Tải bản đầy đủ (.doc) (72 trang)

Một số giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng đối với hộ sản xuất tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Đông Hưng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (510.23 KB, 72 trang )

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
MỤC LỤC
Hà Thị Lan Thu Lớp: Ngân hàng
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Hà Thị Lan Thu Lớp: Ngân hàng
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
LỜI MỞ ĐẦU
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng và Nhà nước ta đã xác định
nông nghiệp là mặt trận hàng đầu và tiếp tục thực hiện đổi mới quản lý kinh tế để
giải phóng lực lượng lao động sản xuất ở nông thôn, chuyển dịch nền nông nghiệp
tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hóa theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà
nước. Bởi vậy trong những năm gần đây, nông nghiệp, nông thôn đã thực sự được
phát triển, cùng với đó là sự hình thành và phát triển kinh tế hộ sản xuất đã mang lại
những kết quả to lớn. Hiện nay, hộ sản xuất là đơn vị chủ yếu cung cấp nông sản,
thực phẩm cho thị trường, do đó, phát triển kinh tế hộ sản xuất là yêu cầu cấp thiết
trong sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước.
Sự hỗ trợ về vốn của các Ngân hàng thương mại là một trong những yếu tố
quan trọng cần thiết cho quá trình phát triển kinh tế hộ sản xuất. Tuy nhiên, trên
thực tế, việc mở rộng cho vay đối với hộ sản xuất gặp rất nhiều khó khăn bởi chi phí
nghiệp vụ cao, món vay nhỏ, hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ luôn tiềm ẩn
nhiều rủi ro. Thực hiện chủ trương Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa nông nghiệp
nông thôn, xây dựng nông thôn mới, xóa đói giảm nghèo và xây dựng nông thôn
mới, hiện nay nhu cầu vay vốn của hộ sản xuất ngày càng lớn, đồng thời hoạt động
tín dụng của Ngân hàng trong lĩnh vực này cũng sẽ có nhiều rủi ro. Bởi vậy, việc
mở rộng tín dụng của Ngân hàng cần phải đi kèm với việc nâng cao hiệu quả và
đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng của các Ngân hàng thương mại.
Tuy nhiên, do một số tính chất phức tạp trong hoạt động này như: chi phí
nghiệp vụ cao, địa bàn hoạt động rộng và các món vay chủ yếu là nhỏ lẻ nên việc
cho vay hộ sản xuất của Chi nhánh NHNN&PTNT huyện Đông Hưng còn gặp phải
khó khăn và tiềm ẩn nhiều rủi ro, ngoài ra công tác dự báo của Chi nhánh còn có


một số điểm hạn chế dẫn tới tình trạng trong những năm gần đây, tình hình nợ xấu
trong hoạt động cho vay hộ sản xuất tại Chi nhánh có xu hướng gia tăng.
Nhận thức được những vấn đề trên và xuất phát từ thực tiễn hoạt động tín
dụng cho vay đối với hộ sản xuất tại Chi nhánh NHNN&PTNT huyện Đông Hưng,
em đã chọn đề tài: “ Một số giải pháp nâng cao hiệu quả tín dụng đối với hộ sản
Hà Thị Lan Thu Lớp: Ngân hàng
3
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
xuất tại Chi nhánh Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện Đông
Hưng ” nhằm mục đích tìm hiểu tình hình thực tế và từ đó đề xuất những giải pháp
để có thể đáp ứng nhu cầu vốn cho các hộ sản xuất nhằm phát triển kinh tế xã hội
đồng thời đảm bảo an toàn vốn đầu tư của Chi nhánh.
Kết cấu chuyên đề gồm 3 chương:
Chương I: Hộ sản xuất và vai trò của tín dụng đối với hộ sản xuất.
Chương II: Thực trạng hoạt động tín dụng đối với hộ sản xuất tại Chi nhánh
NHNN&PTNT huyện Đông Hưng.
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả tín dụng
đối với hộ sản xuất tại Chi nhánh NHNN&PTNT huyện Đông Hưng.
Trong thời gian thực hiện chuyên đề này, em đã nhận được sự giúp đỡ tận
tình của các cô chú, anh chị cán bộ phòng Kế hoạch kinh doanh Chi nhánh
NHNN&PTNT huyện Đông Hưng và đặc biệt là sự hướng dẫn chỉ bảo tận tình của
cô giáo ThS. Lê Phong Châu. Em xin chân thành gửi lời cảm ơn đến cô giáo, các cô
chú và anh chị.
Hà Thị Lan Thu Lớp: Ngân hàng
4
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG I
HỘ SẢN XUẤT VÀ VAI TRÒ CỦA TÍN DỤNG ĐỐI
VỚI HỘ SẢN XUẤT
1.1.Hộ sản xuất

1.1.1.Khái niệm và đặc điểm của hộ sản xuất
1.1.1.1.Khái niệm
Quá trình hình thành và phát triển hộ sản xuất là một quá trình lâu dài, trải
qua nhiều phương thức sản xuất dưới nhiều mô hình sản xuất khác nhau, từ giản
đơn tới ngày càng hiện đại và không ngừng phát triển, tới nay, hộ sản xuất không
chỉ có mặt ở nước ta mà còn có mặt ở tất cả các nước có nền sản xuất nông nghiệp
trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia có nền sản xuất nông nghiệp phát triển.
Hiện nay có rất nhiều khái niệm về hộ sản xuất theo nhiều quan điểm khác
nhau, tùy theo sự phát triển của từng quốc gia, khu vực. Theo Liên hiệp quốc: “ Hộ
là những người cùng sống chung dưới một mái nhà, cùng ăn chung và có chung một
ngân quỹ ”. Có quan điểm lại cho rằng hộ sản xuất là một đơn vị kinh tế mà các
thành viên dựa trên cơ sở kinh tế chung, các nguồn thu nhập do các thành viên cùng
đóng góp và sử dụng chung.
Xét trên góc độ Ngân hàng, hộ sản xuất là một thuật ngữ được dùng trong
hoạt động cung ứng vốn cho hộ gia đình để thực hiện sản xuất. Theo Phụ lục 1 được
kèm theo Quyết định 499A ngày 2/9/1993 của Ngân hàng NHNN&PTNT Việt
Nam, khái niệm về hộ sản xuất được hiểu như sau: “ Hộ sản xuất là một đơn vị kinh
tế tự chủ, trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh, là chủ thể trong mọi
quan hệ sản xuất kinh doanh tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất của
mình ”. Có thể hiểu, một hộ sản xuất kinh doanh bao gồm tất cả những người sống
chung dưới một mái nhà, tất cả cùng tham gia lao động sản xuất. Thành phần chủ
yếu của hộ sản xuất bao gồm hộ nông dân, hộ tư nhân, cá thể, hộ gia đình xã viên.
Đại diện của hộ sản xuất là chủ hộ, là người đứng lên thay mặt các thành viên khác
Hà Thị Lan Thu Lớp: Ngân hàng
5
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
trong hộ tham gia thực hiện các giao dịch dân sự. Chủ hộ phải là người đã thành
viên và có đủ tư cách pháp nhân, có năng lực quản lý và năng lực sản xuất kinh
doanh. Chủ hộ có thể là cha, mẹ, con cái hoặc các thành viên khác trong hộ. Trong
một số trường hợp, chủ hộ có thể ủy quyền cho các thành viên khác làm chủ hộ. Các

thành viên trong hộ sản xuất cùng đóng góp tài sản để hình thành nên tài sản chung
của cả hộ, ngoài ra tài sản chung cũng có thể do mọi người cùng nhau lao động mà
có được, hoặc là vật phẩm được biếu tặng.
Nhà nước giao cho hộ sản xuất quản lý đất và tự chủ trong quá trình sử dụng
vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong một số lĩnh vực nhất định theo quy định
của Nhà nước.
Tại Việt Nam hiện có hơn 80% dân số sống ở nông thôn và hơn 70% lực
lượng lao động thuộc lĩnh vực nông nghiệp. Trong đó, hộ sản xuất là một lực lượng
sản xuất không thể thiếu ở khu vực nông thôn. Hiện nay, nhờ có sự phát triển của
kinh tế hộ nhiều hình thức sản xuất kinh doanh được kết hợp với nhau, đem lại sự
đa dạng trong hoạt động kinh doanh, trồng trọt được kết hợp với chăn nuôi, nhiều
ngành nghề phụ cũng được phát triển đóng góp vào sự phát triển kinh tế hộ nói
riêng và phát triển khu vực nông thôn nói chung.
Có nhiều cách phân loại hộ sản xuất khác nhau, nhưng chủ yếu hộ sản xuất
được phân loại dựa trên đặc trưng sau:
- Dựa trên các yếu tố tự nhiên về địa lý: hộ sản xuất được chia thành hộ sản
xuất thành thị - nông thôn và hộ sản xuất theo vùng kinh tế. Trong đó hộ sản xuất
thành thị - nông thôn bao gồm các hộ được chia theo địa bàn cư trú tương ứng là
thành thị và nông thôn, ở Việt Nam có khoảng 80% hộ sản xuất nông thôn và 20%
hộ sản xuất thành thị. Hộ sản xuất theo vùng kinh tế là các hộ nằm trên các vùng
kinh tế của nước ta: Miền núi và trung du Bắc Bộ, Đồng bằng Sông Cửu Long,…,
mỗi hộ lại mang sắc thái và đặc trưng của từng vùng khác nhau.
- Dựa vào mức độ đa dạng hóa sản xuất: hộ sản xuất bao gồm hộ thuần nông,
hộ kinh doanh tổng hợp, hộ sản xuất phi nông nghiệp.
Hà Thị Lan Thu Lớp: Ngân hàng
6
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
1.1.1.2.Đặc điểm hộ sản xuất
Hộ sản xuất được hình thành và phát triển chủ yếu ở khu vực nông thôn, do
vậy hộ sản xuất có quan hệ mật thiết với các ngành nghề thuộc lĩnh vực nông

nghiệp, các ngành nghề chủ yếu sử dụng lao động tại chỗ với nguồn vốn ít ỏi, trình
độ lao động thấp và công cụ sản xuất cũng hết sức giản đơn. Cùng với quá trình
phát triển của nền kinh tế, các quan hệ kinh tế ở nông thôn cũng dần biến đổi, tạo
nên những đặc điểm riêng của hộ:
Thứ nhất, mỗi hộ sản xuất được hình thành, tổ chức và có những cách thức
sản xuất kinh doanh dưới nhiều hình thức khác nhau, tùy thuộc vào mỗi vùng miền
và các địa phương khác nhau. Quá trình hình thành hộ sản xuất phụ thuộc rất nhiều
vào đặc điểm tự nhiên, khí hậu rất đa dạng của từng vùng. Các thành viên trong hộ
có quan hệ với nhau theo cấp vị và có cùng cơ sở kinh tế, trong đó chủ hộ là người
lao động trực tiếp, đồng thời là người quản lý tài sản của hộ, có quyền quyết định và
chịu trách nhiệm phát triển kinh tế hộ sản xuất.
Thứ hai, chi phí sản xuất của hộ thường thấp, vốn đầu tư được rải đều trong
quá trình sản xuất. Hoạt động sản xuất của hộ mang tính chất mùa vụ, hộ có thể
đồng thời cùng chăn nuôi nhiều vật nuôi, trồng nhiều loại cây, và nhiều ngành nghề
khác trong những lúc nông nhàn. Do vậy, thu nhập của hộ sản xuất không có tính
tập trung, được rải đều theo mùa vụ của đối tượng sản xuất. Hiện nay, hoạt động sản
xuất kinh doanh đã có những bước phát triển, các hộ sản xuất đã có nhiều đổi mới
trong phương thức sản xuất, chăn nuôi, nuôi trồng được thực hiện tập trung hơn và
đã đem lại nhiều hiệu quả kinh tế. Hoạt động sản xuất mang tính truyền thống và
phương thức lao động còn bị chi phối bởi thói quen sinh hoạt ở làng quê. Tuy nhiên,
hiện nay, với sự phát triển của kỹ thuật đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển
của kinh tế hộ. Các cây giống, con giống, thức ăn cho gia súc và phân bón có chất
lượng ngày một tốt hơn, cùng với cách thức sản xuất hiện đại đã đem lại năng suất
cao, chất lượng cao cho các sản phẩm của hộ.
Thứ ba, quy mô sản xuất và trang thiết bị của các hộ có sự khác biệt đáng kể
giữa các vùng, ngay cả trong cùng một vùng cũng có sự khác nhau về quy mô, diện
Hà Thị Lan Thu Lớp: Ngân hàng
7
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
tích đất đai, trình độ hiểu biết và vốn sản xuất hộ sản xuất. Cùng với đó, dưới sự tác

động của các quy luật kinh tế trong quá trình chuyển dịch sẽ dẫn tới cạnh tranh và tạo
nên sự phân chia giàu nghèo giữa các hộ. Bởi vậy, vấn đề đặt ra đối với các nhà quản lý
cần điều chỉnh làm sao cho kinh tế hộ được phát triển, đồng thời đảm bảo được công
bằng xã hội, tạo điều kiện để hộ nghèo bớt khó và có thể vươn lên khá giả.
Với những đặc điểm cơ bản trên, hộ sản xuất có thể dễ dàng chuyển đổi hay
thay đổi cơ cấu bởi quy mô sản xuất của hộ thường nhỏ nên chi phí của mỗi lần
chuyển đổi tương đối thấp. Hiện nay, thực trạng hoạt động của hộ sản xuất đã được
cải thiện hơn rất nhiều, tuy nhiên vẫn cần có những chính sách quan tâm của Nhà
nước, và sự hỗ trợ hơn nữa về vốn của Ngân hàng để hộ có thể cải thiện công nghệ,
mở rộng sản xuất, nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ thuật.
1.1.2.Vai trò của hộ sản xuất
Từ khi Nghị quyết 10 – Bộ Chính trị được ban hành, hộ nông dân được thừa
nhận là một đơn vị kinh tế tự chủ, điều này đã tạo được động lực phát triển mạnh
mẽ. Người dân đã có sự gắn bó hơn với nông thôn, chủ động đầu tư vốn để sản xuất
kinh doanh, khai phá nhiều ruộng đất mới, người nông dân đã có ý thức hơn trong
việc sử dụng ruộng đất. Việc trao lại quyền tự chủ cho hộ nông dân đã làm khơi dậy
những ngành nghề truyền thông lâu đời đã bị lãng quên, các hộ chủ động áp dụng
những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trong sản xuất để đạt được hiệu quả kinh tế
lớn. Điều này đã khẳng định, phát triển kinh tế hộ là một phần hết sức quan trọng
trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước.
1.1.2.1.Về mặt kinh tế
Hộ sản xuất là trung gian của quá trình chuyển dịch nền kinh tế tự nhiên sang
nền kinh tế hàng hóa. Quá trình sản xuất hàng hóa được phát triển sơ khai từ kinh tế
tự nhiên sang hình tế hàng hóa với quy mô nhỏ thuộc hộ gia đình, tiếp đến là kinh tế
hàng hóa với quy mô lớn, ở đó hàng hóa được mua bán, trao đổi bằng trung gian
tiền tệ. Bước chuyển biến từ nền kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hóa nhỏ với quy
mô hộ gia đình là một giai đoạn mang tính quyết định, nếu không trải qua thì khó có
thể thoát được tình trạng kinh tế kém phát triển.
Hà Thị Lan Thu Lớp: Ngân hàng
8

Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Kinh tế hộ sản xuất góp phần phát triển kinh tế địa phương, nâng cao hiệu
quả lao động. Hộ sản xuất đã và đang tạo ra một khối lượng lớn hàng hóa cho nền
kinh tế giúp đáp ứng nhu cầu hàng hóa trên thị trường, đồng thời làm tăng thu nhập
của hộ.
Khi hộ sản xuất tham gia vào thị trường, sẽ sử dụng được tối đa nguồn tài
nguyên của địa phương. Việc gắn trực tiếp lợi ích cá nhân với quyền sử dụng, quả lý
đất đai, tài nguyên nên việc để hộ sản xuất sử dụng sẽ tạo được sự tiết kiệm, không
làm giảm độ màu mỡ của đất, tài nguyên không bị cạn kiệt bởi điều này ảnh hưởng
trực tiếp tới lợi ích lâu dài của hộ. Hộ sản xuất sẽ chủ động áp dụng các hình thức,
biện pháp sử dụng sao cho tạo hiệu quả nhất, khai thác mọi tiềm năng để phát triển.
Bên cạnh đó, khuyến khích việc khai hoang, phục hóa để tạo thêm công ăn việc làm
cho nhiều người lao động, cung cấp sản phẩm cho xã hội.
Với quy mô hộ nhỏ, tư liệu sản xuất giản đơn, hộ sản xuất dễ dàng thích ứng
với sự thay đổi của thị trường mà không sợ tốn kém về mặt chi phí. Hiện nay, hộ sản
xuất là đơn vị kinh tế độc lập, tự chủ. Các hộ dần được làm quen với chế độ hạch toán
kinh tế, tạo hiệu quả trong quá trình quản lý hoạt động sản xuất, đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của xã hội. Hộ sản xuất đã dần được cải tiến và đổi mới để có thể thích ứng
với cơ chế thị trường đồng thời thúc đẩy sản xuất hàng hóa phát triển.
Khi hiệu quả sản xuất tăng lên, thu nhập của các thành viên trong hộ được cải
thiện và có sự tích lũy về vốn, tạo điều kiện để hộ sản xuất xây dựng cơ sở hạ tầng,
mở rộng quy mô sản xuất, mua sắm trang thiết bị, tạo thêm nhiều việc làm hơn nữa
cho các thành viên trong hộ. Có thể nói, hộ sản xuất là lực lượng thúc đẩy mạnh mẽ
sản xuất hàng hóa ở nước ta phát triển.
Sự phát triển của kinh tế hộ góp phần thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, làm gia
tăng sản lượng xuất khẩu của các mặt hàng thủy sản, gạo, cà phê, tiêu,… và các sản
phẩm thủ công mỹ nghệ tạo thêm nguồn thu từ thuế cho Ngân sách địa phương cũng
như Ngân sách Nhà nước.
Xét về lĩnh vực tài chính tiền tệ, hộ sản xuất tạo điều kiện thúc đẩy mở rộng
thị trường vốn, thu hút nhiều nguồn đầu tư.

Hà Thị Lan Thu Lớp: Ngân hàng
9
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
1.1.2.2. Về mặt xã hội
Kinh tế hộ góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội.
Hộ sản xuất đã góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp, giải quyết việc làm tại địa phương,
tạo thu nhập cho người lao động.
Hộ sản xuất đã tạo ra một khối lượng lớn lương thực, thực phẩm, không
những giúp nước ta tự chủ về lương thực đồng thời có thể xuất khẩu một phần ra
nước ngoài. Bên cạnh đó, việc sản xuất nông sản, hàng hóa khác cũng có những
bước phát triển nhanh chóng, một số địa phương đã hình thành các vùng chuyên
canh có năng suất cao như chè, dâu tằm, cao su, cà phê; hình thành các khu nuôi
trồng thủy sản với sản lượng cao… Hình thức chăn nuôi trang trại ngày càng đa
dạng và phát triển, sự kết hợp giữa vườn ao chuồng hiện nay đã thể hiện được rõ ưu
điểm và mang lại thu nhập đáng kể cho hộ sản xuất.
Phát triển kinh tế hộ sản xuất đã tạo điều kiện làm tăng thu nhập cho người
lao động, cải thiện đời sống của người dân, tạo công ăn việc làm, thu hẹp khoảng
cách về mức sống giữa khu vực thành thị và nông thôn, góp phần đảm bảo lương
thực quốc gia, góp phần ổn định trật tự an ninh xã hội. Việc thừa nhận kinh tế hộ là
đơn vị kinh tế tực chủ đã tạo ra những bước phát triển mạnh mẽ, các yếu tố quan
trong như đất đai, lao động, công nghệ… được sử dụng có hiệu quả hơn
1.2.Tín dụng đối với hộ sản xuất
1.2.1.Khái niệm và đặc điểm của tín dụng đối với hộ sản xuất
1.2.1.1.Khái niệm
Trong quá trình phát triển nền kinh tế đã xuất hiện những quan hệ vay mượn lẫn
nhau trong xã hội. Trong một thời gian nhất định, có đơn vị kinh tế thiếu vốn sản xuất
kinh doanh, có đơn vị lại không sử dụng hết nguồn vốn của mình, điều này có ảnh
hưởng xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh, do vậy cần có sự điều tiết về nhu cầu về
vốn trong nền kinh tế. Các Ngân hàng bắt đầu xuất hiện và đã điều hoàn vốn giữa
những người cần vốn và những người tạm thời chưa sử dụng lượng vốn đó.

Bản chất của tín dụng là sự vay mượn có hoàn trả đồng thời cả vốn lẫn lãi
theo những thỏa thuận đã đưa ra của cả hai bên trong một thời gian nhất nào đó, đó
Hà Thị Lan Thu Lớp: Ngân hàng
10
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
là sự chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn giữa Ngân hàng và khách hàng.
Theo điều 4, Luật các tổ chức tín dụng: “ Cho vay là hình thức cấp tín dụng, theo đó
bên cho vay giao hoặc cam kết giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào
mục đích xác định trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận với nguyên tắc
hoàn trả cả gốc lẫn lãi ”. Tín dụng hộ sản xuất là một trong nhiều hoạt động tín
dụng của Ngân hàng, đó là quan hệ tín dụng giữa một bên là Ngân hàng và một bên
là hộ sản xuất.
Phát triển kinh tế hộ sản xuất luôn dành được sự quan tâm đặc biệt của Đảng
và Nhà nước, nhằm mục đích hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Hàng loạt các
chính sách được ban hành như chính sách xóa đói giảm nghèo, chính sách hỗ trợ
nông dân chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi… Để đảm bảo việc thực thi các
chính sách được hiệu quả, cần có sự quản lý của Nhà nước đồng thời cũng cần tập
trung nguồn vốn đầu tư để hỗ trợ cho nông nghiệp, nông thôn nói chung và hộ sản
xuất nói riêng. Nhu cầu về vốn trong các hộ sản xuất là rất lớn, tuy nhiên các hộ sản
xuất lại khó có thể tiếp cận được nguồn vốn, gây khó khăn trong hoạt động sản xuất
kinh doanh. Khi có sự tham gia của Ngân hàng đã tạo công ăn việc làm cho người
dân, hộ sản xuất có thể tiếp nhận được vốn, và yên tâm sử dụng vốn trong quá trình
sản xuất, đồng thời với sự giám sát của Ngân hàng, hộ sản xuất sẽ có trách nhiệm
hơn nữa trong việc sử dụng vốn, họ sẽ tập trung sản xuất, mở rộng quy mô sản xuất
kinh doanh của mình, từ đó tạo ra của cải cho chính bản thân và xã hội. Bởi vậy tín
dụng hộ sản xuất đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển Công nghiệp
hóa – hiện đại hóa đất nước.
1.2.1.2.Đặc điểm của tín dụng hộ sản xuất
Tính thời vụ gắn liền với chu kỳ sinh trưởng của động thực vật trong ngành
nông nghiệp nói chung và các ngành cụ thể mà Ngân hàng tham gia cho cấp tín

dụng. Tính thời vụ được biểu hiện như sau: Tính mùa vụ trong sản xuất nông nghiệp
quyết định thời điểm cho vay và thu nợ của Ngân hàng. Trường hợp Ngân hàng tập
trung cho vay vào các chuyên ngành hẹp như cho vay để nuôi trồng một số cây, con
nhất định thì phải tổ chức cho vay tập trung vào những thời điểm nhất định trong
Hà Thị Lan Thu Lớp: Ngân hàng
11
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
năm: đầu mùa vụ tiến hành cấp tín dụng, đến kỳ thu hoạch thì tiến hành thu nợ. Chu
kỳ sống tự nhiên của con, cây trồng là yếu tố quyết định để Ngân hàng tính toán thời
hạn cho vay
Môi trường tự nhiên có ảnh hưởng đên thu nhập và khả năng trả nợ của hộ
sản xuất: Nguồn trả nợ của Ngân hàng chủ yếu là thu nhập của hộ sản xuất từ việc
bán nông sản và các sản phẩm có liên quan. Như vậy sản lượng nông sản thu được
là yếu tố quyết định khả năng trả nợ của hộ, trong khi đó sản lượng thu hoạch được
lại phụ thuộc vào nhiều yếu tố như điều kiện khí hậu, đất đai, sự chăm sóc của
người nông dân.
Chi phí tiến hành cho vay cao: Cho vay hộ sản xuất, đặc biệt là hộ nông dân
thường có chi phí nghiệp vụ cho một đồng vay vốn cao do quy mô món vay của hộ
thường nhỏ, số lượng khách hàng lớn, phân bố rộng khắp địa bàn nên việc mở rộng
cho vay thường liên quan tới việc mở rộng mạng lưới cho vay và thu nợ: mở chi
nhánh, bàn giao dịch, tổ lưu động cho vay tại xã.
Do đặc thù kinh doanh hộ sản xuất thường có độ rủi ro cao nên việc trích chi
phí dự phòng rủi ro cho đối tượng này tương đối lớn so với các ngành nghề khác.
1.2.2.Vai trò của tín dụng đối với hộ sản xuất
Tín dụng góp phần đáp ứng nhu cầu vốn cho hộ sản xuất để duy trì quá trình
sản xuất liên tục và phát triển kinh tế.
Với đặc trưng sản xuất kinh doanh của kinh tế hộ sản xuất là có tính mùa vụ.
Khi sản phẩm chưa đến mùa thu hoạch, chưa có hàng để bán, hộ sẽ tạm thời chưa có
thu nhập để trang trải cuộc sống, chi phí sản xuất cũng như mua sắm các trang thiết
bị phục vụ cho hoạt động sản xuất. Trong giai đoạn hiện nay, nhu cầu vốn của hộ

sản xuất là rất lớn. Thông qua việc Ngân hàng cấp tín dụng cho hộ sản xuất sẽ giúp
họ có vốn duy trì sản xuất liên tục, dần tiếp cận với cơ chế thị trường và từng bước
điều tiết sản xuất. Chính nhờ có sự hỗ trợ ấy các hộ sẽ sử dụng hiệu quả mọi nguồn
lực sẵn có như lao động, tài nguyên để tạo ra sản phẩm cho xã hội, thúc đẩy hoàn
thiện việc sắp xếp, tổ chức sản xuất, từ đó nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
cho người dân.
Hà Thị Lan Thu Lớp: Ngân hàng
12
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Tín dụng thúc đẩy quá trình tập trung vốn và tập trung sản xuất.
Nhờ có sự tập trung vốn vào sản xuất kinh doanh tạo điều kiện cho hộ sản
xuất sản xuất kinh doanh hiệu quả hơn, tạo cơ hội mở rộng qui mô sản xuất của hộ,
thúc đẩy quá trình tăng trưởng kinh tế nông thôn. Để thực hiện tốt chức năng là cầu
nối điều tiết quá trình chu chuyển vốn trong nền kinh tế, Ngân hàng nên thúc đẩy
các hộ cần sử dụng vốn tín dụng có hiệu quả, tăng nhanh vòng quay vốn đồng thời
tiết kiệm vốn cho sản xuất và lưu thông. Điều này sẽ tác động tới các hộ sản xuất,
yêu cầu các hộ phải biết tập trung vốn, sử dụng vốn như thế nào để sản xuất kinh
doanh, góp phần tích cực vào quá trình vận động liên tục của nguồn vốn.
Tín dụng tạo điều kiện phát huy các ngành nghề truyền thống, và các ngành
nghề mới.
Trong điều kiện hiện nay, bên cạnh việc thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa, chúng ta cần quan tâm tới các ngành
nghề truyền thống, là những ngành nghề có mặt từ lâu đời và tạo nên những nét
riêng trong văn hóa của từng vùng. Phát huy được các ngành nghề truyền thống
cũng là phát huy được nội lực của kinh tế hộ và tín dụng là hoạt động hỗ trợ phát
triển các ngành nghề mới, góp phần giải quyết việc làm cho người lao động và phát
triển toàn diện ở nông thôn, nông, lâm, ngư nghiệp sẽ được gắn liền với công nghiệp
chế biến, sản xuất hàng tiêu dùng và xuất phẩu, mở rộng hoạt động thương nghiệp,
dịch vụ. Tín dụng hộ sản xuất chính là đòn bẩy kinh tế, kích thích các ngành kinh tế
phát triển, tạo tiền đề để các ngành này phát triển đồng bộ.

Tín dụng góp phần Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa nông thôn.
Hoạt động tín dụng của Ngân hàng hỗ trợ kinh tế hộ dần thay đổi cơ chế sản
xuất, từng bước chuyển từ sản xuất tự cấp, tự túc sang kinh tế hàng hóa, mạnh dạn
đổi mới thiết bị và quy trình sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, từ đó thúc đẩy
quá trình tăng trưởng kinh tế. Ngân hàng thực hiện chức năng là cầu nối chu chuyển
giữa tiết kiệm và đầu tư, đã có những quan tâm đáng kể tới cho vay hộ sản xuất.
Ngân hàng đồng thời là người giám sát và thúc đẩy các hộ sử dụng vốn có hiệu quả,
tăng nhanh vòng quay vốn, tiết kiệm vốn cho sản xuất lưu thông. Nhờ đó thúc đẩy
Hà Thị Lan Thu Lớp: Ngân hàng
13
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa
và tạo sự phân công lao động xã hội.
Tín dụng đã gián tiếp tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người lao động.
Một trong những vấn đề cấp bách hiện nay là việc giải quyết công ăn việc
làm cho người lao động, thông qua việc Ngân hàng cho vay mở rộng sản xuất đã
góp phần giải quyết một cách thỏa đáng vấn đề này. Kinh tế hộ sản xuất phát triển
sẽ góp phần tạo việc làm cho chính các thành viên trong hộ. Có việc làm, người lao
động sẽ có thu nhập, nhiều vấn đề tiêu cực của xã hội sẽ được hạn chế. Tín dụng
thúc đẩy các ngành nghề phát triển, tạo việc làm cho một số lao động dư thừa ở
nông thôn, làm hạn chế được việc di dân từ nông thôn lên thành phố. Đồng thời làm
tăng thu nhập cho người dân, đời sống về kinh tế, văn hóa – xã hội được cải thiện,
giảm bớt sự chênh lệch giàu nghèo giữa khu vực thành thị và nông thôn, góp phần
giữ vững an ninh chính trị xã hội.
Tín dụng góp phần thực hiện tốt các chính sách đổi mới của Đảng và Nhà
nước, xây dựng nông thôn mới, tạo sự ổn định kinh tế xã hội.
Ngoài vai trò trong việc thúc đẩy kinh tế, tín dụng hộ sản xuất còn có vai trò
to lớn về mặt xã hội. Tín dụng Ngân hàng góp phần vào sự thay đổi diện mạo nông
thôn mới, tệ nạn xã hội dần được xóa bỏ, trình độ dân trí của người dân, trình độ
chuyên môn kỹ thuật của người lao động được nâng cao… xóa bỏ được tình trạng

đói nghèo ở nông thôn. Qua đó, ta có thể nhận thấy vai trò quan trọng của tín dụng
trong việc thực hiện các chính sách, đường lối của Đảng và Nhà nước trong việc
phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Đây chính là mục tiêu lâu dài và quan
trọng. Tín dụng sẽ góp phần quan trọng để công cuộc xóa đói giảm nghèo của Đảng
và Nhà nước sớm hoàn thành, để người dân có đời sống ấm no, hạnh phúc
1.2.3.Hiệu quả của tín dụng đối với hộ sản xuất
1.2.3.1.Khái niệm hiệu quả tín dụng
Tín dụng được coi là một sản phẩm của các tổ chức trung gian tài chính, là
dịch vụ sinh lời chủ yếu, đồng thời cũng là lĩnh vực tồn tại nhiều rủi ro nhất của
Ngân hàng. Bởi vậy, Ngân hàng phải không ngừng nâng cao hiệu quả tín dụng
nhằm duy trì sự tồn tại và cũng như đảm bảo cho sự phát triển của Ngân hàng.
Hà Thị Lan Thu Lớp: Ngân hàng
14
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Xét ở các quan điểm khác nhau, hiệu quả tín dụng được thể hiện như sau:
 Đối với ngân hàng: hiệu quả tín dụng thể hiện ở mức độ an toàn của
khoản vay và khả năng sinh lời từ các hoạt động đó. Ngân hàng sẽ đưa ra các hình
thức cho vay với phạm vi, giới hạn phù hợp với trình độ và năng lực của mình để
đảm bảo tính an toàn, cạnh tranh và sinh lời theo nguyên tắc hoàn trả đầy đủ và có
lợi nhuận.
 Đối với khách hàng: các khoản vay phải đáp ứng được nhu cầu của
khách hàng với mức lãi suất hợp lý, hình thức và thời hạn cho vay phù hợp với điều
kiện của khách hàng, thủ tục cho vay đơn giản, thuận tiện nhưng vẫn phải đảm bảo
được các nguyên tắc cho vay.
 Xét ở phạm vi vĩ mô: hiệu quả tín dụng thể hiện ở sự kết hợp hài hòa
giữa hoạt động cho vay với các đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước đồng
thời mang lại những lợi ích về mặt kinh tế và xã hội.
1.2.3.2.Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tín dụng
 Tỷ lệ nợ rủi ro trong cho vay hộ sản xuất/ Tổng dư nợ
Ngân hàng thực hiện việc phân loại nợ như sau:

- Nợ nhóm 1: là nợ đủ tiêu chuẩn, là các khoản nợ trong hạn và được đánh
giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc lẫn lại đúng hạn, cộng với các khoản nợ
quá hạn dưới 10 ngày, được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ nợ gốc và lãi bị
quá hạn cùng với nợ gốc và lãi còn đúng hạn.
- Nợ nhóm 2: là các khoản nợ cần chú ý, bao gồm các khoản nợ quá hạn từ
10 đến 90 ngày, các khoản nợ được điều chỉnh kỳ hạn lần đầu.
- Nợ nhóm 3:là nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm các khoản nợ quá hạn từ 91 đến
180 ngày, nợ gia hạn lần đầu và nợ được miễn giảm lại do khách hàng không đủ khả
năng trả lại theo hợp đồng tín dụng.
- Nợ nhóm 4: là nợ nghi ngờ, bao gồm nợ quá hạn từ 181 đến 360 ngày, nợ
cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn trả nợ được cơ
cấu lại lần đầu.
Hà Thị Lan Thu Lớp: Ngân hàng
15
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
- Nợ nhóm 5: là nợ có khả năng mất vốn, bao gồm các khoản nợ quá hạn trên
360 ngày, cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo thời hạn
trả nợ được cơ cấu lại lần đầu.
Như vậy, nợ rủi ro bao gồm nợ nhóm 2,3,4 và nhóm 5.
Đây là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá rủi ro tín dụng cũng như hiệu quả và
chất lượng tín dụng đối với hộ sản xuất. Tỷ lệ này gián tiếp cho ta thấy quy mô của
các khoản cho vay có vấn đề của các Ngân hàng. Tỷ lệ nợ rủi ro cao chứng tỏ hiệu
quả tín dụng thấp. Khi nợ rủi ro vượt quá khả năng bù đắp, Ngân hàng sẽ đứng
trước nguy cơ phá sản cao. Hoạt động tín dụng của Ngân hàng chứa đựng rất nhiều
rủi ro, tác động xấu tới lợi nhuận và sự an toàn trong kinh doanh của Ngân hàng.
Tuy nhiên, đôi khi tỷ lệ nợ rủi ro thấp không hẳn là một dấu hiệu tốt bởi nó có thể
do dư nợ cho vay của Ngân hàng giảm hoặc tốc độ tăng của dư nợ cho vay nhanh
hơn tốc độ tăng của các khoản nợ rủi ro. Bởi vậy, đảm bảo thu hồi vốn đúng hạn là
một vấn đề rất cần quan tâm, ảnh hưởng trực tiếp tới sự tồn tại của Ngân hàng.
Tỷ lệ này cho biết trong tổng dư nợ của Ngân hàng, nợ rủi ro của hộ sản xuất

chiếm bao nhiêu %, cho thấy khả năng thu hồi vốn của Ngân hàng đối với các
khoản vay, thể hiện phần tổn thất tiềm năng trong hoạt động cho vay hộ sản xuất
gây ra cho Ngân hàng.
 Tỷ lệ nợ xấu đối với hộ sản xuất
Nợ xấu được quy định để chỉ các khoản nợ không có khả năng trả cả gốc lẫn
lãi hoặc sắp rơi vào tình trạng này, nợ xấu bao gồm các khoản nợ thuộc nhóm 3,4,5.
Tỷ lệ nợ xấu đối với hộ sản xuất phản ánh rõ nét hơn, cụ thể hơn về khả năng
thu hồi nợ, rủi ro trong hoạt động tín dụng, thể hiện trực tiếp hiệu quả tín dụng. Tỷ
lệ nợ xấu đối với hộ sản xuất cho biết chất lượng và rủi ro trong danh mục cho vay
Hà Thị Lan Thu Lớp: Ngân hàng
16
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
hộ sản xuất của Ngân hàng, cho thấy được bao nhiêu đồng đang bị phân loại vào nợ
xấu trên 100 đồng cho vay hộ sản xuất.
Chỉ tiêu này phản ánh xác thực hơn tỷ lệ nợ quá hạn về những rủi ro mà
Ngân hàng có thể gánh chịu trong hoạt động cho vay hộ sản xuất. Tỷ lệ này cao so
với trung bình ngành và có xu hướng tăng lên có thể là dấu hiệu Ngân hàng đang
gặp khó khăn trong việc quản lý chất lượng các khoản cho vay đối với hộ sản xuất.
Ngược lại, tỷ lệ này thấp so với những năm trước cho thấy hiệu quả tín dụng đã
được cải thiện hoặc có thể Ngân hàng đã có các chính sách xóa các khoản nợ xấu
hoặc thay đổi cách phân loại nợ.
 Tỷ lệ dự phòng rủi ro tín dụng / Tổng dư nợ
Dự phòng rủi ro tín dụng là khoản tiền được trích lập và hạch toán vào chi
phí họat động của Ngân hàng để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra đối với
các khoản tín dụng trong quá trình phân loại nợ và trích lập dự phòng cụ thể, trong
các trường hợp khó khăn về tài chính khi chất lượng các khoản nợ suy giảm.
Thông qua chỉ tiêu này, ta có thể biết được bao nhiêu % dư nợ được trích lập
dự phòng. Tỷ lệ này càng đồng nghĩa với việc Ngân hàng phải trích nhiều khoản
tiền vào việc dự phòng tổn thất, nên có thể thấy chất lượng của các khoản tín dụng
của Ngân hàng đang gặp tiêu cực và khả năng thu hồi nợ trong tương lai thấp, đồng

thời lợi nhuận của Ngân hàng cũng giảm, qua đó nhận thấy hiệu quả sử dụng vốn
của Ngân hàng thấp, đặc biệt là công tác cho vay.
Nếu tỷ lệ này thấp phản ánh chất lượng các khoản vay của Ngân hàng đã và
đang được cải thiện, hoặc có thể các khoản dự phòng chưa được Ngân hàng trích lập
đầy đủ theo quy định.
 Chênh lệch thu chi lãi cho vay hộ sản xuất/ Tổng dư nợ
Tỷ lệ này cho biết một đồng vốn cho vay của Ngân hàng đem lại bao nhiêu
Hà Thị Lan Thu Lớp: Ngân hàng
17
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
đồng lãi sau khi trừ chi phí phát sinh cho hoạt động cho vay. Tỷ lệ này còn phải ánh
hiệu quả đầu tư và sử dụng vốn của Ngân hàng. Tỷ lệ chênh lệch thu chi lãi trong
cho vay hộ sản xuất/ Tổng dư nợ mang giá trị âm hoặc có xu hướng giảm qua từng
kỳ hạn tín dụng nghĩa là khoản vay không tạo ra thu nhập, hoặc đang có vấn đề và chất
lượng cho vay của Ngân hàng giảm. Nếu tỷ lệ này mang giá trị dương và ổn định, tăng
qua các năm nghĩa là vốn vay được đầu tư và sử dụng hiệu quả, đồng thời cho thấy chất
lượng cho vay đối với hộ sản xuất của Ngân hàng đang ngày một hiệu quả.
 Nợ có đảm bảo/ Tổng dư nợ
Nợ có đảm bảo là một khoản vay trong đó tài sản được sử dụng để cam kết
còn gọi là tài sản thế chấp cho vay, trở thành một tài sản đảm bảo nợ nhưng không
có sự chuyển giao tài sản cho Ngân hàng. Giá trị của tài sản đảm bảo phải lớn hơn
giá trị của khoản vay. Hình thức cho vay này thúc đẩy khách hàng tích cực trong
việc sử dụng vốn vào hoạt động sản xuất kinh doanh, đảm bảo khách hàng sử đúng
mục đích và đạt hiệu quả cao và đảm bảo nghĩa vụ của khách hàng trong việc hoàn
trả vốn vay với Ngân hàng.
Tỷ lệ nợ có đảm bảo/ Tổng dư nợ cho biết phần trăm các khoản vay được
đảm bảo, nếu tỷ lệ này càng cao sẽ giúp Ngân hàng giảm thiểu được rủi ra trong
hoạt động cho vay, còn nếu tỷ lệ này thấp, nghĩa là tính rủi ro của các khoản vay
cao, Ngân hàng cần phải có sự quan tâm chặt chẽ đối với khách hàng để đảm bảo
được việc hoàn trả vốn và sinh lãi của các khoản vay và tạo được hiệu quả tín dụng

 Lãi treo/ Tổng dư nợ
Lãi treo là tiền lãi mà Ngân hàng cho vay, phát sinh theo hợp đồng tín dụng
nhưng thực tế chưa thu được hoặc không thu được tiền, thông thường lãi treo là tiền
lãi quá hạn, khách hàng có thể đã mất khả năng thanh toán vốn gốc và lãi trong thời
hạn vay, tiếp tục bị Ngân hàng tính lãi quá hạn, vì vậy, số lãi này có thể bị gia tăng
nhanh chóng.
Tỷ lệ lãi treo/ Tổng dư nợ cho biết tỷ lệ phần trăm số tiền lãi mà Ngân hàng
chưa thể thu hồi được trong tổng số dư nợ của Ngân hàng.
Hà Thị Lan Thu Lớp: Ngân hàng
18
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Chỉ số lãi treo càng cao cho thấy rủi ro mất vốn của Ngân hàng càng lớn, các khoản
nợ xấu của Ngân hàng gia tăng. Nếu Ngân hàng không có biện pháp xử lý nợ kịp
thời sẽ đối mặt với nguy cơ bị thua lỗ hoặc có khả năng mất vốn. Từ đó, chất lượng
tín dụng giảm và ảnh hưởng đến hiệu quả tín dụng và hoạt động kinh doanh của
Ngân hàng.
1.2.3.3.Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả tín dụng đối với hộ sản xuất
Nâng cao hiệu quả tín dụng đối với hộ sản xuất là một việc làm hết sức cần
thiết và quan trọng hiện nay, là yêu cầu thường xuyên đối với Ngân hàng. Để nâng
cao hiệu quả tín dụng cần phải xem xét các nhân tố có ảnh hưởng tới hiệu quả tín
dụng đối với hộ sản xuất.
1.2.3.3.1.Nhân tố thuộc về Ngân hàng
- Chính sách tín dụng của Ngân hàng: Đây là yếu tố quan trọng định hướng
cho Ngân hàng có những quyết định đúng đắn, có ý nghĩa quan trọng trong sự thành
bại của Ngân hàng. Khi chính sách tín dụng đưa ra là hợp lý và đúng đắn thì sẽ thu
hút được nhiều khách hàng, khuyến khích khách hàng trả nợ đúng thời hạn, đảm bảo
khả năng sinh lời từ hoạt động tín dụng của Ngân hàng.
Chính sách tín dụng là cơ sở để Ngân hàng điều hành hoạt động kinh doanh
của mình, giúp Ngân hàng chủ động hơn trong các quyết định của mình, cũng như
xây dựng kế hoạch kinh doanh dài hạn. Các hộ sản xuất thường quan tâm tới lợi ích

kinh tế hộ khi vay vốn, vì vậy, họ sẽ rất quan tâm tới lãi suất, kỳ hạn và phương
thức cho vay mà Ngân hàng đưa ra.
Chính sách tín dụng của Ngân hàng được xây dựng dựa trên cơ sở phân tán
rủi ro, chấp hành quy định của pháp luật và Ngân hàng Nhà nước đồng thời đảm bảo
lợi ích cho Ngân hàng và khách hàng do vậy có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả tín
dụng.
 Trình độ nhân sự của Ngân hàng, đặc biệt là cán bộ tín dụng: Trước sự
phát triển của nền kinh tế, hệ thống Ngân hàng ngày càng hiện đại đòi hỏi chất
lượng nhân sự có trình độ cao để đáp ứng yêu cầu trong quá trình hoạt động của
Ngân hàng, đặc biệt là hoạt động tín dụng. Cán bộ tín dụng nên tìm hiểu, phân tích
Hà Thị Lan Thu Lớp: Ngân hàng
19
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
và thẩm định rõ ràng từng món vay để có thể đưa ra quyết định cho vay chính xác
và khách quan. Trong quá trình tuyển dụng của Ngân hàng, các nhà quản lý không
chỉ chú ý đến mỗi chuyên môn của ứng viên mà nên xem xét tới phẩm chất của các
ứng viên bởi hoạt động cho vay thường xuyên tiếp xúc với tiền tệ, nếu không có tư
cách, đạo đức tốt sẽ dẫn đến những việc làm sai phạm gây thiệt hại cho Ngân hàng.
Năng lực của cán bộ thẩm định, giám sát, xử lý cho vay và quy trình cho vay
là nhân tố quan trọng để đánh giá hiệu quả tín dụng.
Công tác thẩm định không đảm bảo chất lượng sẽ dẫn tới sự sai lệch thông
tin của khách hàng, sẽ không đánh giá được chính xác tiềm lực của khách hàng, dẫn
tới việc cung cấp vốn sai đối tượng, đồng vốn sẽ được sử dụng không hiệu quả,
nghiêm trọng hơn là Ngân hàng có thể có nguy cơ bị mất vốn. Bởi vậy, thực hiên tốt
công tác thẩm định sẽ giúp Ngân hàng có những lựa chọn chính xác trong việc cấp
tín dụng cho những đối tượng khách hàng đủ tiêu chuẩn, có thể mang lại hiệu quả
kinh tế cho Ngân hàng, khách hàng và xã hội.
Khi thực hiện cho vay đối với khách hàng, cán bộ tín dụng phải thực hiện
theo đúng quy trình từ khâu chuẩn bị cho vay, giải ngân, kiểm tra sau cho vay đến
khi thu nợ nhằm đảm bảo an toàn nguồn vốn và nâng cao hiệu quả tín dụng của

Ngân hàng
 Công tác kiểm tra, kiểm soát thường xuyên sẽ giúp Ngân hàng nắm bắt
được đầy đủ thông tin và xác định được các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả tín dụng
của các món vay đã, đang và sắp được cấp tín dụng. Mục đích của việc giám sát cho
vay là kiểm tra xem khách hàng có thực hiện theo đúng các điều khoản trong hợp
đồng tín dụng, tiền vay có được sử dụng đúng mục đích đã cam kết hay không, nhắc
nhở khách hàng trả gốc và lãi đúng thời hạn, giám sát bảo quản và biến động của tài
sản đảm bảo nhằm hạn chế rủi ro có thể xảy ra. Số lần kiểm tra tùy thuộc vào mức
độ an toàn của khoản vay và mức độ tín nhiệm của khách hàng. Ngân hàng sẽ nắm
bắt được thường xuyên tình hình sử dụng vốn, tình hình tài chính của khách hàng và
sự đảm bảo của khoản vay sau mỗi lần kiểm tra.
Hà Thị Lan Thu Lớp: Ngân hàng
20
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
 Công nghệ thông tin phục vụ hoạt động tín dụng:
Nhờ có sự đổi mới về công nghệ mà hiệu quả tín dụng của Ngân hàng ngày
càng được nâng cao. Công nghệ thông tin phát triển, cán bộ Ngân hàng sẽ nhanh
chóng nắm bắt được nhu cầu khách hàng.
Thông tin cho vay cũng rất quan trọng đối với Ngân hàng. Khi thông tin
được cung cấp kịp thời, đầy đủ, cán bộ tín dụng sẽ nhanh chóng đưa ra được những
quyết định hợp lý và chính xác về khoản vay cũng như việc kiểm soát khoản vay.
Thông tin cho vay là cơ sở để Ngân hàng điều chỉnh, thay đổi chính sách một cách
hợp lý, và đưa ra các quyết định đúng đắn, gián tiếp làm nâng cao chất lượng hoạt
động tín dụng của Ngân hàng, có thể giúp Ngân hàng có đầy đủ thông tin để từ chối
những khoản vay không đủ tiêu chuẩn quy định.
1.2.3.3.2.Từ phía hộ sản xuất
Ngoài các nhân tố từ phía Ngân hàng ảnh hưởng đến hiệu quả tín dụng đối
với hộ sản xuất thì còn có các nhân tố ảnh hưởng từ chính khách hàng của Ngân
hàng là các hộ sản xuất.
 Năng lực của hộ sản xuất, bao gồm các năng lực sản xuất, năng lực thị

trường, năng lực tài chính và năng lực quản lý. Ngân hàng cần phải xem xét năng
lực của hộ sản xuất trước khi tiến hành cho vay vì điều này ảnh hưởng tới nhu cầu,
mục đích món vay cũng như quá trình trả gốc và lãi của hộ sản xuất. Nếu hộ không
đủ năng lực thì việc trả gốc và lãi của hộ sẽ không được thực hiện đủ và đúng theo
thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng.
Năng lực sản xuất phù hợp sẽ tạo ra một lượng giá trị tài sản tương ứng với
giá trị mà hộ sản xuất đầu tư kinh doanh, đó là công nghệ kỹ thuật sản xuất hiện đại
hay lạc hậu, hoạt động đầu tư trong quá khứ có hiệu quả hay không, năng lực sản
xuất là một cơ sở để Ngân hàng xem xét tính khả thi của dự án kinh doanh.
Năng lực thị trường thể hiện ở chất lượng sản phẩm mà hộ sản xuất cung cấp
cho thị trường, thương hiệu sản phẩm mà hộ đã xây dựng được, vị trí của sản phẩm
trên thị trường, sản phẩm hay ngành nghề mà hộ sản xuất kinh doanh có khả năng
chiếm lĩnh thị trường hay không.
Hà Thị Lan Thu Lớp: Ngân hàng
21
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Năng lực tài chính thể hiện ở cơ cấu vốn, khả năng về vốn tự có, các chỉ tiêu
thanh toán, năng lực hoạt động, lợi nhuận… của hộ sản xuất. Ngân hàng cần phải
quan tâm đến việc thẩm định năng lực tài chính của hộ để có quyết định cho vay hay
không.
Năng lực quản lý: Hộ sản xuất phải có khả năng quản lý tốt, thể hiện ở khả
năng quản lý khoản vay, sử dụng tiền vay đúng mục đích, khả năng tổ chức, quản lý
các thành viên trong hộ tham gia sản xuất tạo ra lợi nhuận, quản lý tài chính tốt để
có thể thực hiện trả lãi và gốc cho Ngân hàng đúng thời hạn.
 Tài sản đảm bảo: Khi hộ sản xuất đến vay tiền, nếu có tài sản đảm bảo là
bất động sản ( đất đai, nhà cửa ) hay các động sản ( phương tiện vận tải, các giấy tờ
có giá ) thì sẽ tạo được sự tin tưởng hơn từ phía Ngân hàng. Vì trong trường hợp hộ
không có khả năng trả nợ thì tài sản đảm bảo chính là cơ sở để Ngân hàng có thể thu
hồi vốn vay. Tài sản mà hộ đưa ra làm tài sản đảm bảo trước Ngân hàng phải dễ xác
định giá trị ở từng thời điểm cụ thể, dễ chuyển nhượng.

 Tính khả thi của dự án: Dự án kinh doanh của hộ phải mang tính thực tiễn
cao, đem lại hiệu quả kinh tế, có mục đích rõ ràng, đảm bảo sự phù hợp của quá
trình đầu tư dự án và quy trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Để đánh
giá được tính khả thi của dự án, Ngân hàng thường sử dụng một số chỉ tiêu kinh tế
như sau: tỷ suất thu hồi vốn nội bộ IRR, giá trị hiện tại ròng NPV, chỉ số doanh lợi
PI, thời gian hoàn vốn PV.
 Mức độ trung thực của khách hàng: Đạo đức của các thành viên trong hộ
sản xuất có ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả của khoản vay, việc khoản vay có được
sử dụng đúng mục đích hay được hoàn trả hay không, các thông tin mà các thành
viên cung cấp có chính xác hay không là phụ thuộc rất nhiều vào sự trung thực của
các thành viên. Nếu việc sử dụng vốn sai mục đích là chủ định của khách hàng trước
hoặc sau khi có tiền cho vay sẽ ảnh hưởng tới nguyên tắc cho vay hay thông tin mà
Ngân hàng tiếp nhận bị sai lệch, thiếu chính xác từ đó dẫn tới việc đưa ra các quyết
định thiếu hợp lý làm giảm hiệu quả tín dụng của Ngân hàng.
Hà Thị Lan Thu Lớp: Ngân hàng
22
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
1.2.3.3.3.Các nhân tố bên ngoài
Ngoài những nhân tố từ bên trong: hộ sản xuất, Ngân hàng thì nhóm yếu tố
bên ngoài cũng có ảnh hưởng một cách trực tiếp hoặc gián tiếp tới hiệu quả của món
vay.
 Môi trường kinh tế - xã hội: Đây là một nhân tố có ảnh hưởng khá lớn tới
hiệu quả tín dụng đối với hộ sản xuất. Chính sách tín dụng chịu ảnh hưởng nhiều
bởi đường lối, chủ trương của Nhà nước trong những thời kỳ nhất định. Ngân hàng
là một thể chế kinh tế thuộc lĩnh vực tài chính tiền tệ, một lĩnh vực hết sức nhạy
cảm, cần nắm bắt một cách nhanh nhạy mọi chủ trương, chính sách cũng như những
tác động của môi trường kinh tế - xã hội để xây dựng hệ thống chính sách tín dụng
đúng hướng và đem lại hiệu quả.
Môi trường kinh tế - xã hội là tổng hòa các mối quan hệ kinh tế - xã hội tác
động đến hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất. Một môi trường kinh tế

phát triển ổn định sẽ là cơ sở vững chắc, tạo điều kiện cho mọi khách hàng nói
chung và hộ sản xuất nói riêng làm ăn có lãi, hộ sản xuất sẽ vay nhiều hơn từ Ngân
hàng, các khoản vay được sử dụng hiệu quả và đúng mục đích. Ngược lại, với một
môi trường kinh tế - xã hội thiếu ổn định, không lành mạnh, đồng thời chịu sự tác
động của khủng hoảng kinh tế, thiên tai, lũ lụt,… sẽ gây ảnh hường xấu tới mọi
thành phần trong nền kinh tế. Đặc biệt trong thời điểm hiện nay, mọi sự thay đổi của
kinh tế các quốc gia trong cùng khu vực cũng như trên thế giới tác động rất lớn tới
kinh tế trong nước, cuộc khủng hoảng kinh tế là một minh chứng rõ ràng cho điều
đó. Bởi thế, không chỉ trong nước mà môi trường kinh tế thế giới cũng có ảnh
hưởng tới quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của hộ và hiệu quả tín dụng của
Ngân hàng.
 Môi trường pháp lý: Một môi trường pháp lý ổn định, đồng bộ, đầy đủ,
thống nhất là cơ sở pháp lý cho hoạt động cho vay Ngân hàng và hoạt động sản xuất
kinh doanh của hộ sản xuất được thuận lợi. Môi trường pháp lý bao gồm hệ thống
các văn bản quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành để điều chỉnh hoạt động tín
dụng của Ngân hàng. Trước sự phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ của nền kinh tế,
Hà Thị Lan Thu Lớp: Ngân hàng
23
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
để bắt kịp sự phát triển đó thì hệ thống quy định của hoạt động Ngân hàng nói
chung và hoạt động tín dụng nói riêng cũng ngày càng phải hoàn chỉnh hơn nữa.
 Môi trường tự nhiên: Đây là yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình
sản xuất kinh doanh của hộ sản xuất. Đặc biệt là các hộ sản xuất nông nghiệp. Khi
điều kiện tự nhiên thuận lợi, hoạt động sản xuất kinh doanh cũng sẽ thuận lợi, hộ
sản xuất sẽ có thu nhập ổn định và có khả năng tài chính để trả nợ Ngân hàng. Và
ngược lại, khi có thiên tai, dịch bệnh xảy ra, hộ sản xuất là người bị ảnh hưởng đầu
tiên, hoạt sản xuất bị đình trệ, các sản phẩm của hộ sẽ bị kém chất lượng, nặng nề
hơn nữa là hộ sẽ không thu được sản phẩm, đời sống của các thành viên trong hộ
sản xuất gặp khó khăn, việc trả nợ Ngân hàng bị đình trệ, có khi bị trì hoãn lâu dài.
Trong khi đó, điều kiện tự nhiên lại khó có thể dự đoán trước được và hậu quả nó

gây ra là không thể tránh khỏi, do vậy, môi trường tự nhiên là một nhân tố ảnh
hưởng lớn tới hiệu quả tín dụng.
Hà Thị Lan Thu Lớp: Ngân hàng
24
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI HỘ SẢN
XUẤT TẠI CHI NHÁNH NHNN&PTNT HUYỆN ĐÔNG HƯNG
2.1. Khái quát về Chi nhánh NHNN&PTNT huyện Đông Hưng
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển của Chi nhánh NHNN&PTNT huyện
Đông Hưng
Chi nhánh NHNN&PTNT huyện Đông Hưng mà tiền thân là Chi nhánh
Ngân hàng huyện Đông Hưng, trước đó chỉ là một Ngân hàng cơ sở, đảm nhiệm
chức năng huy động vốn và gửi tiền tiết kiệm của nhân dân để đáp ứng nhu cầu vay
vốn phục vụ cho sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, hộ kinh doanh và hộ
nông dân trên địa bàn toàn huyện.
Ngày 02/06/1998 Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam ký Quyết định
số 198/QĐ/NHNN5 thành lập NHNN&PTNT tỉnh Thái Bình trực thuộc
NHNN&PTNT Việt Nam.
Theo quyết định thành lập số 340/QĐ-02 ngày 19/06/1998 do Tổng Giám đốc
NHNN&PTNT Việt Nam ký, Chi nhánh Ngân hàng huyện Đông Hưng đổi tên thành
Chi nhánh NHNN&PTNT huyện Đông Hưng trực thuộc NHNN&PTNT Việt Nam.
Đến cuối năm 2003, Chi nhánh NHNN&PTNT huyện Đông Hưng được giám
đốc NHNN&PTNT tỉnh Thái Bình quyết định thành lập ba Ngân hàng cấp III giao
dịch trên các địa bàn bao gồm: Ngân hàng cấp III Đông Mỹ, Ngân hàng cấp III
Thăng Long, Ngân hàng cấp III Châu Giang, hiện nay đã đổi tên thành các Phòng
giao dịch (trực thuộc). Từ năm 2008, Phòng giao dịch Đông Mỹ tách khỏi Chi
nhánh NHNN&PTNT huyện Đông Hưng do thay đổi địa giới hành chính.
2.1.2. Cơ cấu tổ chức của Chi nhánh NHNN&PTNT huyện Đông Hưng
Chi nhánh NHNN&PTNT huyện Đông Hưng được đặt tại Thị trấn Đông

Hưng, trực thuộc chi nhánh là 02 phòng giao dịch được đặt tại phố Thăng Long và
phố Châu Giang, có chức năng: trực tiếp kinh doanh tiền tệ, tín dụng, dịch vụ Ngân
hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan, vì mục tiêu lợi nhuận theo
Hà Thị Lan Thu Lớp: Ngân hàng
25

×