở rộng và giao lưu kinh tế quốc tế, là phương tiện nối liền
nền kinh tế các nước.
Qua đó ta thấy tín dụng Ngân hàng có một vai trị đặc biệt quan trọng đối
với nền phát triển kinh tế, phục vụ sự phát triển của nền kinh tế nói chung và các
đơn vị kinh tế nói riêng. Thực hiện chức năng phân phối lại (cho vay ngắn hạn,
trung hạn và dài hạn) tín dụng Ngân hàng tạo điều kiện cho các đơn vị kinh tế dự
trữ vật tư, hàng hoá, tăng thêm giá trị TSCĐ, TSLĐ mà đơn vị đã sử dụng, do vậy
tín dụng góp phần tăng nhanh tốc độ chu chuyển vật tư, hàng hoá trong nền kinh tế,
rút ngắn thời gian lưu thơng, giảm bớt chi phí, tạo điều kiện nâng cao lợi nhuận.
Hai là: Tín dụng Ngân hàng là công cụ để Nhà nước tài trợ cho các ngành
kinh tế mũi nhọn hoặc các ngành kinh tế kém phát triển thơng qua chính sách ưu
đãi, từ đó thúc đẩy các ngành kinh tế cũng phát triển, đẩy nhanh tốc độ cơng nghiệp
hố, hiện đại hố đất nước.

12


Ba là: Tín dụng Ngân Hàng tổ chức đều hồ vốn, thúc đẩy sản xuất và lưu
thơng hàng hố, đẩy nhanh quá trình tái sản xuất mở rộng trong nền kinh tế. Ngân
hàng là chiếc cầu nối giữa những người có vốn tạm thời nhàn rỗi trong nền kinh tế
với những người cần vốn để mở rộng kinh doanh, tiêu dùng. Trên cơ sở huy động
nguồn vốn trong dân cư hay đi vay các tổ chức kinh tế khác Ngân hàng tiến hành cho
vay với các cá nhân, tổ chức kinh tế đang cần vốn để phục vụ sản xuất kinh doanh.
Các doanh nghiệp không thể tiến hành sản xuất kinh doanh nếu thiếu vốn.

Nhờ nguồn vốn mà Ngân hàng cho vay doanh nghiệp khơng những đảm bảo q
trình sản xuất mà còn mở rộng sản xuất, cải tiến kỹ thuật, áp dụng công nghệ hiện
đại để hạ giá thành sản phẩm, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Từ
đó các doanh nghiệp sẽ thúc đẩy sản xuất lưu thơng hàng hố đẩy nhanh q trình
tái sản xuất mở rộng. Như vậy, tín dụng Ngân hàng đã biến các phương tiện hoạt
động có hiệu quả, thu hút nhanh chóng các vật tư lao động, những tiềm năng sẵn có
khác vào sản xuất.
Bốn là: Tín dụng Ngân hàng có vai trị là cơng cụ kiểm sốt hoạt động kinh
tế nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội.
Năm là: Đối với hoạt động kinh tế đối ngoại, tín dụng Ngân hàng tạo điều
kiện phát triển kinh tế giữa các nước.
Sáu là: Tín dụng Ngân hàng là động lực đối với việc hình thành và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước.
1.3. Chất lượng hoạt động tín dụngn ngắn hạn của Ngân hàng thương mại
1.3.1.Các hình thức tín dụng ngắn hạn cảu Ngân hàng thương mại.
Một là : Chiết khấu chứng từ có giá
Các chứng từ có giá ở đây có thể là hợp đồng mua bán, các trái quyền (thương
phiếu, trái phiếu, tín phiếu kho bạc, cơng trái) hoặc mua bán lại các khoản nợ.
Hai là: Cho vay từng lần: Dịch vụ cho vay từng lần được các Ngân hàng

13


thương mại áp dụng đối với các khách hàng không có nhu cầu thường xun về
nguồn vốn tín dụng ngắn hạn hoặc khơng có đủ điều kiện để áp dụng hình thức cho
vay hạn mức, Mỗi một nhóm vay sẽ được kí một hợp đồng tín dụng riêng biệt
Ba là: Cho vay hạn mức: Ngân hàng và khách hàng có một thỏa thuận về
hạn mức tín dụng trong một kì nhất định (thường là một năm), theo đó khách hàng
được vay với số dư tối đa là một mức hạn nhất định, không cần làm lại hợp đồng,
Ngân hàng không xác định trước thời hạn tín dụng, qua đó tạo sự chủ động cho

khách hàng
Bốn là: Cho vay thấu chi: Thấu chi là hình thức cho vay theo đó khách hàng
được sử dụng số tiền vượt quá số tiền trong tài khoản vãng lai của họ tại Ngân hàng,
nó giúp họ giải quyết khó khăn trong ngắn hạn về tài chính.
Năm là: Bao thanh tốn; Theo định nghĩa về bao thanh toán của Ngân hàng
Nhà Nước, bao thanh toán là hình thức cấp tín dụng của tổ chức tín dụng cho bên
bán hàng thông qua việc mua lại các khoản phải thu phát sinh từ việc mua, bán hàng
hóa đã được bên bán hàng và bên mua hàng thỏa thuận trong hợp đồng mua bán
hàng hóa.
Ngồi ra Ngân hàng cịn có nhiếu loại hình thức tín dụng ngắn hạn khác phục
vụ cho các hoạt động kinh tế khác nhau như tài trợ xuất khẩu, bảo lãnh, tái bảo
lãnh….
1.3.2. Vai trò và đặc trưng tín dụng ngắn hạn
* Vai trị
Tín dụng đã trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống của mỗi
người chúng ta. Tín dụng đã góp phần làm ổn định phát triển sản xuất của nền kinh
tế, các tổ chức và mỗi cá nhân. Cũng như các loại tín dụng khác, tín dụng ngắn hạn
có vai trị cực kỳ quan trọng. Đặc biệt trong bối cảnh kinh tế hiện nay khi các doanh
nghiệp cực kỳ khát vốn để nâng cao và mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh.
• Đối với ngân hàng

14


Ngân hàng là tổ chức chuyên doanh trên lĩnh vực tiền tệ, nhận gửi và huy
động các nguồn tài chính nhằm mục tiêu lợi nhuận. An toàn trong lợi nhuận là mục
tiêu của Ngân hàng, nói cách khác Ngân hàng là một kinh doanh gặp nhiều rủi ro do
phần lớn tài sản của nó là bộ phận tài sản sinh lợi không do Ngân hàng trực tiếp sử
dụng, do vậy mà trong quá trình hoạt động, Ngân hàng đạt được mục tiêu, nhưng
vẫn phải đảm bảo an tồn.

• Đối với khách hàng
Khách hàng của tín dụng ngắn hạn thường rất đa dạng, họ cần đến nguồn vốn
tín dụng ngắn hạn với những mục đích khác nhau như tài trợ cho sản xuất kinh
doanh, dịch vụ đời sống …. Nhưng nhìn chung tín dụng ngắn hạn giải quyết cho họ
những nhu cầu nóng bỏng về khả năng thanh khoản, bổ sung vốn, mở rộng hoạt động
sản xuất kinh doanh với môtj mức chi phí hợp lý
• Đối với doanh nghiệp
Do sức ép của cạnh tranh mà các doanh nghiệp ln có những nhu cầu đầu tư
để tái sản xuất mở rộng, tăng khả năng sản xuất, phát triển thị trường, nâng cao chất
lượng sản phẩm, có như vậy doanh nghiệp mới đảm bảo tồn tại và phát triển. Ở Việt
Nam hiện nay khi mà thị trường tài chính chưa hồn thiện thì tín dụng Ngân hàng là
một giải pháp tối ưu nhất cho các doanh nghiệp.
Như vậy, nghiệp vụ tín dụng Ngân hàng cũng là một yếu tố kích thích sản
xuất của doanh nghiệp, thúc đẩy đổi mới công nghệ và cải tiến mẫu mã sản phẩm để
có thể rút ngắn chu kỳ sản xuất, đưa nhanh sản phẩm vào lưu thơng, tạo lập chỗ
đứng trên thị trường.
• Đối với nền kinh tế
Tín dụng ngắn hạn là một nguồn cung cấp vốn khơng thể thiếu đối với bất kì
một nền kinh tế nào, nó đáp ứng được nhu cầu cấp thiết về vốn trong q trình sản
xuất kinh doanh, nhờ có tín dụng ngắn hạn, nền kinh tế tránh được những khó khăn
về tính thanh khoản, giải quyết khó khăn ngắn hạn để đảm bảo cho tăng trưởng

15


trong dài hạn.
Ngân hàng trong nền kinh tế với tư cách là một doanh nghiệp kinh doanh
trên lĩnh vực tiền tệ. với tư cách là một trung gian tài chính, nó là kênh chuyển vốn
từ những người thừa vốn đến những nơi thiếu vốn và hoạt động hiệu quả trong nền
kinh tế.

- Đảm bảo phát triển kinh tế theo chiều sâu:
- Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế phù hợp với mục tiêu của Chính Phủ
- Thúc đẩy mở rộng kim ngạch xuất nhập khẩu.
- Đảm bảo nguồn thu vững chắc cho Ngân hàng nhà nước.
• Đặc trưng của tín dụng ngắn hạn
Tín dụng ngắn hạn ngồi những đặc trưng của tín dụng Ngân hàng cịn có
những đặc điểm riêng sau :
Tín dụng ngắn hạn là nghiệp vụ chủ yếu của Ngân hàng thương mại vì thời
gian cho vay đến 12 tháng. Chính loại vay này giúp cho Ngân hàng giữ được khả
năng thanh tốn vì nó tương thích với kết cấu nguồn vốn của Ngân hàng thường là
tiền gửi tiết kiệm dưới 12 tháng
- Rủi ro tín dụng ngắn hạn thấp: Do khoản vay chỉ cung cấp trong thời gian
ngắn vì vậy ít chịu ảnh hưởng của sự biến động không thể lường trước của nền kinh
tế như các khoản tín dụng trung và dài hạn. Ngồi ra, các khoản vay được cung cấp
cho các đơn vị sản xuất kinh doanh theo hình thức chiết khấu các giấy tờ có giá, dựa
trên tài sản đảm bảo, bảo lãnh chắc chắn sẽ có khoản thu bù đắp trong tương lai vì
vậy rủi ro mang đến thường thấp.
- Lãi suất thấp: Lãi suất cho vay được hiểu là khoản chi phí người đi vay trả
cho nhu cầu sử dụng tiền tạm thời của người khác. Chính vì rủi ro mang lại của
khoản vay thường khơng cao do đó lãi suất người đi vay phải trả thông thường nhỏ.

16


Vốn tín dụng ngắn hạn mà Ngân hàng cấp cho khách hàng thường được
khách hàng dùng để mua nguyên vật liệu, trả lương, bổ sung vốn lưu động nên số
vốn vay thường là nhỏ.
- Thời hạn thu hồi vốn nhanh: vốn tín dụng ngắn hạn thường được sử dụng
để bù đắp những thiếu hụt trong ngắn hạn như đảm bảo cân bằng ngân quỹ, đối phó
với chênh lệch thu chi trong ngắn hạn… Thông thường những thiếu hụt này chỉ

mang tính tạm thời hay mang tính thời điểm, sau đó khoản thiếu hụt này sẽ sớm thu
lại dưới hình thái tiền tệ vì vậy thời gian thu hồi vốn sẽ nhanh.
- Hình thức phong phú: Để đáp ứng nhu cầu hết sức đa dạng của khách hàng,
phân tán rủi ro, đồng thời để tăng cường sức cạnh tranh trên thị trường tín dụng, các
Ngân hàng thương mại khơng ngừng phát triển các hình thức tín dụng ngắn hạn của
mình. Điều đó đã làm cho các hình thức tín dụng ngắn hạn rất phong phú như :
nghiệp vụ ứng trước, nghiệp vụ thấu chi, nghiệp vụ chiết khấu….
1.3.3. Các chỉ tiêu đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn của Ngân hàng
Có nhiều tiêu thức định tính cũng như định lượng để đánh giá chất lượng tín
dụng ngắn hạn trong hoạt động của các Ngân hành thương mại
Mà việc đánh giá chất lượng tín dụng đối với một Ngân hàng là hết sức quan
trọng. Bởi chất lượng là biểu hiện khả năng hoạt động của Ngân hàng là tốt hay
xấu, làm cơ sở để đánh giá Ngân hàng. Mặt khác, việc đánh giá chất lượng tín dụng
cũng giúp cho Ngân hàng có những thay đổi hợp lý, điều chỉnh hoạt động để nâng
cao khả năng cạnh tranh của mình. Việc nâng cao chất lượng tín dụng khơng những
làm tăng thu nhập cho Ngân hàng mà còn giúp cho Ngân hàng được an tồn
Để nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn trước hết cần tiến hành đánh giá
các nhóm chỉ tiêu sau :
+ Một là: Chỉ tiêu về huy động vốn ngắn hạn
Tỷ trọng vốn huy động
ngắn hạn

17

=

Vốn huy động ngắn hạn


Tổng nguồn vốn

Chỉ tiêu này cho biết trong tổng nguồn vốn của Ngân hàng thì vốn ngắn hạn
huy động được bao nhiêu, đồng thời cho biết khả năng huy động vốn ngắn hạn của
Ngân hàng. Chỉ tiêu này càng cao thì Ngân hàng càng có cơ hội mở rộng đầu tư cho
vay ngắn hạn, nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn. Tuy nhiên, chỉ tiêu này cao
cũng đồng nghĩa với việc chi phí tạo nguồn vốn lớn, nếu Ngân hàng khơng sử dụng
tốt nguồn vốn này thì sẽ ảnh hưởng rất lớn đến lợi nhuận của Ngân hàng.
+ Hai là: Khả năng cấp tín dụng
Khả năng cấp tín dụng

=

Vốn huy động ngắn hạn
Dư nợ tín dụng ngắn hạn

Chỉ tiêu này cho biết vốn huy động ngắn hạn đảm bảo bao nhiêu phần trăm
nhu cầu tín dụng ngắn hạn, từ đó cho thấy khả năng tự chủ của Ngân hàng trong
việc cấp tín dụng cho nền kinh tế. Ngồi ra, chỉ tiêu này cịn ảnh hưởng đến khả
năng thanh tốn của Ngân hàng. Tỷ lệ này cao chứng tỏ Ngân hàng cho vay ngắn
hạn nhiều và đã sử dụng tốt nguồn vốn huy động ngắn hạn. Nếu tỷ lệ này thấp kết
hợp với khả năng huy động vốn ngắn hạn cao thì có thể kết luận Ngân hàng đã sử
dụng vốn lãng phí, khơng hiệu quả, ảnh hưởng tới lợi nhuận và an toàn trong hoạt
động Ngân hàng.
+ Ba là: Chỉ tiêu cho vay ngắn hạn
* Chỉ tiêu dư nợ:
Tỷ lệ dư nợ

=

Dư nợ ngắn hạn
Tổng dư nợ tín dụng


Chỉ tiêu này cho biết tỷ lệ dư nợ ngắn hạn trong tổng dư nợ tín dụng của
Ngân hàng. Nếu tỷ lệ dư nợ tăng liên tục qua nhiều thời kỳ có thể nói chất lượng tín
dụng tăng. Tuy nhiên khi đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn qua chỉ tiêu này
cần phải xem xét cả số tương đối và số tuyệt đối. Bởi không phải tỷ lệ này tăng có

18


nghĩa là cho vay ngắn hạn tăng, nó cịn phụ thuộc vào việc tổng dư nợ tín dụng có
tăng hay khơng.
* Chỉ tiêu vịng quay vốn đầu tư
Vịng quay vốn đầu tư

=

Doanh số thu nợ trong năm
Dư nợ bình quân trong năm

Vòng quay vốn đầu tư cho biết trong một thời gian nhất định vốn ngắn hạn
quay được bao nhiêu vịng. Để đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn thơng qua chỉ
tiêu này. Số vịng quay càng cao càng tốt vì điều đó chứng tỏ Ngân hàng thu được
nhiều nợ và chứng tỏ Ngân hàng đã đầu tư vốn có hiệu quả.
* Chỉ tiêu nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn

Nợ quá hạn ngắn hạn

=


Tổng dư nợ tín dụng ngắn hạn
Đây là chỉ tiêu quan trọng phản ánh chất lượng tín dụng ngắn hạn. Đến kỳ
hạn trả nợ và lãi tiền vay, nếu bên đi vay không trả được nợ hoặc không trả được lãi
một kỳ và không được gia hạn nợ thì Ngân hàng sẽ chuyển khoản vay đó sang nợ
quá hạn. Nợ quá hạn là điều mà các Ngân hàng khơng hề mong muốn và cũng tìm
mọi biện pháp để hạ tỷ lệ nợ quá hạn tới mức thấp nhất có thể được.
* Chỉ tiêu nợ khơng có khả năng thu hồi
Tỷ lệ nợ khơng có khả năng

=

Nợ ko có khả năng thu hồi
Dư nợ tín dụng ngắn hạn

thu hồi

Nếu tỷ lệ nợ khơng có khả năng thu hồi cao thì chất lượng tín dụng ngắn hạn
được đánh giá là thấp, hoạt động của Ngân hàng không có hiệu quả và các chỉ tiêu
khác đánh giá chất lượng tín dụng ngắn hạn khơng có giá trị.
+ Bốn là: Thu nhập từ hoạt động cho vay

19


Thu nhập từ hoạt động

=

Lợi nhuận từ tín dụng ngắn hạn
Tổng dư nợ tín dụng ngắn hạn


Chỉ tiêu thu nhập từ hoạt động cho vay cho biết khả năng sinh lời của tín
dụng ngắn hạn. Bất kỳ một khoản tín dụng nào, dù ngắn hay dài hạn, khơng thể coi
đó là có chất lượng cao nếu khơng đem lại lợi nhuận cho Ngân hàng. Ngồi ra cịn
có thể thấy được vị trí của tín dụng ngắn hạn trong hoạt động của Ngân hàng thông
qua chỉ tiêu:
Khả năng sinh lời

=

Lãi từ hoạt động cho vay
Tổng thu nhập

1.3.4. Các nhân tố ảnh hưởng đến tín dụng ngắn hạn của Ngân hàng
Như vậy, nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn là một yêu cầu cấp thiết
không chỉ đối với Ngân hàng thương mại mà còn đối với nền kinh tế, doanh
nghiệp, hộ kinh doanh cá thể, các cá nhân, nói cách khác là tất cả các chủ thể trong
nền kinh tế. Để có thể nâng cao được chất lượng tín dụng ngắn hạn, trước hết,
chúng ta cần xem xét tới các nhân tố ảnh hưởng tới nó, mà cụ thể là các nhóm nhân
tố khách quan (đến từ bên ngồi Ngân hàng) và nhóm nhân tố chủ quan từ bên trong
Ngân hàng.
• Các nhân tố khách quan
+ Môi trường kinh tế:
- Nền kinh tế ổn định sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng. Nền
kinh tế ổn định làm cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp tiến hành
trôi chảy. Trong điều kiện không chịu ảnh hưởng của lạm phát, khủng hoảng khả
năng cho vay và khả năng trả nợ tiền vay sẽ thuận tiện.
- Môi trường kinh tế có một đồng tiền duy trì được giá trị ổn định, một mức
lạm phát hợp lý qua các năm là một điều kiện quan trọng để chất lượng tín dụng
ngắn hạn được đảm bảo. Thật vậy, tình trạng lạm phát cao, hoặc giảm phát, thiểu


20


phát gây ra khó khăn cho bản thân Ngân hàng cũng như các khách hàng (doanh
nghiệp, hộ kinh doanh, tổ chức…) dẫn đến khả năng trả nợ của họ gặp vấn đề, tỷ lệ
nợ xấu có nguy cơ tăng cao. Tuy nhiên một mức lạm phát vừa đủ để gia tăng đầu tư,
mở rộng sản xuất lại là một yếu tố quan trọng nhằm kích thích tăng trưởng dư nợ tín
dụng, trong đó tín dụng ngắn hạn. Ngồi ra, sự phát triển của nền kinh tế trải qua
các chu kỳ tăng trưởng đến bão hịa và suy thối nối tiếp nhau.
Trong thời kỳ hưng thịnh, nhu cầu vay vốn tăng, rủi ro tín dụng cũng ít đi.
Khi nhu cầu vay lên cao do chạy đua trong sản xuất kinh doanh hay nạn đầu cơ tích
trữ thì nhiều khoản cho vay được thực hiện. Nhưng những khoản vay này cũng khó
được hồn trả nếu sự phát triển sản xuất là khơng hợp lý dẫn đến khủng hoảng kinh
tế. Ngược lại, trong thời kỳ suy thối, hoạt động cho vay gặp khó khăn trên mọi lĩnh
vực, nhu cầu vốn vay giảm.
+ Môi trường pháp lý :
Thực tiễn cho thấy pháp luật là bộ phận không thể thiếu được của nền kinh tế thị
trường có điều tiết của Nhà nước. Nếu khơng có pháp luật hoặc pháp luật không phù hợp
với sự điều tiết của nền kinh tế thị trường thì mọi hoạt động trong nền kinh tế đó sẽ có
nhiều gian lận, thiếu cơng bằng và khó thực hiện trơi chảy.
Cơ chế chính sách minh bạch, đồng bộ sẽ tạo đièu kiện thuận lợi cho các Ngân
hàng chủ động thực hiện hoạy động kinh doanh nói chung và hoạt động tín dụng ngắn hạn
nói riêng theo quy định của pháp luật. Để đảm bảo cho việc mở rộng và nâng cao chất
lượng tín dụng ngắn hạn, địi hỏi hệ thống pháp luật phải đồng bộ, đầy đủ, hướng dẫn của
hệ thống văn bản dưới luật phải thống nhất đồng thời cũng phải đảm bảo được tính hiệu
lực của luật pháp.
+ Mơi trường xã hội:
Quan hệ tín dụng thực hiện trên cơ sở lịng tin. Nó là cầu nối giữa Ngân hàng
và khách hàng. Khi Ngân hàng có nhiều uy tín với khách hàng thì càng thu hút được

nhiều khách hàng đến với mình. Khách hàng càng có sự tín nhiệm với Ngân hàng
thì càng được Ngân hàng ưu đãi trong quan hệ tín dụng. Đây là điều kiện để cải

21


thiện chất lượng tín dụng.
+ Nhân tố mơi trường tự nhiên
Môi trường tự nhiên là nhân tố khách quan gây ảnh hưởng lớn đến chất
lượng tín dụng của Ngân hàng. Thực tế nhân tố này không tác động trực tiếp mà là
tác động gián tiếp đến hoạt động của Ngân hàng. Đối với những nước có khí hậu
khơng ổn định, khi thiên tai hạn hán, lũ lụt dịch bệnh bất ngờ xảy ra ảnh hưởng tiêu
cực đến sự phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế mà họ
không lường trước được, đặc biệt trong lĩnh vực này bị ứ đọng hoặc mất mát không
thu hồi được, từ đó khơng có khả năng thanh tốn, trả nợ Ngân hàng, làm cho chất
lượng tín dụng của Ngân hàng bị hạ thấp.
+ Các nhân tố thuộc về khách hàng:
Khách hàng với tư cách là người gửi tiền, cung cấp nguồn lực đầu vào cho
hoạt động tín dụng ngắn hạn. Nguồn lực được duy trì ổn định mới tạo điều kiện cho
chất lượng tín dụng ngắn hạn tốt. Bên cạnh đó, với tư cách là đối tượng cho vay của
Ngân hàng, khách hàng là yếu tố quyết định trực tiếp đếnchất lượng tín dụng (vì
cơng tác phân tích thẩm định và ra quyết định của Ngân hàng dù sao cũng chỉ là
công tác dự báo). Khách hàng là đối tượng sử dụng vốn vay, đạo đức, trách nhiệm,
năng lực của họ mang ý nghĩa quyết định đến chất lượng khoản tín dụng. Có rất
nhiều nhân tố đánh giá năng lực của khách hàng, có thể kể ra như quy mô và chất
lượng sản xuất, mức độ chiếm lĩnh thị trường, tiềm lực tài chính, khả năng quả lý,
khả năng đáp ứng các điều kiện tài sản đảm bảo.
• Các nhân tố chủ quan.
+ Nhân tố khách hàng:
Tiềm lực tài chính của khách hàng: Thể hiện qua các chỉ tiêu như vốn tự có,

hệ số nợ, khả năng thanh toán, khả năng sinh lợi hàng năm.
Triển vọng kinh doanh: Thông thường khi doanh nghiệp đưa vốn của Ngân
hàng vào kinh doanh, một doanh nghiệp đang trong tình trạng thị phần của mình

22


×