Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

thông tin Khuyến nông Việt Nam 18 (2014)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (21.17 MB, 31 trang )

1
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
SỐ 18/2014 THÔNG TIN CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
N
gày 25/10/2014, tại thành phố Hà Nội,
Ban chỉ đạo thực hiện Đề án “Thí điểm
tổ chức khai thác, thu mua, chế biến, tiêu thụ cá
ngừ theo chuỗi” tổ chức phiên họp lần thứ nhất.
Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và PTNT - Trưởng
Ban chỉ đạo Vũ Văn Tám chủ trì phiên họp.
Ngày 14/11/2014, Văn phòng Bộ Nông nghiệp
và PTNT đã có thông báo về kết luận của Thứ
trưởng. Nội dung cụ thể như sau:
1. Cơ quan thường trực Ban chỉ đạo tiếp thu
các ý kiến để hoàn thiện Quy chế làm việc của
Ban chỉ đạo trên tinh thần gọn và đầy đủ các
nội dung về nhiệm vụ nguyên tắc, chế độ làm
việc, họp của Ban chỉ đạo, chế độ thông tin, báo
cáo của cơ quan thường trực Ban chỉ đạo và bộ
máy giúp việc Ban chỉ đạo để trình Trưởng Ban
ký ban hành trong tháng 11/2014.
2. Đối với kế hoạch triển khai Đề án, tập
trung vào các vấn đề sau:
a. Cần bổ sung công tác triển khai Đề án:
- Tổng cục Thủy sản, Trung tâm Khuyến
nông Quốc gia bổ sung nhiệm vụ thực hiện Đề
án và bố trí kinh phí vào kế hoạch triển khai Đề
án, bộ máy giúp việc và kế hoạch triển khai Đề
án chi tiết cho phù hợp với điều kiện của từng


tỉnh (có thể lồng ghép với Ban chỉ đạo đã có).
- Các địa phương tiếp tục xây dựng 3 loại
mô hình liên kết thuộc nội dung Đề án, lưu ý đặc
biệt chú ý vai trò của doanh nghiệp và chủ tàu,
trong đó doanh nghiệp là trung tâm xây dựng
chuỗi liên kết. Tuy nhiên, cần củng cố mô hình
tổ đội khai thác trên biển đảm bảo thực chất,
hiệu quả và làm rõ trách nhiệm chia sẻ lợi ích
và rủi ro thì liên kết giữa doanh nghiệp thu mua,
tiêu thụ với tổ đội mới có hiệu quả.
- Về kinh phí thực hiện các nhiệm vụ bao
gồm cả kinh phí Trung ương và địa phương.
b. Về đầu tư cơ sở hậu cần phục vụ khai
thác cá ngừ:
- Tổng cục Thủy sản thống nhất với các địa
phương để rà soát, điều chỉnh quy hoạch cảng
cá, khu neo đậu tránh trú bão trình Chính phủ
năm 2015, trong đó lựa chọn xây dựng một
cảng cá ngừ chuyên dụng là dự án ưu tiên đầu
tư. Trước mắt địa phương nào đã xác định và
đủ thủ tục đầu tư nguồn vốn có thể từ nguồn
vốn vay WB thực hiện Dự án nguồn lợi ven
biển vì sự phát triển bền vững. Địa phương
nào chưa kịp thời các thủ tục đầu tư theo quy
định thì đưa vào kế hoạch vốn từ Nghị định số
67/2014/NĐ-CP của Chính phủ về một số chính
sách phát triển thủy sản, kế hoạch đầu tư trung
hạn 2016 - 2020.
- Đối với tỉnh Khánh Hòa, Trung tâm Giao
dịch Cá ngừ nên gắn với Trung tâm Nghề cá

Lớn. Chủ động làm rõ quy hoạch, thuê tư vấn
lập quy hoạch chi tiết và xúc tiến các bước
KẾT LUẬN
CỦA THỨ TRƯỞNG BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT VŨ VĂN TÁM
VỀ ĐỀ ÁN “THÍ ĐIỂM TỔ CHỨC KHAI THÁC, THU MUA,
CHẾ BIẾN, TIÊU THỤ CÁ NGỪ THEO CHUỖI”
2
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
THÔNG TIN CHỦ TRƯƠNG, CHÍNH SÁCH NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT SỐ 18/2014
đầu tư, Bộ Nông nghiệp và PTNT sẽ hướng dẫn
phối hợp cùng tỉnh để ưu tiên đầu tư và xúc tiến
đầu tư.
c. Về công tác đào tạo:
- Đây là nhiệm vụ quan trọng mang tính
đột phá của Đề án, Tổng cục Thủy sản và các
địa phương cần quyết liệt chỉ đạo và kiên trì
thực hiện.
- Tổng cục Thủy sản chủ trì, phối hợp với các
địa phương, đơn vị liên quan xây dựng kế hoạch
đào tạo (triển khai Nghị định số 67/2014/NĐ-CP)
về vận hành tàu vỏ thép và vật liệu mới, kỹ thuật
khai thác bảo quản, chế biến sản phẩm cá ngừ.
Hợp tác với Trung tâm Phát triển Nghề cá Đông
Nam Á (SEAFDEC) mời chuyên gia sang Việt
Nam đào tạo tập huấn tại chỗ cho cán bộ, ngư
dân; hoặc đưa ngư dân đi nước ngoài đào tạo.
- Các địa phương có kế hoạch cụ thể, đồng
thời có cơ chế chính sách khuyến khích, tạo điều
kiện cho doanh nghiệp trong và ngoài nước đào

tạo trực tiếp cho ngư dân.
d. Về chuyển giao khoa học công nghệ và
khuyến ngư:
- Viện Nghiên cứu Hải sản đề xuất và triển
khai các chương trình, dự án nâng cao năng lực
điều tra nguồn lợi, dự báo ngư trường và thông
tin kịp thời cho ngư dân theo quy định.
- Tổng cục Thủy sản chủ trì việc xây dựng,
hướng dẫn các quy trình công nghệ về khai thác,
bảo quản và chế biến sản phẩm cá ngừ.
- Trung tâm Khuyến nông Quốc gia chủ trì
phối hợp với các địa phương, Hiệp hội Cá ngừ tổ
chức tập huấn, chuyển giao kỹ thuật khai thác và
bảo quản sản phẩm cá ngừ cho cán bộ và ngư
dân thông qua các mô hình.
- Các địa phương chủ động tổ chức lại mô
hình chuyển giao tiến bộ kỹ thuật trong khai thác,
bảo quản, chế biến cá ngừ, tổ chức nghiên cứu
ứng dụng cải tiến các loại ngư lưới cụ, trang thiết
bị phù hợp với đặc điểm và điều kiện của từng
địa phương.
e. Về hợp tác quốc tế:
- Tổng cục Thủy sản là đầu mối và phối hợp
với các địa phương có chương trình hợp tác
riêng với Nhật Bản về nghiên cứu và chuyển giao
công nghệ khai thác, chế biến, bảo quản cá ngừ,
đồng thời mở rộng hợp tác với các nước trong
khu vực và thế giới.
- Tổng cục Thủy sản đề xuất đổi mới công tác
xúc tiến thương mại, mở rộng tìm kiếm các thị

trường khác nhau, không để phụ thuộc vào một
thị trường nhất định.
- Các địa phương chủ động xúc tiến đầu tư,
hợp tác với doanh nghiệp và đối tác nước ngoài.
g. Về đóng tàu:
- Các địa phương lập kế hoạch theo Thông tư
hướng dẫn của các bộ, ngành về triển khai Nghị
định số 67/2014/NĐ-CP.
- Tháng 11/2014, Bộ sẽ phê duyệt và công bố
chính thức 21 mẫu thiết kế tàu vỏ thép■
BBT (gt)
3
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
HOẠT ĐỘNG KHUYẾN NÔNG
SỐ 18/2014
TTKNQG: * TẬP HUẤN ToT VỀ
“CHĂN NUÔI LỢN THEO HƯỚNG VIETGAP”
N
hằm nâng cao năng lực, bổ sung kiến thức,
kỹ năng về kỹ thuật chăn nuôi lợn theo
hướng an toàn, hiệu quả bền vững cho đội ngũ làm
công tác khuyến nông, đầu tháng 11/2014, tại thành
phố Sơn La, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia phối
hợp với Trung tâm Khuyến nông Sơn La tổ chức
khóa tập huấn ToT về “Chăn nuôi lợn theo hướng
VietGAP” cho 30 học viên đến từ Trung tâm Khuyến
nông của 03 tỉnh Sơn La, Hòa Bình và Yên Bái.
Trong 05 ngày tập huấn, học viên đã được giảng
viên giới thiệu truyền đạt các nội dung chính về:

Thực trạng ngành chăn nuôi lợn tại Việt Nam; các
yêu cầu kỹ thuật chăn nuôi lợn trong nông hộ; công
tác giống, sử dụng thức ăn trong chăn nuôi lợn;
kỹ thuật nuôi lợn thương phẩm theo lứa tuổi, lợn
nái, lợn đực giống; kỹ thuật xây dựng chuồng trại;
các bệnh thường gặp trong chăn nuôi lợn và cách
phòng, trị; hướng dẫn hạch toán kinh tế trong chăn
nuôi lợn, Sau thời gian học lý thuyết, các học viên
đã đi tham quan thực tế và thực hành một số thao
tác kỹ thuật ngay tại chuồng trại chăn nuôi của nông
hộ. Ngoài ra, nhiều học viên có kinh nghiệm trong
chăn nuôi lợn đã chia sẻ kinh nghiệm chăn nuôi của
mình cho các học viên khác.
Lớp tập huấn là cơ hội tốt cho các cán bộ
khuyến nông và cộng tác viên khuyến nông của 03
tỉnh nâng cao kiến thức, kỹ năng về kỹ thuật chăn
nuôi lợn theo hướng VietGAP, qua đó góp phần đẩy
mạnh phát triển sản xuất chăn nuôi lợn, tăng hiệu
quả kinh tế theo hướng bền vững, nâng cao thu
nhập cho người dân ở 3 tỉnh.
THANH NHÀN
Trung tâm Khuyến nông Sơn La
* TẬP HUẤN NGOÀI MÔ HÌNH VỀ
“QUY TRÌNH SẢN XUẤT ĐẬU RAU AN TOÀN”
N
gày 15/11/2014, Trung tâm Khuyến nông
Quốc gia phối hợp với Trung tâm Khuyến
nông Hà Giang tổ chức lớp tập huấn ngoài mô hình
về “Quy trình sản xuất đậu rau an toàn” tại xã Đông
Hà, huyện Quản Bạ, tỉnh Hà Giang. Tham gia lớp

tập huấn có 30 học viên là cán bộ khuyến nông cơ
sở và các hộ nông dân ngoài mô hình của các xã
Lùng Tám, Cán Tỷ, Đông Hà của huyện Quản Bạ.
Trong thời gian tập huấn, các học viên được
giảng viên đến từ Viện Nghiên cứu Rau quả - Viện
Khoa học Nông nghiệp Việt Nam hướng dẫn các
nội dung như: Quy trình thực hành sản xuất nông
nghiệp tốt cho rau quả tươi an toàn tại Việt Nam
(VietGAP); thủ tục để một cơ sở sản xuất rau được
cấp giấy chứng nhận sản xuất rau theo VietGAP;
một số nguyên tắc cơ bản trong sản xuất rau theo
VietGAP mà nông dân và cơ sở sản xuất phải tuân
thủ; quy trình kỹ thuật sản xuất đậu vàng và đậu
cô ve leo… Tại lớp tập huấn, các học viên cùng
nhau trao đổi thảo luận và được giải đáp những
vướng mắc về kỹ thuật sản xuất đậu rau an toàn và
các biện pháp phòng trừ các bệnh chủ yếu trên đậu
cô ve, đậu Hà Lan Ngoài ra, các học viên còn đi
tham quan mô hình sản xuất đậu rau an toàn trên
địa bàn huyện Quản Bạ.
Sau lớp tập huấn, các học viên sẽ là người trực
tiếp hướng dẫn, giúp các hộ nông dân tại cơ sở tiếp
cận kỹ thuật, tin tưởng, mạnh dạn, đầu tư phát triển
sản xuất đậu rau an toàn theo hướng VietGAP. Đây
cũng là cơ sở để chính quyền địa phương vận động
bà con đầu tư thực hiện các mô hình sản xuất đậu
rau an toàn, nhằm phát huy hiệu quả hơn lợi thế,
tiềm năng về đất đai, khí hậu của địa phương.
PHẠM LAN ANH
Trung tâm Khuyến nông Hà Giang

Lãnh đạo Trung tâm Khuyến nông Quốc gia
tham quan hiện trường mô hình
4
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
HOẠT ĐỘNG KHUYẾN NÔNG
SỐ 18/2014
THANH HÓA: TĂNG CƯỜNG KIỂM SOÁT GIỐNG
TRONG NUÔI TRỒNG THỦY SẢN
T
ỉnh Thanh Hóa hiện có diện tích chuyên nuôi
trồng thủy sản (NTTS) ở các vùng triều trên
là 18.050 ha, trong đó có 10.350 ha nuôi nước ngọt
và 7.700 ha nuôi nước mặn, lợ. Để hoạt động NTTS
của người dân đạt hiệu quả, ngay từ đầu vụ nuôi
ngành thủy sản đã phối hợp với các địa phương
tăng cường tập huấn, hướng dẫn cho nông dân về
các đối tượng nuôi, quy trình kỹ thuật nuôi thủy sản
theo hướng sản xuất hàng hóa. Các cơ quan chức
năng đặc biệt quan tâm đến việc quản lý sản xuất
và cung ứng giống nhập vào địa bàn tỉnh. Công
tác thanh tra, kiểm tra các cơ sở và các hộ sản
xuất, kinh doanh giống thủy sản được thực hiện
thường xuyên.
Từ đầu năm đến nay, Sở Nông nghiệp và PTNT
Thanh Hóa đã tiến hành kiểm tra và xử lý 15 hộ, cơ
sở sản xuất và kinh doanh giống thủy sản vi phạm
về tiêu chuẩn, đăng ký kinh doanh giống thủy sản.
Tổ chức thanh tra trên diện rộng với 75 cơ sở hoạt
động trong lĩnh vực thú y thủy sản, phát hiện và xử

lý 7 cơ sở vi phạm về chất lượng và kinh doanh
không đúng ngành nghề kinh doanh. Theo đó, công
tác phòng trừ dịch bệnh trong NTTS tiếp tục tăng
cường trong thời gian tới. Trung tâm Khuyến nông
tỉnh tổ chức các lớp tập huấn kỹ thuật, xây dựng
các mô hình nuôi thủy sản an toàn dịch bệnh và
ứng dụng các kỹ thuật mới vào nuôi tôm. Trung tâm
Giống và Kỹ thuật thủy sản Thanh Hóa nghiên cứu,
sản xuất các loại giống mới có chất lượng, giá trị
kinh tế cao chuyển giao cho các hộ nuôi.
Nhờ có các biện pháp trên, NTTS 10 tháng đầu
năm khá ổn định, năng suất và sản lượng nuôi đạt
khá trên tất cả các loại hình nuôi, đối tượng nuôi.
Sản lượng ước đạt 36.626 tấn, đạt 79,62% kế
hoạch, tăng 11,6% so với cùng kỳ, trong đó: nuôi
nước mặn đạt 10.491 tấn; nuôi nước lợ 5.028 tấn;
nuôi nước ngọt 21.107 tấn.
LÊ HỢI
QUẢNG TRỊ: TẬP HUẤN ToT
VỀ TRUYỀN THÔNG HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG
THUỐC BẢO VỆ THỰC VẬT AN TOÀN
V
ừa qua, tại thị trấn Hải Lăng, Trạm Khuyến
nông Khuyến ngư huyện Hải Lăng, tỉnh
Quảng Trị đã tổ chức khóa tập huấn kỹ năng ToT
về Truyền thông hướng dẫn sử dụng thuốc bảo vệ
thực vật an toàn và Kỹ thuật làm phân ủ compost
(phân hữu cơ vi sinh) cho hơn 40 khuyến nông viên
và cộng tác viên khuyến nông của 7 xã tham gia dự
án là: Hải Quy, Hải Xuân, Hải Thiện, Hải Thành, Hải

Dương, Hải Trường và Hải Hòa.
Khóa tập huấn diễn ra trong 4 ngày. Trong 3
ngày đầu các học viên được cung cấp các kiến thức
cơ bản về thuốc bảo vệ thực vật và tiến hành thực
hành truyền thông về kiến thức sử dụng thuốc BVTV,
đặc biệt chú trọng “5 quy tắc vàng” và nguyên tắc 4
đúng trong sử sụng thuốc BVTV. Ngày còn lại các
giảng viên cung cấp các kiến thức về quy trình xử lý
rơm rạ, phế phụ phẩm nông nghiệp thành phân hữu
cơ vi sinh. Ngoài ra, học viên cũng được chia sẻ và
giải đáp các thắc mắc liên quan đến các kiến thức
nông nghiệp ở địa bàn mình phụ trách.
Kết thúc khóa học, 100% học viên cho rằng tất
cả các nội dung đào tạo đều rất hữu ích, phương
pháp giảng dạy của giáo viên dễ hiểu, phù hợp
với trình độ tiếp thu của học viên và nội dung tập
huấn. Các học viên đã nắm vững kiến thức về thuốc
BVTV, cách thức xử lý rơm rạ thành phân hữu cơ vi
sinh, có thể áp dụng tốt các kiến thức đã học trong
quá trình công tác.
PHAN VIỆT TOÀN
Trung tâm Khuyến nông Khuyến ngư Quảng Trị
Quang cảnh lp tp hun
5
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
HOẠT ĐỘNG KHUYẾN NÔNG
SỐ 18/2014
TRÀ VINH:
TỌA ĐÀM MÔ HÌNH ỨNG DỤNG

HỆ THỐNG THÂM CANH TRONG SẢN XUẤT LÚA
N
gày 14/11/2014, tại ấp Hòa Hảo, xã Phước
Hảo, huyện Châu Thành, Trung tâm Khuyến
nông Khuyến ngư (KNKN) Trà Vinh tổ chức tọa
đàm mô hình ứng dụng hệ thống thâm canh tổng
hợp trong sản xuất lúa (SRI) và hỗ trợ máy cấy lúa
cho nông dân. Đến tham dự có hơn 30 nông dân ở
địa phương.
Mô hình trình diễn Ứng dụng hệ thống thâm canh
tổng hợp trong sản xuất lúa SRI được thực hiện tại
Tổ sản xuất lúa giống ấp Hòa Hảo, xã Phước Hảo,
huyện Châu Thành trên diện tích 23 ha, nhằm ứng
dụng kỹ thuật mới để giảm mật độ gieo cấy, giảm
nước tưới, giảm phân hóa học và thuốc trừ sâu,
tăng năng suất lúa và hiệu quả kinh tế. Kết quả,
năng suất ước tính thu hoạch trên 7 tấn/ha, cao
hơn so với ruộng ngoài mô hình hơn 500 kg/ha,
với giá lúa hiện nay gần 6.000 đồng/kg, nông dân
thu hơn 42 triệu đồng/ha, sau khi trừ chi phí còn lợi
nhuận trên 30 triệu đồng/ha, cao hơn so với ruộng
ngoài mô hình hơn 3 triệu đồng/ha. Theo đánh giá,
so với biện pháp canh tác truyền thống, mô hình
SRI giúp nông dân giảm chi phí sản xuất, tăng hiệu
quả kinh tế. Sau khi tham quan mô hình, cán bộ kỹ
thuật Trung tâm KNKN Trà Vinh đã trao đổi với bà
con nông dân về các biện pháp giảm chi phí trong
sản xuất lúa SRI, quy trình bón phân cân đối trong
sản xuất lúa SRI và kỹ thuật gieo mạ cho máy cấy
lúa và hỗ trợ máy cấy lúa cho nông dân.

Trước đó, ở vụ sản xuất lúa hè thu năm 2014,
Trung tâm KNKN Trà Vinh cũng đã hỗ trợ một máy
cấy lúa cho Tổ sản xuất Lúa giống ở địa phương.
NGUYỄN TÂN
Đài Phát thanh Truyền hình Trà Vinh
QUẢNG NAM:
HIỆU QUẢ MÔ HÌNH MÂY TRE ĐAN
PHỤC VỤ NHU CẦU NỘI TIÊU VÀ XUẤT KHẨU
N
ăm 2014, được sự đầu tư hỗ trợ của Trung
tâm Khuyến nông Quốc gia, Trung tâm
Khuyến nông Khuyến ngư Quảng Nam đã phối hợp
với Trạm Khuyến nông Khuyến lâm huyện Thăng
Bình, Ủy ban Nhân dân xã Bình An xây dựng Mô
hình phát triển ngành mây tre đan phục vụ nhu
cầu nội tiêu và xuất khẩu tại thôn An Thành 3, xã
Bình An, huyện Thăng Bình với 10 hộ tham gia.
Tham gia dự án các hộ dân được nhà nước hỗ
trợ 50% giá trị máy móc. Qua thời gian sử dụng
dây chuyền máy móc, thiết bị trong sản xuất mây
tre đan đã mang lại hiệu quả như: Giảm đáng kể
thời gian làm ra 1 sản phẩm (giảm 1 giờ/sản phẩm);
năng suất lao động tăng lên 2 lần; giá thành giảm
(40.000 đồng/sản phẩm), vì vậy, lãi ròng tăng lên
gấp đôi. Với số lượng 20 công nhân, làm được
160 sản phẩm/ngày thì lãi thu được là
640.000 đồng/ngày.
Mô hình đã mang lại hiệu quả kinh tế cao, đồng
thời giải quyết được nguồn nguyên liệu dồi dào và
nguồn lao động nông nhàn, là cơ sở để chuyển dịch

lao động nông nghiệp sang lao động ngành nghề
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp phù hợp với
nhiều địa phương đang thực hiện xây dựng nông
thôn mới.
PHAN VĂN PHƯỚC
Trung tâm Khuyến nông Khuyến ngư Quảng Nam
SÓC TRĂNG: TỔNG KẾT VỤ NUÔI TÔM
NƯỚC LỢ 2014 VÀ TRIỂN KHAI KẾ HOẠCH 2015
C
hiều ngày 17/11, Sở Nông nghiệp và PTNT
Sóc Trăng đã tổ chức Hội nghị tổng kết vụ
nuôi tôm nước lợ năm 2014 và triển khai kế hoạch
nuôi tôm năm 2015, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Sóc
Trăng Lê Thành Trí chủ trì Hội nghị.
Các đại biểu tham quan mô hình sản xut lúa theo SRI
6
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
HOẠT ĐỘNG KHUYẾN NÔNG
SỐ 18/2014
Theo báo cáo, vụ nuôi tôm nước lợ 2014 toàn
tỉnh đã thả nuôi trên 46.700 ha, tăng 3% so với năm
2013. Trong đó, diện tích nuôi tôm thâm canh và
bán thâm canh chiếm gần 84% với hơn 39.000 ha,
tăng 5.700 ha so với cùng kỳ, riêng diện tích nuôi
tôm thẻ là trên 27.100 ha, tăng 1,7 lần so với năm
trước, hiện toàn tỉnh còn khoảng 4.000 ha tôm chưa thu
hoạch. Sản lượng tôm nuôi đã thu hoạch được 70.100
tấn, đến cuối năm sản lượng ước đạt 81.700 tấn, trong
đó sản lượng tôm thẻ chân trắng đạt gần 66.000

tấn. Diện tích tôm nuôi bị thiệt hại tính đến cuối
tháng 10 là 19.550 ha, chiếm hơn 41% diện tích thả
nuôi và tăng 10% so với cùng kỳ, ước giá trị thiệt
hại trên 200 tỷ đồng. Hội nghị đã tập trung phân tích
nguyên nhân thiệt hại, những biện pháp khắc phục
để giảm diện tích thiệt hại cho vụ nuôi 2015 xuống
còn 20%.
Kế hoạch vụ nuôi năm 2015 diện tích nuôi là
45.000 ha, trong đó, nuôi tôm thâm canh và bán
thâm canh là 35.000 ha, quảng canh cải tiến là
10.000 ha. Sản lượng tôm phấn đấu đạt 90.000 tấn.
Lịch khuyến cáo vụ nuôi tôm nước lợ năm 2015 bắt
đầu từ ngày 15/11/2014 và kết thúc thả giống ngày
31/8/2015, các địa phương cần theo dõi khung lịch
thời vụ đã khuyến cáo.
NGUYỄN HÒA
TÂY NINH: HIỆU QUẢ BƯỚC ĐẦU CỦA MÔ HÌNH
CHĂN NUÔI GÀ THỊT AN TOÀN SINH HỌC
THEO HƯỚNG VIETGAP
T
hực hiện dự án của Trung tâm Khuyến nông
tỉnh Tây Ninh, năm 2014, Trạm Khuyến nông
huyện Tân Châu đã triển khai mô hình chăn nuôi
gà thịt an toàn sinh học theo hướng VietGAP với
sự tham gia của 3 hộ dân ở ấp Thạnh Nghĩa, xã
Thạnh Đông. Tham gia mô hình, bà con được hỗ
trợ 100% con giống và 30% vật tư, bao gồm thức
ăn, vắc-xin, thuốc sát trùng. Bước đầu mỗi hộ gia
đình nhận nuôi 400 con gà thịt giống lông màu. Đến
nay, mô hình đã thực hiện được trên 3 tháng, gà

có cân nặng trung bình từ 1,6 - 1,8 kg/con. Trong
quá trình triển khai, bà con còn được hướng dẫn áp
dụng mô hình đệm lót sinh học để xử lý phân, giúp
gà ít bị bệnh, giảm công chăm sóc và dọn chuồng
trại, đảm bảo môi trường.
Bà Nguyễn Ngọc Minh - cán bộ Trạm Khuyến
nông huyện Tân Châu cho biết, khi thực hiện dự án,
Trạm đã tổ chức các lớp tập huấn kỹ thuật cho bà
con như tiêm vắc-xin theo từng độ tuổi, hướng dẫn
khử trùng chuồng trại, khuyến cáo bà con không
nuôi chung gà của mô hình với gà nhà trước đây
vì sẽ dễ lây bệnh, cách bảo quản thức ăn, cách sử
dụng đệm lót sinh học…
CHÍ THÀNH
ĐẮK NÔNG: HỘI THẢO VỀ NUÔI CÁ CHÉP V1
N
gày 18/11 vừa qua Trạm Khuyến nông
Khuyến ngư thị xã Gia Nghĩa, tỉnh Đắk Nông
đã tổ chức hội thảo về nuôi cá chép V1 cho 30 hộ
dân và khuyến nông viên trên địa bàn huyện.
Năm 2014, Trạm Khuyến nông Khuyến ngư thị
xã Gia Nghĩa đã triển khai mô hình nuôi cá chép V1
là chính với tỷ lệ cá chép V1 chiếm 70% con giống,
còn lại là các loại cá trắm, rô phi, mè tại 2 hộ dân
với tổng diện tích 2 sào. Thức ăn cho cá chủ yếu
là cám hỗn hợp. Trước khi triển khai mô hình, cán
bộ của Trạm Khuyến nông Khuyến ngư thị xã Gia
Nghĩa đã phổ biến kỹ thuật và phát tài liệu về kỹ
thuật nuôi một số loại cá cho các hộ dân và khuyến
nông viên. Trong quá trình nuôi, các hộ dân đã tuân

thủ đúng quy trình kỹ thuật mà mô hình đề ra. Sau 5
tháng triển khai, tỷ lệ sống đạt 90%, trọng lượng đạt
0,5 kg/con, lợi nhuận đạt 20 triệu đồng/sào.
Tại hội thảo, Trạm Khuyến nông Khuyến ngư
thị xã Gia Nghĩa đánh giá mô hình mang lại hiệu
quả thiết thực, vừa giúp bà con nắm vững được kỹ
thuật để có thể áp dụng vào thực tế vừa nâng cao
thu nhập cải thiện đời sống.
THANH NGA
7
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
HOẠT ĐỘNG KHUYẾN NÔNG
SỐ 18/2014
M
ới đây, Trung tâm Khuyến
nông Khuyến ngư Quảng
Ninh đã triển khai thực hiện mô
hình hỗ trợ chăn nuôi vịt biển đối
với một số hộ dân tại xã Đồng
Rui huyện Tiên Yên và xã Cộng
Hoà, huyện Cẩm Phả. Đây là mô
hình thuộc dự án “Xây dựng mô
hình sản xuất giống gia cầm cho
các tỉnh miền núi biên giới phía
Bắc giai đoạn 2014 - 2016”. Theo
đánh giá của cán bộ kỹ thuật
Trung tâm Khuyến nông Khuyến
ngư và bà con nông dân, mô hình
hứa hẹn sẽ cho hiệu quả kinh tế cao.

Từ lâu, nghề nuôi vịt ven biển
của Quảng Ninh đã được nhiều
hộ dân tại một số địa phương ven
biển các huyện Đầm Hà, Tiên
Yên, Vân Đồn… áp dụng và bước
đầu đã mang lại hiệu quả kinh tế.
Do vịt biển thích nghi với điều
kiện tự nhiên tại các địa phương
ven biển và có vốn đầu tư không
nhiều so với những ngành chăn
nuôi khác, thời gian nuôi ngắn, lại
tận dụng nguồn thức ăn tự nhiên
giàu dinh dưỡng nên vịt đẻ trứng
với tỷ lệ rất cao.
Mô hình nuôi vịt biển sinh sản
được Trung tâm triển khai với
quy mô 2.000 con vịt bố, mẹ và
một máy ấp trứng đối với 16 hộ
chăn nuôi tham gia. Anh Nguyễn
Đình Duẩn, cán bộ kỹ thuật Trung
tâm Khuyến nông Khuyến ngư
tỉnh cho biết: Dự án “Xây dựng
mô hình sản xuất giống gia cầm
cho các tỉnh miền núi biên giới
phía Bắc giai đoạn 2014 - 2016”
với mục tiêu nâng cao năng lực
sản xuất giống gia cầm tại chỗ
cho 7 tỉnh biên giới miền núi
phía Bắc nhằm chủ động nguồn
giống gia cầm tại chỗ. Việc triển

khai dự án từng bước góp phần
làm giảm và chấm dứt tình trạng
nhập giống gia cầm trái phép từ
bên kia biên giới vào Việt Nam.
Triển khai mô hình, Trung tâm đã
phối hợp với phòng chức năng
của các địa phương để kiểm tra,
khảo sát chọn địa điểm xây dựng
mô hình sản xuất giống gia cầm
cho các tỉnh miền núi biên giới
phía Bắc. Qua kiểm tra, đánh giá
đã lựa chọn được 16 hộ tham
gia dự án có đủ điều kiện tại xã
Đồng Rui (huyện Tiên Yên) và xã
Cộng Hoà (huyện Cẩm Phả). Bà
Phạm Hải Nhạn, thôn Thượng,
xã Đồng Rui, huyện Tiên Yên cho
biết: Tham gia mô hình, gia đình
tôi được hỗ trợ 125 vịt bố, mẹ và
50% kinh phí về thức ăn và thuốc
thú y; được đi tham quan học hỏi
kinh nghiệm một số mô hình nuôi
vịt biển tại các trang trại chăn
nuôi vịt biển cho hiệu quả cao, từ
đó về áp dụng đối với chăn nuôi
của gia đình. Đến nay, toàn bộ số
vịt của gia đình đều khoẻ mạnh
và đang phát triển tốt.
Cũng theo kỹ sư Nguyễn Đình
Duẩn, giống vịt biển này là vịt

kiêm dụng, có màu cánh sẻ đậm.
Đây là giống vịt sinh trưởng, phát
triển nhanh; khả năng chống chịu
dịch bệnh tốt. Khi trưởng thành
có trọng lượng bình quân từ
2,8 - 3 kg; năng suất trứng bình
quân 230 - 240 quả/năm. Vịt
nuôi 2 tháng tuổi có thể đạt trọng
lượng 2,5 kg. Vịt Đại Xuyên có
thể nuôi theo hình thức công
nghiệp hoặc bán công nghiệp.
Do chất lượng trứng ngon được
thị trường ưa chuộng nên nghề
nuôi vịt biển sẽ cho hiệu quả kinh
tế khá cao.
Có thể nói, nuôi vịt biển ở các
xã ven biển trên địa bàn tỉnh thời
gian qua bước đầu đã mang lại
hiệu quả kinh tế khá cao như tại
xã Tân Bình (huyện Đầm Hà),
xã Quan Lạn (huyện Vân Đồn).
Chăn nuôi vịt biển đã cung cấp
sản phẩm có chất lượng, đáp
ứng yêu cầu thị trường và an
toàn cho người tiêu dùng. Thực
tế cho thấy, đây là mô hình rất
thiết thực, cần nhân rộng nhằm
phát triển kinh tế gia đình, tạo sự
ổn định trong chăn nuôi, phát huy
tiềm năng sẵn có tại địa phương.

Mô hình chăn nuôi vịt biển do
Trung tâm Khuyến nông Khuyến
ngư tỉnh triển khai thực hiện tại
Đồng Rui và Cộng Hoà sẽ góp
phần mở rộng quy mô đối với
nghề nuôi vịt biển trên địa bàn
tỉnh và hứa hẹn sẽ cho hiệu quả
kinh tế cao, tạo nguồn giống vịt
biển đáp ứng nhu cầu nuôi tại
địa phương■
HỮU VIỆT
Triển vọng từ mô hình
Nuôi vịt biển
8
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
HOẠT ĐỘNG KHUYẾN NÔNG
SỐ 18/2014
N
uôi cá lồng trên sông Trà Khúc là một trong
những nghề giúp nhiều nông dân xã Tịnh
Sơn, huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi phát triển
kinh tế. Tuy nhiên, với cách làm manh mún, nhỏ lẻ
nên hiệu quả kinh tế đem lại chưa cao. Việc thành
lập Tổ hợp tác Nuôi cá lồng trên sông Trà Khúc ở
xã Tịnh Sơn sẽ giúp các hộ nuôi có điều kiện trao
đổi, chia sẻ kinh nghiệm lẫn nhau và định hướng
tìm kiếm thêm thị trường tiêu thụ.
Ông Lê Thái Sơn ở đội 9, thôn Phước Lộc Tây,
xã Tịnh Sơn có 3 lồng nuôi cá trắm cỏ với khoảng

600 con cá, mỗi năm cho thu nhập khoảng trên
60 triệu đồng. Tuy nhiên, trong quá trình nuôi ông
Sơn phải tự thực hiện các bước từ mua thức ăn,
chữa bệnh cho cá, bán cá… mà không có sự giúp
đỡ hoặc hướng dẫn từ các cơ quan chuyên môn.
Vì vậy, khi gặp trường hợp cá chết hoặc bị thương
lái ép giá, ông chịu nhiều thiệt thòi.
Ông Trần Nam ở đội 9, thôn Phước Lộc Tây, xã
Tịnh Sơn có 3 lồng nuôi cá trắm cỏ và cá chình.
Mỗi vụ, ông Nam thả khoảng 1.000 con nhưng đến
khi thu hoạch chỉ còn khoảng 200 con do lượng cá
bị chết rất nhiều. Tuy nhiên, từ khi tham gia Tổ hợp
tác Nuôi cá lồng, ông Nam sẽ được phổ biến kiến
thức, kỹ thuật chăm sóc và phòng trị bệnh cho cá,
được trao đổi kinh nghiệm giữa các thành viên, mô
hình của ông đã mang lại hiệu quả cao. Ông Nam
chia sẻ: Các thành viên trong Tổ hợp tác sẽ được
phổ biến một giá chung khi bán và bán thường
xuyên theo từng đợt, chứ không chỉ một năm bán
một lần như trước. Nếu cá bị dịch bệnh, Tổ hợp tác
sẽ mời cán bộ chuyên môn để tìm nguyên nhân, từ
đó sẽ có cách xử lý thích hợp.
Tổ hợp tác Nuôi cá lồng của xã Sơn Tịnh có 26
thành viên. Ông Nguyễn Ngọc Khanh - Chủ tịch Hội
Nông dân xã Tịnh Sơn cho biết: Tổ hợp tác được
thành lập sẽ giúp huy động được nguồn vốn lớn,
chia sẻ kinh nghiệm, kỹ thuật chăm sóc, cùng nhau
khắc phục khó khăn khi gặp thiên tai, có sự phối
hợp để tìm đầu ra Các thành viên đều có trách
nhiệm xây dựng Tổ hợp tác ngày càng phát triển

bền vững, xây dựng mối quan hệ đoàn kết, hỗ trợ
lẫn nhau bằng các hình thức như truyền đạt kinh
nghiệm, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật trong nuôi
thủy sản, tìm đầu vào thức ăn với giá cả phù hợp…
giúp giảm chi phí đầu tư, tăng hiệu quả kinh tế.
Hiện nay, xã Tịnh Sơn có khoảng 72 lồng nuôi
với các loại cá như: trắm cỏ, cá chình… hiệu quả
mang lại rất khả quan. Việc thành lập Tổ hợp tác
Nuôi cá lồng đã góp phần thay đổi tập quán chăn
nuôi nhỏ lẻ của người dân, gắn với ý thức bảo vệ
môi trường, từ đó thực hiện có hiệu quả mục tiêu
phát triển bền vững phong trào nuôi cá lồng ở xã
Tịnh Sơn■
KIM CÚC - VĂN ĐỨC
Đài Truyền thanh huyện Sơn Tịnh, Quảng Ngãi
Các lồng cá của xã Tịnh Sơn trên sông Trà Khúc
Quảng Ngãi:
TỔ HỢP TÁC NUÔI CÁ LỒNG
Hướng sản xuất mới cho nông dân
TỊNH SƠN
9
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
HOẠT ĐỘNG KHUYẾN NÔNG
SỐ 18/2014
T
hực hiện chủ trương
chuyển đổi đất sản xuất
lúa thiếu nước, kém hiệu quả
sang cây trồng cạn, trong vụ

mùa 2014, huyện Hoài Ân, tỉnh
Bình Định đã xây dựng mô hình
trồng ngô giống mới PAC999 trên
ruộng chuyển đổi. Kết quả, hầu
hết ruộng ngô đều sinh trưởng
khá tốt, lợi nhuận từ sản xuất ngô
đạt 16,84 triệu đồng/ha cao gấp
đôi so với trồng lúa.
Mô hình được Nhà nước hỗ
trợ 100% giống, 30% vật tư phân
bón, tập huấn kỹ thuật, có cán bộ
theo dõi hướng dẫn thực hiện;
triển khai trên quy mô 4,3 ha với
32 hộ tham gia tại thôn Linh Chiểu
của xã Ân Phong, huyện Hoài
Ân. Giống ngô đưa vào sản xuất
là PAC999 và CP333; gieo trồng,
tập trung từ ngày 17 - 21 tháng 7
năm 2014. Qua theo dõi của cán
bộ kỹ thuật, ngô trổ cờ sau trồng
từ 55 - 60 ngày; thời kỳ chín sáp
từ 90 - 94 ngày. Chiều cao bình
quân 2,1 m; chiều cao đóng bắp
bình quân 1,31 m; chiều dài bắp
bình quân 19 cm và đường kính
bắp bình quân 5,6 cm.
Ông Trần Văn Thể ở thôn
Linh Chiểu, xã Ân Phong, huyện
Hoài Ân - nông dân tham gia mô
hình cho biết, khi chuyển từ sản

xuất lúa sang trồng ngô bà con
nông dân gặp nhiều khó khăn ở
khâu làm đất. Tuy nhiên, càng về
sau cây ngô càng phát triển tốt,
chống chịu hạn tốt hơn cây lúa
nên không cần tưới quá nhiều
nước. Trong suốt thời gian sinh
trưởng của ngô, chỉ phát hiện có
3 đối tượng sâu, bệnh chính gây
hại là sâu đục thân, sâu đục bắp
và bệnh khô vằn nên cũng không
khó để phòng trừ.
Năng suất thực thu bình
quân của mô hình đạt trên
70 tạ/ha. Tổng thu của mô hình
ước đạt 40,491 triệu đồng/ha,
cao hơn so với ruộng lúa đối
chứng (sản xuất lúa ĐV108) trên
11 triệu đồng/ha. Sau khi trừ các
khoản chi phí, ruộng ngô thu lãi
16,84 triệu đồng/ha, cao hơn hơn
gấp đôi so với ruộng trồng lúa
(chỉ lãi 8,83 triệu đồng/ha).
Phát biểu tại Hội nghị đầu
bờ mô hình chuyển đổi đất lúa
thiếu nước, kém hiệu quả sang
trồng ngô, bà Nguyễn Thị Tố
Trân - Giám đốc Trung tâm
Khuyến nông Khuyến ngư Bình
Định nhận định: Vùng đất xây

dựng mô hình rất phù hợp với
mục đích, chủ trương chuyển
đổi chung của tỉnh. Những năm
đầu chuyển đổi bà con sẽ gặp
khó khăn trong khâu làm đất. Do
đó, các cấp, các ngành và địa
phương cần hỗ trợ để bà con
nông dân có điều kiện tiếp tục
chuyển đổi theo đúng chủ trương
của tỉnh. Kết quả thành công của
mô hình đã gợi mở để Trung tâm
có định hướng mới trong việc
lựa chọn mô hình chuyển giao
cho bà con nông dân trong thời
gian tới.
Ông Hồ Ngọc Hùng - Phó
Giám đốc Sở Nông nghiệp và
PTNT Bình Định cho biết, quy
hoạch đến năm 2015, diện tích
gieo trồng ngô toàn tỉnh khoảng
12.000 ha, năng suất 58 tạ/ha,
sản lượng 69.600 tấn; năm 2020
diện tích gieo trồng ngô toàn tỉnh
khoảng 15.000 ha, năng suất
63 tạ/ha, sản lượng 94.400 tấn.
Sở sẽ xây dựng phương án và
chính sách hỗ trợ phát triển cây
ngô gắn với chủ trương chuyển
đổi diện tích trồng lúa kém hiệu
quả sang cây trồng cạn (ngô, lạc,

vừng…) trình Ủy ban Nhân dân
tỉnh xin phê duyệt. Đồng thời, tổ
chức liên kết trong sản xuất, liên
kết giữa nông dân với nông dân
thành vùng hàng hoá, liên kết
nông dân với doanh nghiệp để
cung ứng vật tư, thu mua tiêu thụ
sản phẩm, liên kết giữa nông dân
với các nhà khoa học để áp dụng
các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất;
hình thành các tổ hợp tác cùng
sản xuất, tiêu thụ nông sản; lấy
hiệu quả của sản xuất làm mục
tiêu, sản xuất theo quy hoạch và
yêu cầu của thị trường, tiến tới
người sản xuất phải biết sản xuất
theo chuỗi giá trị■
ĐINH VĂN TOẠI
Sở Nông nghiệp và PTNT Bình Định
Cây ngô lai sinh trưởng phát triển tốt trên đt sản xut lúa thiếu nưc
Bình Định:
LỢI NHUẬN TĂNG GẤP ĐÔI
NHỜ CHUYỂN ĐỔI SẢN XUẤT
10
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
HOẠT ĐỘNG KHUYẾN NÔNG
SỐ 18/2014
D
ự án triển khai đã được nhiều bà con nông

dân tham thực hiện đánh giá cao. Từ năm
2012 đến nay, Dự án triển khai nhân rộng được 300
hộ trồng cỏ với quy mô 35 ha. Trong khuôn khổ Dự
án chỉ đầu tư về giống cỏ và kỹ thuật cho các hộ là
400 m
2
/hộ, tuy nhiên đến nay, đa số các hộ đã nhân
rộng lên từ 5.000 - 10.000 m
2
/hộ. Từ đó số lượng
đàn bò cũng tăng đáng kể. Theo thống kê, trước khi
triển khai Dự án, bình quân mỗi hộ chỉ nuôi 2 - 3 con
bò. Nhưng sau 2 năm Dự án triển khai, đã tăng lên
trung bình 10 - 12 con/hộ.
Anh Trần Phi Hoàn ở bon U3, thị trấn Ea Tlinh,
huyện Cư Jút nuôi bò từ năm 2002. Lúc đầu anh chỉ
nuôi 4 - 5 con theo hình thức chăn thả nên bò lâu
lớn, hiệu quả kinh tế không cao. Năm 2012, được
sự hỗ trợ của Dự án đầu tư về giống và kỹ thuật,
anh đã trồng 5 giống cỏ (cỏ voi, cỏ voi tím, cỏ sả, cỏ
VA06, cỏ ghi-nê) với quy mô 500 m
2
. Đây là những
giống cỏ làm thức ăn cho bò có năng suất và chất
lượng cao. Nhận thấy trồng cỏ mang lại nhiều lợi
ích, đến nay anh Hoàn đã mở rộng diện tích lên
5000 m
2
, đồng thời nhân số lượng đàn bò lên 23
con trong đó có 12 bò cái, 10 con bê lai và 1 con bò

đực lai Shind. Mỗi năm gia đình anh xuất bán trung
bình 10 con bê lai với giá 15 - 20 triệu đồng/con,
mang về thu nhập khoảng 150 - 200 triệu đồng.
Phát biểu tại Hội thảo tổng kết mô hình trồng
cỏ nuôi bò, anh Trịnh Thanh Phong ở thôn 12, xã
Nam Dong cho biết: “Gia đình tôi tham gia thực hiện
mô hình trong Dự án từ năm 2012. Lúc đầu, đàn
bò của gia đình tôi có 4 con, đến nay có 11 con;
diện tích trồng cỏ của gia đình ban đầu 400 m
2
,

đến

nay có khoảng 4000 m
2
. Ngoài ra, khi tham gia Dự
án tôi còn được tập huấn về kỹ thuật vỗ béo bò.
Năm 2013, gia đình tôi vỗ béo 4 con bò lai theo
phương pháp cho ăn cỏ tự do (đầy máng cả ngày
lẫn đêm), cộng với 2 kg thức ăn tinh/con/ngày và
cho uống nước đầy đủ. Thức ăn tinh được phối
trộn theo công thức 50% bắp + 47,5% cám gạo +
2% urê + 0,5% muối ăn. Nuôi vỗ béo bò trong vòng
3 tháng. Tăng trọng trung bình của bò đạt 27 kg/con/
tháng, đặc biệt trong tháng đầu tiên tăng trọng đạt
35 kg/con/tháng. Sau 3 tháng nuôi vỗ béo, trừ tất
cả các chi phí, lợi nhuận thu được đạt 3,5 triệu đồng/con”.
Hiện, phong trào trồng cỏ, nuôi bò ở huyện Cư Jút
phát triển khá mạnh. Toàn huyện đã trồng được hơn

35 ha cỏ bao gồm các giống: cỏ VA06, cỏ sả, stylo
và mulato. Việc trồng cỏ đã góp phần giúp đàn bò
tăng đáng kể. Tính đến giữa năm 2014, toàn huyện
có trên 2.000 hộ tham gia nuôi bò với tổng đàn lên
đến 6.000 con, tập trung ở các xã Nam Dong, xã
Trúc Sơn, thị trấn Ea Tlinh Từ mô hình trồng cỏ
nuôi bò, nhiều gia đình đã thoát nghèo, vươn lên
làm giàu chính đáng.
Có thể nói, mô hình trồng cỏ nuôi bò do Dự án
“Cải thiện các hệ thống nuôi dưỡng động vật ăn
cỏ trong nông hộ tại khu vực tam giác phát triển
Campuchia - Lào - Việt Nam” triển khai ở huyện Cư
Jút tuy không mới nhưng là hướng đi đúng trong
mục tiêu phát triển kinh tế và giảm nghèo bền vững.
Bởi lẽ, ngoài việc giải quyết việc làm, tăng thu nhập
cho nông dân, mô hình còn góp phần quan trọng
vào chương trình lai hóa và nâng cao chất lượng
đàn bò trên địa bàn■
PHẠM THỊ SIM
Trạm Khuyến nông Khuyến ngư huyện Cư Jút,
tnh Đk Nông
Mô hình nuôi nhốt bò tại hộ anh Trần Phi Hoàn
ở bon U3, thị trn Ea Tlinh, huyện Cư Jút
NUÔI DƯỠNG ĐỘNG VẬT ĂN CỎ
GIÚP NÔNG DÂN LÀM GIÀU
Cải thiện hệ thống
11
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
HOẠT ĐỘNG KHUYẾN NÔNG

SỐ 18/2014
V
ụ đông 2014, xã Nhân Thắng, huyện Gia
Bình, tỉnh Bắc Ninh đã chỉ đạo mở rộng diện
tích cây màu vụ đông lên 148 ha với các cây có thế
mạnh là bí các loại, ngô, còn lại là khoai tây, khoai
lang, hành, tỏi, đỗ tương và rau ngắn ngày. Nét mới
trong công tác chỉ đạo là toàn bộ diện tích bí được
nông dân trồng xen ngô nhằm nâng cao thu nhập.
Dẫn chúng tôi đi thăm các cánh đồng vừa mới
thu hoạch xong vụ lúa mùa vẫn còn thoang thoảng
của mùi rơm nếp, ông Nguyễn Bá Dương - Phó
Chủ tịch UBND xã Nhân Thắng, huyện Gia Bình chỉ
cho chúng tôi xem khu đồng của thôn Nhân Hữu.
Tại đây màu xanh của bí, ngô, đỗ, rau các loại đã
phủ kín các thửa ruộng. Ông Dương quả quyết:
“Vụ đông này, Nhân Thắng quyết tâm về đích sớm
nhất huyện”. Xã Nhân Thắng vốn là địa phương có
truyền thống sản xuất cây vụ đông, nhiều hộ trồng
từ 2 - 3 mẫu, còn số hộ trồng 5-7 sào thì khá phổ
biến. Cũng nhờ sản suất cây vụ đông mà không ít
gia đình đã xây dựng được nhà cửa khang trang,
mua sắm đầy đủ tiện nghi phục vụ sinh hoạt và
nuôi con cái ăn học trưởng thành. Ngoài việc đưa
các loại cây trồng có giá trị kinh tế cao, thị trường
tiêu thụ ổn định vào trồng như: dưa chuột, cà chua,
hành, tỏi, bí các loại, ngô thì yếu tố chớp thời vụ để
có sản phẩm bán đầu vụ được giá cao đã thành bí
quyết của người dân nơi đây.
Nếu như các địa phương trong huyện phải thu

hoạch xong mới có đất làm vụ đông thì ở Nhân
Thắng khi lúa mùa vào thời kỳ “đỏ đuôi, xuôi quả”
là bà con đã đưa bí ra ruộng rẽ lúa đặt bầu. Khi lúa
thu hoạch là lúc bí đã vươn dài được từ 40 - 50 cm,
lúc này người dân chỉ việc cắt rạ phủ lên mặt luống,
chăm sóc và phòng trừ sâu bệnh, áp dụng các biện
pháp kỹ thuật cho bí phát triển nhánh, ra hoa, tạo
quả và có bí bán sớm vào khoảng cuối tháng 11.
Ông Nguyễn Bá Dương khẳng định thêm: “ Nhân
Thắng người người, nhà nhà đều tham gia sản xuất
vụ đông. Đặc biệt, tỉnh tiếp tục có chính sách hỗ trợ
theo Quyết định số 318 cùng với cơ chế thưởng
của UBND huyện nên đây thực sự là cú hích đối với
cán bộ và nhân dân trong xã trong chỉ đạo và sản
xuất vụ đông”. Với phương châm chỉ đạo “Sáng lúa,
chiều cây màu”, đến nay Nhân Thắng đã gieo trồng
được 130 ha đạt 87,8% kế hoạch; trong đó có 87 ha
bí, 26 ha ngô còn lại là hành, tỏi
Năm 2014, toàn bộ diện tích bí vụ này nông
dân được hướng dẫn trồng xen ngô nếp HN88
trung bình mỗi sào từ 350 - 400 cây và là nguồn
thu đáng kể sau này. Được biết phương pháp trồng
ngô xen bí ở Nhân Thắng tận dụng được nguồn
phân bón thừa từ bí để phát triển cây ngô. Cùng với
đó, ngô có tác dụng ngăn cản gió bấc giữ cho lá bí
không bị táp nâng cao hiệu quả thụ phấn, đậu quả.
Chiều muộn nhưng trên các khu đồng của xã Nhân
Thắng, không khí sản xuất vụ đông vẫn khá khẩn
trương cùng với tiếng cười nói râm ran của bà con
phấn khởi sau vụ mùa thắng lợi, đó là động lực giúp

người dân nơi đây nhanh chóng gieo trồng các loại
cây màu còn khung thời vụ.
Đưa mắt nhanh qua các cánh đồng toàn màu
xanh của bí, ngô và các cây rau màu khác. Phó Chủ
tịch Nguyễn Bá Dương không giấu nổi niềm vui: “Vụ
này Nhân Thắng sẽ đạt doanh thu khoảng hơn 6 tỷ
đồng từ sản xuất vụ đông”, bằng 35% tổng thu nhập
của 400 ha lúa vụ mùa năm 2014■
XUÂN THỦY
Đài Phát thanh huyện Gia Bình, Bc Ninh
Bắc Ninh:
TRỒNG NGÔ XEN BÍ
Cách làm mang lại thu nhập cao
12
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
SỐ 18/2014
S
au 3 năm triển khai xây
dựng Chương trình Mục
tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn
mới (NTM), xã Thạnh Hòa, huyện
Phụng Hiệp, tỉnh Hậu Giang đã
hoàn thành 19/19 tiêu chí NTM.
Thạnh Hòa là 1 trong 11 xã
được chọn làm điểm của tỉnh Hậu
Giang để thực hiện xây dựng xã
NTM theo các tiêu chí của Bộ tiêu
chí Quốc gia về NTM. Hiện tại,

Thạnh Hòa chỉ còn chờ xét duyệt
công nhận nữa là thành xã NTM
thứ 4 của tỉnh Hậu Giang. Phát
huy mọi nguồn lực và quyết tâm
hoàn thành mục tiêu, đến nay, xã
Thạnh Hòa đã hoàn thành 19/19
tiêu chí mà chương trình đặt ra.
Có được thành công trên là do xã
đã thực hiện tốt công tác tuyên
truyền và triển khai sâu rộng đến
nhân dân, cũng như vận động
nguồn lực xã hội để xây dựng
nông thôn, phát huy sức mạnh
dân chủ ở cơ sở. Điều đó được
thể hiện qua sự đóng góp của
nhân dân từ việc hiến đất, góp
công, góp sức thực hiện các
công trình. Bên cạnh đó, người
dân còn ý thức rất cao trong việc
xây dựng đời sống văn hóa, tích
cực tham gia phòng chống tội
phạm, giữ gìn trật tự - an ninh
để cùng chính quyền địa phương
hoàn thành các tiêu chí NTM.
Ông Từ Văn Hải ở ấp Nhất cho
biết: Trước đây, con đường trước
nhà ông chỉ rộng 1,5 m, lại xuống
cấp nên việc đi lại vô cùng khó
khăn. Năm 2012, xã chủ trương
làm lại đường theo tiêu chuẩn

NTM. Chỉ trong 3 tháng thực hiện
mà đoạn đường dài gần 5 km đã
hoàn thành trong niềm vui và sự
phấn khởi của bà con nơi đây.
Ông Đặng Việt Hiểu, Phó Chủ
tịch UBND xã Thạnh Hòa cho hay:
“Nhiều hộ gia đình đóng góp điển
hình trong phong trào xây dựng
NTM của xã như gia đình ông
Đặng Văn Sang ở ấp Phú Xuân
hiến 2.000 m
2
đất để làm đường,
hộ bà Nguyễn Thị Bạch Tuyết ở
ấp Nhất ủng hộ tiền để xây dựng
hơn 30 cây nước, xây dựng nhà
cho một số hộ khó khăn trên địa
bàn xã”. Ngoài ra, xã còn tập
trung mọi nguồn lực để xây dựng
hệ thống đê bao, thủy lợi, nhanh
nhạy trong chuyển đổi cơ cấu cây
trồng, xây dựng các tiêu chí về
văn hóa - xã hội - môi trường tạo
nên nhân tố quyết định trong xây
dựng NTM. Về tỷ lệ hộ nghèo,
trong 3 năm qua, xã quyết tâm
thực hiện công tác giảm nghèo
bằng nhiều chương trình, dự án
như đào tạo nghề gắn với giải
quyết việc làm, cho vay vốn tín

dụng ưu đãi, hỗ trợ nhà ở, tạo
nhiều mô hình thoát nghèo. Hiện
tại, hộ nghèo của xã giảm xuống
còn 6,83%. Tỷ lệ lao động có việc
làm trên địa bàn xã đạt 93,22%.
Tỷ lệ sử dụng nước sạch và hợp
vệ sinh đạt 92,85%; 95% hộ có
hàng rào trước cổng nhà, đường
vào nhà khô ráo, sạch sẽ. Điểm
đáng chú ý trong quá trình thực
hiện NTM của xã là 8/8 ấp đều
đạt danh hiệu ấp văn hóa, chiếm
tỷ lệ 100%. Hàng năm, các thiết
chế văn hóa đều được nâng cấp,
sửa chữa. Cùng góp tay xây
dựng nông thôn mới ở Thạnh
Hòa, Công ty cổ phần Thủy sản
và Xuất nhập khẩu Côn Đảo đã
và đang thực hiện mô hình nhân
giống cá thác lác và chuyển giao
quy trình nhân giống và nuôi cá
thương phẩm trên địa bàn xã
Thạnh Hòa. Nhờ vậy, cuộc sống
của rất nhiều hộ dân trên địa
bàn xã đã thoát nghèo, trở nên
khá, giàu.
Giờ đây, tại Thạnh Hòa,
những ngôi nhà mái lá đã được
thay bằng nhà tường kiên cố,
khang trang và đầy đủ trang thiết

bị, nội thất. Thành công ngày hôm
nay của Thạnh Hòa là sự quyết
tâm cao, sự chung tay góp sức của
chính quyền và nhân dân toàn xã■
NGUYÊN LINH
Thạnh Hòa (Hậu Giang):
CÁN ĐÍCH XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI
Người dân Thạnh Hòa có ý thức rt cao trong xây dựng nông thôn mi
13
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
13
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
MÔ HÌNH, ĐIỂN HÌNH TIÊN TIẾNSỐ 18/2014
V
ụ thu đông năm 2014, từ nguồn kinh phí
Khuyến nông Quốc gia, Trung tâm Khuyến
nông Khuyến ngư Đồng Tháp đã chỉ đạo Trạm
Khuyến nông huyện Châu Thành xây dựng Mô hình
áp dụng 3 giảm 3 tăng trong sản xuất lúa thuộc Dự
án: “Áp dụng 3 giảm 3 tăng và kỹ thuật trồng lúa
SRI nhằm nâng cao hiệu quả và góp phần giảm
phát thải khí nhà kính trong sản xuất lúa”.
Mô hình được thực hiện từ tháng 5 - 10/2014,
với quy mô 60 ha, với 76 hộ tham gia, được triển
khai tại Tổ hợp tác Dịch vụ nông nghiệp An Phú, xã
An Khánh huyện Châu Thành. Nông dân sử dụng
giống lúa chất lượng cao OM5451 cấp xác nhận,
được hỗ trợ 100% chi phí giống và 30% chi phí vật

tư nông nghiệp, với tổng giá trị đầu tư 4.158.500
đồng/ha. Đầu vụ, bà con tham gia mô hình được
cán bộ kỹ thuật Trạm Khuyến nông Châu Thành tập
huấn về kỹ thuật canh tác lúa áp dụng 3 giảm 3
tăng, quản lý nước “ngập khô xen kẽ”, quản lý các
đối tượng dịch hại chủ yếu trên ruộng lúa, sử dụng
thuốc BVTV an toàn và hiệu quả, đồng thời bà con
được hướng dẫn và thực hành sổ tay ghi chép tình
hình sản xuất lúa. Ngoài ra, để nhân rộng mô hình,
Dự án còn tổ chức tập huấn nhân rộng cho 60 hộ
nông dân chưa tham gia mô hình và tổ chức hội
nghị tham quan cho 100 nông dân ở các xã lân cận
đến học hỏi, trao đổi kinh nghiệm.
Qua 5 tháng thực hiện mô hình, nông dân được
trang bị kiến thức cơ bản ứng dụng vào sản xuất
lúa giảm giá thành và tăng lợi nhuận. Sạ thưa, tiết
kiệm nước theo nhu cầu của cây lúa, không đốt
rơm rạ hạn chế phát khí thải bằng cách sử dụng
nấm Trichoderma phân hủy hoặc sử dụng để phát
triển nghề nấm rơm trong thời gian tới. Bà con còn
biết phân tích hệ sinh thái đồng ruộng, phun thuốc
bảo vệ thực vật theo 4 đúng và thực hành ghi chép
Sổ tay tình hình sản xuất lúa giúp nông dân hạch
toán đúng hiệu quả sản xuất.
Kết quả cho thấy, năng suất trong mô hình đạt
6,5 tấn/ha, cao hơn 300 kg/ha so với sản xuất
theo tập quán cũ (trước đây nông dân sử dụng
giống IR50404). Nhờ áp dụng biện pháp “3 giảm
3 tăng” đã giúp người dân tiết kiệm khoảng 100
kg/ha lượng giống gieo sạ, đặc biệt là giảm được

lượng phân hóa học và thuốc bảo vệ thực vật, nên
giá thành sản xuất thấp hơn ngoài mô hình khoảng
703 đồng/kg, lợi nhuận bình quân đạt 15,9 triệu
đồng/ha cao hơn so với sản xuất theo tập quán cũ
khoảng 6,6 triệu đồng/ha; đây là khoản lợi nhuận
không nhỏ đối với bà con nông dân. Ngoài ra, mô
hình còn tạo ra sản phẩm sạch, bảo vệ môi trường
sinh thái và sức khoẻ cộng đồng.
Thực tế đã cho thấy, mô hình mang lại hiệu quả
cả 3 mặt về kinh tế, khoa học và môi trường. Về
kinh tế, đã giúp giảm đầu tư giống, phân bón, thuốc
BVTV, nước, giúp giá thành thấp mà hiệu quả kinh
tế cao. Về khoa học, đã làm thay đổi không những
về nhận thức và tập quán sản xuất của bà con
nông dân, mà còn giúp cho cán bộ kỹ thuật tiếp cận
những kiến thức, quy trình canh tác mới trong thâm
canh sản xuất lúa. Về môi trường, áp dụng 3 giảm
3 tăng góp phần nâng cao độ phì nhiêu của đất, bảo
vệ thiên địch và tạo ra sản phẩm an toàn■
LÊ THỊ KIM THÚY
Trung tâm Khuyến nông Khuyến ngư Đồng Tháp
Bà con tham quan mô hình
áp dụng 3 giảm 3 tăng trong sản xut lúa
tại xã An Khánh, huyện Châu Thành, tnh Đồng Tháp
Áp dụng 3 giảm 3 tăng
và kỹ thuật trồng lúa SRI
NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
VÀ GÓP PHẦN GIẢM PHÁT THẢI KHÍ NHÀ KÍNH
14
Thông tin

KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
MÔ HÌNH, ĐIỂN HÌNH TIÊN TIẾN SỐ 18/2014
X
ã Long Điền Đông thuộc huyện Đông
Hải - một huyện nghèo ven biển của tỉnh
Bạc Liêu. Vài năm trước đây, nghề nuôi tôm sú ở
địa phương gặp nhiều khó khăn vì tôm nuôi mắc
bệnh, bị chết nhiều và gây thiệt hại lớn cho người
nuôi. Trước tình hình đó, một số người đã chuyển
sang nuôi các đối tượng khác như cá kèo, tôm chân
trắng trong vùng nuôi tôm sú bị bệnh ở những vụ
trước và đã thu được kết quả khả quan. Một trong
số đó là ông Phạm Thái Hòa ở ấp Bửu 1 của xã.
Ông Hòa bắt đầu nuôi tôm sú đã từ 7 năm trước.
Sau 3 năm nuôi tôm sú theo hình thức bán thâm
canh và thâm canh, ông chuyển sang nuôi cá kèo
trong 2 năm 2011 và 2012, mỗi năm đầu tư khoảng
350 triệu đồng nhưng chỉ thu được 50 - 70 triệu
đồng tiền lãi.
Nhận thấy lợi nhuận của việc nuôi cá kèo không
cao, lại sẵn có một số kinh nghiệm sau những năm
nuôi tôm sú nên từ năm 2013, ông bắt đầu nuôi tôm
chân trắng - một đối tượng có chu kỳ nuôi ngắn và
có nhu cầu tiêu thụ lớn trên thị trường.
Ông Hòa đã sử dụng quy trình nuôi vi sinh để
tạo ra sản phẩm tôm sạch trong 2 ao nuôi với diện
tích 4.400 m
2
. Hệ thống ao của gia đình ông có ao
nuôi và ao chứa lắng riêng biệt, nằm gần hệ thống

kênh chính nên chủ động được việc cấp thoát nước
và đảm bảo chất lượng nguồn nước nuôi tôm.
Trước khi thả tôm giống vào ao nuôi, ông Hòa
đã tiến hành cẩn thận các khâu kỹ thuật như cải tạo
ao, lấy nước vào ao và gây màu nước cho ao.
Cụ thể, ông đã sên vét đáy ao, loại bỏ lớp bùn
đen ra khỏi ao rồi bón vôi (CaO hoặc CaCO
3
) cho
ao với liều lượng từ 7 tạ đến 1 tấn/ha để làm tăng
độ pH của đất. Tiếp đến là phơi ao từ 7 - 10 ngày để
diệt mầm bệnh của vụ nuôi trước.
Sau đó, ông lấy nước vào ao qua túi lọc. Khoảng
3 - 5 ngày sau, dùng saponin diệt tạp trong ao
với liều lượng 15 - 20 kg/1.000 m
3
, dùng BKC từ
2 - 3 lít/1.000 m
3
để diệt vi khuẩn và virus Ông
Hòa đã sử dụng các chế phẩm vi sinh là sản phẩm
có chứa các nhóm vi sinh vật có lợi như Bacillus
subtilis, Lactobacillus và các vitamin, các axít amin
thiết yếu cho tôm nuôi để gây màu nước; đồng thời
theo dõi các yếu tố thủy lý, thủy hóa trong ao, đến
khi đạt các chỉ số cần thiết như pH = 7,5 - 8,5, độ
trong 30 - 40 cm, độ kiềm 80 - 120 mg/lít, khí độc
< 0,1 ppm, nước có màu xanh lục bắt đầu tiến
hành thả tôm giống vào ao.
Ông Hòa cho biết, việc lựa chọn tôm giống thả

nuôi là khâu rất quan trọng, mang tính quyết định
đối với thành quả của cả vụ nuôi. Ông Hòa thường
mua tôm giống tại các cơ sở sản xuất giống được
cơ quan nhà nước quản lý, không mua tôm giống
trôi nổi trên thị trường, không có nguồn gốc xuất
xứ rõ ràng. Tôm giống phải từ cỡ PL10 trở lên, có
kích thước đồng đều, đường ruột to, bơi lội nhanh
nhẹn. Khi gây sốc bằng độ mặn trong 1 giờ, nếu tỷ
lệ tôm chết dưới 10% là đạt yêu cầu. Tôm giống
phải được qua xét nghiệm PCR để đảm bảo tôm
không mang mầm bệnh, hạn chế được rủi ro trong
quá trình nuôi.
Ông Hòa
Nuôi tôm không hòa, có lãi
15
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
15
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
MÔ HÌNH, ĐIỂN HÌNH TIÊN TIẾNSỐ 18/2014
Khâu cho tôm ăn và chăm sóc, quản lý ao nuôi
tôm được ông Hòa theo dõi chặt chẽ, ghi chép sổ
sách cẩn thận hàng ngày. Ông mua thức ăn công
nghiệp nuôi tôm từ các đại lý của các công ty sản
xuất thức ăn có uy tín, có thương hiệu trên thị
trường; cho tôm ăn đảm bảo số lượng, chất lượng,
thời gian theo từng giai đoạn nuôi. Trong quá trình
nuôi, định kỳ ông Hòa dùng chế phẩm vi sinh và
các khoáng chất được Bộ Nông nghiệp và PTNT

cho phép lưu hành để xử lý môi trường nuôi, đảm
bảo chất lượng nước ao nuôi tôm; không dùng hóa
chất, kháng sinh bị cấm để tránh những ảnh hưởng
không tốt đến chất lượng sản phẩm tôm nuôi. Việc
sử dụng hệ thống quạt nước cho ao nuôi đảm bảo
cung cấp đủ ôxy để nuôi tôm với mật độ cao, giúp
tôm lớn nhanh và giảm tỷ lệ hao hụt trong khi nuôi.
Với những kinh nghiệm tích lũy được qua các
năm nuôi tôm sú trước đây, từ khi chuyển sang nuôi
tôm chân trắng, ông Hòa đã thu được lợi nhuận
tương đối khá. Năm 2013 ông đầu tư 650 triệu đồng
cho 2 vụ nuôi, sản lượng tôm thu hoạch đạt 8,5 tấn,
bán được 1,5 tỷ đồng, lãi 850 triệu đồng sau khi trừ
các chi phí sản xuất. Vụ 1 năm nay ông bỏ ra 560
triệu đồng, thu được 7,8 tấn tôm. Do giá tôm năm
nay giảm nên ông chỉ bán được 880 triệu đồng, còn
lãi 320 triệu đồng. Hiện nay ông đang tiếp tục nuôi
vụ 2 và hy vọng giá tôm cuối năm sẽ lên, lãi thu về
sẽ nhiều hơn.
Cũng như nhiều hộ khác nuôi tôm ở trong vùng,
ông Hòa mong muốn được các cơ quan nhà nước
đầu tư nâng cấp hệ thống kênh mương thủy lợi để
đảm bảo nguồn nước cho nuôi tôm và hoàn chỉnh
hệ thống điện 3 pha phục vụ việc nuôi tôm thâm
canh. Bên cạnh đó, đề nghị các cơ quan chức năng
tập trung nghiên cứu và phổ biến nhanh đến người
nuôi tôm các biện pháp hiệu quả phòng trị bệnh cho
tôm nuôi, nhất là bệnh hoại tử gan tụy cấp, nhằm
giúp người nuôi giảm được rủi ro do dịch bệnh xảy
ra trong quá trình nuôi, góp phần làm tăng hiệu quả

của nghề nuôi tôm ở địa phương■
PHẠM HÀ LINH
Đ
ó chính là cách làm ăn linh hoạt, sáng tạo
của ông Huỳnh Văn Trung ở thôn Phú Gia,
xã Cát Tường, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định.
Năm 1995, ông được xã Cát Tường giao khoán
8,7 ha đất vườn điều ở thôn Chánh Liêm. Ngay sau
đó, ông và gia đình đã bắt tay vào cải tạo vườn điều
như: tỉa cành, tạo tán, phun thuốc bảo vệ thực vật,
bón phân, đồng thời chặt bỏ những cây kém hiệu
quả để trồng lại cây mới và trồng thêm cây ở những
khu vực còn đất trống… Rút kinh nghiệm qua thực
tiễn sản xuất, đồng thời thường xuyên tham gia
các lớp tập huấn do các cấp hội nông dân tổ chức,
nên ông đã áp dụng nhiều tiến bộ kỹ thuật vào quá
trình thâm canh, chăm sóc, thường xuyên cải tạo
NHỜ BIẾT KẾT HỢP CHĂN NUÔI VÀ TRỒNG TRỌT
Làm giàu
BÌNH ĐỊNH:
16
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
MÔ HÌNH, ĐIỂN HÌNH TIÊN TIẾN SỐ 18/2014
đất và sử dụng các loại phân bón có hiệu quả; nhờ
đó vườn điều của ông phát triển tốt và cho năng
suất cao, ổn định. Hiện tại, vườn điều của gia đình
ông Trung có 900 cây đang cho quả, với năng suất
bình quân từ 8 - 10 tấn hạt/năm. Với giá bán bình
quân từ 19.000 - 20.000đồng/kg, mỗi năm vườn

điều mang lại cho gia đình ông thu nhập khoảng
160 triệu đồng/năm. Sau khi trừ chi phí phân bón,
thuốc bảo vệ thực vật, công thu hoạch khoảng 60
triệu đồng, gia đình ông còn lãi khoảng 100 triệu
đồng. Không những đem lại cho gia đình nguồn thu
nhập đáng kể mà vườn điều của ông Trung còn tạo
ra việc làm thường xuyên cho nhiều lao động ở địa
phương lúc nông nhàn.
Bên cạnh đó, nhận thấy diện tích đất dưới tán
điều rất phù hợp với việc chăn nuôi, nên từ năm
2005, ông Trung đã đầu tư xây dựng chuồng trại
để chăn nuôi lợn và gà, vừa tăng thu nhập, vừa có
nguồn phân chuồng tại chỗ để bón cho cây điều.
Theo đó, mỗi năm ông thả nuôi 3 lứa gà và 3 lứa
lợn theo phương pháp gối đầu, hết lứa này đến lứa
khác. Mỗi lứa ông thả nuôi 3.000 con gà ta theo
hình thức kết hợp giữa nuôi nhốt và nuôi thả, cho
ăn thức ăn công nghiệp. Lúc gà còn nhỏ thì nuôi
nhốt, khi gà khoảng 20 ngày tuổi thì ông thả trong
vườn điều. Ngoài ra, ông còn nuôi 7 con lợn nái để
lấy giống, heo con đẻ ra ông đều để lại nuôi, đồng
thời mua thêm con giống để duy trì đàn lợn mỗi
lứa 60 con, nuôi theo hình thức khép kín, xây dựng
hầm biogas để lấy khí đốt phục vụ nhu cầu nấu
nướng và đốt lò giữ ấm cho gà con.
Mỗi lứa gà và lợn, ông thả nuôi trong vòng
100 ngày thì xuất bán. Gà đạt trọng lượng từ 1,5 -
1,7 kg/con, với giá bán ổn định ở mức 65.000 đồng/kg
,
sau khi trừ chi phí, còn lãi hơn 40 triệu đồng. Mỗi

con lợn đạt trọng lượng khoảng 75 kg, với giá
bán bình quân hàng năm 45.000 đồng/kg, sau khi
trừ chi phí con giống và thức ăn, thu lãi hơn 600
nghìn đồng. Với mỗi lứa 60 con lợn, ông thu lãi trên
36 triệu đồng. Như vậy, riêng về chăn nuôi, mỗi
năm thu lãi gần 230 triệu đồng/năm. Cộng với thu
nhập từ cây điều, mỗi năm, ông Trung thu lãi 300 -
400 triệu đồng. Hiện nay, ông Trung còn một vườn
keo lai 3 năm tuổi, với diện tích 1,5 ha trồng xung
quanh vườn điều, sẽ cho nguồn thu nhập đáng kể khi
khai thác.
Nói về kinh nghiệm phát triển kinh tế, ông Trung
chia sẻ: “Bản thân tôi thường xuyên tìm tòi, học hỏi
những kinh nghiệm hay và những tiến bộ kỹ thuật
để áp dụng vào sản xuất. Rút kinh nghiệm qua thực
tế nhiều năm, tôi nhận thấy để cho vật nuôi phát
triển tốt thì quan trọng nhất là khâu chọn giống, con
giống phải chuẩn, sạch bệnh và chất lượng; thứ hai
là phải thực hiện tiêm phòng đầy đủ theo định kỳ và
thường xuyên tiêu độc, khử trùng vệ sinh chuồng
trại”. Có lẽ chính vì vậy mà đàn gà và đàn heo của
gia đình ông luôn phát triển tốt và rất ít dịch bệnh.
Tại nhiều thời điểm, nhất là đợt sau Tết Nguyên
Đán vừa qua, trong khi nhiều hộ chăn nuôi tại địa
phương phải điêu đứng vì dịch cúm gia cầm bùng
phát thì đàn gà của gia đình ông vẫn an toàn và
phát triển tốt.
Không những làm kinh tế giỏi, ông Trung nhiệt
tình giúp đỡ, chia sẻ kinh nghiệm phát triển kinh
tế với bà con xung quanh. Đã có rất nhiều người

không chỉ ở địa phương mà còn ở các huyện khác
đến trang trại của ông để tham quan, học hỏi. Trong
nhiều năm liên tục, ông được công nhận là nông
dân sản xuất giỏi cấp tỉnh, được chủ tịch UBND tỉnh
và các cấp hội nông dân tặng nhiều bằng khen, giấy
khen. Tấm gương sản xuất giỏi của ông Huỳnh Văn
Trung đáng để mọi người học tập, làm theo■
TRƯỜNG GIANG
Đài Truyền thanh huyện Phù Cát, Bình Định
17
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
17
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
MÔ HÌNH, ĐIỂN HÌNH TIÊN TIẾNSỐ 18/2014
N
gười xưa có câu “Vua chơi lan, quan chơi
trà” bởi phong lan được xem là hoàng hậu
của các loài hoa với vẻ đẹp quý phái, hương thơm
quyến rũ. Với niềm yêu thích hoa phong lan từ nhỏ,
anh Lê Văn Trung, 35 tuổi ở thôn Suối Phẩn, xã Hòa
Mỹ Tây, huyện Tây Hòa, tỉnh Phú Yên đã mang lại
cho gia đình anh nguồn thu nhập ổn định. Không chỉ
vậy, loài hoa này còn giúp cho gia đình anh Trung
vươn lên thoát nghèo.
Anh Trung dẫn tôi dạo một vòng quanh khu vườn
rộng khoảng 500 m
2
với trên 100 loại hoa phong lan.

Anh Trung cho biết, các loại phong lan đều được tự
tay anh trồng và chăm sóc cẩn thận. Cơ duyên đưa
anh đến với nghề trồng lan là do kinh tế gia đình
quá khó khăn, sau khi tìm hiểu cơ cấu cây trồng
và thị trường ở địa phương, anh quyết định đầu tư
trồng loại hoa đặc trưng của núi rừng này.
Thời gian đầu, do chưa có kinh nghiệm chăm
sóc nên anh bị thiệt hại không nhỏ. Vừa học hỏi,
anh vừa rút kinh nghiệm sau những lần thất bại nên
khi có giống mới nhập về, anh thường mải mê tìm
ra cách chăm sóc thích hợp thì mới yên tâm. Hiện
nay, vườn lan của anh có khoảng gần 1.000 giò
lan với hơn 100 loài khác nhau, trong đó có nhiều
giống đặc biệt quý hiếm như đai châu, hoàng hậu,
phi điệp vàng, giả hạt, thủy tiên, thập hoa vảy rồng,
phi điệp tím, quế lan, hồ điệp, trầm tím, long tu…
Bốn mùa đều có hoa nở, hương thơm ngào ngạt,
màu sắc tươi thắm Các loài hoa thường nở vào
tháng 1, tháng 2, có loại kéo dài tới 4 tháng.
Ngoài việc thường xuyên sưu tầm các giống
lan quý, gần đây, anh còn tự nhân giống, trồng thử
nghiệm thành công hoa phong lan trong chậu mùn
cưa, vỏ thông, vỏ dừa miếng, dớn cọng, các loại gỗ
mục thích hợp… Theo anh Trung: Trồng lan rất vất
vả nên phải có niềm đam mê, tỉ mỉ, chịu khó, ngoài
ra còn phải hiểu rõ tập tính của từng loài. Phong
lan ưa gió và ẩm vì vậy phải treo ở nơi thoáng mát,
sạch sẽ, nhiệt độ dưới 30
0
C và độ ẩm không khí

60 - 70
0
C. Chọn những mảnh gỗ tốt để làm chỗ bám
vững chắc, đồng thời hạn chế nấm bệnh. Trồng
lan cũng phải chú ý phòng trừ các loại sâu bệnh
thường gặp như: sâu đục thân, sâu cuốn lá và nấm.
Đặc biệt, mùa mưa chính là điều kiện thuận lợi cho
sâu bệnh phát triển nên cần có chế độ chăm sóc
đặc biệt và phòng trừ sâu bệnh kịp thời.
Người yêu lan đến vườn nhà anh quanh năm
vừa để tham quan vừa để học hỏi kinh nghiệm.
Khách hàng ở các tỉnh Khánh Hòa, Đà Lạt, Quảng
Ngãi và Tp. Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên… đến đặt hàng
mua với số lượng nhiều, đặc biệt vào dịp lễ, tết.
Dần dần hoa phong lan của anh cũng đã trở thành
thương hiệu nổi tiếng. Anh Trung rất phấn khởi
khi hoa của mình được nhiều người tiêu dùng ưa
chuộng, đây cũng là niềm vui, là sự động viên,
khích lệ đối với người trồng phong lan. Với tình yêu
và lòng tâm huyết, thời gian tới, anh Trung sẽ tiếp
tục đầu tư, mở rộng diện tích và phát triển thị trường
tiêu thụ. Hiện nay, khách hàng ở nhiều nơi đến đặt
mua phong lan, nên việc nhân giống không đủ bán.
Các loài hoa lan do anh nhân giống, chăm sóc có giá
bán từ 600.000 đồng - 1.000.000 đồng/giò, thậm chí
nhiều giò lan quý lên tới vài triệu đồng/giò. Chính vì
vậy thu nhập của gia đình anh mỗi năm khoảng
150 triệu đồng. Từ tình yêu với phong lan, anh
Trung luôn tâm niệm: Nghề nào nghiệp ấy, mình có
tận tâm với nghề, yêu cây cùng với cách chăm sóc

khoa học, đúng kỹ thuật thì mới thành công và có
được kết quả như mong đợi.
Mô hình trồng phong lan của anh Lê Văn Trung
không chỉ thỏa mãn sở thích chiêm ngưỡng vẻ
đẹp diệu kỳ của loài hoa này mà còn mang lại lợi
ích kinh tế cao, góp phần bảo vệ những loại lan
rừng quý hiếm trong tự nhiên. Đây cũng là nghề
mang đến nguồn thu nhập khá cho người dân vùng
nông thôn■
TRẦN NGUYỄN LÂM VIÊN
Trạm Khuyến nông Khuyến ngư huyện Tây Hòa,
tnh Phú Yên
Phú Yên:
THOÁT NGHÈO TỪ TRỒNG
Phong lan
18
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
MÔ HÌNH, ĐIỂN HÌNH TIÊN TIẾN SỐ 18/2014
T
hực hiện chuyển dịch cơ
cấu cây trồng - vật nuôi
mang tính bền vững theo chủ
trương của huyện Tam Nông, tỉnh
Đồng Tháp, hơn 6 năm qua,
ông
Dương Văn Diễn - xã viên Hợp
tác xã Nuôi tôm càng xanh Phú
Long, xã Phú Thành B đã mạnh
dạn chuyển đổi từ sản xuất hai

vụ lúa/năm sang luân canh một
vụ lúa và một vụ nuôi tôm càng
xanh, góp phần tạo ra sản phẩm
có giá trị, nâng cao thu nhập cho
gia đình…
Với kinh nghiệm gần 10 năm
luân canh lúa - tôm càng xanh
thành công trên diện tích 12 ha
nên năm nào ông Diễn cũng thu
lãi trên dưới nửa tỷ đồng. Riêng
năm 2011, trong tổng số 128 hộ
nuôi tôm càng xanh của Hợp tác
xã thì đã có 107 hộ đạt lợi nhuận
đáng kể. Trong đó, 13 hộ thu
lãi từ 80 triệu - 140 triệu đồng/
ha, 92 hộ thu lãi từ 30 triệu - 77
triệu đồng/ha và 13 hộ lãi dưới 30
triệu đồng/ha… Trong vụ nuôi
năm này, ông Diễn thu hoạch
được 21,7 tấn tôm càng xanh
thương phẩm, mang lại nguồn
thu trên 3,5 tỷ đồng. Sau khi trừ
chi phí và thanh toán lãi cho ngân
hàng, ông còn lãi gần 1 tỷ đồng.
Hằng năm, sau khi thu hoạch
vụ lúa đông xuân, ông Diễn tiến
hành cải tạo mặt ruộng, lên bờ
bao lửng và vệ sinh ruộng bằng
vôi bột rồi mua cọc tràm, lưới
cước thiết kế vuông nuôi tôm trên

ruộng đang bị ngập nước. Khi cải
tạo 12 ha ruộng thành vuông nuôi
tôm, ông Diễn chọn một phần
diện tích mặt ruộng xây dựng ao
ương con giống, diện tích còn lại
làm ao lắng. Chân bờ 5 m được
đè nén chặt để hạn chế sạt lở, bề
mặt rộng 2 m, chiều cao so với
mặt đất tự nhiên là 1,5 m. Tiếp
đó, ông Diễn xử lý nước trong
vuông nuôi thật kỹ bằng cách
ngâm nước trong vuông vài ngày
rồi tháo nước ra phơi đáy, tiếp
đó bơm nước vào ngâm rồi tháo
nước ra… cho đến khi nồng độ
pH trong vuông nuôi thích hợp
và diệt các loại địch hại. Sau đó,
ông thả toàn bộ tôm càng xanh
giống vào ao ương nuôi. Khoảng
1 tháng sau khi ương, ông Diễn
cho thả toàn bộ tôm ra tất cả diện
tích vuông nuôi.
Thức ăn cho tôm là thức ăn
viên công nghiệp chuyên dùng
có hàm lượng dinh dưỡng phù
hợp với từng giai đoạn phát triển
của tôm và độ bền của thức ăn
trong nước ít nhất là 2 giờ (theo
tiêu chuẩn ngành). Trong quá
trình nuôi, ông Diễn còn bổ sung

khoáng, vitamin C vào thức ăn
để tăng sức đề kháng cho tôm,
theo dõi chu kỳ lột xác của tôm
Đồng Tháp:
MÔ HÌNH LUÂN CANH LÚA - TÔM CÀNG XANH
cho thu nhập cao
19
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
19
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
MÔ HÌNH, ĐIỂN HÌNH TIÊN TIẾNSỐ 18/2014
để điều chỉnh lượng thức ăn cho
phù hợp… Việc phòng ngừa dịch
bệnh cho tôm cũng được thực
hiện kịp thời, theo đúng hướng
dẫn của cán bộ thủy sản. Ông còn
thường xuyên tìm diệt các loài cá,
ếch, rắn… để bảo vệ vuông tôm.
Sau khi nuôi được một thời gian,
ông tỉa thưa tôm trứng để bán
nhằm tạo điều kiện cho tôm đực
lớn nhanh - tăng kích cỡ tôm loại
1 và tiết kiệm được thức ăn.
Năm 2014, ông Diễn nuôi tôm
luân canh trên diện tích 16,5 ha,
với mật độ từ 12 - 15 con/m
2
. Khi

tôm được 3 tháng, ông đã thu tỉa
được 7 tấn tôm trứng, bán giá
110.000 đồng/kg, thu trên 700
triệu đồng. Khoảng 2 tháng nữa,
ông Diễn sẽ thu hoạch toàn bộ
tôm càng xanh thương phẩm và
hứa hẹn một vụ mùa nữa bội thu.
Nói về kinh nghiệm nuôi luân
canh lúa - tôm càng xanh, ông
vui vẻ bày tỏ: “Qua thời gian luân
canh lúa - tôm thành công, tôi
thấy, việc trồng lúa trên đất nuôi
tôm đã giúp cải tạo tốt môi trường
ruộng nuôi. Lúa hấp thu chất mùn
bã hữu cơ - thức ăn thừa và chất
thải của tôm từ vụ nuôi để lại…
từ đó giúp hạn chế sử dụng phân
bón cho lúa. Sau khi thu hoạch
lúa, gốc rạ phân hủy sẽ giúp cho
hệ thống phiêu sinh vật phát triển,
tạo nguồn thức ăn dinh dưỡng tự
nhiên cho tôm, làm tăng độ phì
cho đất, cân bằng hệ sinh thái
đồng ruộng, góp phần cách ly,
hạn chế các loài vi-rút, vi khuẩn
phát triển… Tuy chi phí đầu tư
cao, nhưng nếu thực hiện đúng
quy trình hướng dẫn thì mô
hình sẽ cho lợi nhuận cao và
bền vững”■

TRẦN TRỌNG TRUNG
HT 168, Bưu điện huyện Thanh Bình,
Đồng Tháp
X
ã Khang Ninh, huyện Ba
Bể là địa phương có diện
tích mặt nước khá lớn, thuận lợi
cho phát triển nuôi trồng thủy
sản ở tỉnh Bắc Kạn. Những năm
trước, một số hộ dân xã Khang
Ninh đã mạnh dạn đầu tư nuôi cá
lồng tại hồ Bản Vài nhưng hiệu
quả kinh tế đạt thấp.
Năm 2014 được sự quan
tâm của Trung tâm Khuyến nông
Quốc gia, Trung tâm Khuyến
nông Khuyến lâm Bắc Kạn và
Trạm Khuyến nông Khuyến
lâm huyện Ba Bể đã triển khai
mô hình “Nuôi cá diêu hồng
trong lồng” tại hồ Bản Vài xã
Khang Ninh.
Với quy mô 60 m
3
lồng, được
nhà nước hỗ trợ 100% con
giống, 50% thức ăn, thuốc hóa
chất chế phẩm sinh học, vôi…
mô hình đã được các cán bộ kỹ
thuật định kỳ kiểm tra nhằm giúp

các hộ áp dụng đúng quy trình kỹ
thuật, giải quyết những khó khăn
vướng mắc cho các hộ tham gia
mô hình. Chỉ sau 5 tháng, cá đã
đạt trọng lượng trung bình 500
- 600 g/con, tỷ lệ sống đạt 70%,
năng suất 35 kg/m
3
lồng.
Ông Dương Hữu Lân ở thôn
Bản Vài, xã Khang Ninh cho biết,
năm 2014, gia đình ông được
hỗ trợ mô hình thì ông thấy cá
diêu hồng có thời gian nuôi
ngắn hơn, không mắc bệnh, tỷ
lệ sống cao… Sau 5 tháng, cá
của ông đã đạt trung bình 500 -
600 g/con, nhiều con cá to từ 800 -
1.000 g/con; bán ra khoảng
60.000 đ/kg, được người tiêu
dùng ưa chuộng. Ông Lân dự
kiến, năm 2015, gia đình ông sẽ
nhân rộng mô hình nuôi giống cá
diêu hồng và mong muốn dự án
tiếp tục hỗ trợ cho bà con nông
dân để tạo thành vùng sản xuất
tập trung.
Theo ông Dương Xuân Tiệp
- Bí thư Đảng ủy xã Khang Ninh,
tiềm năng lợi thế nuôi cá lồng

của địa phương còn rất lớn,
qua mô hình nuôi cá diêu hồng
này, các hộ đã tham gia mô hình
chia sẻ kinh nghiệm nuôi cá cho
những hộ trong vùng để nhân
rộng mô hình, góp phần phát
triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo
ở địa phương.
Kết quả từ mô hình “Nuôi
cá diêu hồng trong lồng” tại xã
Khang Ninh, huyện Ba Bể đã
khẳng định việc nuôi cá lồng
có thể phát triển một cách bền
vững do tận dụng được nhiều hồ
chứa, sông ngòi sẵn có, đem lại
hiệu quả kinh tế cao, góp phần
giải quyết việc làm cho người
lao động. Đây cũng là mô hình
xóa đói giảm nghèo, góp phần
tích cực vào việc thay đổi cơ cấu
sản xuất, cải thiện đời sống cho
người dân, xây dựng nông thôn
mới ngày càng giàu đẹp■
NGUYỄN LIỄU
Trung tâm Khuyến nông Khuyến lâm
Bc Kạn
BẮC KẠN: HIIỆU QUẢ TỪ MÔ HÌNH
NUÔI CÁ DIÊU HỒNG TRONG LỒNG
TẠI HỒ BẢN VÀI
Nuôi cá lồng tại thôn Bản Vài

20
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
KHOA HỌC KỸ THUẬT VÀ CÔNG NGHỆ SỐ 18/2014
MỘT SỐ BIỆN PHÁP
QUẢN LÝ CHẤT LƯỢNG NƯỚC
TRONG AO NUÔI THỦY SẢN
4. Nồng độ ôxy trong nước
Cần phải tuân thủ nguyên tắc duy trì mức
ôxy hòa tan trong nước bão hòa hoặc ít nhất là
5 ppm. Nếu nồng độ ôxy hòa tan dưới 5 ppm có thể
khiến cá bị áp lực, nếu nồng độ dưới 2 ppm cá sẽ
tử vong.
Ðể tăng cường lượng ôxy hòa tan trong ao nuôi,
sử dụng các loại thiết bị như: máy quạt nước, máy
thổi ôxy đáy, máy sục khí… Tuỳ theo mật độ thả
nuôi, thời gian nuôi mà có biện pháp bố trí và vận
hành các loại máy cho phù hợp đảm bảo cung cấp
đầy đủ ôxy trong ao, vừa giảm được chi phí sản
xuất. Ngoài ra ôxy hòa tan trong ao còn liên quan
mật thiết đến sự phát triển của tảo, bị tiêu hao do
quá trình phân hủy các chất hữu cơ trong ao. Khi
mật độ tảo trong ao nhiều vào ban ngày và giảm
thấp vào ban đêm, nhất là vào lúc 4 - 5 giờ sáng
nên cần tăng cường hoạt động các loại máy cung
cấp ôxy ở những thời điểm này.
5. Đảm bảo nhiệt độ nước
Nhiệt độ nước là yếu tố quan trọng nhất ảnh
hưởng đến sản lượng thủy sản nuôi. Nhiệt độ nước
ảnh hưởng đến hoạt động, hành vi, tốc độ ăn, phát

triển và sinh sản của các loài cá, tôm; ảnh hưởng
trực tiếp đến quá trình trao đổi chất bên trong cơ
thể tôm, ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến sự
lột xác, liên quan đến khả năng bắt mồi và sự
sinh trưởng của tôm. Nhiệt độ tối ưu cho tôm sinh
trưởng từ 28 - 32
o
C, nếu nhiệt độ cao hơn 33
o
C
hoặc thấp hơn 25
o
C thì khả năng bắt mồi của tôm
giảm 30 - 50%. Ðể khắc phục nhiệt độ nước tăng
cao, tốt nhất là nâng cao mực nước trong ao từ 1,2
m trở lên.
6. Kiểm soát lượng thức ăn trong môi trường nước
Đối với nuôi cá tra: Theo các nhà khoa học,
trung bình 1 ha nuôi cá đạt 300 tấn cá tra phải dùng
450 - 480 tấn thức ăn. Tuy nhiên, chỉ có khoảng
75% lượng thức ăn này được cá sử dụng, phần
còn lại là thức ăn thừa, thối rữa lắng đọng xuống
đáy ao (ao đất) hoặc các con sông. Lượng thức ăn
thừa kết hợp với chất thải của cá nếu không được
quản lý và xử lý tốt sẽ gây ảnh hưởng không chỉ
với cá nuôi mà còn tác động rất lớn đến môi trường
sinh thái.
Vì vậy, có thể áp dụng biện pháp hạn chế
khẩu phần cho cá ăn (nhằm tránh ô nhiễm môi
trường nước), như: cá tra, basa có trọng lượng

12 - 200 g cho ăn lượng thức ăn bằng 8 - 10%
trọng lượng đàn cá, cá 200 - 300 g cho ăn 6 - 7%,
từ 300 - 700 g cho ăn 4 - 5%, cá 0,8 - 1,1 kg cho ăn
1,5 - 3% trọng lượng đàn cá. Với công thức này, có
thể giảm lượng thức ăn cho cá, giảm chi phí, hạn
chế ô nhiễm môi trường nước mà cá vẫn phát triển
bình thường, đảm bảo trọng lượng khi thu hoạch.
Đối với nuôi tôm: Cho tôm ăn theo hướng dẫn.
Ngoài ra, tùy vào thực tế (sức khỏe của tôm, chu
kỳ lột xác, thời tiết,…) và theo dõi sàng ăn khi tôm
từ 20 ngày tuổi trở lên để điều chỉnh, quản lý thức
ăn cho phù hợp, tránh tình trạng cho ăn thiếu hoặc
thừa thức ăn sẽ ảnh hưởng đến tốc độ phát triển và
sức khỏe của tôm.
- Tháng nuôi thứ nhất: Sử dụng thức ăn cỡ nhỏ
cho giai đoạn mới thả.
Ngày thứ 10 sau khi thả giống, cho ít thức ăn
vào sàng/nhá/vó để tôm làm quen, dễ cho việc
kiểm tra lượng thức ăn dư sau này. Sàng ăn đặt nơi
bằng phẳng, cách bờ ao 1,5 - 2 m, sau cánh quạt
nước 12 - 15 m, không đặt ở các góc ao, khoảng
1.600 - 2.000 m
2
đặt 1 sàng.
Sau 15 ngày có thể sử dụng các chất bổ sung
cung cấp vitamin, khoáng chất theo chỉ dẫn của
nhà cung cấp giúp tôm tăng cường sức khỏe.
Tôm sú: Ngày đầu tiên cho 1,2 - 1,5 kg/100.000
giống, cứ 2 ngày tăng 0,2 - 0,3 kg/100.000 giống.
Tôm chân trắng: Ngày đầu tiên cho 2,8 -

3 kg/100.000 giống. Trong 10 ngày đầu tiên, cứ
(Tiếp theo số 17/2014 và hết)
21
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
KHOA HỌC KỸ THUẬT VÀ CÔNG NGHỆSỐ 18/2014
S
úp lơ (Brassica cauliora L.) là loại rau dễ
tiêu thụ, giá bán tương đối cao nên được
nhiều nông dân chọn trồng trong vụ đông.
Bộ phận của cây súp lơ được làm thực phẩm là
toàn bộ phần hoa chưa nở. Bộ phận này mềm, xốp
nên không chịu được mưa nắng. Súp lơ có bộ phận
lá rất phát triển so với su hào, nhưng bộ rễ phát
triển kém hơn nhiều, ăn nông (ở lớp đất 10 - 15 cm)
và ít lan rộng, bán kính hoạt động của bộ rễ chỉ 35 -
50 cm. Vì vậy, cây súp lơ chịu hạn, chịu nước kém.
Để giúp nông dân trồng súp lơ hiệu quả, Bản tin
Thông tin Khuyến nông Việt Nam xin giới thiệu một
số kỹ thuật cơ bản trồng và chăm sóc loại rau này.
1. Thời vụ
Súp lơ là loại cây chịu được lạnh, nhiệt độ thích
hợp 15 - 18
0
C.
- Vụ sớm: Gieo tháng 7 - đầu tháng 8, trồng
tháng 8 - 9. Vụ này nên sử dụng các giống chịu
nhiệt, chín sớm.
- Vụ chính: Gieo tháng 9 - 10, trồng tháng 10 - 11.
Kỹ thuật

TRỒNG VÀ CHĂM SÓC CÂY SÚP LƠ
1 ngày tăng 0,4 kg/100.000 giống. Từ ngày thứ
10 - 20, cứ 1 ngày tăng 0,5 kg/100.000 giống.
- Tháng nuôi thứ hai đến khi thu hoạch:
Điều chỉnh thức ăn trong ngày qua theo dõi
lượng thức ăn thừa trên sàng ăn. Chuyển đổi loại
thức ăn phù hợp theo giai đoạn phát triển, cỡ miệng
tôm và nhu cầu dinh dưỡng như hướng dẫn của
nhà sản xuất ghi trên bao bì. Khi chuyển đổi thức
ăn, nên trộn lẫn 2 loại thức ăn cũ và mới cho tôm
ăn ít nhất 3 ngày.
Chú ý: Những ngày thay đổi thời tiết, mưa, nắng
gắt chỉ cho 70 - 80% lượng thức ăn đã định, tránh
dư thừa gây ô nhiễm nước. Theo dõi kỳ lột vỏ để
giảm lượng thức ăn và tăng sau khi tôm lột vỏ xong.
Đối với các cơ sở nuôi tôm dùng thức ăn có
chứa Ethoxyquin:
- Với hàm lượng ≤ 90 ppm: Dùng các loại thức
ăn không chứa Ethoxyquin 4 ngày trước thu hoạch;
không dùng các loại thức ăn bổ sung như: dầu gan
mực, dầu cá hồi, bột mực, bột cá FMB 60, Fish
meal 66%.
- Với hàm lượng 90 - 120 ppm: Chuyển sang
dùng các loại thức ăn không chứa Ethoxyquin 05
ngày trước khi thu hoạch; không dùng các loại thức
ăn bổ sung như: dầu gan mực, dầu cá hồi, bột mực,
bột cá FMB 60, Fish meal 66%.
- Với hàm lượng 120 - 150 ppm: Chuyển sang
dùng các loại thức ăn không chứa Ethoxyquin 06
ngày trước khi thu hoạch; không dùng các loại thức

ăn bổ sung như: dầu gan mực, dầu cá hồi, bột mực,
bột cá FMB 60, Fish meal 66%■
TỔNG CỤC THỦY SẢN
22
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
KHOA HỌC KỸ THUẬT VÀ CÔNG NGHỆ SỐ 18/2014
- Vụ muộn: Gieo tháng 11, trồng vào tháng 12.
Vụ này không dùng giống chín sớm, nên sử dụng
các giống chịu rét, chín muộn.
Tuổi cây giống súp lơ đem trồng tốt nhất có 4 - 5
lá thật. Trồng cây giống quá tuổi sẽ cho ngù hoa
nhỏ, năng suất thấp.
2. Làm đất và bón phân lót
Sau khi đất đã được cày bừa kỹ, nhặt sạch cỏ
dại thì lên luống rộng 0,9 - 1 m, cao 18 - 20 cm,
rãnh rộng 25 - 30 cm. Vụ sớm làm luống cao, hình
mui luyện; vụ chính và vụ muộn làm luống thấp
và phẳng.
Bón phân lót cho 1 sào Bắc Bộ (360 m
2
)
như sau:
- Phân chuồng ủ hoai 700 - 1.000 kg, có thể thay
thế bằng phân hữu cơ vi sinh.
- Phân đạm urê 1,5 - 2 kg.
- Phân lân 8 - 10 kg.
- Phân kali 2 - 2,5 kg.
Trộn đều phân chuồng, phân lân và kali rồi
bón theo hốc trồng là tốt nhất. Bón xong đảo đất

cho đều.
3. Mật độ trồng
Trồng hàng kép nanh sấu trên luống với khoảng
cách 60 x 50 cm hoặc 40 x 50 cm (mật độ 21.000
- 23.000 cây trên 1 ha). Đối với giống chín sớm và
giống trung ngày trồng với mật độ dày hơn. Đối với
các giống chín muộn và giống có bộ lá lớn thì mật
độ trồng thưa hơn.
Tiêu chuẩn cây giống tốt: Có 4 - 5 lá thật, cây to,
mập, lá xanh, gốc đỏ, không bị dị hình.
4. Chăm sóc
- Thời kỳ hồi xanh: Sau khi trồng phải tưới nước
giữ ẩm thường xuyên, tưới 1 - 2 lần/ngày tùy theo
thời tiết. Kiểm tra đồng ruộng để kịp thời cấy dặm
những cây bị chết. Sau trồng 10-15 ngày thì xới phá
váng, xới sâu, xới rộng giúp đất tơi xốp, nhặt sạch
cỏ dại.
- Thời kỳ trải lá: Tưới bằng phương pháp tưới
rãnh, trung bình 7 - 10 ngày tưới 1 lần. Xới nông,
vun đất vào gốc. Dùng 1 - 2 kg urê/sào Bắc Bộ,
tưới 2 - 3 lần, cách nhau 4 - 5 ngày để thúc cho cây
nhanh phát triển. Cũng có thể bón khô cách gốc
7 - 10 cm, sau đó đưa nước vào rãnh, dùng gáo
tưới nước hoà tan phân đạm.
- Thời kỳ ra ngù hoa, thu hoạch: Tiếp tục tưới
nước, tưới thúc phân khi cây đã có ngù hoa, trước
khi thu hoạch 1 tháng ngừng tưới nước; cách 7 -
10 ngày, tưới thúc kali khoảng 2 - 3 lần cho tới khi
thu hoạch. Chú ý không để phân và nước tưới rơi
trên lá và ngù hoa.

Khi cây bắt đầu có ngù hoa ở trong lá nõn thì
phải che đậy ngay. Việc che đậy này phải làm cho
tới khi thu hoạch hoa lơ. Lúc đầu hoa lơ còn bé, có
thể bẻ gập 1-2 lá trong lại để đậy (chú ý không bẻ
rời hẳn mà chỉ bẻ gẫy gân chính của lá). Khi hoa đã
lớn thì ngắt bỏ các lá ngoài (lấy khoảng 1/3 phiến lá
phần đầu lá) để đậy cho hoa, cứ thấy lá đậy hoa hơi
héo là phải thay đổi lá đậy khác ngay để nước khỏi
dột vào ngù làm thối rữa hoa.
5. Phòng trừ sâu bệnh
Súp lơ thường bị bệnh thối cổ rễ và bệnh gối
đen. Bệnh chủ yếu lây lan qua hạt giống và phát
triển mạnh khi độ ẩm đất quá cao (trên 90%). Vì
vậy, nhất thiết phải xử lý hạt giống trước khi gieo và
tránh tưới nước quá ẩm.
Áp dụng các biện pháp phòng trừ tổng hợp cho
cây (IPM), thường xuyên vệ sinh đồng ruộng, có
chế độ luân canh hợp lý giữa cây trồng cạn và cây
trồng nước, giữa các cây trồng khác họ.
Khi cây có hoa chỉ nên dùng các loại thuốc trừ
sâu sinh học. Ngừng phun thuốc 15 ngày trước khi
thu hoạch.
6. Thu hoạch súp lơ
Phải thu hoạch khi hoa còn non, hoa chưa nở
mới đảm bảo được năng suất và phẩm chất của
hoa lơ. Từ khi ngù hoa xuất hiện đến khi thu hoạch
khoảng 15 - 20 ngày tuỳ theo giống và điều kiện
thời tiết. Lúc này mặt hoa lơ bắt đầu gồ ghề, có
hiện tượng rão ở xung quanh hoa thì phải thu
hoạch ngay.

Dùng dao sắc cắt ngang cây, chỉ để lại 4 - 5 lá
để bảo vệ hoa. Sau khi thu hoạch cần phải tiêu thụ
sản phẩm ngay■
AN THI
Trung tâm Khuyến nông Quốc gia
23
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
KHOA HỌC KỸ THUẬT VÀ CÔNG NGHỆSỐ 18/2014
1. Biện pháp canh tác
- Vệ sinh đồng ruộng: Thu gom và tiêu huỷ tàn
dư cây trồng mang nguồn bệnh, cỏ dại,… để hạn
chế nguồn lây lan bệnh.
- Sử dụng giống khoẻ, sạch sâu bệnh, giống
chống chịu.
- Thời vụ: Lựa chọn loại rau/giống phù hợp với
từng mùa vụ để cây sinh trưởng thuận lợi.
- Mật độ gieo trồng: Gieo trồng mật độ hợp lý,
đảm bảo ánh sáng và không khí lưu thông tốt, hạn
chế sâu bệnh phát sinh.
- Chăm sóc:
+ Bón phân: Bón phân đúng kỹ thuật, bón vừa
đủ và cân đối cho từng loại/giống rau, từng loại đất,
từng mùa vụ, đúng thời kỳ để tạo điều kiện cho cây
sinh trưởng tốt, tăng sức đề kháng với sâu bệnh.
Lượng phân bón cho 1 ha: 20 - 30 tấn phân
chuồng hoai mục, 100 - 150 kg N, 30 - 50 kg P
2
O
5

,
40 - 60 kg K
2
O (chú trọng phân hữu cơ khoáng,
phân lân vi sinh….).
+ Tưới nước: Luôn đảm bảo ruộng rau đủ ẩm,
không đọng nước.
- Xen canh: Xen canh với cây trồng khác họ,
hạn chế nguồn ký chủ và xua đuổi sâu hại (trồng cà
chua xen rau họ Thập tự để xua đuổi sâu tơ).
- Luân canh: Luân canh với lúa nước, các cây
khác họ không cùng ký chủ sâu, bệnh hại để làm
gián đoạn nguồn thức ăn của sâu bệnh hại.
- Bẫy cây trồng: Trồng xen cây khác không thu
hoạch trên diện nhỏ để thu hút sâu hại và phun trừ
chúng (cây hướng dương hấp dẫn sâu khoang).
2. Biện pháp thủ công
Sử dụng bẫy đèn, bẫy dính màu vàng, màu
xanh để bắt và tiêu diệt rệp có cánh, ruồi đục lá, bọ
nhảy; ngắt ổ trứng sâu, bắt giết sâu non, tiêu huỷ
cây bị sâu bệnh, xử lý nhiệt hạt giống,
3. Biện pháp sinh học
- Bảo vệ thiên địch: Các loài bọ rùa ăn rệp, sâu
hại; các loài ong ký sinh trứng, sâu non, nhộng của
sâu hại; các loài kiến, bọ cánh cứng, nhện,… ăn
sâu hại.
- Sử dụng bẫy pheromone giới tính để thu hút
sâu hại trưởng thành vào bẫy rồi tiêu diệt (trưởng
thành sâu khoang, sâu xanh bướm trắng, sâu tơ, ).
- Sử dụng thuốc sinh học và thuốc thảo mộc để

diệt trừ sâu bệnh hại:
+ Các chế phẩm sinh học Bacillus thuringiensis
phòng trừ sâu tơ, sâu xanh bướm trắng, nấm ký
sinh côn trùng Beauveria, Metarhizium,…
+ Thuốc thảo mộc Azadirachtin, Rotenone,… để
phòng trừ, xua đuổi và gây ngán nhiều sâu hại trên rau.
+ Nấm đối kháng Trichoderma hạn chế một số
loại nấm bệnh.
4. Biện pháp hoá học
- Sử dụng các chất hoá học để phòng trừ sâu
bệnh hại cây, chỉ nên sử dụng những loại thuốc sau
trong trường hợp cần thiết :
+ Các loại thuốc chọn lọc, ít độc hại cho người
và môi trường.
+ Các loại thuốc nhanh phân hủy.
+ Các loại thuốc nhóm độc thấp (nhóm 3, 4).
- Áp dụng biện pháp xử lý hạt giống và cây con.
- Sử dụng thuốc phải theo nguyên tắc 4 đúng:
đúng lúc, đúng thuốc, đúng cách, đúng liều lượng,
nồng độ.
NHỮNG SÂU, BỆNH HẠI CHÍNH TRÊN RAU
HỌ THẬP TỰ
1. Sâu tơ Plutella xylostella
Là đối tượng gây hại nguy hiểm, có khả năng
chống thuốc rất nhanh. Hại nặng từ tháng 10 đến
tháng 3 năm sau.
Hướng dẫn
PHÒNG TRỪ SÂU BỆNH HẠI QUAN TRỌNG
TRÊN CÂY RAU
HỌ THẬP TỰ

24
Thông tin
KHUYẾN NÔNG VIỆT NAM
KHOA HỌC KỸ THUẬT VÀ CÔNG NGHỆ SỐ 18/2014
2. Sâu xanh bướm trắng Pieris rapae
Phát sinh quanh năm nhưng hại nặng từ tháng
8 - 10 và từ tháng 2 - 4.
3. Sâu khoang Spodoptera litura
Trưởng thành đẻ trứng thành ổ. Sâu non mới nở
sống tập trung dưới mặt lá (rất dễ phát hiện), tuổi 3
trở đi sâu mới phát tán và ăn khuyết lá, lúc này sâu
hay đục vào nõn.
* Biện pháp phòng trừ các loại sâu ăn lá (sâu tơ,
sâu xanh bướm trắng, sâu khoang ):
- Xử lý cây con, hạt giống trước khi trồng.
- Trên ruộng: ngắt ổ trứng, ổ sâu non mới nở, thu
sâu to, nhộng; bẫy pheromone; sử dụng luân phiên
các loại thuốc sinh học với các thuốc hoá học và
thuốc thảo mộc.
- Một số loại thuốc thông dụng: Deln WG-32BIU,
Elincol 12ME, V-Bt; Proclaim, Xentari 35WDG,
Pegasus 500SC, Amate 150EC, Mach 050EC,
Vinaneem 2SL, Vertimex 1.8EC, Fortenone 5WP,
Success 25EC, Enasin 32WP, Atabron 5EC,…
4. Rệp xám Brevicoryne brassicae,
rệp đào Myzus percicae
Rệp phát triển mạnh trong điều kiện khô hạn.
Nếu không sớm phát hiện sẽ rất khó trừ về sau.
5. Bọ nhảy sọc cong Phyllotreta striolata
Sâu non hại rễ cây, trưởng thành ăn lá tạo thành

những lỗ thủng. Chúng phát sinh quanh năm, trưởng
thành sống từ 2 - 3 tháng hoặc lâu hơn, đẻ trứng lai
rai nên không thành lứa rõ rệt, nhiệt độ thích hợp
25 - 30
0
C.
* Biện pháp phòng trừ rệp, bọ nhảy: Cần theo
dõi phát hiện sớm, xử lý các cây giống trước khi
trồng. Đặt bẫy dính, chọn một trong các loại thuốc
sau: chế phẩm nấm Beauveria, Metarhizium, Elincol
12ME, Sokupi 0,36AS, Oshin 20WP, Elsin 10EC,
Ecasi 20EC,…
6. Bệnh thối nhũn
Do vi khuẩn Erwinia carotovora gây ra. Bệnh
thường xuất hiện khi cây đã lớn và lây nhiễm
rất nhanh, gây thối nhũn, có mùi khó chịu. Bệnh
thường hại nặng vào cuối vụ muộn, kể cả trong khi
bảo quản bệnh cũng phát triển nhanh.
7. Bệnh đốm vòng
Do nấm Alternaria brassicae gây ra, phá hại
trên cải bắp, su hào và gây hại nặng cả khi cây đã
lớn. Vết bệnh hình tròn, nhiều vòng tròn đồng tâm,
có khi liên kết với nhau, trên mặt có một lớp mốc
khi độ ẩm cao.
8. Bệnh thối hạch
Do nấm Sclerotinia sclerotiorum gây ra trên cải
bắp. Cây con bị bệnh dễ thối nhũn gốc và đổ rạp.
Cây lớn bị bệnh, bệnh lan từ thân lên bắp đang
cuốn làm thối từ ngoài vào trong, cây có thể chết
thối khô trên ruộng. Bệnh phát triển mạnh khi ẩm

độ cao.
* Biện pháp phòng trừ bệnh: Xử lý hạt giống, cây
con, dọn sạch tàn dư cây bệnh để tiêu hủy.
- Các thuốc sử dụng trừ bệnh đốm vòng: Bellkute
40WP, Score 250EC, Daconil 75WP, Validacin 3L,…
- Các thuốc phòng trừ bệnh thối hạch, thối nhũn:
Kasai 21,2WP, Kasuran 50WP, Bavistin 50SL,
Ensino 40SC, Cantox-D50WP,… ■
VIỆN BẢO VỆ THỰC VẬT

×