Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP QUAN SÁT TRONG DẠY HỌC TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI LỚP 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.92 KB, 17 trang )

PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO …
TRƯỜNG TIỂU HỌC……
………………….*****…………………
KINH NGHIỆM
MỘT SỐ BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SỬ DỤNG
PHƯƠNG PHÁP QUAN SÁT TRONG DẠY HỌC
TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI LỚP 3
Họ và tên: ……
Tổ chuyên môn: 2 -3
Đơn vị: Trường Tiểu học
NĂM HỌC: 2011 – 2012
II/ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
a) Khách thể nghiên cứu:
Lớp 3B và 3D – Trường Tiểu học Sĩ số: 28 học sinh/lớp
Hai lớp học sinh được chúng tôi chọn tham gia nghiên cứu có nhiều điểm tương
đồng về số lượng, tỷ lệ, chất lượng (căn cứ chất lượng kiểm tra, đánh giá cuối lớp 2 năm
học 2010 - 2011 để so sánh).
Bảng 1: Số lượng, giới tính và chất lượng môn Tự nhiên và Xã hội
Lớp Số học sinh Chất lượng môn TN&XH
(cuối năm lớp 2)
Tổng
số
Nam Nữ A+ A B
SL % SL % SL %
3B 28 15 13 4 14,3 24 85,7
3D 28 14 14 4 14,3 24 85,7
b. Thiết kế nghiên cứu:
+ Chọn 2 lớp nguyên vẹn để tham gia nghiên cứu.
c. Quy trình nghiên cứu:
Thống nhất với 2 giáo viên dạy hai lớp tham gia nghiên cứu về thiết kế bài dạy,
kiểm tra, đánh giá học sinh.


* Soạn bài
+ Tôi dạy lớp thực nghiệm 3B: Khi soạn bài và giảng dạy trên lớp có sử dụng
phương pháp quan sát (cụ thể các cách quan sát khác nhau: mắt nhìn, tai nghe, tay sờ,
mũi ngửi, để kiểm tra bài cũ, hình thành kiến thức nội dung bài mới, thực hành trên
đồ dùng, trò chơi, tùy vào nội dung từng bài) trong các giờ dạy môn Tự nhiên và Xã
hội.
+ Lớp đối chứng 3D: Khi soạn bài và giảng dạy trên lớp không cần chú ý sử dụng
phương pháp quan sát, quy trình soạn, giảng được tiến hành bình thường.
A. ĐẶT VẤN ĐỀ
I/ Giới thiệu.
Tự nhiên và Xã hội là môn học cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản
ban đầu về các sự việc hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và trong các mối quan hệ của
con người, xảy ra xung quanh các em. Bên cạnh các môn học chính như Toán, Tiếng
Việt, Tự nhiên xã hội trang bị cho các em những kiến thức cơ bản của bậc học góp phần
bồi dưỡng nhân cách toàn diện cho trẻ.
Hoà cùng với công cuộc đổi mới mạnh mẽ về phương pháp, hình thức tổ chức
dạy học trên toàn ngành, môn Tự nhiên xã hội cũng có những bước chuyển mình, từng
bước vận dụng thay đổi linh hoạt các phương pháp dạy học nhằm tích cực hoá các hoạt
động của học sinh, phát huy tính chủ động sáng tạo của học sinh trong quá trình lĩnh hội
tri thức.
Phương pháp quan sát là phương pháp đặc trưng, thường được sử dụng khi dạy
học môn Tự nhiên xã hội và đặc biệt là đối với học sinh ở giai đoạn 1. Học sinh quan
sát chủ yếu là để nhận biết hình dạng, đặc điểm bên ngoài của sự vật hiện tượng đang
diễn ra trong môi trường tự nhiên, trong cuộc sống. Khi được sử dụng các giác quan
tiếp cận trực tiếp với sự vật, hiện tượng (sờ mó, ngửi, nếm, mổ xẻ, nhìn, nghe….) để
lĩnh hội tri thức học sinh sẽ thích thú hơn trong học tập.
Tuy nhiên, trên thực tế việc sử dụng phương pháp quan sát trong dạy học Tự
nhiên và Xã hội vẫn chưa được thực hiện một cách đúng mức. Việc dạy học Tự nhiên
và Xã hội chỉ diễn ra khô khan, cứng nhắc, mang tính chất đối phó cho đầy đủ chương
trình. Học sinh, phụ huynh và thậm chí cả giáo viên vẫn cho rằng môn học này là phụ

nên không chuyên tâm để ý, nên hay bị cắt giảm thời lượng để dành thời gian cho hai
môn học chính: Toán và Tiếng Việt vốn có lượng kiến thức nhiều. Chính vì thế, khi dạy
học giáo viên sử dụng phương pháp quan sát chưa linh hoạt, thành thạo, còn học sinh
thì lúng túng khi quan sát, chưa thực sự chủ động trong chiếm lĩnh tri thức. Vì vậy các
em chưa hứng thú với việc học môn Tự nhiên và Xã hội.
Vấn đề cần giải quyết là giáo viên cần có ý thức và sử dụng phương pháp quan sát
một cách hiệu quả trong dạy học Tự nhiên và Xã hội.
II/ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
b) Khách thể nghiên cứu:
Lớp 3B và 3D – Trường Tiểu học
Sĩ số: 28 học sinh/lớp
Hai lớp học sinh được chúng tôi chọn tham gia nghiên cứu có nhiều điểm tương
đồng về số lượng, tỷ lệ, chất lượng (căn cứ chất lượng kiểm tra, đánh giá cuối lớp 2 năm
học 2010 - 2011 để so sánh).
Bảng 1: Số lượng, giới tính và chất lượng môn Tự nhiên và Xã hội
Lớp Số học sinh Chất lượng môn TN&XH
(cuối năm lớp )
Tổng
số
Nam Nữ A+ A B
SL % SL % SL %
3B 28 15 13 4 14,3 24 85,7
3D 28 14 14 4 14,3 24 85,7
b. Thiết kế nghiên cứu:
+ Chọn 2 lớp nguyên vẹn để tham gia nghiên cứu.
c. Quy trình nghiên cứu:
Thống nhất về thiết kế bài dạy, kiểm tra, đánh giá học sinh.
* Soạn bài
+ Tôi dạy lớp thực nghiệm 3B: Khi soạn bài và giảng dạy trên lớp có sử dụng
phương pháp quan sát (cụ thể các cách quan sát khác nhau: mắt nhìn, tai nghe, tay sờ,

mũi ngửi, để kiểm tra bài cũ, hình thành kiến thức nội dung bài mới, thực hành trên
đồ dùng, trò chơi, tùy vào nội dung từng bài) trong các giờ dạy môn Tự nhiên và Xã
hội.
+ Lớp đối chứng 3D: Khi soạn bài và giảng dạy trên lớp không cần chú ý sử dụng
phương pháp quan sát, quy trình soạn, giảng được tiến hành bình thường.

* Đánh giá, xếp loại học sinh ở cả hai lớp thực hiện theo Thông tư số
32/2009/BGD&ĐT, ngày 27 tháng 10 năm 2009 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo
ban hành về Quy định đánh giá và xếp loại học sinh tiểu học.
* Tiến hành thực nghiệm
Thực nghiệm nghiên cứu trong học kỳ I năm học 2011-2012, cụ thể:
Hai lớp vẫn thực hiện theo Kế hoạch dạy học theo quy định của Bộ Giáo dục và
Đào tạo ban hành về Chương trình giáo dục phổ thông và thời khóa biểu của nhà trường
để dảm bảo tính khách quan, tự nhiên.
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I/ Cơ sở lí luận
1. Cơ sở tâm lí học.
- Ở lứa tuổi Tiểu học cơ thể của trẻ đang trong thời kỳ phát triển vì thế sức dẻo dai
của cơ thể còn thấp nên trẻ không thể làm lâu một cử động đơn điệu, dễ mệt mỏi nhất là
khi hoạt động quá lâu và ở phòng học nhỏ.
- Học sinh Tiểu học dễ nhớ nhưng chóng quên nhất là khi các em không tập trung
cao độ. Vì vậy người giáo viên phải tạo ra hứng thú trong học tập và phải thường xuyên
được luyện tập.
- Học sinh Tiểu học rất dễ xúc động và thích tiếp xúc với một sự vật, hiện tượng nào
đố nhất là những hình ảnh gây cảm xúc mạnh.
- Trẻ hiếu động, ham hiểu biết cái mới nên dễ gây cảm xúc mới song các em chóng
chán. Do vậy trong dạy học giáo viên phải sử dụng nhiều đồ dùng dạy học, đưa học sinh
đi tham quan, đi thực tế, tăng cường thực hành để củng cố khắc sâu kiến thức.
2. Nội dung chương trình môn Tự nhiên và Xã hội lớp 3.
Nội dung chương trình Tự nhiên và Xã hội lớp 3 có 3 chủ đề gồm 70 tiết của 35

tuần. Trong đó có 63 bài học mới và 7 bài ôn tập được phân phối:
- Con người và sức khoẻ: 16 bài mới và 2 bài ôn tập.
- Xã hội: 18 bài mới và 3 bài ôn tập.
- Tự nhiên: 29 bài mới và 2 bài ôn tập.
3. Sách giáo khoa môn Tự nhiên và Xã hội lớp 3:
Chia làm 3 chủ đề, với mọi chủ đề được phân bằng những dải màu khác, sách có
kênh hình chiếm ưu thế đã thực sự là nội dung học tập chính. Những hình ảnh trong
sách giáo khoa đúng vai trò kép, vừa làm nhiệm vụ cung cấp thông tin, vừa làm nhiệm
vụ chỉ dẫn học tập. Kênh chữ ngắn gọn chủ yếu là các lệnh đưa ra một cách ngắn gọn
xúc tích, dễ hiểu, dễ nhớ. Với một số bài khó như bài 7: Hoạt động tuần hoàn, bài về
Mặt trời, Trái đất, Mặt trăng, Năm-tháng và mùa … kênh chữ xuất hiện với vai trò cung
cấp thông tin. Cách trình bày một bài và các “lệnh” chỉ dẫn cho học sinh một chuỗi các
trình tự học tập như quan sát thực hành, liên hệ thực tế và trả lời để học sinh chiếm lĩnh
kiến thức mới.
Tóm lại: Nội dung kiến thức trong toàn bộ sáchTự nhiên và Xã hội lớp 3 được phát
triển theo nguyên tắc từ gần đến xa, dẫn dắt học sinh quan sát mở rộng vốn hiểu biết từ
bản thân đến gia đình, trường học, từ cuộc sống xã hội xung quanh đến thiên nhiên rộng
lớn, từ những cây cối, con vật thường gặp đến mặt trời, trái đất và mặt trăng.
4. Nhu cầu về phương pháp dạy học :
Học sinh Tiểu học có trí thông minh khá nhạy bén sắc sảo, có óc tưởng tượng
phong phú. Đó là tiền đề tốt cho việc phát triển tư duy nhưng rất dễ bị phân tán, rối trí
nếu bị áp đặt, căng thẳng, quá tải. Chính vì thế nội dung chương trình, phương pháp
giảng dạy, hình thức chuyển tải, truyền đạt làm thế nào cho phù hợp với tâm sinh lý lứa
tuổi là điều không thể xem nhẹ. Đặc biệt đối với học sinh lớp 3, giờ học sẽ trở nên nặng
nề, không duy trì được khả năng chú ý quan sát của các em nếu các em chỉ có nghe và làm
theo.
Muốn giờ học có hiệu quả thì đòi hỏi người giáo viên phải đổi mới phương pháp
dạy học tức là kiểu dạy học “Lấy học sinh làm trung tâm” hướng tập trung vào học
sinh, trên cơ sở hoạt động của các em. Giáo viên là người định hướng, tổ chức ra những
tình huống học tập nó kích thích óc tò mò và tư duy độc lập. Muốn các em học được thì

trước hết giáo viên phải nắm chắc nội dung của mỗi bài và lựa chọn, vận dụng các
phương pháp sao cho phù hợp, bài nào thì sử dụng các phương pháp quan sát trực quan,
thuyết trình, trò chơi hoặc hoạt động nào thì sử dụng phương pháp giảng giải, kiểm tra,
thí nghiệm nhưng phải chú ý đến đặc điểm tâm sinh lý của học sinh Tiểu học.
Học sinh lớp 3 vẫn còn quan sát sự vật hiện tượng dưới dạng tổng thể, đơn giản.
Năng lực suy luận của các em còn kém, trong khi đó lượng kiến thức truyền đạt thì
nhiều và ẩn dưới dạng tranh vẽ, yêu cầu và phần bài học đóng khung rất khô cứng. Nếu
không hướng dẫn các em quan sát để khai thác phù hợp thì rất dễ dẫn đến việc học sinh
chán học môn tự nhiên xã hội. Giáo viên cần phải cập nhật, đổi mới phương pháp để
giúp học sinh phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo trong học tập, giúp học sinh hoạt
động nhiều đi theo đúng các con đường mà các nhà khoa học đã đi tìm ra kiến thức đó.
Từ đó, học sinh hứng thú hơn với việc học tập môn Tự nhiên xã hội.
Tuy nhiên không có phương pháp dạy học nào là tối ưu. Vì vậy, giáo viên cần phải
biết phối hợp các phương pháp một cách nhuần nhuyễn, linh hoạt. Song trong mỗi bài
học phương pháp quan sát lại chiếm một phần lớn thời lượng để phân tích tìm ra kiến
thức. Do vậy mà tôi lựa chọn đề tài: Tìm hiểu một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử
dụng phương pháp quan sát trong dạy học Tự nhiên và xã hội cho học sinh lớp 3.
II. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng phương pháp quan
sát trong dạy học Tự nhiên và Xã hội lớp 3
1. Nhìn nhận lại về tầm quan trọng của môn học Tự nhiên và Xã hội.
Tự nhiên và Xã hội là môn học cung cấp, trang bị cho học sinh những kiến thức ban
đầu, cơ bản về tự nhiên và xã hội trong cuộc sống hàng ngày xảy ra xung quanh các em.
Vì thế học sinh đã có vốn sống, vốn hiểu biết ban đầu về tự nhiên và xã hội. Đây là điều
kiện thuận lợi để học tập tốt môn Tự nhiên và Xã hội nhưng đồng thời nó cũng chính là
điểm gây trễ nải trong việc học tập môn học này vì học sinh, phụ huynh hay ngay cả
giáo viên cũng cho rằng những điều đó biết rồi thì không cần học. Để có nhận thức
đúng đắn về tầm quan trọng của môn học Tự nhiên và Xã hội thì cần tổ chức đợt
chuyên đề, thường xuyên nhắc nhở trong các buổi sinh hoạt chuyên môn làm cho giáo
viên nắm được: Những hiểu biết ban đầu của học sinh về cuộc sống và thế giới xung
quanh em chỉ là những hiểu biết tản mạn, chưa mang tính bản chất mà chỉ mới chỉ nằm

ở hình thức, tồn tại ở bên ngoài sự vật hiện tượng. Việc học tập môn Tự nhiên và Xã hội
giúp học sinh tiếp cận với thế giới xung quanh bằng những phương pháp khoa học, phù
hợp với trình độ của các em.
Khi đã nhận thức được tầm quan trọng của môn Tự nhiên và Xã hội thì giáo viên
cần trau dồi phương pháp dạy học môn học sao cho hiệu quả nhất. Mà phương pháp đặc
trưng của môn học là phương pháp quan sát. Hầu hết các bài TN-XH ở lớp 3 đều có sử
dụng đến phương pháp quan sát. Giáo viên cần sử dụng nhuần nhuyễn phương pháp
quan sát trong dạy học Tự nhiên và Xã hội 3.
2. Giáo viên cần rèn luyện các kĩ năng hướng dẫn học sinh quan sát.
Để sử dụng phương pháp quan sát có hiệu quả thì giáo viên cần rèn luyện cho
mình các kĩ năng phục vụ cho tổ chức quan sát. Việc phối hợp thực hiện linh hoạt các kĩ
năng hướng dẫn quan sát sẽ đem lại kết quả cao cho việc học tập môn Tự nhiên và Xã
hội. Các kĩ năng hướng dẫn quan sát bao gồm:
a) Kĩ năng xác định tình huống sử dụng.
Giáo viên cần biết khi nào thì sử dụng phương pháp quan sát. Việc xác định được
tình huống sử dụng phươngp háp quan sát làm cho bài dạy hiệu quả hơn. Giáo viên nên
sử dụng phương pháp quan sát để khai thác kiến thức từ các sự vật, hiện tượng và sử
dụng vào thời gian đầu của tiết học để tạo hứng thú làm việc của học sinh.
Ví dụ:
Trong phần khai thác kiến thức mới ở Chủ điểm: Con người và sức khỏe giáo viên
tổ chức cho học sinh quan sát để tìm hiểu những bộ phận của các cơ quan trong cơ thể
hoặc quan sát để tìm ra những việc nên làm và không nên làm.
Trong phần khai thác kiến thức mới ở Chủ điểm: Xã hội giáo viên tổ chức cho học
sinh quan sát để tìm ra nội dung của bài học qua tranh ảnh hoặc quan sát để tìm ra
những việc nên làm và không nên làm.
Trong phần khai thác kiến thức mới ở Chủ điểm: Tự nhiên giáo viên tổ chức cho
học sinh quan sát qua cây cối, con vật hoặc tranh ảnh đặc điểm của thân, lá, mùi vị,
màu sắc, hình dáng, kích thước, qua quan sát để so sánh chúng với nhau….có đặc điểm
gì chung, có gì đặc biệt. Sau khi quan sát, để khai thác kiến thức cần đạt thì giáo viên sử
dụng đến phương pháp hỏi đáp, giảng giải….

b) Kĩ năng lựa chọn đối tượng quan sát.
Giáo viên cần xác định được lượng kiến thức cần đạt. Từ đó xác định được đối
tượng để khai thác lượng kiến thức đó. Đối tượng quan sát có thể là các hiện tượng diễn
ra trong cuộc sống hàng ngày: tranh ảnh, mô hình….Song nên tối đa lựa chọn vật thật
cho học sinh quan sát. Vì quan sát vật thật giúp cho học sinh tri giác trực tiếp vận dụng
được nhiều giác quan trong quan sát, giúp cho tiết học sinh động hơn. Khi không có
điều kiện tiếp xúc với vật thật thì mới sử dụng mô hình, tranh ảnh.
VD: Khi dạy bài về Thân cây, Rễ cây, Lá cây, Hoa , Quả không nên chỉ lựa
chọn tranh ảnh mà nên sử dụng chính cây, lá, hoa, quả thật để cho học sinh quan sát
khai thác kiến thức cần chiếm lĩnh một cách sinh động, dễ nhớ nhất. Kết hợp sử dụng
đến mô hình, tranh ảnh trình chiếu những cây cối, hoa, lá, quả khác miền để làm phong
phú thêm vốn sống cho học sinh.
Trong nhiều trường hợp, giáo viên nên phối hợp cả vật thật và tranh ảnh, mô hình
để quan sát. Vì tranh ảnh và mô hình thể hiện được sự vật, hiện tượng ở trạng thái tĩnh
và có sự khái quát cao.
VD: Bài Trái đất – Mặt trăng – Mặt trời cần thiết sử dụng cả mô hình, đồng thời
sử dụng tranh SGK, ảnh chụp từ vệ tinh để học sinh quan sát đạt hiệu quả cao hơn.
VD: Dạy các bài về Động vật cần thiết sử dụng cả tranh ảnh băng đĩa, mô hình để
học sinh quan sát biết được nhiều hơn các loài động vật và hoạt động của chúng để làm
giàu thêm vốn hiểu biết cho các em.
Ngoài việc phải biết xác định là cần phải quan sát cái gì giáo viên còn phải biết lựa
chọn đồ dùng quan sát sao cho phù hợp:
+ Đồ dùng đưa vào quan sát phải phù hợp với bài học, thể hiện được nội dung bài
+ Đồ dùng đưa vào quan sát phải kích thích đựơc hứng thú học tập, phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh
+ Đồ dùng quan sát đảm bảo khoa học, sư phạm, kích thước vừa phải.
+ Đồ dùng đưa ra đúng lúc, đúng chỗ. Nếu như đã khai thác được kiến thức thì nên
cất đồ dùng, nếu để đồ dùng để lâu sẽ làm cho học sinh quan sát tản mạn các yếu tố
không cần thiết và xao nhãng vào các hoạt động học tập kế tíêp.
VD: Khi dạy bài Một số hoạt động ở trường giáo viên cần chọn tranh ảnh thể hiện

được hoạt động của trường. Đặc biệt không nên đưa những tranh ảnh mang nội dung
không đảm bảo kỉ luật ở trường (Học sinh ăn quà, học sinh đánh nhau…). Tranh ảnh đó
sẽ phản tác dụng giáo dục của giáo viên đối với học sinh suốt cả quá trình phía trước đó.
c ) Kĩ năng xác định mục đích quan sát.
Trong một bài học, không phải mọi kiến thức cần cung cấp cho học sinh đều được rút ra
từ quan sát, vì vậy khi đã chuẩn bị được đối tượng cho học sinh quan sát, giáo viên cần
phải xác định rõ quan sát phải đạt được mục đích nào. Từ đó hướng học sinh quan sát
vào bộ phận, đặc điểm của đối tượng quan sát nhất định chứ không quan sát lan man.
VD: Bài Rễ cây giáo viên tổ chức cho học sinh quan sát các rễ cây mang đến
trường, giáo viên cần xác định được các kiến thức cần rút ra, cần đạt được khi quan sát
rễ cây: Nhận biết được hình dáng, đặc điểm của các loại rễ cây: rễ cọc, rễ chùm, rễ phụ,
rễ củ. Từ việc xác định mục tiêu cần đạt giáo viên cần tổ chức cho học sinh quan sát để
tìm ra chức năng của rễ đối với cây, ích lợi của rễ cây. Giáo viên cần theo dõi, hướng
dẫn học sinh quan sát để khai thác được kiến thức cần đạt trong bài chứ không để học
sinh quan sát những yếu tố không bộc lộ được kiến thức trọng tâm như: Rễ cây ngắn
hay dài, rễ cây màu trắng hay màu vàng…
d) Kĩ năng tổ chức cho học sinh quan sát
Để tổ chức cho học sinh quan sát thật tốt, thật hiệu quả thì giáo viên cần có kĩ năng
tổ chức và hướng dẫn quan sát khéo léo, nhẹ nhàng, linh hoạt.
Căn cứ vào lượng đồ dùng có được, giáo viên lựa chọn hình thức tổ chức dạy học
phù hợp: Nếu có nhiều đồ dùng đảm bảo 1hoặc nhiều đồ dùng/ 1 học sinh thì tổ chức
dạy học cá nhân, nhóm nhỏ(2,3). Nếu đồ dùng có ít thì tổ chức dạy học theo nhóm (4, 5,
6…). Các nhóm có thể cùng quan sát một đối tượng để giải quyết chung một nhiệm vụ
học tập hoặc mối nhóm có thể quan sát nhiều đối tượng quan sát khác nhau và giải
quyết nhiều nhiệm vụ khác nhau.
Khi quan sát, giáo viên cần tạo điều kiện cho học sinh được sử dụng nhiều giác
quan để phán đoán, cảm nhận sự vật và hiện tượng ( mắt nhìn, tai nghe, tay sờ, mũi
ngửi…) từ đó mới gây hứng thú học tập cho học sinh làm việc với đối tượng để rút ra
kiến thức cần chiếm lĩnh.
Giáo viên cần tổ chức cho học sinh bắt đầu quan sát từ toàn thể rồi mới đi đến bộ

phận chi tiết; từ bên ngoài rồi mới đi vào bên trong trước khi đi đến những nhận xét
tổng quát về sự vật, hiện tượng đã biết để tìm ra những điểm giống nhau hoặc khác
nhau.
Nếu tổ chức quan sát theo nhóm học sinh, giáo viên nên cho các em phát biểu kết
quả quan sát trong nhóm hoặc cử một bạn ghi lại những quan sát của nhóm. Đại diện
các nhóm báo cáo kết quả làm việc của từng nhóm, cả lớp nghe, so sánh, phân tích, xử
lí để đi đến kết luận chung nhằm đạt được mục đích của bài tập quan sát đã đặt ra.
VD: Khi dạy bài Lá cây giáo viên tổ chức cho học sinh quan sát lá cây cá nhân, nhóm
nhỏ với hệ thống câu hỏi để hướng học sinh quan sát đúng mục đích cần đạt như sau:
Trước hết là sử dụng các câu hỏi hướng dẫn tổng quát. Những câu hỏi này nhằm tái
hiện lại những hiểu biết sẵn có của học sinh trước khi khai thác kiến thức của bài:
+Lá cây thường có những màu gì? Màu nào là phổ biến?
+Lá cây có những hình dạng gì?
+Kích thước của các loại lá cây như thế nào?
Sau đó giáo viên cho các em quan sát lá cây từ hình thức đến nội dung với các
câu hỏi chi tiết:
+ Lá cây thường gồm những bộ phận nào?(mắt nhìn, tay chỉ…)
+Mép lá và phiến lá có gì khác nhau? (mắt nhìn, tay sờ kiểm tra, phân tích…)
Dựa vào kết quả quan sát vừa thu được và kết hợp với vốn hiểu biết sẵn có, giáo
viên cho học sinh tìm ra đặc điểm của lá cây và so sánh chúng với nhau để khắc sâu
kiến thức vừa chiếm lĩnh được.
Qua ví dụ trên có thể rút ra: Việc giáo viên sử dụng đúng câu hỏi nhằm hướng dẫn
học sinh tập trung chú ý vào đối tượng quan sát và việc yêu cầu của các em phải huy
động các giác quan để tri giác đối tượng đó rồi rút ra nhận xét và kết luận là rất quan
trọng. Vì vậy, để sử dụng phương pháp quan sát trong dạy học Tự nhiên và Xã hội lớp 3
nói riêng và lớp 1-2-3 ở bậc tiểu học hiệu quả thì giáo viên cần thiết phải rèn luyện kĩ
năng đặt câu hỏi.
Trong quá trình này học sinh còn rèn luyện các kĩ năng: Nghe và hiểu những yêu
cầu của giáo viên đề ra cho việc quan sát, ghi nhớ. Tái hiện lại các tri thức thu được để
biểu đạt nó thành lời nói lại những gì mà các em đã quan sát được. Nếu giáo viên tổ

chức cho học sinh quan sát thường xuyên sẽ hình thành cho các em kĩ năng nghe lệnh,
hiểu lệnh khi học tập một cách nhanh chóng, thuần thục.
e) Kĩ năng đặt câu hỏi, soạn thảo phiếu học tập sau khi quan sát.
Khi giáo viên tiến hành soạn thảo câu hỏi, phiếu học tập cần đảm bảo:
-Yêu cầu nêu lên trong câu hỏi, trong phiếu học tập phải được diễn đạt một cách
chặt chẽ, rõ ràng, rành mạch, dễ hiểu và chính xác.
- Nội dung câu hỏi, phiếu học tập phải phù hợp với đối tượng quan sát và nội dung
bài dạy, phù hợp với trình độ học sinh.
- Câu hỏi, phiếu học tập cần phải đa dạng về nội dung và hình thức thể hiện.
- Về mặt nội dung nên sử dụng nhiều các loại câu hỏi trắc nghiệm để hình thức
hỏiphong phú gây hứng thú học tập cho học sinh. Đồng thời kết hợp một số ít câu hỏi
mở để kích thích được suy nghĩ, động não của học sinh.
- Về hình thức: Các câu hỏi trong phiếu học tập có thể được trình bày một cách đa
dạng bằng lời văn, bằng câu đố hay bằng hình ảnh sẽ gây được hứng thú học tập của các
em.
* Để rèn luyện các kĩ năng quan sát cho học sinh thì không có con đường nào
khác ngoài thực hành quan sát các đối tượng phục vụ cho nội dung mỗi bài học thường
xuyên trên lớp thông qua các tiết dạy học Tự nhiên và Xã hội. Áp dụng các kĩ năng vào
dạy học chính là giáo viên đã tự mình rèn luyện, nâng cao hiệu quả sử dụng phương
pháp quan sát trong dạy học môn học này.
* Sử dụng nhuần nhuyễn các kĩ năng trên khi tổ chức cho học sinh quan sát sẽ giúp
cho giáo viên tự tin hơn, thoải mái hơn, ham thích việc tổ chức dạy học Tự nhiên và
Xã hội có sử dụng phương pháp quan sát. Việc học tập theo phương pháp quan sát tạo
cho học sinh thói quen quan sát thế giới xung quanh một cách khoa học.
C. KẾT LUẬN
Bài học kinh nghiệm
1. Sự nhiệt tình và phương pháp dạy học của giáo viên quyết định đến chất lượng
học tập của học sinh. Bởi vậy, dạy đúng, dạy đủ, dạy theo đổi mới phương pháp dạy
học môn Tự nhiên và Xã hội nói chung và của lớp 3 nói riêng là một yêu cầu cấp thiết,
đòi hỏi ý thức, công sức rất lớn của giáo viên và học sinh.

2. Giáo viên phải luôn trau dồi, bồi dưỡng, rèn luyện về cả kiến thức và đặc biệt là
các kĩ năng thực hiện sâu chuỗi các thao tác để phục vụ cho việc thực hiện tổ chức
phương pháp quan sát hiệu quả qua các tiết dạy. Giáo viên phải biết yêu thương và có
tinh thần trách nhiệm đối với học sinh. Lấy việc dạy học cho học sinh là nghĩa vụ, bổn
phận nhưng cũng là nguồn vui trong cuộc sống. Có yêu thương các em thì mới dạy học
đúng, đủ và nhiệt tình được. Giáo viên thiếu nhiệt huyết sẽ không thực hiện được việc
dạy học môn được coi là môn phụ như môn Tự nhiên và Xã hội một cách nghiêm túc.
3. Không có phương pháp dạy học nào là tối ưu. Vì vậy dù là phương pháp đặc
trưng nhưng giáo viên không chỉ dừng lại ở việc dạy học Tự nhiên và Xã hội bằng
phương pháp quan sát mà phải trau dồi, rèn luyện việc sử dụng phối hợp nhịp nhàng
nhiều phương pháp dạy học khác nhau để tránh nhàm chán. Có như thế mới mang lại
hiệu quả cao nhất cho dạy học nói chung và dạy Tự nhiên và Xã hội nói riêng.
4. Việc tổ chức cho học sinh học tập phải đưa học sinh vào vị trí trung tâm. Học
sinh chủ động và tích cực chiếm lĩnh tri thức theo sự hướng dẫn của giáo viên. Việc học
tập là việc khó khăn nhưng học sinh không được nản chí, lùi bước mà phải thường
xuyên ôn tập để chiếm lĩnh kho tàng tri thức vô tận. Giáo viên là người hướng dẫn và
đồng thời luôn gây hứng thú học tập ở các em, làm cho các em luôn ham học hỏi trong
các tiết học và ngoài cuộc sống.
5. Việc sử dụng thường xuyên phương pháp quan sát trong dạy học Tự nhiên và Xã
hội lớp 3 giúp cho giáo viên có kĩ năng thành thạo trong dạy học. Mỗi khi thao giảng,
dự giờ đột xuất sẽ không còn lúng túng mà tự tin thoải mái hơn trong dạy học.
6. Sử dụng thường xuyên phương pháp dạy học giúp cho học sinh liên tục được tri
giác các đối tượng có trong cuộc sống. Từ đó, học sinh được rèn luyện kĩ năng quan sát
có chủ định, có mục đích, có phương hướng, quan sát yếu tố bộc lộ được bản chất của
sự vật hiện tượng. Học sinh hình thành thói quen quan sát thế giới, ham thích khám phá
thế giới muôn màu, muôn sắc và từ đó ham thích học tập môn Tự nhiên và Xã hội.
Kết luận
Việc sử dụng phương pháp quan sát trong dạy học môn Tự nhiên và Xã hội ở
Tiểu học nói chung và lớp 3 của tôi nói riêng thực sự mang lại hiệu quả là nâng cao
hứng thú học tập cho học sinh. Từ việc áp dụng phương pháp quan sát vào giảng dạy đã

nâng cao chất lượng môn học Tự nhiên và Xã hội ở lớp 3 đồng thời nhờ có các hoạt
động quan sát qua trò chơi đã giúp các em biết sáng tạo, tìm tòi, khám phá kiến thức và
vận dụng tốt kiến thức đã học vào thực tiễn cuộc sống hàng ngày. Các em luôn tự tin
trong giao tiếp và kỹ năng giao tiếp của các em có sự tiến bộ rõ rệt.
Khuyến nghị
Nhà trường cần tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy học theo hướng hiện
đại hóa dể tạo điều kiện cho giáo viên có dủ các phương tiện áp dụng đổi mới phương
pháp dạy học. Có biện pháp tăng cường bồi dưỡng chuyên môn cho giáo viên trong đổi
mới phương pháp dạy học.
Đối với giáo viên: không ngừng học tập, tự học, tự bồi dưỡng, mạnh dạn đổi mới
phương pháp dạy học. Không quá lệ thuộc vào sách giáo viên và các sách hướng dẫn
giảng dạy khác. Trong dạy học luôn đổi mới các hình thức và các hoạt động nhằm tạo
hứng thú cho học sinh và phát huy có hiệu quả tính tích cực của người học.
Với kết quả của kinh nghiệm này, tôi rất mong nhận được sự quan tâm, chia sẻ
của các đồng nghiệp. Các giáo viên trong tổ, trong trường có thể nghiên cứu, ứng dụng
kinh nghiệm này vào việc dạy môn Tự nhiên và Xã hội ở các lớp 1, 2, 3 để tạo hứng
thú và nâng cao kết quả học tập cho học sinh.



×