Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Hoạt động thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ tại phòng giao dịch Hoàng Quốc Việt- Ngân hàng thương mại cổ phần An Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (428.6 KB, 72 trang )

MỤC LỤC
2.2.3. Hiệu quả hoạt động thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ
đánh giá qua các chỉ tiêu : 49
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
HĐKD Hoạt động kinh doanh
L/C Thư tín dụng (Letter of credit)
NHĐL Ngân hàng đại lý
NHNN Ngân hàng Nhà nước
NHTM Ngân hàng thương mại
NHTMCPAB Ngân hàng thương mại cổ phần An Bình
PGD Phòng giao dịch
TDQT Tín dụng quốc tế
TTQT Thanh toán quốc tế
SWIFT Society for Worldwide Interbank Financial
Tele_communication (Tổ chức viễn thông tài chính quốc tế toàn cầu)
UCP Uniform Customs and Practice for Documentary Credit
(Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ)
XNK Xuất nhập khẩu
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG, BIỂU ĐỒ
2.2.3. Hiệu quả hoạt động thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ
đánh giá qua các chỉ tiêu : 49
2.2.3.2. Các chỉ tiêu phi tài chính 53
LỜI MỞ ĐẦU
I.Tính cấp thiết của đề tài:
Trong xu hướng hội nhập quốc tế, nền kinh tế Việt Nam luôn thể hiện sự chủ
động và linh hoạt trong giao lưu thương mại với nước ngoài. Sau khi gia nhập
ASEAN vào năm 1995 và AFTA vào năm 1996, Việt Nam đã trở thành thành viên
của APEC năm 1998. Ngày 7 tháng 11 năm 2006, sau quá trình đàm phán kéo dài
và căng thẳng, Việt Nam trở thành thành viên chính thức thứ 150 của Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO).
Việt Nam luôn khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia tích cực vào


hoạt động xuất nhập khẩu. Chính phủ áp dụng mọi biện pháp cần thiết để thúc đẩu
quá trình sản xuất hàng hóa phục vụ cho mục đích xuất khẩu, mang tính cạnh tranh
cao, phát triển việc xuất khẩu các dịch vụ thương mại. Bên cạnh đó, Chính phủ
cũng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhập khẩu nguyên vật liệu và thiết bị hiện
đại, công nghệ, kỹ thuật tiên tiến nhằm phát triển hoạt động sản xuất trong nước,
thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Từ đó đòi hỏi quá trình xuất nhập khẩu mà
đặc biệt là phương thức thanh toán phải nhanh chóng và thuận tiện cho các bên
tham gia. Hiện nay, trên thế giới có nhiều hình thức thanh toán quốc tế khác nhau,
tùy thuộc vào mối quan hệ và điều kiện cụ thể giữa các bên mà áp dụng như: thanh
toán bằng phương thức chuyển tiền, phương thức ghi sổ, phương thức nhờ thu và
phương thức tín dụng chứng từ. Trong số đó, tín dụng chứng từ là phương thức
thanh toán được sử dụng phổ biến nhất nhờ đảm bảo quyền lợi và an toàn cho các
bên tham gia vào hoạt động thanh toán quốc tế.
Hoạt động thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ của các
ngân hàng thương mại không chỉ tạo nguồn thu lớn cho ngân hàng, mà nó còn thúc
đẩy cho các mảng nghiệp vụ khác của ngân hàng phát triển theo như: tín dụng,
chiết khấu, mở rộng qui mô và lĩnh vực hoạt động, làm tăng uy tín, cũng như khả
năng hội nhập quốc tế của ngân hàng. Tuy nhiên, hiện nay, hoạt động thanh
toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ ở các ngân hàng
thương mại nói chung và đối với phòng giao dịch Hoàng Quốc Việt
- Ngân hàng thương mại cổ phần An Bình
nói riêng vẫn chưa đem lại hiệu quả và phát triển như kì vọng của ngân hàng. Số
lượng thanh toán quốc tế theo phương thức tín dụng chứng từ còn rất nhỏ bé và
không tương xứng với tiềm lực và doanh thu từ hoạt động này cũng chiếm tỷ
lệ nhỏ so với tổng doanh thu của phòng giao dịch Hoàng
Quốc Việt, các sản phẩm và dịch vụ trong thanh toán tín dụng chứng từ chưa
đáp ứng đầy đủ nhu cầu của khách hàng, bên cạnh đó các hoạt động tín dụng tài trợ
xuất nhập khẩu mới chỉ bước đầu phát triển và chưa đa dạng các sản phẩm hỗ trợ.
Xuất phát từ lý do đó,Em chọn đề tài “Hoạt động thanh toán theo phương
thức tín dụng chứng từ tại phòng giao dịch Hoàng Quốc Việt- Ngân hàng thương

mại cổ phần An Bình ” làm chuyên đề tốt nghiệp của mình
II. Nội dung nghiên cứu:
Chuyên đề tập trung vào nghiên cứu lý thuyết phương thức thanh toán tín
dụng chứng từ kết hợp với thực trạng hoạt động thanh toán theo phương thức tín
dụng chứng từ, đánh giá các mặt đạt được và hạn chế của đơn vị, thông qua đó nêu
lên các giải pháp nhằm mở rộng hoạt động thanh toán theo phương thức tín dụng
chứng từ tại phòng giao dịch Hoàng Quốc Việt- Ngân hàng thương mại cổ phần An
Bình
III.Phương pháp nghiên cứu:
Chuyên đề tốt nghiệp sử dụng kết hợp các phương pháp phân tích, tổng hợp,
so sánh, và đánh giá để làm rõ đề tài nghiên cứu.
IV. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Hoạt động thanh toán theo phương thức tín dụng
chứng từ tại phòng giao dịch Hoàng Quốc Việt- Ngân hàng thương mại cổ phần
An Bình
- Phạm vi thời gian: Hoạt động thanh toán theo phương thức tín dụng chứng
từ tại phòng giao dịch Hoàng Quốc Việt từ năm 2009 – 2011
V.Kết cấu của chuyên đề tốt nghiệp:
Ngoài phần lời mở đầu và kết luận, chuyên đề tốt nghiệp chia làm 3 chương
chính:
Chương 1: Tổng quan về thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ.
Chương 2: Thực trạng hoạt động thanh toán theo phương thức tín dụng
chứng từ tại phòng giao dịch Hoàng Quốc Việt - Ngân hàng thương mại cổ phần
An Bình.
Chương 3: Giải pháp nhằm mở rộng hoạt động thanh toán theo phương
thức tín dụng chứng từ tại phòng giao dịch Hoàng Quốc Việt
Hà Nội ngày tháng năm 2012
Sinh viên
Nguyễn Văn Tư
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ THANH TOÁN THEO

PHƯƠNG THỨC TÍN DỤNG CHỨNG TỪ
1.1.Tổng quan về thanh toán quốc tế:
1.1.1:Khái niệm về thanh toán quốc tế
Quan hệ giữa các nước bao gồm nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, ngoại
giao, văn hóa,…trong đó quan hệ về kinh tế ( mà chủ yếu là ngoại thương) chiếm vị
trí chủ đạo, là cơ sở cho các quan hệ quốc tế khác tồn tại và phát triển. Quá trình tiến
hành các hoạt động quốc tế dẫn đến nhu cầu chi trả, thanh toán giữa các chủ thể ở các
nước khác nhau, từ đó hình thành và phát triển hoạt động thanh toán quốc tế trong đó
ngân hàng là cầu nối trung gian.
Vậy, thanh toán quốc tế là việc thực hiện các nghĩa vụ tiền tệ, nảy sinh trên
cơ sở các hoạt động kinh tế và phi kinh tế giữa các tổ chức hay cá nhân nước này
với tổ chức hay cá nhân nước khác, hoặc giữa một quốc gia với tổ chức quốc tế,
thông qua quan hệ giữa các ngân hàng có liên hệ.
1.1.2:Đặc điểm của thanh toán quốc tế
Từ định nghĩa trên đây, chúng ta có thể thấy một số đặc điểm của thanh toán
quốc tế.
- Thanh toán quốc tế diễn ra trên phạm vi toàn cầu, phục vụ các giao dịch
thương mại, đầu tư, hợp tác quốc tế thông qua mạng lưới ngân hàng thế giới.
- Thanh toán quốc tế khác với thanh toán trong nước là ở đây nó liên quan
đến việc trao đổi tiền của quốc gia này lấy tiền của quốc gia khác. Vì vậy khi ký kết
các hợp đồng mua bán ngoại thương các bên phải thỏa thuận với nhau lấy đồng tiền
của nước nào là tiền tệ tính toán và thanh toán trong hợp đồng, đồng thời phải tính
toán thận trọng để lựa chọn các biện pháp phòng chống rủi ro khi tỷ giá hối đoái
biến động.
- Tiền tệ trong thanh toán quốc tế thường không phải là tiền mặt mà nó tồn
tại dưới hình thức phương tiện thanh toán như thư chuyển tiền, điện chuyển tiền,
hối phiếu, kỳ phiếu và séc ghi bằng ngoại tệ.
7
- Thanh toán giữa các nước đều được tiến hành thông qua ngân hàng và
không dùng tiền mặt, nếu có thì chỉ trong những trường hợp riêng biệt. Do vậy

thanh toán quốc tế về bản chất chính là các nghiệp vụ ngân hàng quốc tế. Chúng
được hình thành và phát triển trên cơ sở các hợp đồng ngoại thương và các trao đổi
tiền tệ quốc tế.
- Thanh toán quốc tế được thực hiện dựa trên nền tảng pháp luật và tập quán
thương mại quốc tế, đồng thời nó cũng bị chi phối bởi luật pháp của các quốc gia,
bởi các chính sách kinh tế, chính sách ngoại thương và chính sách ngoại hối của các
quốc gia tham gia trong thanh toán.
1.1.3.Vai trò của thanh toán quốc tế
1.1.3.1.Đối với nền kinh tế:
Hoạt động TTQT đóng một vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế
của đất nước. Một quốc gia không thể phát triển với chính sách đóng cửa, chỉ dựa
vào tích lũy trao đổi trong nước mà phải phát huy lợi thế so sánh, kết hợp giữa sức
mạnh trong nước với môi trường kinh tế quốc tế. trong bối cảnh hiện nay khi các
quốc gia đều đặt kinh tế đối ngoại lên hàng đầu, coi hoạt động kinh tế đối ngoại là
con đường tất yếu trong chiến lược phát triển kinh tế đất nước thì vai trò hoạt động
của TTQT ngày càng được khẳng định.
TTQT là mắt xích không thể thiếu trong dây chuyền hoạt động kinh tế quốc
dân. TTQT là khâu quan trọng trong giao dịch mua bán hàng hóa, dịch vụ giữa các
cá nhân, tổ chức thuộc các quốc gia khác nhau. TTQT góp phần giải quyết mối
quan hệ hàng hóa tiền tệ, tạo nên sự liên tục của quá trình sản xuất và đẩy hanh
quá trình lưu thông hàng hóa trên phạm vi quốc tế. Nếu hoạt động TTQT được
tiến hành nhanh chóng, an toàn sẽ khiến hoạt động lưu thông hàng hóa tiền tệ giữa
người mua, người bán diễn ra trôi chảy, an toàn hơn.
TTQT làm tăng cường các mối quan hệ giao lưu kinh tế giữa các quốc gia,
giúp cho quá trình thanh toán diễn ra nhanh chóng, an toàn, tiện lợi và giảm bớt chi
phí cho các chủ thể tham gia. Bên cạnh đó, hoạt động TTQT làm tăng khối lượng
thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế, đồng thời thu hút một lượng
ngoại tệ đáng kể vào Việt Nam.
8
1.1.3.2.Đối với khách hàng

Vai trò trung gian thanh toán trong hoạt động TTQT của các NHTM giúp
quá trình thanh toán theo yêu cầu của khách hàng được tiến hành nhanh chóng,
chính xác, an toàn, tiện lợi và tiết kiệm tối đa chi phí. Trong quá trình thực hiện
thanh toán, nếu khách hàng không có đủ khả năng tài chính cần đến sự tài trợ của
ngân hàng thì ngân hàng sẽ chiết khấu bộ chứng từ. Qua việc thực hiện thanh toán,
ngân hàng còn có thể giám sát được tình hình kinh doanh của doanh nghiệp để có
những tư vấn cho khách hàng và điều chỉnh chiến lược khách hàng.
1.1.3.3.Đối với bản thân ngân hàng
TTQT là một loại nghiệp vụ liên quan dến tài sản ngoại bảng của ngân hàng.
Hoạt động TTQT giúp ngân hàng đáp ứng tốt hơn nhu cầu đa dạng của khách hàng
về các dịch vụ tài chính có liên quan tới TTQT. Trên cơ sở đó giúp ngân hàng tăng
doanh thu, nâng cao uy tín cho ngân hàng và tạo dựng niềm tin cho khách hàng.
Điều đó không chỉ giúp ngân hàng mở rộng quy mô hoạt động mà còn là một ưu thế
tạo nên sức cạnh tranh của ngân hàng trong cơ chế thị trường. Hoạt động TTQT
không chỉ là một hoạt động đơn thuần mà còn là hoạt động hỗ trợ bổ sung cho các
hoạt động kinh doanh khác của ngân hàng. Hoạt động TTQT được thực hiện tốt sẽ
mở rộng cho hoạt động tín dụng XNK, phát triển hoạt động kinh doanh ngoại tệ,
bảo lãnh ngân hàng trong ngoại thương, tài trợ thương mại và các hoạt động ngân
hàng quốc tế khác
Hoạt động TTQT làm tăng tính thanh khoản cho ngân hàng. Khi thực hiện
nghiệp vụ TTQT, ngân hàng có thể thu được nguồn vốn ngoại tệ tạm thời nhàn rỗi
của các doanh nghiệp có quan hệ TTQT với các ngân hàng dưới hình thức các
khoản ký quỹ chờ thanh toán.
TTQT còn tạo điều kiện hiện đại hóa công nghệ ngân hàng. Các ngân hàng
sẽ áp dụng công nghệ tiên tiến để hoạt động TTQT được thực hiện nhanh chóng,
kịp thời và chính xác, nhằm phân tán rủi ro, góp phần mở rộng quy mô và mạng
lưới ngân hàng.
Hoạt động TTQT cũng làm tăng cường mối quan hệ đối ngoại của ngân
hàng, tăng cường khả năng cạnh tranh của ngân hàng, nâng cao uy tín của mình trên
trường quốc tế, trên cơ sở đó khai thác nguồn tài trợ của các ngân hàng nước ngoài

9
và nguồn vốn trên thị trường tài chính quốc tế để đáp ứng nhu cầu về vốn của ngân
hàng
Tóm lại, có thể khẳng định vai trò quan trọng của hoạt động TTQT của NHTM
đối với khách hàng, nền kinh tế và bản thân ngân hàng qua những ý sau:
• Bôi trơn và thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu của nền kinh tế như một
tổng thể
• Thúc đẩy hoạt động đầu tư nước ngoài trực tiếp và gián tiếp
• Thúc đẩy và mở rộng các hoạt động dịch vụ như du lịch, hợp tác quốc tế
• Tăng cường thu hút kiều hối và các nguồn lực tài chính khác
• Thúc đẩy thị trường tài chính quốc gia hội nhập quốc tế
1.1.4.Các phương thức chủ yếu trong thanh toán quốc tế
a. Phương thức thanh toán chuyển tiền (Remittance)
* Định nghĩa:
Thanh toán bằng chuyển tiền là một phương thức thanh toán trong đó khách
hàng (người có yêu cầu chuyển tiền) yêu cầu ngân hàng phục vụ mình, chuyển một
số tiền nhất định cho một người khác (người thụ hưởng) ở một địa điểm nhất
định. Để thực hiện việc chuyển tiền thì ngân hàng chuyển tiền phải thông qua đại lý
của mình ở nước người thụ hưởng.
* Các bên tham gia:
- Người yêu cầu chuyển tiền (Remitter): là người yêu cầu ngân hàng thay
mình thực hiện chuyển tiền ra nước ngoài. Họ thường là người nhập khẩu, mắc nợ
hoặc có nhu cầu chuyển vốn.
- Người thụ hưởng (Beneficicary): là người nhận được số tiền chuyển tới
thông qua ngân hàng. Họ thường là người xuất khẩu, chủ nợ hoặc là người yêu cầu
chuyển tiền chỉ định nói chung.
- Ngân hàng nhận uỷ nhiệm chuyển tiền (Remitting bank): là ngân hàng phục
vụ người chuyển tiền.
- Ngân hàng trả tiền (Paying bank): là ngân hàng trực tiếp trả tiền cho người
thụ hưởng. Thường là ngân hàng đại lý hay chi nhánh ngân hàng chuyển tiền và ở

10
nước người thụ hưởng.
* Quy trình thực hiện :
Sơ đồ 1: Quy trình nghiệp vụ chuyển tiền:




Chú thích:
(1). Người xuất khẩu giao hàng hóa và chuyển bộ chứng từ cho người nhập
khẩu
(2). Người nhập khẩu kiểm tra hàng hóa, bộ chứng từ. Nếu phù hợp lập thủ
tục chuyển tiền
(3). Ngân hàng chuyển tiền lập thủ tục chuyển tiền qua ngân hàng đại lý hoặc
chi nhánh nhận trả tiền
(4). Ngân hàng trả tiền thanh toán tiền cho người thụ hưởng
* Ưu, nhược điểm:
-Ưu điểm: thủ tục nhanh gọn, đơn giản.
-Nhược điểm: chứa đựng nhiều rủi ro.
+ Nếu là thanh toán trước thì người mua không chỉ bị đọng vốn mà còn
không được đảm bảo về số lượng và chất lượng hàng hóa
+ Nếu là thanh toán sau thì người bán có thể bị rủi ro là không được thanh
toán hoặc bị trì hoãn thanh toán mặc dù đã giao đủ hàng cho người mua
* Trường hợp áp dụng:
Áp dụng với các đối tác làm ăn lâu dài, có uy tín và tin cậy lẫn nhau
b.Phương thức thanh toán ghi sổ (Open Account)
Ngân hàng chuyển
tiền
Người chuyển tiền Người thụ hưởng
Ngân hàng trả tiền

(3)
(1)
(2)
(4)
11
*Định nghĩa:
Phương thức ghi sổ là phương thức thanh toán trong đó người bán mở một
tài khoản (hoặc một quyển sổ) để ghi nợ người mua sau khi người bán đã hoàn
thành giao hàng hay dịch vụ, đến từng định kỳ (tháng, quý, nửa năm) người mua trả
tiền cho người bán.
Tham gia phương thức thanh toán này ban đầu chỉ có nhà xuất khẩu và nhà
nhập khẩu. Các ngân hàng không tham gia với chức năng là người mở tài khoản và
thực hiện việc thanh toán. Chỉ đến định kỳ thanh toán theo thỏa thuận, nhà nhập
khẩu mới thông qua ngân hàng của mình để thanh toán khoản tiền nợ phát sinh cho
nhà xuất khẩu. Trong nghiệp vụ thanh toán ghi sổ, chỉ có nhà xuất khẩu mở tài
khoản (mở sổ)ghi chép các khoản tiền hàng, nhà nhập khẩu không mở sổ song song,
nếu có mở sổ ghi chép thì sổ đó chỉ có giá trị theo dõi chứ không có giá trị thanh
quyết toán giữa hai bên.
* Quy trình thực hiện :
Sơ đồ 2:Quy trình thanh toán bằng phương thức ghi sổ






(1) Người bán giao hàng hoặc dịch vụ cùng với chứng từ hàng hoá cho bên
mua.
(2) Người bán ghi nợ vào tài khoản và báo nợ trực tiếp cho người mua.
(3) Người mua dùng phương thức chuyển tiền để trả tiền cho người bán khi

đến định kỳ thanh toán.
* Trường hợp áp dụng:
Ngân hàng
bên bán
Ngân hàng
bên mua
Người mua Người bán
(3)
(3)
(3)
(2)
(1)
12
Phương thức thanh toán ghi sổ là phương thức thanh toán có lợi cho nhà
nhập khẩu được áp dụng khi nhà xuất khẩu muốn cấp tín dụng cho nhà nhập khẩu
(bán hàng trả chậm) và thường sử dụng trong các trường hợp sau:
- Hai bên có quan hệ mua bán thường xuyên với số lượng không lớn và có sự
tin cậy lẫn nhau
- Nhà xuất khẩu gửi hàng cho nhà nhập khẩu/ đại lý phân phối ở nước ngoài
bán
- Thanh toán phí dịch vụ như cước phí vận tải, bảo hiểm, bưu điện, tiền hoa
hồng, phí ủy thác, lãi cho vay hoặc lợi tức đầu tư.
c.Phương thức thanh toán nhờ thu:
* Định nghĩa:
Nhờ thu là phương thức thanh toán trong đó người bán sau khi đã hoàn
thành nghĩa vụ giao hàng hoặc cung ứng dịch vụ cho khách hàng sẽ uỷ thác cho
ngân hàng của mình thu hộ số tiền từ người mua trên cơ sở chứng từ lập ra.
* Các bên tham gia:
- Người nhờ thu là bên giao chỉ thị nhờ thu cho một ngân hàng, thông thường
là người xuất khẩu, cung ứng dịch vụ.

- Ngân hàng chuyển tiền là ngân hàng mà người nhờ thu đã giao chỉ thị nhờ
thu.
- Ngân hàng thu là bất kỳ một ngân hàng nào ngoài ngân hàng chuyển tiền
thực hiện quá trình nhờ thu.
- Người trả tiền là người mà chứng từ xuất trình đòi tiền anh ta, là người
nhập khẩu, người sử dụng dịch vụ được cung ứng (người mua).
* Phương thức nhờ thu được phân ra làm hai loại như sau:
- Nhờ thu phiếu trơn: Người xuất khẩu sau khi xuất chuyển hàng hoá, lập
các chứng từ hàng hoá gửi trực tiếp cho người nhập khẩu (không qua ngân hàng),
đồng thời uỷ thác cho ngân hàng phục vụ mình thu hộ tiền trên cơ sở hối phiếu do
mình lập ra.
13
Sơ đồ 3 : Trình tự nhờ thu phiếu trơn





(1): Người bán sau khi gửi hàng và chứng từ gửi hàng cho người mua, họ sẽ
lập một hối phiếu đòi tiền người mua và uỷ thác cho ngân hàng của mình đòi tiền
hộ bằng chỉ thị nhờ thu.
(2): Ngân hàng phục vụ người bán kiểm tra chứng từ, sau đó gửi thư uỷ thác
nhờ thu kèm hối phiếu cho ngân hàng đại lý của mình ở nước người mua nhờ thu
tiền.
(3): Ngân hàng đại lý yêu cầu người mua trả tiền hối phiếu (nếu trả tiền
ngay) hoặc chấp nhận trả tiền hối phiếu (nếu mua chịu).
(4): Ngân hàng đại lý chuyển tiền thu được cho người bán thông qua ngân
hàng chuyển chứng từ. Nếu chỉ là chấp nhận hối phiếu thì ngân hàng giữ hối phiếu
hoặc chuyển lại cho người bán. Khi đến hạn thanh toán, ngân hàng sẽ đòi tiền ở
người mua và thực hiện việc chuyển tiền như trên.

+ Trường hợp áp dụng:
Phương thức nhờ thu phiếu trơn chỉ áp dụng trong các trường hợp người bán
và người mua tin cậy lẫn nhau hoặc là có quan hệ liên doanh với nhau giữa công ty
mẹ, công ty con hoặc chi nhánh của nhau. Hoặc trong trường hợp thanh toán về các
dịch vụ có liên quan tới xuất khẩu hàng hoá.
- Nhờ thu kèm chứng từ:
Đây là phương thức trong đó người bán uỷ thác cho ngân hàng thu hộ tiền ở
người mua không những căn cứ vào hối phiếu mà còn căn cứ và bộ chứng từ gửi hàng
Người mua
Ngân hàng chuyển
chứng từ
Ngân hàng thu và
xuất trình chứng từ
Người bán
(2)
(4)
(3)
(4)
(4)
(1)
Gửi hàng và chứng từ
14
kèm theo với điều kiện là nếu người mua trả tiền hoặc chấp nhận trả tiền hối phiếu thì
ngân hàng mới trao toàn bộ chứng từ gửi hàng cho người mua để nhận hàng.
Sơ đồ 4: Quy trình nhờ thu kèm chứng từ.






(1) Người bán xuất chuyển hàng hóa cho bên mua
(2) Bên bán lập bộ chứng từ thanh toán (gồm chứng từ hàng hoá và hối
phiếu) gửi tới ngân hàng nhờ thu hộ tiền ở bên mua.
(3) Ngân hàng nhận uỷ thác thu chuyển bộ chứng từ thanh toán qua ngân
hàng xuất trình, nhờ ngân hàng thu hộ tiền ở người mua.
(4) Ngân hàng xuất trình thu tiền ở người mua (hoặc yêu cầu người mua ký
chấp nhận hối phiếu).
(5) Người mua trả tiền (hoặc ký chấp nhận hối phiếu).
(6) Ngân hàng xuất trình trao bộ chứng từ hàng hoá để người mua đi nhận
hàng.
(7) Chuyển tiền qua ngân hàng nhận uỷ thác thu.
(8) Thanh toán tiền cho người bán.
Theo phương thức này ngân hàng không chỉ là người thu hộ tiền mà còn là
người khống chế bộ chứng từ hàng hoá. Với cách khống chế này quyền lợi của
người xuất khẩu được đảm bảo hơn.Tuy nhiên theo phương thức này người bán vẫn
ở thế bất lợi,khi người mua từ chối thanh toán và không nhận hàng thì người bán có
thể gặp khó khăn trong việc giải tỏa hàng hóa,nhất là hàng hóa mau hỏng như lương
thực,rau quả,…Người mua cũng có thể không trả tiền mặc dù trước đó họ đã ký
chấp nhận thanh toán trên hối phiếu
Người muaNgười bán
NH nhận ủy thác thu NH xuất trình (Ngân
hàng thu hộ)
(3)
(7)
(2) (8) (4) (5)
(6)
(1)
15
Tóm lại, đối với phương thức nhờ thu rủi ro luôn là vấn đề cần quan tâm của
bên bán. Vì vậy phương thức này thường chỉ áp dụng với bạn làm ăn lâu dài, tín

nhiệm lẫn nhau.
d.Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ:(Phương thức L/C)
Đây là phương thức thanh toán quan trọng và chủ yếu được áp dụng tại các
ngân hàng thương mại hiện nay. Phương thức này đảm bảo quyền lợi và sự an toàn
cho cả bên mua và bên bán.
1.2. Phương thức thanh toán tín dụng chứng từ:
1.2.1.Khái niệm
Phương thức tín dụng chứng từ là một sự thoả thuận mà trong đó một ngân
hàng theo yêu cầu của khách hàng sẽ trả một số tiền nhất định cho một người thứ 3
hoặc chấp nhận hối phiếu do người thứ 3 ký phát trong phạm vi số tiền đó, khi
người thứ 3 này xuất trình bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những quy định đề
ra trong thư tín dụng.
Như vậy, để tiến hành thanh toán bằng phương thức này, bắt buộc phải hình
thành một thư tín dụng. Đây là một văn bản pháp lý quan trọng của phương thức
thanh toán này, vì nếu không có thư tín dụng thì xuất khẩu sẽ không giao hàng và
như vậy phương thức tín dụng chứng từ cũng sẽ không hình thành được.
- Thư tín dụng (L/C) là một cam kết thanh toán của ngân hàng cho người
xuất khẩu nếu như họ xuất trình được một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với các
điều khoản và điều kiện của L/C.
- Theo điều 3 của UCP 500: những thuật ngữ ‘Documentary credit(s) và
“stanby Letter(s) of Credit” sau đây gọi tắt là Tín dụng thư , có nghĩa là bất cứ sự
thỏa thuận nào, dù được gọi hoặc mô tả như thế này, theo đó một Ngân hàng ( Ngân
hàng mở) hành động theo yêu cầu và theo chỉ thị của một khách hàng ( Người yêu
cầu) hoặc thay mặt chính mình.
- Theo điều 2 của UCP 600: tín dụng là một thỏa thuận, dù cho được mô tả
hoặc đặt tên như thế nào, nhưng không thể hủy bỏ và do đó là một cam kết chắc
chắn của ngân hàng phát hành về việc thanh toán cho một xuất trình phù hợp.
=> Thư tín dụng được lập trên cơ sở hợp đồng ngoại thương, song sau khi
được thiết lập thì nó hoàn toàn độc lập với hợp đồng ngoại thương. Tính độc lập của
nó được thể hiện là nhà xuất khẩu chỉ cần xuất trình một bộ hồ sơ phù hợp với

những điều kiện và nội dung của L/C đã được mở thì ngân hàng phải trả tiền cho
16
người bán cho dù thực trạng của hàng hóa như thế nào. Nếu hàng hóa không đúng
như trong chứng từ thì 2 bên phải trực tiếp giải quyết với nhau. Trong trường hợp
bên nhập khẩu không trả tiền thì ngân hàng vẫn phải hoàn thành nghĩa vụ trả tiền
cho nhà xuất khẩu, thực hiện đúng và đầy đủ các điều khoản đã được quy định
trong L/C.
1.2.2.Các bên tham gia trong phương thức tín dụng chứng từ:
Các bên tham gia vào quá trình thanh toán theo phương thức tín dụng chứng
từ gồm có 4 bên:
 Thứ nhất là người yêu cầu mở L/C (Applicant): là người mua, người nhập
khẩu hoặc là người mua uỷ thác cho một người khác.
 Thứ hai là người hưởng lợi (Beneficiary): là người được hưởng tiền thanh
toán hay sở hữu hối phiếu chấp nhận thanh toán. Người thụ hưởng L/C có thể có
những tên gọi khác nhau như: người bán (seller), nhà XK (exporter), người ký phát
hối phiếu (drawer).
 Thứ ba là ngân hàng phát hành (Issuing Bank): là ngân hàng mà theo yêu
cầu của người mua, phát hành một L/C cho người bán hưởng. Ngân hàng phát hành
thường được hai bên mua bán thoả thuận và quy định trong hợp đồng mua bán.
 Thứ tư là ngân hàng thông báo (Advising Bank): là Ngân hàng ở nước
người hưởng lợi.
Ngoài ra, trong thực tế vận dụng phương thức tín dụng chứng từ, tuỳ theo
từng điều kiện cụ thể còn có sự tham gia của một số ngân hàng khác như: Ngân
hàng xác nhận (Confirming Bank), Ngân hàng chỉ định (Nominated Bank), Ngân
hàng hoàn trả (Reimbursing Bank)
1.2.3.Nội dung và phân loại thư tín dụng ( L/C)
a.Nội dung L/C:
Số hiệu, địa điểm, ngày mở L/C:
Số hiệu: tạo thuận tiện trong việc trao đổi thông tin giữa các bên có liên quan
trong quá trình giao dịch thanh toán, tất cả các thư tín dụng đều phải có số hiệu

riêng. Số hiệu còn được dùng để ghi vào các chứng từ liên quan trong bộ chứng từ
thanh toán như hối phiếu và các chứng từ có liên quan khác.
Địa điểm phát hành L/C: là nơi ngân hàng mở L/C viết cam kết trả tiền cho
người thụ hưởng. Ðịa điểm này có ý nghĩa quan trọng, vì nó liên quan đến việc tham
chiếu luật lệ áp dụng, để giải quyết những bất đồng xảy ra (nếu có).
17
Ngày mở L/C: là ngày bắt đầu phát sinh và có hiệu lực sự cam kết của ngân
hàng mở L/C đối với người hưởng lợi, là ngày ngân hàng mở chính thức chấp nhận
đơn xin mở của người NK, là ngày bắt đầu tính thời hạn hiệu lực của L/C và cũng là
căn cứ để người XK kiểm tra xem người NK có mở L/C đúng thời hạn không…
Loại thư tín dụng
Khi mở L/C người yêu cầu mở phải xác định cụ thể loại L/C. Mỗi loại L/C
khác nhau quy định quyền lợi và nghĩa vụ những người liên quan tới thư tín dụng
cũng khác nhau.
Tên, địa chỉ những người có liên quan
+ Người yêu cầu mở thư tín dụng
+ Người hưởng lợi
+ Ngân hàng mở thư tín dụng
+ Ngân hàng thông báo
+ Ngân hàng trả tiền (nếu có)
+ Ngân hàng xác nhận (nếu có)
+ Các tổ chức khác: cung cấp các chứng từ có liên quan như Bộ thương mại,
Phòng thương mại và công nghiệp
Số tiền của thư tín dụng
Số tiền phải được ghi vừa bằng số và bằng chữ và phải thống nhất với nhau.
Tên đơn vị tiền tệ phải ghi cụ thể, chính xác. Không nên ghi số tiền dưới dạng một
con số tuyệt đối, vì như vậy sẽ có thể khó khăn trong việc giao hàng và nhận tiền
của bên bán. Cách tốt nhất là ghi một số lượng giới hạn mà người bán có thể đạt
được.
Thời hạn hiệu lực, thời hạn trả tiền, thời hạn giao hàng

- Thời hạn hiệu lực của thư tín dụng: Là thời hạn mà ngân hàng mở cam kết
trả tiền cho người hưởng lợi, nếu người này xuất trình được bộ chứng từ trong thời
hạn hiệu lực đó và phù hợp với quy định trong thư tín dụng đó.
- Thời hạn trả tiền của thư tín dụng: Liên quan đến việc trả tiền ngay hay trả
tiền về sau (trả chậm). Ðiều này hoàn toàn tuỳ thuộc vào quy định của hợp đồng
thương mại đã ký kết. Thời hạn trả tiền có thể nằm trong thời hạn hiệu lực của thư
tín dụng (nếu trả tiền ngay) hoặc nằm ngoài thời hạn hiệu lực (nếu trả chậm). Trong
trường hợp này, cần lưu ý là hối phiếu có kỳ hạn phải được xuất trình để chấp nhận
trong thời hạn hiệu lực của thư tín dụng
- Thời hạn giao hàng:
Ðược ghi trong thư tín dụng và cũng do hợp đồng mua bán ngoại thương quy
định. Ðây là thời hạn quy định bên bán phải chuyển giao xong hàng cho bên mua,
kể từ khi thư tín dụng có hiệu lực.
18
Thời hạn giao hàng liên quan chặt chẽ với thời hạn hiệu lực của thư tín dụng.
Nếu hai bên thoả thuận kéo dài thời gian giao hàng thêm một số ngày thì ngân hàng
mở thư tín dụng cũng sẽ hiểu rằng thời hạn hiệu lực của thư tín dụng cũng được kéo
dài thêm một số ngày tương ứng.
Những nội dung liên quan tới hàng hoá: tên hàng,số lượng,trọng lượng, giá
cả, quy cách phẩm chất, bao bì, ký mã hiệu cũng được ghi cụ thể trong nội dung
thư tín dụng.
Những nội dung về vận chuyển giao nhận hàng hoá: điều kiện cơ sở về giao
hàng (FOB,CIF ) nơi giao hàng, cách vận chuyển, cách giao hàng, cũng được thể
hiện đầy đủ và cụ thể trong nội dung thư tín dụng.
Các chứng từ mà người hưởng lợi phải xuất trình:
Ðây cũng là một nội dung rất quan trọng của thư tín dụng. Bộ chứng từ thanh
toán là căn cứ để ngân hàng kiểm tra mức độ hoàn thanh nghĩa vụ chuyển giao hàng
hoá của người xuất khẩu để tiến hành việc trả tiền cho người hưởng lợi.
Ngân hàng mở thư tín dụng thường yêu cầu người hưởng lợi đáp ứng những
yếu tố liên quan tới chứng từ sau đây:

+ Các loại chứng từ phải xuất trình: căn cứ theo yêu cầu đã được thoả thuận
trong hợp đồng thương mại
Thông thường một bộ chứng từ gồm có:
\ Hối phiếu thương mại (Commerial Bill of Exchange)
\ Hoá đơn thương mại (Commercial Invoice)
\ Vận đơn hàng hải (Ocean Bill of Lading)
\ Chứng nhận bảo hiểm (Insurance Policy)
\ Chứng nhận xuất xứ (Certificate of Origin)
\ Chứng nhận trọng lượng (Certificate of quality)
\ Danh sách đóng gói (packing list)
\ Chứng nhận kiểm nghiệm (Inspection Certificate)
+Số lượng bản chứng từ thuộc mỗi loại
+ Yêu cầu về việc ký phát từng loại chứng từ
19
Sự cam kết của ngân hàng mở thư tín dụng
Ðây là nội dung ràng buộc trách nhiệm mang tính pháp lý của ngân hàng mở
thư tín dụng đối với thư tín dụng mà mình đã mở. Ví dụ: phần cam kết trong một
thư tín dụng thường được diễn đạt như sau:
Chúng tôi cam kết với những người ký phát hoặc người cầm phiếu trung
thực rằng các hối phiếu được ký phát và chiết khấu phù hợp với các điều khoản của
thư tín dụng này sẽ được thanh toán khi xuất trình và các hối phiếu được chấp nhận
theo điều khoản của tín dụng sẽ được thanh toán.
b.Phân loại thư tín dụng:
Theo ủy ban kỹ thuật và Nghiệp vụ ngân hàng thuộc ICC (Commission on
Banking Technique and pratice) L/c được phân loại theo các cách sau:
(1) Phân theo loại hình (hay căn cứ vào tính chất cam kết của NH mở)
+ Revocable L/C: Đây là loại thư tín dụng mà sau khi đã được mở thì việc bổ
sung sửa chữa hoặc huỷ bỏ có thể tiến hành một cách đơn phương.
L/C có thể hủy ngang ít được sử dụng do không đảm bảo quyền lợi của
người hưởng lợi L/C.

+ Irrevocable L/C: Là loại thư tín dụng không thể huỷ bỏ sữa đổi, bổ sung
hoặc việc sữa đổi, bổ sung hoặc huỷ bỏ chỉ được ngân hàng tiến hành theo thoả
thuận của tất cả các bên có liên quan, được một ngân hàng khác đảm bảo trả tiền theo
yêu cầu của ngân hàng mở thư tín dụng, đây là loại L/C được sử dụng phổ biến nhất.
(2) Phân loại theo cách thực hiện L/C
+ L/C có giá trị trực tiếp (streight L/C): là loại L/C yêu cầu chứng từ xuất
trình trực tiếp tại NH mở, do vậy địa điểm hết hạn hiệu lực là NH mở (tại quầy giao
dịch), trong L/C thường ghi …presentation is made at our counter on or before
expiry date. Cam kết trả tiền của NH mở chỉ có giá trị duy nhất đối với người
hưởng lợi.
+ L/C có giá trị chiết khấu ( negotiation L/C): là loại L/C cho phép người
hưởng có thể chiết khấu bộ chứng từ tại một NH được chỉ định (nominated bank)
hay tại bất kỳ NH nào (free negotiation, available at any bank). Trong L/C NH mở
cam kết hoàn trả tiền cho NH chiết khấu đã được chỉ định hay bất kỳ NH chiết khấu
nào theo quy định của L/c.
Người hưởng lợi L/C này có thể xuất trình chứng từ tại NH được chỉ định
20
hoặc bất kỳ NH nào hoặc tại NH mở nếu họ không muốn qua NH thứ hai. Trên thực
tế người hưởng lợi luôn xuất trình chứng từ tại NH thông báo (NH của người
hưởng).
NH được xuất trình chứng từ để xin chiết khấu có thể đồng ý chiết khấu
nhưng cũng có thể từ chối mà chỉ kiểm tra chứng từ rồi gửi đi thanh toán tại NH mở
vì họ không muốn ứng tiền trước cho người hưởng lợi. NH chiết khấu (được chỉ
định hoặc do người hưởng chọn ) luôn có quyền bảo lưu khi thực hiện việc chiết
khấu, trừ khi nó ghi thêm từ không bảo lưu vào hối phiếu hoặc chứng từ chiết khấu
và trừ khi nó là NH xác nhận
(3)Phân loại theo thời hạn trả tiền
+L/C trả ngay (L/C at sight): ngân hàng mở L/C cam kết trả tiền ngay cho
người hưởng lợi khi xuất trình bộ chứng từ hợp lệ. Trong L/C có thể yêu cầu người
hưởng lợi ký phát hối phiếu trả ngay để đòi tiền.

+Deferred L/C - L/C trả chậm : là loại L/C trong đó quy định việc trả tiền cho
người bán sẽ được thực hiên sau một thời gian nhất định kể từ ngày giao hàng (date
of B/L) hoặc ngày xuất trình chứng từ. Theo L/C này, người bán giao hàng và xuất
trình chứng từ như L/C quy định. Khi bộ chứng từ được ngân hàng xác định là hợp lệ
, ngân hàng sẽ chấp nhận thanh toán và thực hiện việc trả tiền vào ngày đáo hạn như
đã quy định, có thể một lần và cũng có thể nhiều lần theo thỏa thuận. Người hưởng
không bắt buộc phải ký phát hối phiếu trả sau để yêu cầu ngân hàng chấp nhận. Nếu
cần thiết phải sử dụng hối phiếu, người hưởng có thể ký phát hối phiếu trả sau và
xuất trình cùng với bộ chứng từ hoặc trả ngay xuất trình vào ngày đến hạn trả tiền do
L/C quy định. Ở các nước khu vực châu Á, L/C thường quy định sử dụng hối phiếu
và ngân hàng sẽ chấp nhận hối phiếu khi bộ chứng từ của người hưởng được xuất
trình hợp lệ, việc trả tiền sẽ được thực hiện vào ngày hối phiếu đáo hạn.
(4) Phân loại theo việc xác nhận L/C
+ L/C có xác nhận (confirmed L/C): là loại L/C không hủy ngang do một NH
mở và được một NH khác xác nhận, tức là đảm bảo trả tiền theo yêu cầu hoặc theo sự
ủy nhiệm của NH mở. Sự xác nhận của NH này là một cam kết chắc chắn cộng thêm
vào cam kết chắc chắn của NH mở. Việc xác nhận L/C thường do người hưởng lợi đề
nghị khi họ không tin tưởng vào khả năng trả tiền của ngân hàng mở hoặc không
đánh giá được khả năng tài chính của ngân hàng mở L/C hoặc không chấp nhận
những rủi ro chính trị tồn tại hay tiềm ẩn ở nước của ngân hàng mở. Việc xác nhận
L/C được thể hiện ngay trên L/C hoặc bằng một văn thư riêng. NH xác nhận có nghĩa
vụ trả tiền, chấp nhận hoặc chiết khấu không bảo lưu khi người hưởng xuất trình bộ
21
chứng từ hợp lệ. Trách nhiệm của NH xác nhận cũng tương tự như trách nhiệm của
NH phát hành. NH xác nhận L/C có thể xác nhận một L/C mà không xác nhận mọi tu
chỉnh sau đó (ví dụ tăng tiền, gia hạn hiệu lực hoặc các tu chỉnh khác…) nếu họ thấy
có thể phát sinh rủi ro trong thanh toán. Trong trường hợp này, trách nhiệm của NH
xác nhận chỉ giới hạn trong phạm vi mà họ xác nhận.
Trong thực tế, NH được yêu cầu xác nhận cũng thường là NH thông báo. Khi
NH mở yêu cầu một NH đại lý của mình ở nước người hưởng thông báo L/C, họ có

thể đề nghị NH này thêm vào đó hoặc không sự xác nhận đối với L/C (with or
without confirmation- field 49 điện SWIFT). Khi NH thông báo đồng ý xác nhận, họ
sẽ thông báo sự xác nhận của mình cho người hưởng bằng văn bản. Khi được ngân
hàng thông báo ở nước mình xác nhận L/C, người hưởng sẽ thu tiền về nhanh hơn.
NH mở thường không muốn L/C mà mình mở ra lại phải có một NH khác
xác nhận vì điều này chứng tỏ uy tín của NH mở bị giảm sút. Do vậy, nhiều NH khi
được yêu cầu mở L/C xác nhận thường tìm cách né tránh việc yêu cầu NH khác xác
nhận L/C của mình bằng cách yêu cầu NH khác mở L/C thay mình. Trong L/C này,
NH mở trở thành người xin mở L/C.
Phí xác nhận thường cao hơn cả phí mở L/C và về nguyên tắc là do người
mua trả. Song nếu hai bên thỏa thuận phân chia chi phí đều cho cả hai, người hưởng
chịu mọi chi phí bên ngòai nước người mở L/C thì phí xác nhận sẽ do người hưởng
gánh chịu.
+L/C không có xác nhận ( unconfirmed L/C): là L/C không huỷ ngang do
một ngân hàng mở và ngân hàng này chịu trách nhiệm trả tiền, họ không yêu cầu
hoặc không uỷ quyền cho bất kỳ ngân hàng nào khác đảm bảo việc trả tiền. Khi
người hưởng lợi tin tưởng vào khả năng trả tiền của ngân hàng mở L/C cũng như
tình hình chính trị ổn định ở quốc gia mà ngân hàng mở đóng trụ sở, L/C được sử
dụng trong TTQT là L/C không thể hủy ngang , không xác nhận.
(5) Phân loại theo đặc điểm sử dụng
+ L/c có thể chuyển nhượng (transferable L/C): là một L/C mà theo đó,
người hưởng lợi đầu tiên (First beneficiary) có quyền chuyển nhượng toàn bộ hay
từng phần L/C đó cho một hay nhiều người hưởng lợi thứ hai (second ben.). Trừ khi
L/C có quy định khác (ví dụ : transferable without restritive), một L/C chuyển
nhượng chỉ có thể chuyển nhượng một lần từ người hưởng đầu tiên tới một hay
nhiều người hưởng thứ hai. Tuy nhiên việc người hưởng thứ hai tái chuyển nhượng
cho người hưởng đầu lại không bị cấm và người hưởng đầu vẫn có thể tiếp tục
chuyển nhượng L/C cho một người khác. Những phần của L/C chuyển nhượng cho
22
nhiều người không được vượt quá tổng số tiền của L/C và có thể chuyển nhượng

riêng rẽ miễn là trong L/C không ngăn cấm giao hàng và thanh toán từng phần.
L/C được chuyển nhượng theo các điều khoản, điều kiện đã quy định trong
L/C, ngoại trừ :
*Số tiền (thường ít hơn)
*Đơn giá ( thấp hơn).
*Thời hạn hiệu lực ( ngắn hơn).
*Thời hạn xuất trình chứng từ (sớm hơn).
*Thời hạn gửi hàng (có thể sớm hơn ).
Ngoài ra tên của người hưởng lợi thứ nhất có thể thay thế cho tên của người
yêu cầu mở L/C.
+ L/C giáp lưng back to back L/C : là loại L/C không thể hủy ngang được
mở trên cơ sở một L/C khác. L/C giáp lưng là một L/C biệt lập được mở trên cơ sở
của và cùng với điều kiện như của một L/C gốc đã có (còn gọi là L/C thứ hai trên
cơ sở một L/C thứ nhất).
L/C giáp lưng cũng được dùng trong mua bán qua trung gian như L/C
chuyển nhượng. Điều khác nhau cơ bản và quan trọng nhất của hai loại L/C này là
ngân hàng phát hành L/C giáp lưng hoàn toàn chịu trách nhiệm thanh toán bộ chứng
từ hợp lệ theo L/C mà mình mở không ràng buộc bởi L/C gốc. Nghĩa vụ của hai
ngân hàng phát hành L/C gốc và L/C giáp lưng là hoàn toàn độc lập với nhau.
Người hưởng L/C gốc trở thành người mở L/C giáp lưng nên họ phải thực hiện
nghiêm ngặt nghĩa vụ của người mở L/C. Trong nghiệp vụ L/C giáp lưng người
cung cấp hàng hóa hoàn toàn yên tâm về thanh toán vì họ chỉ có nghĩa vụ thực hiện
L/C thứ hai do người trung gian mở.
+ L/C đối ứng reciprocal L/C: là loại L/C chỉ có hiệu lực khi có một L/C
khác đối ứng với nó đã được phát hành. L/C này được sử dụng trong giao dịch hàng
đổi hàng và gia công hàng xuất khẩu. Cả hai bên đều là người mua, người bán của
nhau.
Đặc điểm nổi bật của L/C này là điều khoản thanh toán. Trong L/C quy định:
việc chấp nhận và hoặc thanh toán của L/C này chỉ có hiệu lực sau khi ngân hàng
phát hành nhận đủ số tiền theo L/C số…ngày… do ngân hàng… phát hành (the

acceptance and/or pay ment under this L/C is valid only after our receipt of full
proceeds under L/C no… dated…issued by…). Đơn giản hơn có thể trong hai L/C
này đều ghi chỉ được thanh toán khi một L/C khác đối ứng với nó được mở ra. L/C
đối ứng xét về bản chất chỉ là một nửa L/C do sự cam kết có điều kiện của ngân hàng.
Ở các nước khác , đã từ lâu người ta không còn sử dụng loại L/C này. Hơn nũa, ICC
23
cũng không xếp L/C đối ứng trong danh mục các loại L/C được sử dụng. Song ở Việt
nam, loại L/C này vẫn còn được sử dụng, đặc biệt trong quan hệ gia công tái xuất vì
nó giúp các nhà kinh doanh VN có thể gia công hàng xuất khẩu mà không cần vốn,
tạo thuận lợi trong quá trình tích luỹ vốn, tiến tới chủ động mua nguyên liệu và bán
sản phẩm ra thị trường thế giới theo chiến lược hoạt động của mình.
+ L/C tuần hoàn – Revolving L/C : là loại L/C mà sau khi sử dụng xong lại
tiếp tục có giá trị. L/C có thể tuần hoàn theo 3 cách:
+Tự động( automatic): sau khi sử dụng xong L/C lại tự động có giá trị như
cũ, không cần sự thông báo của ngân hàng mở. Trong L/C ghi: we open irrevocable
L/C revolving monthly. The full amount again becomes available under the same
terms and conditions, on the first day of each calendar month.
+Bán tự động (part automatic): sau khi sử dụng L/C, trong một thời hạn nhất
định, nếu không có thông báo gì từ phía ngân hàng mở L/C thì một L/C mới với
những điều kiện tương tự lại tiếp tục có hiệu lực. Trong L/C ghi: this will be
operative for the second & third shipment unless otherwise noticed by us.
+Hạn chế ( restrictive): phải có thông báo của ngân hàng mở về hiệu lực của
một L/C mới được tái lập thì L/C đó mới có giá trị. L/C ghi: reinstatement by us by
way of amendment.
L/C có thể tuần hoàn theo số tiền hoặc theo thời gian. Khi tuần hoàn theo
thời gian, L/C phải ghi rõ ngày hết hiệu lực của mỗi lần tuần hoàn, đồng thời phải
quy định rõ L/C đó là tuần hoàn tích lũy hay không tích luỹ.
+ Red clause L/C (anticipatory )- L/C có điều khoản đỏ : là loại L/C có điều
kiện cho phép người hưởng được nhận một khoản tiền trước khi giao hàng trên cơ
sở hối phiếu trơn hoặc hối phiếu kèm theo chứng từ chứng minh rằng đã có hàng để

giao như biên lai kho hàng (warrant hay warehouse’receipt), biên lai của người giao
nhận (forwarder’receipt)…Thông thường khi nhận khoản tiền ứng trước này, người
hưởng lợi có thể viết cam kết cho ngân hàng là sẽ xuất trình một bộ chứng từ theo
quy định của L/C sau đó. Khoản ứng trước sẽ được khấu trừ vào tiền thanh toán bộ
chứng từ.
+ Stand-by L/C – L/C dự phòng : là một L/C không thể hủy ngang trong đó
ngân hàng mở cam kết trả tiền cho người hưởng lợi nếu có sự vi phạm hợp đồng
hay thỏa thuận từ phía người xin mở L/C.
Trong L/C dự phòng, ngân hàng mở ghi rõ L/C này chỉ có giá trị thực hiện
khi có sự vi phạm nghĩa vụ của người xin mở L/C, ngược lại nếu không có sự vi
phạm ấy, L/C dự phòng sẽ không được thực hiện. L/C dự phòng được sử dụng như
24
một hình thức bảo lãnh trong một phạm vi rất rộng bao gồm các hoạt động thương
mại, tài chính…
1.2.4. Quy trình nghiệp vụ thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ
Sơ đồ 5: Quy trình nghiệp vụ thanh toán tín dụng chứng từ.







(1) Người xuất khẩu và người nhập khẩu ký kết hợp đồng thương mại với
nhau,trong đó phải có điều khoản thanh toán theo phương thức tín dụng chứng từ
(2) Người nhập khẩu căn cứ vào hợp đồng thương mại lập đơn xin mở L/C
tại ngân hàng phục vụ mình
(3) Ngân hàng phát hành sẽ kiểm tra xem đơn mở thư tín dụng đó đã hợp lệ
hay chưa. Nếu đáp ứng đủ yêu cầu Ngân hàng sẽ mở L/C và thông báo cho người
xuất khẩu thông qua Ngân hàng đại lý của mình ở nước người xuất khẩu về việc mở

L/C và chuyển 1 bản gốc cho ngân hàng thông báo
(4) Ngân hàng thông báo chuyển L/C cho người thụ hưởng
(5) Người xuất khẩu khi nhận được 1 bản gốc L/C, nếu chấp nhận nội dung
L/C thì sẽ tiến hành giao hàng theo đúng quy định đã ký kết trong hợp đồng. Nếu
không họ sẽ yêu cầu Ngân hàng chỉnh sửa theo đúng yêu cầu của mình rồi mới tiến
hành giao hàng.
(6a),(6b) Sau khi chuyển giao hàng hoá, người xuất khẩu tiến hành lập bộ
chứng từ thanh toán theo quy định của L/C và gửi đến Ngân hàng phát hành thông
qua Ngân hàng thông báo để yêu cầu được thanh toán. Ngoài ra, người xuất khẩu
Ngân hàng phát hành
(Issing Bank)
Người yêu cầu mở L/C
(Applicant)
Người thụ hưởng
(Benificiary)
Ngân hàng thông báo
(Advising Bank)
(3)
(6b)
(7a)
(2) (8) (9)
(4) (6a)
(7b)
(1)
(5)
25

×