Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

HSBC dự báo lạm phát việt nam 2013 ở mức hai con số

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.2 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
Phần mở đầu
Phần nội dung
I/Lí luận chung về lạm phát
1.Khái niệm về lạm phát
2.Nguyên nhân dẫn đến tình trạng lạm phát
3.Phân loại lạm phát
4.Tác động của lạm phát
5.Các chỉ tiêu đo lường
6.Hậu quả của lạm phát
7.Các biện pháp kiềm chế lạm phát
II/Tình trạng lạm phát ở Việt Nam hiện nay
1.Tổng quát về tình hình lạm phát từ năm 1986-2011
2.Tình hình tăng trưởng giai đoạn 1990-2011
3.Diễn biến lạm phát từ 2007-2012
4.Nguyên nhân dẫn đến lạm phát ở Việt Nam
5.HSBC dự báo lạm phát Việt Nam 2013 ở mức hai con số
Phần kết
Tài liệu tham khảo



TIỂU LUẬN ĐỀ TÀI LẠM PHÁT
PHẦN MỞ ĐẦU
Lạm phát là một hiện tượng kinh tế xã hội gắn với nền kinh tế thị trường. Nó là một
trong những hiện tượng quan trọng nhất của thế kỷ XXI và đụng chạm tới mọi hệ thống
kinh tế dù phát triển hay không. Lạm phát được coi là một “căn bệnh kinh niên” của mọi
nền kinh tế hàng hoá-tiền tệ. Nó có tính thường trực, nếu không thường xuyên kiểm soát,
không có những giải pháp chống lạm phát thường trực, đồng bộ và hữu hiểu thì lạm phát
có thể xảy ra ở bất cứ nền kinh tế hàng hoá nào với bất kì chế độ xã hội nào. Trong thế kỷ
XIX được đánh dấu là không có nạn lạm phát bởi giá cả tương đối ổn định(dù có những


cơn sốt ngắn ) thì sau cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất là thời kỳ gia tăng quá trình lạm
phát với quy mô lớn. Từ sau năm1945, không còn có hiện tượng giá cả giảm nữa.Các
cuộc khủng hoảng dầu mỏ những năm 70 đã kéo theo sự gia tăng trở lại lạm phát rất
rõ,sau đó nhờ nhữngcố gắng của các chính sách ổn định mà một quá trình giảm lạm phát
đã bắt đầu trong những năm 80 gây ra nhiều tác hại cho nền kinh tế như tình trạng
khủnghoảng, công nhân đình công đòi tăng lương, giá nguyên liệu tăng đột biến, thảmhoạ
tự nhiên,chi phí sản xuất tăng…
Chính vì những tác hại to lớn do lạm phát gây ra cho nền kinh tế mà việc nghiên cứu
lạm phát là một vấn đề cần thiết cấp bách đối với nền kinh tế đặc biệt là nền kinh tế thị
trường còn non nớt như nền kinh tế của nước ta. Chúng ta cần phải tìm hiểu lạm phát là
gì? Do đâu mà có lạm phát? Vì sao lại cần quan tâm tới lạm phát? Và tình hình lạm phát
ở nước ta hiện nay như thế nào? Nguyên nhân ở đâu? Nước ta đang trong giai đoạn
chuyển từ nền kinh tế hàng hoá sang kinh tế thị trường, vì vậy nghiên cứu lạm phát đang
là một vấn đề cấp thiết hiện nay để đánh giá “sức khoẻ” của nền kinh tế nước nhà. Sau
đây, tổ em xin trình bày về “vấn đề lạm phát và tình hình lạm phát ở nước ta hiện nay”
Bài viết này sẽ điểm lại hệ thống các lí thuyết, các bằng chứng về lạm phát, nguyên
nhân và phân loại của nó cùng mối quan hệ giữa lạm phát và tăng trưởng kinh tế cũng
như tình hình lạm phát ở nước ta. Bài viết gồm ba phần:

Phần mở đầu
Phần nội dung
I/Lí luận chung về lạm phát
II/Tình trạng lạm phát ở Việt Nam hiện nay
Phần kết
Tài liệu tham khảo
Do khả năng, điều kiện và thời gian hạn chế, bài viết của chúng em không tránh khỏi
thiếu sót. Chúng em rất mong cô giáo xem xét và góp ý để chúng em có thể hiểu rõ hơn,
nhận thức đúng hơn, biết mình sai ở đâu và có bài viết hoàn chỉnh hơn.
Chúng em xin chân thành cảm ơn!!!














PHẦN NỘI DUNG
I/Lí luận chung về lạm phát
1.Định nghĩa lạm phát
-Quan điểm cô điển cho rằng “Lạm phát là phát hành vượt quá số lượng tiền cần thiết
trong lưu thông”. Tuy nhiên định nghĩa này không giải thích được hiện tượng lạm phát
chi phí đẩy do loại lạm phát này vẫn có thể xảy ra trong khi cung tiền tăng ổn định. Nếu
chỉ coi là lạm phát khi sự tăng giá là kết quả của việc tăng mạnh cung tiền thì sẽ dẫ đến
coi thường các nguy cơ lạm phát có thể xảy ra.
-Một quan điểm phổ biến khác cho rằng “Lạm phát là hiện tượng tăng lên của mức giá
chung theo thời gian. Tuy nhiên không phải mọi sự tăng lên của mức giá đều đáng lo
ngại. nếu giá cả chỉ tăng tạm thời, trong ngắn hạn, chẳng hạn như dịp gần Tết Nguyên
Đán ở Việt Nam, sau đó lại giảm xuống thì đó là kết quả của những biến động của cung
cầu tạm thời, nhiều khi có tác dụng tích cực tới nền kinh tế. Những trường hợp như vậy
mà coi là lạm phát thì sẽ dẫn đến sự cường điệu hóa nguy cơ lạm phát.
-Các nhà kinh tế học theo trường phái trọng tiền hiện đại, đứng đầu là Milton Friedman
đã định nghĩa “Lạm phát là hiện tượng giá cả tăng nhanh và lien tục trong một thời gian
dài”. Theo trường phái này, sự tăng lên của mức giá chung mới chỉ phản ánh hình thức
biểu hiện của lạm phát, bant chat của lạm phát được thể hiện ở tính chất của sự tăng giá

đó: đó là sự tăng giá với tốc độ cao và kéo dài. Chính sự tăng giá cao và lien tục từ thời
gian này đến thời gian khác mới tạo ra những tác động đặc thù của lạm phát. Cũng vì vậy,
cái gọi là tỷ lệ lạm phát hàng tháng mà chúng ta có thể nghe trên đài, báo hay vô tuyến
chỉ cho biết mức giá cả đã thay đổi bao nhiêu phần trăm so với tháng trước chứ chưa
được coi là biểu hiện của lạm phát. Đó có thể là sự thay đổi xảy ra duy nhất một lần hoặc
chỉ là tạm thời chứ không kéo dài. Chỉ khi nào tỷ lệ tăng giá vẫn duy trì trong thời gian
dài thì mới được coi là biểu hiện của lạm phát cao.
-Định nghĩa chung như sau “Lạm phát là hiện tượng kinh tế, trong dó giấy bạc lưu
thông vượt quá nhu cầu cần thiết, làm cho chúng bị mất giá, dẫn đến giá cả của hầu hết
các hàng hóa trong lưu thông không ngừng tăng lên.
2.Nguyên nhân dẫn đến tình trạng lạm phát
-Lạmphátdo cầu kéo:
Khi nhu cầu của thị trường về một mặt hàng nào đó tăng lên sẽ kéo theo sự tăng lên về
giá cả của mặt hàng đó. Giá cả của các mặt hàng khác cũng theo đó leo thang, dẫn đến sự
tăng giá của hầu hết các loại hàng hóa trên thị trường. Lạm phát do sự tăng lên về cầu
(nhu cầu tiêu dùng của thị trường tăng) được gọi là “lạm phát do cầu kéo”.
-Lạm phát do chi phí đẩy:
Chi phí đẩy của các doanh nghiệp bao gồm tiền lương, giá cả nguyên liệu đầu vào, máy
móc, chi phí bảo hiểm cho công nhân, thuế Khi giá cả của một hoặc vài yếu tố này tăng
lên thì tổng chi phí sản xuất của các xí nghiệp chắc chắn cũng tăng lên, vì thế mà giá
thành sản phẩm cũng sẽ tăng lên nhằm bảo toàn lợi nhuận và thế là mức giá chung của
toàn thể nền kinh tế cũng sẽ tăng được gọi là “lạm phát do chi phí đẩy”.
- Lạm phát do cơ cấu:
Với ngành kinh doanh có hiệu quả, doanh nghiệp tăng dần tiền công “danh nghĩa” cho
người lao động. Nhưng cũng có những nhóm ngành kinh doanh không hiệu quả, doanh
nghiệp cũng theo xu thế đó buộc phải tăng tiền công cho người lao động. Nhưng vì
những doanh nghiệp này kinh doanh kém hiệu quả, nên khi phải tăng tiền công cho người
lao động, các doanh nghiệp này buộc phải tăng giá thành sản phẩm để đảm bảo mức lợi
nhuận và làm phát sinh lạm phát.
- Lạm phát do cầu thay đổi:

Khi thị trường giảm nhu cầu tiêu thụ về một mặt hàng nào đó, trong khi lượng cầu về
một mặt hàng khác lại tăng lên. Nếu thị trường có người cung cấp độc quyền và giá cả có
tính chất cứng nhắc phía dưới (chỉ có thể tăng mà không thể giảm, như giá điện ở Việt
Nam), thì mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn không giảm giá. Trong khi đó mặt hàng có
lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung tăng lên, dẫn đến lạm phát.
- Lạm phát do xuất khẩu:
Khi xuất khẩu tăng, dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung (thị trường tiêu thụ lượng
hàng nhiều hơn cung cấp), khi đó sản phẩm được thu gom cho xuất khẩu khiến lượng
hàng cung cho thị trường trong nước giảm (hút hàng trong nước) khiến tổng cung trong
nước thấp hơn tổng cầu. Khi tổng cung và tổng cầu mất cân bằng sẽ nảy sinh lạm phát.
- Lạm phát do nhập khẩu:
Khi giá hàng hóa nhập khẩu tăng (do thuế nhập khẩu tăng hoặc do giá cả trên thế giới
tăng) thì giá bán sản phẩm đó trong nước sẽ phải tăng lên. Khi mức giá chung bị giá nhập
khẩu đội lên sẽ hình thành lạm phát.
- Lạm phát tiền tệ:
Khi cung lượng tiền lưu hành trong nước tăng, chẳng hạn do ngân hàng trung ương
mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền trong nước khỏi mất giá so với ngoại tệ; hay do
ngân hàng trung ương mua công trái theo yêu cầu của nhà nước làm cho lượng tiền trong
lưu thông tăng lên cũng là nguyên nhân gây ra lạm phát.
3.Phân loại lạm phát
-Lạm phát vừa phải: là loại lạm phát mà tại thời điểm xảy ra, giá cả hàng hóa so với trước
không cao và tốc độ tăng chậm. Tỷ lệ lạm phát đo được dưới 10%,gọi là lạm pát ở mức
“một con số”.
Loại lạm phát này thường thấy ở các nước có nền kinh tế phát triển. Nguyên nhân của
loại lạm phát này có thể do:
*Hiện tượng kinh tế tự nhiên: sút giảm sản lượng nông nghiệp cục bộ, khắc phục hậu
quả thiên tai một vùng…
*Nhà nước điều chỉnh chỉ tiêu phát triển vĩ mô, như tăng lương, tăng giá thu mua nông
phẩm, khởi công những công trình quốc gia…
*Chính phủ duy trì mức độ lạm phát này với mục đích riêng.

-Lạm phát phi mã: là loại lạm phát mà tại thời điểm xảy ra giá cả hàng hóa tăng cao với
tốc độ nhanh so với trước. Tỷ lệ lạm phát này ở mức hai hoặc ba con số: từ 10%, 20%,
100% hoặc 200%.
Thông thường lạm phát phi mã có ảnh hưởng xấu đến sự phát triển kinh tế-xã hội. Nếu
không có biện pháp khắc phục kịp thời thì lạm phát này sẽ là cơ sở dẫn đến lạm phát cao
hơn.
-Siêu lạm phát: là loại lạm phát mà giá cả của tất cả các hàng hóa tăng cao gấp nhiều lần
lạm phát phi mã. Loại lạm phát này có tốc độ tăng rất nhanh, liên tục và không thể kiềm
chế được.
Loại lạm phát này ảnh hưởng xấu đến sự phát triển kinh tế xã hội. Nó phá vỡ hầu hết
các quan hệ cân đối kinh tế quốc dân. Nếu không có những giải pháp đột phá thì không
thể khắc phục được tình trạng siêu lạm phát này
4.Tác động của lạm phát
Lạm phát có nhiều loại,cho nên cũng có nhiều mức độ ảnh hưởng của
lạm phát đối với nền kinh tế .Xét trên góc độ tương quan ,trong một nền
kinh tế lạm phát là một nỗi lo của toàn xă hội và ta cũng thấy được các
tác động của nă .
4.1.Tác động đến lĩnh vực sản xuất
Ở vị trí các nhà sản xuất, khi tỷ lệ lạm phát cao sẽ làm cho giá đầu vào và đầu ra biến
động không ngừng gây ra sự ổn định giả tạo của quá tŕnh sản xuất. Sự mất giá của đồng
tiền làm cho vô hiệu hoá hoạt động hoạch toán kinh doanh. Hiệu quả sản xuất – kinh
doanh ở một vài doanh nghiệp có thể thay đổi gây ra những biến động về kinh tế. Nếu
một doanh nghiệp nào đó có tỷ xuất lợi nhuận thấp hơn lạm phát sẽ có nguy cơ phá sản
rất lớn.
4.2.Đối với lĩnh vực lưu thông
Lạm phát tăng lên cao thúc đẩy quá tŕnh đầu cơ tích trữ dẫn đến khan
hiếm hàng hoá .Lúc này những người thừa tiền và giàu có dùng tiền của
ḿnh để vơ vét và thu gom hàng hoá ,tài sản ,tình trạng này càng làm
mất cân đối nghiêm trọng quan hệ cung – cầu hàng hoá trên thị trường
giá cả hàng hoá tăng lên nhiều hơn .

Ngoài ra khi tỷ lệ lạm phát khó phán đoán thì việc đầu tư vốn vào lĩnh vực sản xuất sẽ
gặp phải những rủi ro cao .Do có nhiều người tham gia vào lĩnh vực lưu thông lên lĩnh
vực này trở lên hỗn loạn .Tiền vừa ở trong tay người bán hàng xong lại nhanh chóng bị
đẩy vào kênh lưu thông ,tốc đọ lưu thông tiền tệ tăng vọt và điều này làm thúc đẩy lạm
phát gia tăng .
4.3.Đối với lĩnh vực tiền tệ ,tín dụng:
Lạm phát làm cho quan hệ tín dụng ,thương mại và ngân hàng bị thu hẹp .Số tiền
người gửi tiền vào ngân hàng giảm đi rất nhiều do giá trị đồng tiền bị giảm xuống .Về
phía hệ thống ngân hàng ,do lượng tiền gửi vào ngân hàng giảm mạnh nên không đáp ứng
được nhu cầu của người đi vay ,cộng với việc sụt giá quá nhanh của đồng tiền ,sự điều
chỉnh lăi suất tiền gửi không làm an tâm những cá nhân, doanh nghiệp hiện đang có
lượng tiền mặt nhàn rỗi trong tay. Như vậy ngân hàng gặp khó khăn trong việc huy động
vốn, hệ thống ngân hàng phải luôn cố gắng duy trì mức lăi suất ổn định. Mà lăi suất thực
bằng lăi suất danh nghĩa – tỷ lệ lạm phát, khi tỷ lệ lạm phát tăng cao, muốn lăi suất thực
ổn định thì lăi suất danh nghĩa phải tăng lên cùng với tỷ lệ lạm phát .
Trong khi đó người đi vay là những người có lợi lớn nhờ sự mất giá đồng tiền nhanh
chóng. Do vậy hoạt động của hệ thống Ngân hàng không còn bình thường nữa. Chức
năng kinh doanh tiền tệ bị hạn chế, không còn nguyên vẹn bởi khi có lạm phát chẳng có
ai tích trữ tiền mặt dưới hình thức tiền mặt.
5.Các chỉ tiêu đo lường
Lạm phát 1 được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi trong giá cả của một lượng
lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế (thông thường dựa trên dữ liệu được
thu thập bởi các tổ chức Nhà nước, mặc dù các liên đoàn lao động và các tạp chí kinh
doanh cũng làm việc này). Nhiều mặt hàng của các loại hàng hóa và dịch vụ được tổ hợp
với nhau để đưa ra một mức giá cả trung bình, gọi là mức giá trung bình của một tập hợp
các sản phẩm. Chỉ số giá cả là tỷ lệ mức giá trung bình ở thời điểm hiện tại đối với mức
giá trung bình của nhóm hàng tương ứng ở thời điểm gốc. Tỷ lệ lạm phát thể hiện qua chỉ
số giá cả là tỷ lệ phần trăm mức tăng của mức giá trung bình hiện tại so với mức giá
trung bình ở thời điểm gốc. Để dễ hình dung có thể coi mức giá cả như là phép đo kích
thước của một quả cầu, lạm phát sẽ là độ tăng kích thước của nó.

Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất chỉ số lạm phát, vì giá trị của chỉ số này
phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa trong chỉ số, cũng như phụ
thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được thực hiện. Các phép đo phổ biến của chỉ
số lạm phát bao gồm:
* Chỉ số giá sinh hoạt (viết tắt tiếng Anh: CLI) là sự tăng trên lý thuyết giá cả sinh
hoạt của một cá nhân so với thu nhập, trong đó các chỉ số giá tiêu dùng (CPI) được giả
định một cách xấp xỉ. Các nhà kinh tế học tranh luận với nhau là có hay không việc một
CPI có thể cao hơn hay thấp hơn so với CLI dự tính. Điều này được xem như là "sự thiên
lệch" trong phạm vi CPI. CLI có thể được điều chỉnh bởi "sự ngang giá sức mua" để phản
ánh những khác biệt trong giá cả của đất đai hay các hàng hóa khác trong khu vực (chúng
dao động một cách rất lớn từ giá cả thế giới nói chung).
* Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) đo giá cả các hàng hóa hay được mua bởi "người tiêu
dùng thông thường" một cách có lựa chọn. Trong nhiều quốc gia công nghiệp, những sự
thay đổi theo phần trăm hàng năm trong các chỉ số này là con số lạm phát thông thường
hay được nhắc tới. Các phép đo này thường được sử dụng trong việc chuyển trả lương, do
những người lao động mong muốn có khoản chi trả (danh định) tăng ít nhất là bằng hoặc
cao hơn tỷ lệ tăng của CPI. Đôi khi, các hợp đồng lao động có tính đến các điều chỉnh giá
cả sinh hoạt, nó ngụ ý là khoản chi trả danh định sẽ tự động tăng lên theo sự tăng của
CPI, thông thường với một tỷ lệ chậm hơn so với lạm phát thực tế (và cũng chỉ sau khi
lạm phát đã xảy ra).
* Chỉ số giá sản xuất (PPI) đo mức giá mà các nhà sản xuất nhận được không tính đến
giá bổ sung qua đại lý hoặc thuế doanh thu. Nó khác với CPI là sự trợ cấp giá, lợi nhuận
và thuế có thể sinh ra một điều là giá trị nhận được bởi các nhà sản xuất là không bằng
với những gì người tiêu dùng đã thanh toán. Ở đây cũng có một sự chậm trễ điển hình
giữa sự tăng trong PPI và bất kỳ sự tăng phát sinh nào bởi nó trong CPI. Rất nhiều người
tin rằng điều này cho phép một dự đoán gần đúng và có khuynh hướng của lạm phát CPI
"ngày mai" dựa trên lạm phát PPI ngày "hôm nay", mặc dù thành phần của các chỉ số là
khác nhau; một trong những sự khác biệt quan trọng phải tính đến là các dịch vụ.
* Chỉ số giá bán buôn đo sự thay đổi trong giá cả các hàng hóa bán buôn (thông
thường là trước khi bán có thuế) một cách có lựa chọn. Chỉ số này rất giống với PPI.

* Chỉ số giá hàng hóa đo sự thay đổi trong giá cả của các hàng hóa một cách có lựa
chọn. Trong trường hợp bản vị vàng thì hàng hóa duy nhất được sử dụng là vàng. Khi
nước Mỹ sử dụng bản vị lưỡng kim thì chỉ số này bao gồm cả vàng và bạc.
* Chỉ số giảm phát GDP dựa trên việc tính toán của tổng sản phẩm quốc nội: Nó là tỷ
lệ của tổng giá trị GDP giá thực tế (GDP danh định) với tổng giá trị GDP của năm gốc, từ
đó có thể xác định GDP của năm báo cáo theo giá so sánh hay GDP thực). (Xem thêm
Thực và danh định trong kinh tế). Nó là phép đo mức giá cả được sử dụng rộng rãi nhất.
Các phép khử lạm phát cũng tính toán các thành phần của GDP như chi phí tiêu dùng cá
nhân. Tại Mỹ, Cục Dự trữ Liên bang đã chuyển sang sử dụng khử lạm phát tiêu dùng cá
nhân và các phép khử lạm phát khác để tính toán các chính sách kiềm chế lạm phát của
mình.
* Chỉ số giá chi phí tiêu dùng cá nhân (PCEPI). Trong "Báo cáo chính sách tiền tệ
cho Quốc hội" sáu tháng một lần ("Báo cáo Humphrey-Hawkins") ngày 17 tháng 2 năm
2000, Federal Open Market Committee (FOMC) nói rằng ủy ban này đã thay đổi thước
đo cơ bản về lạm phát của mình từ CPI sang
“chỉ số giá cả dạng chuỗi của các chi
phí tiêu dung cá nhân”
Không có tiêu chí chính xác tỷ lệ lạm phát bao nhiêu phần trăm một năm trở xuống thì
được coi là thiểu phát. Một số tài liệu kinh tế học cho rằng tỷ lệ lạm phát ở mức 3-4 phần
trăm một năm trở xuống được gọi là thiểu phát. Tuy nhiên, ở những nước mà cơ quan
quản lý tiền tệ (ngân hàng trung ương) rất không ưa lạm phát như Đức và Nhật Bản, thì
tỷ lệ lạm phát 3-4 phần trăm một năm được cho là hoàn toàn trung bình, chứ chưa phải
thấp đến mức được coi là thiểu phát.
6.Hậu quả của lạm phát
6.1.Đối với lạm phát dự kiến được
Trong trường hợp lạm phát có thể được dự kiến trước thì các thực thể tham gia vào nền
kinh tế có thể chủ động ứng phó với nó, tuy vậy nó vẫn gây ra những tổn thất cho xã hội:
* Chi phí da giày: lạm phát giống như một thứ thuế đánh vào người giữ tiền và lãi suất
danh nghĩa bằng lãi suất thực tế cộng với tỷ lệ lạm phát nên lạm phát làm cho người ta
giữ ít tiềhay làm giảm cầu về tiền. Khi đó họ cần phải thường xuyên đến ngân hàng để rút

tiền hơn. Các nhà kinh tế đã dùng thuật ngữ "chi phí mòn giày" để chỉ những tổn thất
phát sinh do sự bất tiện cũng như thời gian tiêu tốn mà người ta phải hứng chịu nhiều hơn
so với không có lạm phát.
* Chi phí thực đơn: lạm phát thường sẽ dẫn đến giá cả tăng lên, các doanh nghiệp sẽ
mất thêm chi phí để in ấn, phát hành bảng giá sản phẩm.
* Làm thay đổi giá tương đối một cách không mong muốn: trong trường hợp do lạm
phát doanh nghiệp này tăng giá (và đương nhiên phát sinh chi phí thực đơn) còn doanh
nghiệp khác lại không tăng giá do không muốn phát sinh chi phí thực đơn thì giá cả của
doanh nghiệp giữ nguyên giá sẽ trở nên rẻ tương đối so với doanh nghiệp tăng giá. Do
nền kinh tế thị trường phân bổ nguồn lực dựa trên giá tương đối nên lạm phát đã dẫn đến
tình trạng kém hiệu quả xét trên góc độ vi mô.
* Lạm phát có thể làm thay đổi nghĩa vụ nộp thuế của các cá nhân trái với ý muốn của
người làm luật do một số luật thuế không tính đến ảnh hưởng của lạm phát. Ví dụ: trong
trường hợp thu nhập thực tế của cá nhân không thay đổi nhưng thu nhập danh nghĩa tăng
do lạm phát thì cá nhân phải nộp thuế thu nhập trên cả phần chênh lệch giữa thu nhập
danh nghĩa và thu nhập thực tế.
* Lạm phát gây ra sự nhầm lẫn, bất tiện: đồng tiền được sử dụng để làm thước đo trong
tính toán các giao dịch kinh tế, khi có lạm phát cái thước này co giãn và vì vậy các cá
nhân khó khăn hơn trong việc ra các quyết định của mình.
6.2. Đối với lạm phát không dự kiến được
Đây là loại lạm phát gây ra nhiều tổn thất nhất vì nó phân phối lại của cải giữa các cá
nhân một cách độc đoán. Các hợp đồng, cam kết tín dụng thường được lập trên lãi suất
danh nghĩa khi lạm phát cao hơn dự kiến người đi vay được hưởng lợi còn người cho vay
bị thiệt hại, khi lạm phát thấp hơn dự kiến người cho vay sẽ được lợi còn người đi vay
chịu thiệt hại. Lạm phát không dự kiến thường ở mức cao hoặc siêu lạm phát nên tác
động của nó rất lớn.
Các nhà kinh tế có quan điểm rất khác nhau về quy mô của các tác động tiêu cực của
lạm phát, thậm chí nhiều nhà kinh tế cho rằng tổn thất do lạm phát gây ra là không đáng
kể và điều này được coi là đúng khi tỷ lệ lạm phát ổn định và ở mức vừa phải. Khi lạm
phát biến động mạnh, tác động xã hội của nó thông qua việc phân phối lại của cải giữa

các cá nhân một cách độc đoán rõ ràng là rất lớn và do vậy chính phủ của tất cả các nước
đều tìm cách chống lại loại lạm phát này.
7.Các biện pháp kiềm chê lạm phát
Để kiềm chế lạm phát thì dù chính sách tiền tệ hay chính sách tài khóa cũng nhằm vào
hai mục tiêu chung đó là: Giảm bớt lượng tiền trong lưu thông và gia tăng cung cấp hàng
hóa dịch vụ trong xã hội. Với mỗi mục tiêu trên thì mỗi chính sách đều có những công cụ
sử dụng riêng để thực hiện tốt hai mục tiêu trên.
7.1.mục tiêu giảm bớt lượng tiền trong lưu thông
+ Đối với chính sách tiền tệ:
Để giảm bớt lượng tiền vào lưu thông thì chính sách tiền tệ cần đưa gia một số giải
pháp sau:
• Ngừng phát hành tiền vào trong lưu thông nhằm giảm lượng tiền đưa vào lưu thông
trong xã hội
• Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc: Đây là biện pháp nhằm giảm lượng cung tiền vào thị
trường. Biện pháp này tác động đến tất cả các ngân hàng và bình đằng giữa các ngân
hàng với nhau.
• Nâng lãi suất tái chiết khấu và lãi suất tiền gửi: Biện pháp này sẽ làm hạn chế các
ngân hàng thương mại mang các giấy tờ có giá đến ngân hàng nhà nước để chiết khấu.
Ngoài ra việc nâng lãi suất tiền gửi sẽ hút khiến người dân gửi tiền vào ngân hàng nhiều
hơn.
• Ngân hàng trung ướng áp dụng nghiệp vụ thị trường mở nhằm bán các chứng từ có
giá cho các ngân hàng thương mại.
• Ngân hàng trung ương bán vàng và ngoại tệ cho các ngân hàng thương mại.

+ Đối với chính sách tài khóa:
Để giảm bớt lượng tiền trong lưu thông thì bộ tài chính cần đưa ra một số giải pháp sau:
• Giảm chi ngân sách: Đó là giảm chi tiêu thường xuyên và cắt giảm đầu tư công.
• Tăng tiền thuế tiêu dùng nhằm giảm bớt nhu cầu chi tiêu cá nhân trong xã hội
7.2.Mục tiêu gia tăng hàng hóa dịch vụ cung cấp trong xã hội.
+ Đối với chính sách tiền tệ

Để thúc đẩy sản xuất và dịch vụ trong xã hội thì chính sách tiền tệ cần đưa ra một số
giải pháp sau:
Đưa ra chính sách ưu đãi tín dụng thông qua ưu đãi lãi suất đối với các đối tượng hoạt
động trong lĩnh vực sản xuất. Việc ưu đãi về lãi suất sẽ làm giảm chi phí sản xuất đầu vào
vì vậy tăng năng suất lao động.
+ Đối với chính sách tài khóa
Để thúc đẩy sản xuất và dịch vụ trong xã hội thì bộ tài chính cấn đưa ra một số giải
pháp sau:
Bộ tài chính chỉ đạo tổng cục thuế giảm thuế đầu tư, thuế nhập khẩu nguyên vật liệu và
máy móc thiết bị và thuế thu nhập doanh nghiệp. Từ đó làm giảm bớt chi phí đầu vào lên
làm tăng năng suất lao động.
7.3.Một số giải pháp kiềm chế lạm phát của nước ta hiện tại trọng nghị quyết 11.
Trong thời gian tới chính phủ thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ và chính sách tài
khóa thận trọng và thắt chặt cụ thể như sau:
+ Đối với chính sách tiền tệ:
• Quy định tốc độ tăng trưởng tín dụng phải giữ ở mức dưới 20%
• Trong tổng phương tiện thanh toán tăng khoảng 15 -16% và ưu tiên cho việc phát
triển nông nghiệp nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ và khối doanh nghiệp nhỏ và
vừa.
• Thắt chặt tín dụng đối với lĩnh vực phi sản xuất đặc biệt là bất động sản và chứng
khoán. Ngoài ra còn giảm tỷ lệ dư nợ đối với lĩnh vực này
• Đưa ra chính sách bình ổn thị trườn ngoại tệ và vàng nhằm đáp ứng nhu cầu sản xuất
kinh doanh và tăng dự trữ ngoại hối. Hiện nay chính phủ đang cầm giao dịch mua bán
ngoại tệ tại thị trường
tự do và cấm các cửa hàng vàng cá nhân giao dịch mua bán vàng miếng.
+ Đối với chính sách tài khóa:
• Phấn đấu tăng thu ngân sách khoảng 7 – 8% so với dự toán đã được quốc hội thông
qua.
• Sắp xếp lại chi thường xuyên nhằm tiết kiệm thêm 10% chi thường xuyên trong 9
tháng còn lại.

• Cắt giảm bội chi ngân sách xuống dưới 5% GDP.
• Giám sát chặt chẽ và rà soát lại nợ chính phủ, quốc gia và không mở rộng đối tượng
được chính phủ bảo lãnh.
• Đối với đầu tư công: Chính phủ quyết định cắt giảm tối thiểu 10% lượng vốn theo kế
hoạch tín dụng đầu tư từ ngân sách.
II/Tình trạng lạm phát ở Việt Nam hiện nay
1.Tổng quát về tình hình lạm phát từ năm 1986 đến năm 2011
Giai đoạn 1986-1990, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 4,4%/năm, đây là giai đoạn
chuyển đổi cơ bản cơ chế quản lý cũ sang cơ chế quản lý mới, thực hiện một bước quá
trình đổi mới đời sống kinh tế - xã hội và giải phóng sức sản xuất.
Giai đoạn 1991-1995, nền kinh tế khắc phục được tình trạng trì trệ, suy thoái, đạt tốc độ
tăng trưởng bình quân 8,2%, đất nước ra khỏi thời kỳ khủng hoảng kinh tế, bắt đầu đẩy
mạnh CNH - HĐH đất nước.
Giai đoạn 1996-2000, là bước phát triển quan trọng của thời kỳ mới, đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước, mặc dù chịu tác động của khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực cùng
thiên tai nghiêm trọng xảy ra liên tiếp Việt Nam vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng bình
quân khoảng 7%/năm.
Giai đoạn 2000-2005, nền kinh tế đạt được tốc độ tăng trưởng cao, liên tục, tốc độ tăng
trưởng bình quân đạt 7,2%/năm, GDP theo giá hiện hành đạt 838 nghìn tỷ đồng, thu nhập
bình quân đầu người/năm đạt trên 10 triệu đồng, tương đương với 640 USD.
Giai đoạn 2005-2010, tốc độ tăng trưởng bình quân 7,33%, dù khủng hoảng tài chính
và suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng Việt Nam vẫn thu hút vốn đầu tư nước ngoài cao,
GDP bình quân đầu người năm 2010 đạt 1.168 USD.
Năm 2011, tốc độ tăng trưởng kinh tế là 5,89%; giảm sút chủ yếu do giảm sút của khu
vực công nghiệp, xây dựng và dịch vụ.
2.Tình hình tăng trường của Việt Nam giai đoạn 1990-2011
Diễn biến lạm phát trong thời gian này phức tạp hơn; từ năm 1986 - 2011, 2 năm lạm
phát giảm sút (2000 và 2001); 7 năm lạm phát 1 chữ số; 14 năm lạm phát 2 chữ số, 3 năm
lạm phát tăng 3 chữ số.
Giai đoạn 1986-1991: lạm phát phi mã, là những năm đổi mới 1986-1988, lạm phát ở

mức 03 con số; nguyên nhân chủ yếu là do kinh tế bị khủng hoảng, tăng trưởng thấp, làm
cho thị trường bị thiếu cung, tiền nhiều hơn hàng.
Giai đoạn 1992-1995: lạm phát còn cao, nhưng đã thấp hơn nhiều so với thời kỳ trước;
nguyên nhân chủ yếu do cung đã tăng, lương thực vượt nhu cầu trong nước, xuất khẩu
với khối lượng lớn; Chính phủ đưa ra phương châm: ngân sách thì thu lấy mà chi; ngân
hàng thì vay lấy mà cho vay, có nghĩa là Nhà nước không phát hành tiền cho bội chi ngân
sách và bội chi tiền mặt.
Giai đoạn 1996-2003: được coi là thiểu phát, khi CPI tăng rất thấp; mặc dù năm 1998
tăng cao 9,2% do tác động của khủng hoảng khu vực. Nhìn chung, cả thời kỳ này có 3
năm, trong đó có 1 năm giảm, 2 năm tăng thấp.
Giai đoạn 2004-2010: là thời kỳ lạm phát cao trở lại, gần như lặp đi lặp lại, cứ 2 năm
tăng cao mới có 1 năm tăng thấp hơn: năm 2004 tăng 9,5%, năm 2005 tăng 8,4%, thì năm
2006 chỉ tăng 6,6%; năm 2007 tăng 12,63%, năm 2008 tăng 19,89%, năm 2009 chỉ tăng
6,52%; đến năm 2010 tăng 11,75%; năm 2011, tỷ lệ lạm phát 18,13%.
Như vậy, từ năm 2007 đến nay, lạm phát có chiều hướng mất ổn định hơn và biểu hiện
tính chu kì. Chu kì này vào khoảng 3 năm khi tỷ lệ lạm phát đã lên đến đỉnh điểm vào
tháng 8/2008 (28,23%) và tháng 8/2011 (23,02%).
3.Diễn biến lạm phát Việt Nam từ năm 2007-2012
Như vậy, trong 26 năm đổi mới và mở cửa kinh tế, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu trung
bình của Việt Nam trên 20%, là nhân tố quan trọng giúp Việt Nam duy trì tốc độ tăng
trưởng một thời gian dài đạt mức trung bình gần 7%/năm. Việt Nam đang ở giai đoạn
nước rút nhằm tạo lập vốn cho nền kinh tế với tốc độ đầu tư không ngừng tăng lên. Nếu
năm 1990, tỷ lệ đầu tư của nền kinh tế trong GDP là 12,6%/năm, thì năm 1995 đạt 27,1%
GDP, năm 2000 đạt 29,6% GDP, năm 2005 đạt 35,6% GDP và năm 2007 đạt kỷ lục
41,7% GDP; tốc độ tăng trưởng nhập khẩu hàng năm duy trì ở mức cao, trung bình đạt
19,2%.
Năm 2007, chỉ số CPI tăng đến 12.6% và đặc biệt tăng cao vào những tháng cuối năm.
Năm 2008 là một năm đáng nhớ đối với kinh tế vĩ mô cũng như tình hình lạm phát ở
Việt Nam. CPI đã liên tục tăng cao từ đầu năm, và mức cao nhất của CPI tính theo năm
của năm 2008 đã lên đến 30%. Kết thúc năm 2008, chỉ số CPI tăng 19.89%, tính theo

Năm 2009, suy thoái của kinh tế thế giới khiến sức cầu suy giảm, giá nhiều hàng hóa
cũng xuống mức khá thấp, lạm phát trong nước được khống chế. CPI năm 2009 tăng
6.52%, thấp hơn đáng kể so với những năm gần đây. Tuy vậy, mức tăng này nếu so với
các quốc gia trong khu vực và trên thế giới lại cao hơn khá nhiều.
Năm 2010, chính phủ đặt mục tiêu kiểm soát CPI cuối kỳ khoảng 7%. Mục tiêu này có
thể không được hoàn thành khi 2 tháng đầu năm CPI đã tăng 3.35%. Ngoài ra, nền kinh
tế hiện nay vẫn còn tiềm ẩn nhiều yếu tố có thể dẫn đến lạm phát cao trong những tháng
sắp tới.
Trong năm 2010 sau dịp tết nguyên đán giá nhiều mặt hàng cơ bản đã được điều chỉnh
tăng. Giá điện tăng 6.8% từ 01/3/2010, giá xăng dầu điều chỉnh tăng 6.5% (tổng cộng 2
lần), than bán cho ngành điện tăng từ 28 – 47%. Phần lớn ý kiến đều quan ngại việc tăng
giá điện và các hàng hóa cơ bản này sẽ ảnh hưởng mạnh đến giá cả hàng hóa trong toàn
bộ nền kinh tế và mức tăng trưởng GDP.
Một số ngành công nghiệp với chi phí tiền điện cao (chiếm 30 - 40% giá thành) như cấp
nước, điện phân… giá đầu ra sản phẩm tăng thêm khoảng 2.83 – 3.5%. Những ngành sản
xuất thâm dụng năng lượng khác như cán thép, xi măng giá thành tăng thêm khoảng 0.20
– 0.69%. Tổng hợp chi phí tiêu dùng cuối cùng chỉ tăng từ 0.19 – 0.27%.
Thực tế, ước lượng mức độ tác động thực sự của việc tăng giá hàng hóa cơ bản này đến
CPI là việc làm khó khăn. Việc tăng giá điện, xăng dầu ngoài ảnh hưởng đến chi phí sản
xuất, còn tác động lên kỳ vọng của người tiêu dùng. Nếu kỳ vọng về mức lạm phát cao
trong tương lai thì mức lạm phát thực tế càng trở nên trầm trọng. Điều này thường xảy ra
đối với những nền kinh tế mà cơ chế thị trường kém hiệu quả.
Thâm hụt thương mại trong giai đoạn trước 2007 chủ yếu được bù đắp bởi thặng dư
hạng mục vốn trên cán cân thanh toán quốc tế nhờ tăng trưởng đầu tư trực tiếp và gián
tiếp. Năm 2010, thâm hụt cán cân thương mại Việt Nam ước tính là 12,4 tỉ USD thấp hơn
nhiều so với mức thâm hụt thương mại hơn 14 tỉ USD của năm 2007 và 2008, tốc độ tăng
trưởng giải ngân vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp nước ngoài giảm mạnh dưới tác động
của khủng hoảng kinh tế thế giới là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới việc suy giảm và thâm
hụt cán cân tổng thể trong giai đoạn từ 2008 - 2010. Dự trữ ngoại hối chính thức giảm
mạnh dưới tác động của thâm hụt cán cân tổng thể gây áp lực trực tiếp lên phá giá tiền

đồng và gây nên tác động tăng giá kép ở Việt Nam.
Nhìn lại năm 2011, tỷ lệ lạm phát là 18,13%. Theo nghiên cứu của các nhà kinh tế học
thế giới, năm 2011 Việt Nam đã vượt ngưỡng lạm phát và sẽ có tác động tiêu cực đến
tăng trưởng.
Theo các số liệu chính thức do nhà nước công bố, tính tới tháng 2/2012, mức lạm phát
tại Việt Nam đã giảm trong sáu tháng liền và đây là mức thấp nhất trong gần một năm.
Tại một bè nuôi sò ở Vịnh Bái Tử Long. Lạm phát vẫn còn là một vấn đề lớn của nền
kinh tế Việt Nam.
Các số liệu thống kê công bố hôm thứ Sáu 24/2 cho thấy chỉ số giá tiêu dùng trong
tháng Hai năm nay so với năm ngoái tăng 16,44%. Chỉ số này vẫn còn rất cao nhưng đây
là mức thấp nhất trong 11 tháng.
Lạm phát Việt Nam lên tới cao điểm là 23% hồi tháng 8/2011, khiến cho nước này bị
liệt vào hàng những nước có lạm phát cao nhất thế giới.
Việt Nam đã tái tập trung nỗ lực từ việc tăng trưởng kinh tế sang việc bình ổn để đối
phó với nạn giá cả tăng và những thách thức khác, kể cả việc giảm bớt dự trữ ngoại tệ,
thâm thủng thương mại và áp lực đối với đồng bạc Việt Nam.
Trong năm 2011, chỉ tiêu tăng trưởng kinh tế của Việt Nam do chính phủ đặt ra cho
năm 2011 là 6% nhưng nó đã giảm xuống ở mức 5,9%.
Hà Nội cho biết chỉ tiêu tăng trưởng GDP trong năm 2012 là ở mức từ 6 tới 6,5%.
Như nhiều quốc gia đang phát triển khác, sau thời kỳ phát triển rầm rộ hồi năm 2006,
2007 và 2008, thị trường bất động sản tại Việt Nam nay đã hạ giảm rất nhiều. So với năm
20011, giá bất động sản tại nhiều nơi ở Việt Nam giảm tới 30% và nhiều văn phòng, nhà
cửa, hộ cao cấp không có người thuê mướn.
Trong báo cáo Quốc hội khóa XIII (kỳ họp thứ 2), Chính phủ đã khẳng định: “Nguyên
nhân chủ yếu gây lạm phát cao ở nước ta là do hệ quả của việc nới lỏng chính sách tiền
tệ, tài khóa kéo dài trong nhiều năm để đáp ứng yêu cầu đầu tư phát triển, bảo đảm an
sinh xã hội, và phúc lợi xã hội trong khi cơ cấu kinh tế, cơ cấu đầu tư còn kém hiệu quả,
cùng những hạn chế trong quản lý điều hành và tác động cộng hưởng của các yếu tố tâm
lý”. Và đã đưa ra mục tiêu: "Kiềm chế lạm phát là ưu tiên số một, khi có điều kiện thuận
lợi sẽ phấn đấu để đạt mức tăng trưởng cao hơn" trong mục tiêu của năm 2012 và kế

hoạch 5 năm 2011 – 2015
Biện pháp tại kỳ họp thứ II, Quốc hội khóa 13, Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn
Dũng nêu rõ: Mục tiêu tổng quát của năm 2012 là ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định
kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng và
cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh; bảo đảm phúc lợi
xã hội, an sinh xã hội và cải thiện đời sống nhân dân; giữ vững ổn định chính trị, củng cố
quốc phòng, bảo đảm an ninh, trật tự an toàn xã hội; nâng cao hiệu quả công tác đối
ngoại và hội nhập quốc tế. Chỉ tiêu lạm phát năm 2012, phấn đấu kiềm chế lạm phát dưới
10%, các năm sau thấp hơn, đến năm 2015 lạm phát khoảng 5-7%. Chỉ tiêu tăng tổng sản
phẩm trong nước (GDP) năm 2012 tăng GDP khoảng 6-6,5% (trong giai đoạn 5 năm
2011-2015, tăng trưởng GDP bình quân khoảng 6,5-7%, phấn đấu đạt 7%); bội chi ngân
sách nhà nước bằng 4,8% GDP, các năm sau giảm dần để đến năm 2015 giảm xuống còn
4,5%; đến năm 2015, nợ công khoảng 60-65% GDP; tổng kim ngạch xuất khẩu năm
2012 dự kiến tăng khoảng 12-13% so với năm 2011; nhập siêu 11,5-12% tổng kim ngạch
xuất khẩu (phấn đấu đến năm 2015, nhập siêu khoảng 10%); tổng vốn đầu tư phát triển
toàn xã hội năm 2012 bằng khoảng 33,5-34% GDP, bình quân 5 năm 33,5-35% GDP.
Đồng thời, đưa 7 nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu: năm 2012, nhiệm vụ đầu tiên và quan
trọng nhất vẫn là tập trung ưu tiên kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo các
cân đối lớn của nền kinh tế, phấn đấu giảm bội chi ngân sách và phải xác định là nền tảng
quan trọng cho việc thực hiện nhiệm vụ trong cả giai đoạn 2011-2015. Trong năm 2012
và các năm tới, ưu tiên nguồn lực thực hiện ba đột phá chiến lược và tái cơ cấu nền kinh
tế, đổi mới mô hình tăng trưởng theo hướng nâng cao hiệu quả và khả năng cạnh tranh;
năm 2012 cần tập trung vào 3 lĩnh vực trọng tâm là tái cơ cấu đầu tư, trước hết là đầu tư
công; tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước, trọng tâm là các tập đoàn và tổng công ty; tái cơ
cấu hệ thống tài chính tiền tệ, trọng tâm là hệ thống ngân hàng thương mại và các định
chế tài chính;
Các giải pháp liên quan đến chính sách tiền tệ, trong thời gian tới sẽ kiểm soát chặt chẽ
nợ xấu, bảo đảm thanh khoản và an toàn hệ thống ngân hàng thương mại; thiết lập trật tự
kỷ cương trong việc sử dụng ngoại tệ; quản lý có hiệu quả thị trường bất động sản, chứng
khoán, vàng và ngoại hối. Tiếp tục đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá và sắp xếp lại các

DNNN; rà soát đánh giá toàn diện hiệu quả hoạt động của các tập đoàn kinh tế và tổng
công ty; kiên quyết thực hiện thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp mà Nhà nước
không cần chi phối; thực hiện công khai kết quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước.
Ba nội dung tái cấu trúc phải được thực hiện đồng bộ với các chính sách tài khóa tiền tệ
đúng đắn cùng với việc thực hiện 3 khâu đột phá: tạo lập mới môi trường cạnh tranh bình
đẳng và cải cách hành chính; phát triển nhanh nguồn nhân lực nhất là nguồn nhân lực
chất lượng cao; đẩy mạnh phát triển khoa học công nghệ và tăng cường bảo vệ, cải thiện
môi trường, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước và tăng cường công tác phòng
chống tham nhũng…
Mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp của Chính phủ đưa ra trong khi chúng ta đang siết
chặt tín dụng, thực hiện một loạt chính sách tài chính, thực sự là thách thức lớn đối với
Việt Nam. Tuy nhiên, kết quả đạt được cuối năm 2011, nhất là 6 tháng đầu năm 2012, đã
cho thấy kinh tế Việt Nam đã có dấu hiệu khởi sắc và bắt đầu có tăng trưởng vững chắc.
CPI trong 6 tháng đầu năm 2012 đã ở mức thấp, nếu không có biến cố gì xảy ra thì CPI
cả năm chỉ ở mức 7-8% và sang năm tới còn có thể xuống nữa. Về tăng trưởng chúng ta
khả năng duy trì được ở mức 6%, đem lại niềm tin về sự ổn định kinh tế vĩ mô. Chỉ số
tồn kho có xu hướng giảm dần, từ 34,9% trong tháng 3 giảm xuống lần lượt là 32,1% và
29,4% trong tháng 4 và tháng 5, đến tháng 6 giảm xuống 26% so với cùng thời điểm năm
trước. Sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản phát triển tương đối ổn định. Giá trị sản xuất
toàn ngành ước tăng 3,8%, trong đó nông nghiệp tăng 3%, lâm nghiệp tăng 5,7%, thủy
sản tăng 5,8%. Khu vực dịch vụ tiếp tục phát triển khá. Tổng mức lưu chuyển hàng hóa
bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng 6 tháng đầu năm 2012 ước tăng 19,5% so với cùng
kỳ năm 2011. Hoạt động du lịch tiếp tục diễn ra sôi động, 6 tháng đầu năm 2012, khách
du lịch quốc tế đến Việt Nam ước trên 3,36 triệu lượt, tăng 13,9% so với cùng kỳ năm
2011. Trong 6 tháng đầu năm 2012, đã giải quyết việc làm cho khoảng 735.000 lao động,
tăng 1,5% so với cùng kỳ năm 2011, đạt 45,9% chỉ tiêu kế hoạch năm.
Dấu hiệu phục hồi còn được biểu hiện các góc độ khác nhau, như: tăng trưởng GDP
của quý II với tốc độ cao hơn quý I (4,66% so với 4%); nhóm ngành công nghiệp - xây
dựng tăng 4,52% so với 2,94% và nhóm ngành dịch vụ tăng 5,83% so với 5,31%); ngành
công nghiệp nếu quý I tăng 4,03% thì quý II đã tăng cao hơn, nên tính chung 6 tháng đã

tăng 4,76%, trong đó ngành lớn nhất là công nghiệp chế biến tăng 3,85% so với tăng
3,04%; lãi suất huy động đã giảm nhanh từ 14% xuống còn 9%; nhập siêu giảm về kim
ngạch tuyệt đối, cả về tỷ lệ nhập siêu, đã góp phần cải thiện cán cân thanh toán, tăng dự
trữ ngoái hối, ổn định tỷ giá (6 tháng đã giảm 0,8%); giá vàng giảm (6 tháng giảm
7,51%).
Lạm phát đã được kiềm chế, kinh tế vĩ mô bước đầu được ổn định, tăng trưởng kinh
tế đã có dấu hiệu thoát đáy vượt dốc đi lên. Đạt được kết quả trên do nhiều nguyên nhân.
Có nguyên nhân quan trọng về mặt điều hành. Mục tiêu ưu tiên kiềm chế lạm phát đã
được đề ra sớm, việc thực hiện đã kiên trì, nhất quán và quyết liệt. Khi lạm phát đã được
kiềm chế, Chính phủ đã liên tục yêu cầu giảm lãi suất và đã ban hành Nghị quyết 13 về
những giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất, hỗ trợ thị trường, vừa để thực hiện mục
tiêu tăng trưởng hợp lý, vừa phù hợp với nguồn lực, vừa phù hợp với việc khẩu trương
đẩy mạnh cơ cấu lại, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, vừa tránh được việc lặp lại lạm
phát cao.
4.Các nguyên nhân dẫn đến lạm phát ở Việt Nam
(Vietstock) - Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 02/2010 được Tổng cục Thống kê
(TCTK) công bố tăng 1.96% so với tháng trước đó. Đây là mức tăng CPI cao nhất trong
vòng 17 tháng qua. Số liệu thống kê này cùng với quyết định điều chỉnh tỷ giá hối đoái,
giá xăng dầu, giá điện, nước, than… trong thời gian gần đây và áp lực tăng giá hàng hóa
sau dịp Tết Âm lịch đã khiến cho lo ngại về lạm phát một lần nữa được nhắc đến nhiều
hơn. Những lo ngại về việc tăng giá dây chuyền đẩy CPI năm 2010 lên mức cao không
phải là không có cơ sở. Tuy vậy, liệu đây có thực sự là một vấn đề đáng lo ngại hay
không, và lạm phát trong năm 2010 sẽ tăng đến mức nào?
4.1. Ảnh hưởng của việc điều chỉnh tỷ giá
Ngày 10/02, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) quyết định điều chỉnh tỷ giá liên ngân hàng
tăng thêm 3.3%, đưa mức trần tỷ giá chính thức lên 19,100 VND/USD. Nhiều nhận định
cũng quan ngại về việc điều chỉnh tỷ giá này sẽ ảnh hưởng tới đà tăng giá của hàng hóa
trong nước, vì tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hiện nay đã bằng khoảng 1.5 lần GDP.
Nhiều mặt hàng tiêu dùng thiết yếu của Việt Nam bị ảnh hưởng khá mạnh bởi tỷ giá. Vừa
qua một số hàng hóa như sữa, sắt thép… cũng điều chỉnh giá bán sau khi tỷ giá được điều

chỉnh. Hiện nay, nhiều nhận định còn cho rằng tỷ giá tiền đồng vẫn có khả năng tiếp tục
được điều chỉnh trong thời gian tới. Do vậy, đây cũng là một trong những nguyên nhân
rất đáng được quan tâm.
4.2.Hiệu ứng từ việc tăng lương tối thiểu
Năm 2010, mức lương cơ bản được điều chỉnh tăng khoảng 10-15%, tùy từng khu vực.
Việc tăng lương tối thiểu sẽ ảnh hưởng đến chi phí sản xuất của doanh nghiệp và ảnh
hưởng tới giá cả hàng hóa. Ngoài ra, việc tăng lương tối thiểu cũng có thể tạo ra một hiệu
ứng tăng giá ăn theo trên thị trường.
4.3. Lạm phát do yếu tố cầu kéo
Lạm phát do cầu kéo xuất phát từ sự chênh lệch cung cầu làm cho giá hàng hóa biến
động mạnh. Khi nhu cầu tăng cao đột biến trong khi nguồn cung chưa kịp thay đổi hoặc
ngược lại khi nguồn cung giảm xuống cầu vẫn giữ nguyên đều làm cho giá hàng hóa
tăng. Trong dịp Tết Âm lịch vừa qua, giá của nhiều hàng hóa tăng một cách đột biến là do
nguyên nhân cầu kéo.
Năm 2009, các gói kích thích kinh tế và việc tăng chi tiêu của chính phủ khiến nhu cầu
một số hàng hóa tăng mạnh. Hiệu ứng từ việc gia tăng nhu cầu này tiếp tục kéo dài sang
năm 2010, gây sức ép lên giá cả nhiều hàng hóa. Ngoài ra, năm 2010 người dân có thể sẽ
tăng cường chi tiêu khi triển vọng kinh tế khả quan hơn, tạo ra một sức cầu lớn hơn đối
với nhiều loại hàng hóa.
4.4.Lạm phát từ nguyên nhân tiền tệ
Năm 2009, chính sách tiền tệ được mở rộng, lãi suất và tỷ lệ dự trữ bắt buộc được ấn
định ở mức thấp. Tăng trưởng tín dụng năm 2009 lên đến 37.74%, và là mức khá cao so
với trung bình những năm vừa qua.
Tăng trưởng cung tiền M2 lên mức 28.7%, mức tăng này thấp hơn so với năm 2006 và
2007, nhưng vẫn khá cao so với năm 2008 và những năm còn lại trước đó.
Tăng trưởng tín dụng và cung tiền cao trong năm 2009 sẽ ảnh hưởng đến lạm phát
trong năm 2010. Chúng ta đều biết lạm phát có quan hệ chặt chẽ với cung tiền, nhưng
thường có độ trễ từ 5 – 7 tháng.
5.HSBC dự báo lạm phát Việt Nam 2013 ở mức hai con số
Tăng trưởng kinh tế năm 2013 dự báo sẽ chỉ tăng ở mức khiêm tốn 5,3%.

Theo báo cáo cập nhật tình hình kinh tế vĩ mô tháng 11 của HSBC với tiêu đề "Đã tới
lúc bàn về chiến lược", ngân hàng này đánh giá, từ vị trí là một đầu tàu tăng trưởng đáng
nể tại châu Á, GDP của Việt Nam giảm đi đáng kể trong vòng vài năm qua.
Trước tình hình này, HSBC dự báo tăng trưởng GDP Việt Nam sẽ giảm xuống 5% năm
nay từ mức 5,9% năm 2011 và sẽ chỉ tăng ở mức khiêm tốn 5,3% vào năm 2013 và 5,6%
vào năm 2014.
Về lạm phát, HSBC cho rằng gần đây chỉ số này được kiềm chế tương đối tốt (tháng 10
tăng 7% so với cùng kỳ và tăng 6,02% so với cuối năm ngoái). Tổ chức này dự báo, lạm
phát năm 2012 sẽ ở mức 8%, sang năm 2013 tăng lên 10,8% và năm 2014 ở 9,4%.
Báo này này cho hay, hiện vẫn chưa có những cải cách cụ thể đối với các doanh nghiệp
nhà nước và cũng có ít dấu hiệu cho thấy sẽ sớm có những cải cách. Do vậy, điều mà
phần lớn các nhà quan sát Việt Nam muốn thấy là chính phủ sẽ làm gì để cải thiện môi
trường kinh doanh; cải thiện sự phối hợp giữa chính quyền trung ương và địa phương
đểthực thi luật pháp một cách có hiệu lực; thúc đẩy năng lực chế biến của Việt Nam để
tăng giá trị xuất khẩu, giảm chi phí nhập khẩu

HSBC dự báo các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô Việt Nam
Nguồn: HSBC
Tuy nhiên, HSBC đánh giá, Việt Nam còn có sự bền bỉ. Bản khảo sát mới nhất về môi
trường kinh doanh của Ngân hàng thế giới (WB) cho thấy Việt Nam có môi trường kinh
doanh cạnh tranh hơn Ấn Độ, Philippines và Indonesia (nhưng ở sau Thái Lan một
khoảng cách khá xa). Tăng trưởng xuất khẩu ở thời điểm hiện tại so với cuối năm trước
đang ở mức hai con số, doanh số bán lẻ đang tăng lên nhờ vào dân số trẻ.
Chỉ số quản trị mua hàng (PMI) mới nhất cho thấy các hoạt động kinh tế của Việt Nam
đang ổn định nhưng không cách gì quay lại xu hướng lâu dài đã có. Chỉ số PMI đã giảm
nhẹ từ mức 49,2 tháng 9 xuống còn 48,7 điểm trong tháng 10, đánh dấu tháng thứ 9 suy
giảm trong năm 2012. Điều này có nghĩa ngoài việc nhu cầu trong nước trì trệ kéo dài,
Việt Nam còn bị ảnh hưởng bởi nhu cầu bên ngoài suy yếu.
Chỉ số đơn hàng xuất khẩu mới giảm tới mức thấp nhất kể từ khi cuộc khảo sát bắt đầu
vào tháng 4/2011, phản ánh nhu cầu yếu từ khu vực đồng tiền chung châu Âu, Nhật và

Mỹ.
Nguồn: HSBC/Markit
Điều đáng lạc quan nhất là dòng vốn FDI ổn định, cung cấp vốn đầu tư và công ăn việc
làm đang rất cần thiết cũng như khoản kiều hối từ người Việt Nam ở nước ngoài. Nếu tiết
kiệm năm nay có thể sử dụng để đầu tư vào các cơ hội làm tăng năng suất của nền kinh tế
trong dài hạn, Việt Nam có thể trở lại vững vàng hơn, HSBC nhận xét.



PHẦN KẾT
Quá trình đấu tranh chống lạm phát không đơn giản trong thời gian ngắn mà nó là một
“căn bệnh kinh niên”, kiềm chế lạm phát là vấn đề có tầm quan trọng hàng đầu trong
chính sách kinh tế của các nước nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Từ khi Đảng và nhà
nước ta chuyển nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường đã xem nó là nhiệm vụ
cấp bách, nên đã tiến hành cùng lúc nhiều biện pháp có kết quả về chính sách kinh tế để
kiềm chế lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Vì vậy việc tìm hiểu bản chất, nguyên nhân gây ra lạm phát là điều hết sức quan trọng
và cần thiết. Từ đó ta có thể tìm ra giải pháp tối ưu nhất để khắc phục và đem lại hiệu quả
kinh tế cao nhất.

















TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Giáo trình Tài chính tiền tệ
2.Bài giảng Tài chính tiền tệ
3.Các trang web:


×