Tải bản đầy đủ (.doc) (67 trang)

Một số giải pháp nhằm hoàn thiện tình hình tài chính tại công ty TNHH Tiến Đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (401.74 KB, 67 trang )

Trường Đại học Kinh tế quốc dân Khoa Ngân hàng – Tài chính
MỤC LỤC
Danh mục bảng biểu, hình vẽ 4
Hình 2.1: Sơ đồ bộ máy quản lý ở Công ty TNHH Tiến Đức 4
LỜI MỞ ĐẦU 5
CHƯƠNG 1: CƠ SƠ LÝ LUẬN VÀ NỘI DUNG PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH
DOANH NGHIỆP 7
1.1Tổng quan về tài chính doanh nghiệp 7
1.1.1 Khái niệm về tài chính doanh nghiệp 7
1.1.2 Cơ sở của tài chính doanh nghiệp 7
1.1.3 Mục tiêu của tài chính doanh nghiệp 8
1.1.4 Những nội dung của tài chính doanh nghiệp 10
1.2 Phân tích tài chính doanh nghiệp 13
1.2.1 Khái niệm và mục tiêu của phân tích tài chính doanh nghiệp 13
1.2.2 Nguồn thông tin sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp 16
1.2.3 Các phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp 18
1.2.4 Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp 18
1.2.4.1 Các hệ số về khả năng thanh toán 20
1.2.4.2 Nhóm chỉ tiêu về khả năng hoạt động 21
1.2.4.3 Tỷ số về khả năng cân đối vốn 23
1.2.4.4 Nhóm tỷ số phản ánh khả năng sinh lời 23
1.2.5 Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp 25
1.2.5.1 Qúa trình hình thành và phát triển của hoạt động phân tích tài
chính doanh nghiệp 25
1.2.5.2 Các nhân tố khách quan ảnh hưởng đến hoạt động phân tích
tài chính doanh nghiệp 25
CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH TẠI CÔNG TY TRÁCH NHIỆM HỮU HẠN
TIẾN ĐỨC 27
2.1 Khái quát về công ty trách nhiệm hữu hạn Tiến Đức 27
2.1.1 Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển của công ty 27
2.1.2 Đặc điểm cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý ở Công ty 28


2.1.3 Đặc điểm sản phẩm và quy trình công nghệ sản xuất 31
2.1.3.1 Đặc điểm sản phẩm 31
2.1.3.2 Quy trình công nghệ sản xuất 32
2.1.4 Kết quả hoạt động kinh doanh 35
2.2 Phân tích tài chính công ty TNHH Tiến Đức 37
2.2.1 Cơ sở dữ liệu phục vụ phân tích tài chính công ty TNHH Tiến Đức 37
2.2.2 Phương pháp phân tích 39
2.2.3 Nội dung phân tích 39
2.2.3.1 Phân tích bảng cân đối kế toán 40
2.2.3.2 Phân tích báo cáo kết quả kinh doanh 44
2.2.3.3 Phân tích các tỷ số tài chính đặc trưng 48
2.3 Đánh giá tình hình tài chính công ty trách nhiệm hữu hạn Tiến Đức 56
2.3.1 Những thành công đạt được 58
2.3.2 Những hạn chế và nguyên nhân 59
Sinh viên: Trần Thị Nhàn Lớp: TCDN NQ
2
Trường Đại học Kinh tế quốc dân Khoa Ngân hàng – Tài chính
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP CẢI THIỆN TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH CÔNG TY TRÁCH
NHIỆM HỮU HẠN TIẾN ĐỨC 61
3.1 Định hướng cải thiện tình hình tài chính công ty TNHH Tiến Đức 61
3.2 Một số giải pháp góp phần cải thiện tình hình tài chính Công ty trách
nhiệm hữu hạn Tiến Đức 62
3.2.1 Giải pháp về quản lý và sử dụng vốn kinh doanh 62
3.2.2 Giải pháp về hiệu quả kinh doanh 64
3.2.3 Giải pháp hạ thấp chi phí 65
3.2.4 Tăng cường công tác quản lý lao động 65
3.3 Kiến nghị 66
KẾT LUẬN 67
Sinh viên: Trần Thị Nhàn Lớp: TCDN NQ
3

Trường Đại học Kinh tế quốc dân Khoa Ngân hàng – Tài chính
Danh mục bảng biểu, hình vẽ
Hình 2.1: Sơ đồ bộ máy quản lý ở Công ty TNHH Tiến Đức
Hình 2.2.1: Quy trình công nghệ sản xuất túi nilon, bao bì
Hình 2.2.2: Quy trình sản xuất lưới
Biểu 2.1 : Kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty ba năm gần đây
Biểu 2.2 : Tình hình Tài sản và Nguồn vốn của Công ty ba năm gần đây
Biểu 2.3 : Phân tích cơ cấu và biến động tài sản
Biểu 2.4 : Phân tích cơ cấu và biến động nguồn vốn
Biểu 2.5 : Phân tích Báo cáo kết quả kinh doanh
Biểu 2.6 : Khả năng thanh toán của Công ty ba năm gần đây
Biểu 2.7 : Các chỉ số hoạt động của Công ty
Biểu 2.8 : Tỷ số khả năng cân đối vốn của Công ty
Biểu 2.9 : Các tỷ số về khả năng sinh lời
Sinh viên: Trần Thị Nhàn Lớp: TCDN NQ
4
Trường Đại học Kinh tế quốc dân Khoa Ngân hàng – Tài chính
LỜI MỞ ĐẦU
Năm 1986 đánh dấu bước ngoặt lớn của nền kinh tế nước ta nói riêng và đất
nước nói chung. Tại đại hội đảng lần thứ VI nước ta quyết định thực hiện chuyển
dịch cơ cấu kinh tế từ nền kinh tế bao cấp với hai thành phần đố là kinh tế quốc
doanh và kinh tế tập thể sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước đã
cho phép tồn tại nhiều thành phần kinh tế. đây là một bước ngoặt lịch sử, một sự
lựa chọn đúng đắn góp phần làm thay đổi đất nước trong những năm qua. Đặc biệt
trong những năm gần đây với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế việc thu hút vốn
đầu tư nước ngoài vào nước ta làm cho sự tồn tại, đứng vững và phát triển của các
doanh nghiệp hoàn toàn phụ thuộc vào việc quản lý của doanh nghiệp. Nhân tố
quan trọng góp phần cho sự phát triển đó là việc theo dõi, quản lý các quan hệ
kinh tế phát sinh dưới hình thái giá trị cũng chính là việc quản lý tài chính doanh
nghiệp.

Cơ chế thị trường là một cơ chế điều tiết nền kinh tế dựa trên việc phát huy
tối đa năng lực của từng cá nhân, từng tập thể, sự thỏa mãn và điều tiết thị trường
phụ thuộc vào cung cầu thị trường. Các doanh nghiệp phải tự chịu trách nhiệm
trong toàn bộ quá trình sản xuất kinh doanh. Nền kinh tế cơ chế thị trường các
doanh nghiệp phải chấp nhận sự cạnh tranh gay gắt, sự điều tiết của thị trường
thôn qua cơ chế giá cả. những quy luật đó của nền kinh tế đã buộc các doanh
nghiệp muốn tồn tại phải tìm tòi các chiến lược kinh doanh sao cho hiệu quả nhất.
Vấn đề đặt ra là: Sản xuất cái gì? Sản xuất như thế nào? Và sản xuất cho ai?
Để tồn tại và phát triển trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp phải phát
huy tối đa năng lực của mình, tận dụng tối đa nguồn lực hiện có để khẳng định vị
trí của mình trên thị trường. Chính sự cạnh tranh gay gắt đó đã đặt ra cho các chủ
doanh nghiệp những thách thức và một thách thức to lớn và vô cùng quan trọng đó
là làm thế nào để có một nguồn tài chính lành mạnh. Đây là yếu tố ban đầu, làm
xuất phát điểm cho các bước tiến của doanh nghiệp trong việc tạo ra một chỗ đứng
tốt, một vị trí trên thị trường và đạt được mục tiêu tối đa giá trị doanh nghiệp.
Sinh viên: Trần Thị Nhàn Lớp: TCDN NQ
5
Trường Đại học Kinh tế quốc dân Khoa Ngân hàng – Tài chính
Để đạt được mục đích đó thì doanh nghiệp phải nắm được mình có những lợi thế,
khó khăn? Mình đang đứng ở vị trí nào trong môi trường cạnh tranh, khả năng và
tình hình tài chính của doanh nghiệp mình ra sao? Hiệu quả kinh doanh như thế
nào?
Vì vậy công tác phân tích tài chính trở lên vô cùng quan trọng trong quá
trình tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Thông qua các chỉ tiêu tài chính và
các căn cứ khoa học từ đó giúp doanh nghiệp có các quyết định kinh doanh tốt
nhất.
Trước những yêu cầu này, với vốn kiến thức tích lũy được trong quá trình
học tập và nghiên cứu tại trường Đại học Kinh tế quốc dân cùng với sự định
hướng của các thầy cô giáo, cùng các cán bộ công tác trong phòng tài chinh-kế
toán của công ty TNHH Tiến Đức em đã chọn đề tài:" Một số giải pháp nhằm

hoàn thiện tình hình tài chính tại công ty TNHH Tiến Đức” làm chuyên đề thực
tập tốt nghiệp.
Kết cấu chuyên đề thực tập gồm 3 phần:
Chương 1: Cơ sở lý luận và nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp.
Chương 2: Phân tích tài chính Công ty TNHH Tiến Đức
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện công tác tài chính Công ty TNHH
Tiến Đức.
Sinh viên: Trần Thị Nhàn Lớp: TCDN NQ
6
Trường Đại học Kinh tế quốc dân Khoa Ngân hàng – Tài chính
CHƯƠNG 1: CƠ SƠ LÝ LUẬN VÀ NỘI DUNG PHÂN TÍCH TÀI
CHÍNH DOANH NGHIỆP
1.1Tổng quan về tài chính doanh nghiệp
1.1.1 Khái niệm về tài chính doanh nghiệp
Doanh nghiệp được hiểu là một tổ chức kinh tế được thành lập một cách
hợp pháp, được phép kinh doanh trên một số lĩnh vực nhất định nhằm mục đích
kiếp lời, có từ một chủ sở hữu trở lên chịu trách nhiệm trước pháp luật về hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp.
Tài chính doanh nghiệp là hệ thống những quan hệ kinh tế biểu hiện dưới
hình thức giá trị phát sinh trong quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ
của doanh nghiệp với các chủ thể trong nền kinh tế để phục vụ cho nhu cầu sản
xuất kinh doanh của doanh nghiệp và các nhu cầu chung của xã hội.
Nếu như trong nền kinh tế thị trường mỗi doanh nghiệp hoạt động được ví
như một cơ thể sống thì các quan hệ tài chính của doanh nghiệp được hiểu là các
mạch máu đi nuôi cơ thể. Để cơ thể khỏe mạnh đòi hỏi các mạch máu hoạt động
tốt. vì vậy tình hình tài chính của doanh nghiệp quyết định sự tồn tại và phát triển
của doanh nghiệp
1.1.2 Cơ sở của tài chính doanh nghiệp.
Để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, bất kỳ một doanh nghiệp nào
cũng cần phải có một lượng vốn tiền nhất định. Quá trình hoạt động kinh doanh

cũng là quá trình phân phối để tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp
nhằm thực hiện các mục tiêu của hoạt động kinh doanh. Trong quá trình đó luôn
diễn ra sự vận động và chuyển hóa liên tục các nguồn tài chính, tạo ra các luồng
chuyển dịch giá trị mà biểu hiện của nó là các luồng tiền tệ đi vào hoặc đi ra khỏi
chu kỳ kinh doanh của doanh nghiệp.
Gắn liền với quá trình phân phối dưới hình thức giá trị để tạo lập hoặc sử
dụng các quỹ tiền tệ của doanh nghiệp thể hiện qua các mối quan hệ:
+ Quan hệ giữa doanh nghiệp và nhà nước thể hiện qua việc nhà nước cấp
vốn cho doanh nghiệp hoạt động và doanh nghiệp thực hiện các nghĩa vụ tài chính
đối với nhà nước như nộp các khoản thuế và lệ phí…vào ngân sách nhà nước.
Sinh viên: Trần Thị Nhàn Lớp: TCDN NQ
7
Trường Đại học Kinh tế quốc dân Khoa Ngân hàng – Tài chính
+ Quan hệ giữa doanh nghiệp với các chủ thể kinh tế khác như quan hệ chặt
chẽ như quan hệ về mặt thanh toán trong việc vay vốn, đầu tư vốn, mua goặc bán
tài sản, vật tư, hàng hóa và các dịch vụ khác.
+ Quan hệ trong nội bộ doanh nghiệp thanh toán tiền lương, tiền công và
thực hiện các khoản tiền thưởng, tiền phạt với công nhân viên của doanh nghiệp,
quan hệ thanh toán giữa các bộ phận trong doanh nghiệp, việc phân chia lợi tức
cho cổ đông, việc hình thành các quỹ của doanh nghiệp.
Có thể nói cơ sở của tài chính doanh nghiệp là các mối quan hệ kinh tế tài
chính phát sinh dưới hình thức giá trị trong việc tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ
của doanh nghiệp trong quá trình kinh doanh.
1.1.3 Mục tiêu của tài chính doanh nghiệp.
Trong nền kinh tế thị trường khi nhà nước xác lập 1cơ chế quản lý năng
động, đòi hỏi các doanh nghiệp phải vận động linh hoạt để đáp ứng các yêu cầu
ngày một khắt khe của thị trường. Trong điều kiện đó các hoạt động của tài chính
doanh nghiệp ngày càng được đề cao và phát huy mạnh mẽ.
Tài chính doanh nghiệp có ý nghĩa to đối với hoạt động sản xuất kinh
doanh của doanh nghiệp. vì vậy thông qua hoạt động của tài chính doanh nghiệp

Tài chính doanh nghiệp được thể hiện dưới các hoạt động chủ yếu:
Một là: Tài chính là công cụ khai thác, thu hút các nguồn tài chính nhằm đảm bảo
nhu cầu đầu tư, phát triển của doanh nghiệp
Bất cứ một doanh nghiệp nào khi muốn tiến hành sản xuất kinh doanh phải
có một số tư liệu lao động, đối tượng lao động và sức lao động nhất định. Trong
nền kinh tế thị trường thì mọi giá trị của cải vật chất đều được quy đổi tiền tệ hóa,
vì vậy để có các yếu tố đó; khi doanh nghiệp hoạt động đòi hỏi phải có một lượng
tiền tệ tương ứng nhất định. Để làm được điều đó, tài chính doanh nghiệp được
thực hiện nhằm mục đích thu hút nguồn tài chính đặc biệt cho nhu cầu đầu tư, phát
triển mở rộng sản xuất của doanh nghiệp.

Sinh viên: Trần Thị Nhàn Lớp: TCDN NQ
8
Trường Đại học Kinh tế quốc dân Khoa Ngân hàng – Tài chính
Trong điều kiện hiện này, khi xã hội đi lên, thị trường tài chính lúc này hoạt động
nhằm xác định nhu cầu vốn sản xuất- kinh doanh, lựa chọn phương án, hình thức
hoạt động vốn sao có lợi nhất như lãi suất phải trả( chia) giảm, thời gian hoàn vốn
nhanh, quy mô vốn lớn, hình thức hoạt động thuận tiện…
Hai là : Hoạt động tài chính doanh nghiệp nhằm sử dụng vốn một cách
tiết kiếm và hiệu quả nhất.
Trong thời buổi cạnh tranh khốc liệt , thì giá cả là một yếu tố quan trọng để
doanh nghiệp xác định thị phần tiêu dùng . Việc sử dụng vốn một cách tiết kiệm
có hiệu quả là một bải toán kinh tế khó, là sự sống còn của doanh nghiệp. Yêu cầu
đặt ra là phải bảo toàn vốn, sử dụng các biện pháp tang nhanh khả năng quay vòng
của vốn, tăng khả năng sinh lời…. khi có một hoạt động đầu tư thì tài chính doanh
nghiệp phải thể hiện được sự phân tích, đánh giá hiệu quả cao nhất.
Ba là: Tài chính doanh nghiệp có tác dụng đòn bẩy kích thích và điều tiết
sản xuất kinh doanh.
Thông qua chức năng, phương pháp của tài chính doanh nghiệp trong việc
phân phối các vấn đề về lợi ích của người lao động, của doanh nghiệp cũng như

chế độ tiền lương, thưởng, ngày nghỉ lễ, ốm đau… khi lợi ích người lao động được
thỏa mãn, họ sẽ gắn bó vơi doanh nghiệp, có ý thức, trách nhiệm trong việc thực
hiện công việc được giao, từng bước phát triển doanh nghiệp.
Việc xác định giá bán hợp lý cũng góp phần quan trọng trong việc tạo ra
sức mua hợp lý, giúp thu hồi vốn đầu tư kinh doanh, vốn được quay vòng nhanh,
hệ số sinh lời vốn lớn và yếu tố rất quan trọng trong việc kích thích, điều tiết sản
xuất kinh doanh.
Bốn là: Tài chính doanh nghiệp là công cụ trong việc kiểm tra, đánh giá
tính hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua các chỉ tiêu tài chính,
hệ số nợ, khả năng thanh toán, khả năng sinh lời, hiệu quả sử dụng vốn trong cơ
cấu thành phần vốn…giúp cho doanh nghiệp biết được thực trạng, tính hiệu quả
của các khâu, yếu tố trong quá trình sản xuất kinh doanh, giúp cho nhà quản lý có
thể phát hiện kịp thời, điều chỉnh, giám sát quá trình sản xuất kinh doanh nhằm đạt
Sinh viên: Trần Thị Nhàn Lớp: TCDN NQ
9
Trường Đại học Kinh tế quốc dân Khoa Ngân hàng – Tài chính
được mục tiêu đã định. Để công tác tài chính doanh nghiệp tốt hơn đòi hỏi doanh
nghiệp phải có tổ chức hạch toán, kế toán thích hợp, công tác phân tích kinh tế,
các chỉ tiêu tài chính phù hợp.
1.1.4 Những nội dung của tài chính doanh nghiệp
Trong các quan hệ tài chính của doanh nghiệp được thể hiện trong cả quá
trình sản xuất-kinh doanh của doanh nghiệp. Để tiến hành sản xuất-kinh doanh các
hoạt động chủ yếu của tài chính doanh nghiệp là:
Thứ nhất: quản lý và sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp
Đây là nội dung xuyên suốt trong quá trình hoạt động tài chính của doanh
nghiệp. Nó quyết định đến mức độ phát triển hay suy thoái của doanh nghiệp.
Việc quản lý và sử dụng vốn kinhh doanh là một khâu lớn bao gồm nhiều khâu:
Vốn kinh doanh là điều kiện tiên quyết có ý nghĩa quyết định đến quá trình
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. vốn kinh doanh của doanh nghiệp là biểu
hiện về toàn bộ tài sản hữu hình và tài sản vô hình phục vụ cho hoạt động sản xuất

kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục đích kiếm lời, gia tăng giá trị chủ sở hữu
cho doanh nghiệp. Yêu cầu đặt ra là vốn kinh doanh của doanh nghiệp sử dụng
vốn kinh doanh vào mỗi chu kỳ hoạt động không bị mất đi mà tiếp tục ra tăng sau
mỗi chu kỳ hoạt động. muốn có được lượng vốn đó đòi hỏi doanh nghiệp phải chủ
động khai thác, thu hút vốn trên thị trường.
Việc đầu tư vốn kinh doanh của doanh nghiệp là việc sử dụng vốn kinh
doanh theo hướng nào đó với hy vọng sẽ đưa lại hiệu quả kinh tế cao nhất trong
tương lai. Thông thường các doanh nghiệp sản xuất có hai hướng đầu tư chủ yếu
là đầu tư bên trong và đầu tư bên ngoài. Đầu tư vốn bên trong để mua sắm các
yếu tố cho quá trình sản xuất (tư liệu lao động, đối tượng lao động, sức lao động.
tùy tình hình hoạt động sản xuất của công ty có thể đầu tư bên trong nhằm đổi mới
thiết bị, đổi mới quy trình công nghệ, đổi mới sản phẩm…đầu tư ra bên ngoài thì
vốn được thực hiện dưới hình thức như: góp vốn liên doanh liên kết với doanh
nghiệp khác, đầu tư cổ phiếu, trái phiếu…nhằm tìm kiếm lợi nhuận và phân tán rủi
ro. Với tình hình kinh daonh cụ thể mà người quản lý có những dự đoán, tính toán,
phân tích cụ thể các phương án đầu tư để có quyết định tài chính.
Vốn kinh doanh bao gồm: vốn cố định, vốn lưu động và vốn đầu tư tài
chính. Đi cùng với việc huy động rùi đưa ra các quyết định đầu tư vốn kinh doanh
Sinh viên: Trần Thị Nhàn Lớp: TCDN NQ
10
Trường Đại học Kinh tế quốc dân Khoa Ngân hàng – Tài chính
thì việc quản lý và sử dụng vốn kinh doanh là rất quan trọng. Đối với vốn cố định
được biểu hiện dưới hình thái tài sản cố định đây là những tư liệu sản xuất chủ yếu
có giá trị lớn và thời hạn sử dụng lâu. Khi tài sản cố định tham gia vào quá trình
sản xuất kinh doanh sẽ hao mòn dần và giá trị của nó giảm dần tương ứng. khi
công nghệ- thuật phát triển những tài sản cố định cùng loại mới được vào sản xuất
có giá thành rẻ hơn, hiện đại hơn làm tài sản cho tài sản cố định trở nên không cần
dùng hoặc mất giá. Để có vốn đầu tư cho tài sản cố định mới yêu cầu phải đánh
giá lại tài sản cố định một cách thường xuyên và chính xác, có các biện pháp nâng
cao hiệu suất sử dụng tài sản cố định, sử dụng một cách linh hoạt quỹ khấu hao

vào đầu tư kinh doanh và có phương thức thu hồi vốn khi tài sản cố định bị hao
mòn trong quá trình sản xuất hay nói cách khác có phương thức khấu hao tài sản
cố định phù hợp nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất- kinh doanh được tiến
hành liên tục và có hiệu quả cao sau mỗi chu kỳ kinh doanh. Đối với vốn lưu động
được đầu tư vào tài sản lưu động đảm bảo quá trình sản xuất kinh doanh được thực
hiện một cách liên tục và bình thường. Với đặc điểm chuyển dịch toàn bộ một lần
vào giá thành sản phẩm tiêu thụ và hoàn thành một vòng tuần hoàn vốn khi kết
thúc một chu kỳ tái sản xuất. cũng thấy rằng các chu kỳ sản xuất của doanh nghiệp
là nối tiếp và xen kẽ nhau. Điều này nhắc nhở những nhà quản lý sử dụng và bảo
toàn vốn lưu động cần xác định nhu cầu vốn lưu động cần dùng cho doanh nghiệp,
tránh ứ đọng vốn, thúc đẩy tốc độ luân chuyển vốn nhằm nâng cao hiệu quả sử
dụng vốn. Tổ chức khai thác nguồn tài trợ, rùi có những biện pháp bảo toàn và
phát triển vốn lưu động. Để thực hiện mục tiêu trên công tác tài chính doanh
nghiệp thường áp dụng các biện pháp tổng hợp như: đẩy mạnh khâu tiêu thụ hàng
hóa, xử lý kịp thời các vật tư, hàng hóa chậm luân chuyển…và thường xuyên tiến
hành phân tích tình hình sử dụng vốn lưu động. Đối với vốn đầu tư tài chính, với
quy luật cạnh tranh của nền kinh tế thì độ rủi ro cao khi doanh nghiệp chỉ đầu tư
vào một lĩnh vực. Để đối phó với tình hình trên việc sử dụng vốn linh hoạt cho
nhiều mục tiêu đầu tư sẽ cho phép doanh nghiệp tìm kiếm được lợi nhuận từ nhiều
phía cũng như nhằm phân tán rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Đây cũng là một giải pháp để kéo dài chu kỳ sống của một doanh
nghiệp.
Sinh viên: Trần Thị Nhàn Lớp: TCDN NQ
11
Trường Đại học Kinh tế quốc dân Khoa Ngân hàng – Tài chính
Thứ hai: quản lý chi phí và giá thành sản phẩm của doanh nghiệp.
Để đạt được mục tiêu kinh doanh thì các vấn đề về chi phí, giá thành và
biện pháp quản lý chúng có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với sự sống còn của
doanh nghiệp. Chi phí trực tiếp, một khoản chi phí chính liên quan đến hình thành
nên sản phẩm với đặc điểm là sự gia tăng của chúng sẽ tỷ lệ thuận với mức tăng

của khối lượng sản phẩm. đối với chi phí gián tiếp là những chi phí không gắn
liền với việc hình thành nên sản phẩm nhưng rất cần thiết cho quá trình quản lý
sản xuất kinh doanh. Việc tăng hay giảm đôi chút chi phí gián tiếp cũng không ảnh
hưởng đến khối lượng sản phẩm sản xuất ra. Vì vậy, các nhà quản lý doanh nghiệp
có thể đưa ra các giải pháp nhằm giảm chi phí hạ giá thành sản phẩm, tăng lợi
nhuận cho doanh nghiệp như: cải tiến công tác quản lý, giảm bớt các đầu mối
trung gian, hạn chế các chi phí gián tiếp khác, nâng cao công suất máy móc thiết
bị, tăng năng suất lao động, đổi mới công nghệ sản xuất
Giá thành sản phẩm là biểu hiện bằng tiền toàn bộ hao phí mà doanh nghiệp
bỏ ra để hoàn thành việc sản xuất và tiêu thụ một khối lượng sản phẩm nhất định.
Việc xác định đúng giá thành sản phẩm có ý nghĩa rất quan trọng trong việc đánh
giá đúng hiệu quả kinh doanh, từ đó xác định các biện pháp hạ giá thành sản phẩm
để tăng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. khi hạ giá
thành sản phẩm sẽ tạo ra thuận lợi trong việc tiêu thụ sản phẩm, tạo ra lợi thế lợi
thế cho doanh nghiệp trong việc cạnh tranh. Hạ giá thành là điều kiện cho phép
doanh nghiệp tiết kiệm được lượng vốn chiếm dùng trong sản xuất hoặc có thể mở
rộng thêm quy mô sản xuất là yếu tố quan trọng để doanh nghiệp gia tăng lợi
nhuận. Với các phương pháp chủ yếu hạ giá thành sản phẩm của doanh nghiệp
như: nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm nguyên vật liệu tiêu hao, tận dụng
công suất và tăng cường độ làm việc của TSCĐ, giảm bớt các phí tổn, tiết kiệm
chi phí quản lý hành chính…
Thứ ba: đối với doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp.
Doanh thu là toàn bộ số tiền thu được từ tất cả các hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Có thể nói, doanh thu của doanh nghiệp có ý nghĩa rất quan trọng
đối với toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp, có được doanh thu chứng tỏ hàng hóa
hàng hóa mà doanh nghiệp sản xuất – kinh doanh hoặc dịch vụ mà doanh nghiệp
cung ứng đã được xã hội thừa nhận. khi phát sinh doanh thu thì đây cũng là nguồn
Sinh viên: Trần Thị Nhàn Lớp: TCDN NQ
12
Trường Đại học Kinh tế quốc dân Khoa Ngân hàng – Tài chính

để doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ đối với nhà nước. Khi doanh thu không đủ
trang trải các khoản chi phí sẽ dẫn đến tình hình tài chính của doanh nghiệp trở lên
khó khăn, tình trạng này kéo dài sẽ làm cho doanh nghiệp không đủ sức cạnh tranh
trên thị trường và tất yếu sẽ dẫn đến phá sản. Vì vậy việc tăng doanh thu trở thành
nhu cầu cấp thiết cho sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Các doanh
nghiệp sau khi dùng doanh thu trừ chi phí cho quá trình sản xuất, còn lại số chênh
lệch nhất định gọi là lợi nhuận. Đây là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp nhất nói lên
mức độ phấn đấu cải tiến hoạt động sản xuất kinh doanh, là kết quả của toàn bộ
quá trình sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp, là điều kiện quan trọng đảm
bảo cho tình hình tài chính của doanh nghiệp được vững chắc, là nguồn tích lũy cơ
bản để mở rộng tái sản xuất và kinh doanh, tăng thêm nhu cầu phúc lợi cho xã hội
và doanh nghiệp. Có lợi nhuận doanh nghiệp phải thực hiện điều tiết, phân phối
sao cho đảm bảo hài hòa lợi ích giữa nhà nước, doanh nghiệp và người lao động.
1.2 Phân tích tài chính doanh nghiệp.
1.2.1 Khái niệm và mục tiêu của phân tích tài chính doanh nghiệp
Hoạt động tài chính là một trong những nội dung cơ bản thuộc hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp nhằm giải quyết các mối quan hệ kinh tế tài
chính phát sinh trong quá trình kinh doanh được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ.
Phân tích tài chính doanh nghiệp là tổng thể các phương pháp được sử dụng
để đánh giá tình hình tài chính đã qua và hiện nay của doanh nghiệp, giúp cho nhà
quản lý đưa ra được các quyết định quản lý chuẩn xác và đánh giá được các hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp.
Phân tích tài chính doanh nghiệp mà trọng tâm là phân tích báo cáo tài
chính và các chỉ tiêu tài chính đặc trưng thông qua hệ thống các phương pháp,
công cụ và kỹ thuật phân tích, giúp người sử dụng thông tin từ các góc độ khác
nhau vừa đánh giá toàn diện, tổng quát, khái quát lại vừa xem xét một cách chi tiết
hoạt động tài chính của doanh nghiệp để nhận biết, phán đoán, dự báo và đưa ra
các quyết định tài chính của doanh nghiệp để nhận biết, phán đoán, dự báo và đưa
ra các quyết định tài chính, đầu tư, tài trợ cho phù hợp.
Trong hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà

nước, các doanh nghiệp thuộc các loại hình sở hữu khác nhau đều bình đẳng trước
pháp luật trong việc lựa chọn ngành nghề kinh doanh. Do vậy, sẽ có nhiều đối
Sinh viên: Trần Thị Nhàn Lớp: TCDN NQ
13
Trường Đại học Kinh tế quốc dân Khoa Ngân hàng – Tài chính
tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp trên các góc độ khác
nhau.
Thật vậy việc phân tích tài chính là mối quan tâm hàng đầu của nhiều nhóm
người khác nhau như: Ban giám đốc, các nhà đầu tư, các nhà quản lý, các chủ nợ,
cơ quan nhà nước, người lao động…mỗi nhóm này có nhu cầu thông tin khác
nhau và do vậy mỗi nhóm có một xu hướng tập trung vào những khía cạnh trong
toàn cảnh hoạt động tài chính của doanh nghiệp như:
* Đối với chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị kinh doanh:
Mối quan tâm hàng đầu của họ là tìm kiếm lợi nhuận và khả năng trả nợ.
ngoài ra, các nhà quản trị còn quan tâm đến nhiều mục tiêu khác như: tạo công ăn
việc làm cho người lao động, hạ thấp chi phí sản xuất…Tuy nhiên, doanh nghiệp
chỉ có thể thực hiện được mục tiêu này nếu đáp ứng được hai thử thách sống còn
và hai mục tiêu cơ bản của doanh nghiệp là: kinh doanh có lãi và trả được nợ. Một
doanh nghiệp làm ăn thua lỗ liên tục sẽ cạn kiệt các nguồn lực buộc phải đóng
cửa. Việc phân tích hoạt động tài chính sẽ giúp các nhà lãnh đạo và bộ phận tài
chính doanh nghiệp thấy được thực trạng tài chính cũng như hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp mình và căn cứ vào đó để lập kế hoạch cho tương lai
cũng như đưa ra các quyết định và làm căn cứ để lập kế hoạch cho sản xuất kinh
doanh cũng như đưa ra các quyết định đúng đắn, kịp thời phục vụ cho nhu cầu
quản lý.
* Đối với các nhà đầu tư:
Các nhà đầu tư là những người giao vốn của mình cho doanh nghiệp quản
lý như vậy có thể gặp những rủi ro. Đó là những cổ đông, các tổ chức, cá nhân,
các doanh nghiệp. Các đối tượng này quan tâm trực tiếp đến tính toán của doanh
nghiệp. Thu nhập của các nhà đầu tư là tiền lời được chia và thặng dư giá trị của

vốn. Hai yếu tố này phần lớn chịu ảnh hưởng của lợi nhuận thu được của doanh
nghiệp. Trong thực tế, các nhà đầu tư tiến hành đánh giá khẳ năng sinh lời của
doanh nghiệp. Cũng cần thấy rằng: các nhà đầu tư không hài lòng trước món lời
kế toán và cho rằng số liệu này không gần thực tế…Vì vậy, họ cần những thông
tin về điều kiện tài chính, tình hình hoạt động, kết quả kinh doanh và các tiềm
năng phát triển khác của doanh nghiệp. Đồng thời, các nhà đầu tư cũng rất quan
Sinh viên: Trần Thị Nhàn Lớp: TCDN NQ
14
Trường Đại học Kinh tế quốc dân Khoa Ngân hàng – Tài chính
tâm đến việc điều hành hoạt động và tín hiệu của các thông tin quản lý. Đưa ra các
quyết định đầu tư. Vì vậy, điều này sẽ đảm bảo an toàn và tính hiệu quả của nhà
đầu tư.
* Đối với nhà cho vay:
Đây là những người cho doanh nghiệp vay vốn để đảm bảo nhu cầu sản
xuất kinh doanh. Khi cho vay, họ phải biết chắc được khả năng hoàn trả tiền vay.
Do đó, phân tích tài chính đối với người cho vay là xác định khả năng hoàn trả nợ
của khách hàng. Tuy nhiên, phân tích với những khoản vay dài hạn và những
khoản vay ngắn hạn có những nét khác nhau.
- Đối với những khoản vay ngắn hạn: người cho vay đặc biệt quan tâm đến
khả năng thanh toán ngay của doanh nghiệp. Nói khác đi là khả năng ứng phó của
doanh nghiệp khi nợ vay đến hạn trả.
- Đối với các khoản vay dài hạn: người cho vay phải tin chắc khả năng
hoàn trả và khả năng sinh lời của doanh nghiệp và việc hoàn trả vốn và lãi phụ
thuộc vào khả năng sinh lời này.
* Đối với doanh nhà cung cấp vật tư, hàng hóa, dịch vụ:
Họ cần phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp để tìm hiểu, xem xét có
nên cho khách hàng sắp tới mua chịu hay không. Cũng như các chủ ngân hàng và
các nhà cho vay tín dụng. Nhóm người này chủ yếu quan tâm đến khả năng thanh
toán của khách hàng trong thời gian hiện tại và sắp tới.
* Đối với những người được hưởng lương trong doanh nghiệp: Đây là

những người có nguồn thu nhập duy nhất là tiền lương được trả. Do vậy, việc phân
tích tài chính giúp họ định hướng việc làm ổn định của mình, trên cơ sở đó dốc
sức vào hoạt động sản xuất kinh doanh tùy theo công việc được đảm nhiệm, được
phân công.
* Bên cạnh các chủ doanh nghiệp, các chủ đầu tư, các ngân hàng, các nhà
cung cấp…còn có nhiều nhóm người khác quan tâm đến thông tin tài chính của
doanh nghiệp đó là: cơ quan tài chính, cơ quan thuế, thống kê, cơ quan chủ quản,
các nhà phân tích tài chính…nó nói lên quyền lợi và trách nhiệm của doanh
nghiệp.
Như vậy, có thể nói nhiệm vụ tối cao và quan trọng nhất của phân tích tài
Sinh viên: Trần Thị Nhàn Lớp: TCDN NQ
15
Trường Đại học Kinh tế quốc dân Khoa Ngân hàng – Tài chính
chính là giúp những người ra quyết định lựa chọn phương án kinh doanh tối ưu,
đánh giá thực trạng, triển vọng của doanh nghiệp, vạch ra những mặt tích cực và
tồn tại của thị trường tiền tệ, đánh giá xem doanh nghiệp có đảm bảo vốn cho hoạt
động sản xuất kinh doanh hay không, quản lý và phân phối ra sao, khả năng thanh
toán…nghiên cứu mối quan hệ biện chứng, khách quan giữa các hiện tượng sự
vật, xác định nguyên nhân và mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến tình hình tài
chính doanh nghiệp. Từ đó đưa ra các biện pháp hiệu quả, khả thi để khắc phục
những yếu kém, phát huy triệt để năng lực tài chính của doanh nghiệp góp phần
nâng cao hiệu quả tài chính nói riêng và hoạt động kinh doanh nói chung.
1.2.2 Nguồn thông tin sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp.
Trong phân tích tài chính doanh nghiệp, các nhà phân tích phải thu thập, sử
dụng thông tin: từ thông tin nội bộ của doanh nghiệp đến những thông tin bên
ngoài doanh nghiệp đều giúp cho nhà phân tích đưa ra những nhận định tinh tế và
chính xác. Với những thông tin bên ngoài doanh nghiệp cần chú ý đến các thông
tin liên quan đến trạng thái nền kinh tế, lãi suất, cơ cấu ngành, các sản phẩm của
ngành, thị phần, chế độ pháp lý, chế độ kiểm toán- kế toán…Tuy nhiên để đánh
giá một cách cơ bản tình hình tài chính doanh nghiệp thì các thông tin kế toán

trong nội bộ doanh nghiệp là nguồn thông tin rất quan trọng. Thông tin kế toán
được phản ánh khá đầy đủ trên các báo cáo kế toán hay báo cáo tài chính.
* Hệ thống báo cáo tài chính:
Bảng cân đối kế toán: là một báo cáo tài chính mô tả tình trạng tài chính
của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định nào đó. Thông tin trên bảng được
trình bày dưới dạng bảng cân đối số dư các tài khoản kế toán: một bên phản ánh
tài sản và một bên phản ánh nguồn vốn của doanh nghiệp.
Bên tài sản của bảng cân đối kế toán phản ánh giá trị của toàn bộ tài sản
hiện có tại thời điểm lập báo cáo thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh
nghiệp là tài sản cố định, tài sản lưu động. Bên nguồn vốn phản ánh các nguồn
hình thành taif sản của doanh nghiệp đến thời điểm lập báo cáo gồm vốn của chủ
sở hữu (vốn tự có) và các khoản nợ. các khoản mục trên bảng cân đối kế toán
được sắp xếp theo chiều khả năng chuyển hóa thành tiền giảm dần từ trên xuống.
Báo cáo kết quả kinh doanh là báo cáo phản ánh kết quả kinh daonh của
Sinh viên: Trần Thị Nhàn Lớp: TCDN NQ
16
Trường Đại học Kinh tế quốc dân Khoa Ngân hàng – Tài chính
doanh nghiệp tại thời điểm lập báo cáo. Cho biết sự dịch chuyển trong quá trình
sản xuất kinh doanh và khả năng hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai. Báo
cáo giúp nhà phân tích so sánh doanh thu với số tiền thực tế thu được từ bán hàng
hóa, dịch vụ, so sánh giữa tổng chi phí phát sinh với số tiền thực tế xuất quỹ để
vận hành doanh nghiệp. Trên cơ sở đó xác định được kết quả kinh doanh lãi hay lỗ
trong năm từ đó có nhưng quyết định đầu tư, sản xuất.
Bảng ngân quỹ (báo cáo lưu chuyển tiền tệ) giúp các nhà phân tích biết
được một doanh nghiệp có khả năng đảm bảo chi trả, khả năng thanh toán của
doanh nghiệp trong ngắn hạn hay không? Qua đây giúp xác định hoặc dự báo
dòng tiền thực nhập quỹ, dòng tiền thực xuất quỹ. Trên cơ sở đó nhà phân tích
thực hiện cân đối ngân quỹ để xác định số dư ngân quỹ cuối kỳ. Từ đó thiết lập
mức ngân quỹ dự phòng tối thiểu nhằm mục đích đảm bảo chi trả cho doanh
nghiệp.

Vì vậy có thể nói báo cáo tài chính là những báo cáo tổng hợp nhất về tình
hình tài sản, nguồn vốn, công nợ, kết quả kinh doanh, khả năng sinh lời của doanh
nghiệp. báo cáo tài chính cung cấp thông tin chủ yếu cho người sử dụng thông tin
kế toán, tài chính của doanh nghiệp trong việc đánh giá, phân tích và dự báo tình
hình tài chính, kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. là nguồn dữ liệu
quan trọng khi phân tích tài chính doanh nghiệp.
Qua báo cáo tài chính người sử dụng có đánh giá được tình hình tài chính
tại thời điểm báo cáo, phân tích giữa các năm thì thấy được xu hướng, triển vọng
của doanh nghiệp trong thời gian sắp tới. có thể khái quát vai trò của báo cáo tài
chính trên các điểm sau:
Báo cáo tài chính cung cấp chỉ tiêu kinh tế-tài chính giúp cho việc kiểm tra
một cách toàn diện và có hệ thống tình hình sản xuất kinh doanh, khả năng thực
hiện các mục tiêu kinh tế tài chính của doanh nghiệp, chấp hành các chế độ tài
chính của doanh nghiệp.
Báo cáo tài chính cung cấp số liệu để nhận biết, đánh giá quá trình hoạt
động, kết quả kinh doanh cũng như xu hướng vận động của doanh nghiệp để đưa
ra các quyết định đúng đắn và phù hợp. Qua đó giúp doanh nghiệp đánh giá được
thực trạng của doanh nghiệp giúp các nhà quản lý kiểm tra, giám sát tình hình hoạt
Sinh viên: Trần Thị Nhàn Lớp: TCDN NQ
17
Trường Đại học Kinh tế quốc dân Khoa Ngân hàng – Tài chính
động của doanh nghiệp.
Báo cáo tài chính cung cấp tài liệu tham khảo phục vụ cho mục đích lập kế
hoạch sản xuất, kinh doanh, kế hoạch đầu tư trong tương lai.
Báo cáo tài chính cung cấp thông tin cho các nhà quản lý, nhà đầu tư, các
cơ quan tổ chức tín dụng… biết được khả năng tài chính, khả năng thanh toán…để
có những định hướng cần thiết trong việc tiến hành, phương pháp tiến hành, kết
quả đạt được.
1.2.3 Các phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp.
Phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân tích tài chính doanh nghiệp

là phương pháp tỷ số. Đó là các tỷ số đơn được thiết lập bởi chỉ tiêu này so với chỉ
tiêu khác. Là phương pháp được áp dụng ngày càng được bổ sung và hoàn thiện
bởi lẽ thông tin kế toán và tài chính được cải tiến và được cung cấp đầy đủ là cơ sở
để hình thành những tỷ lệ tham chiếu tin cậy. Việc ứng dụng công nghệ thông tin
cho phép tích lũy dữ liệu và thúc đẩy nhanh việc tính toán hàng loạt các tỷ số. Hơn
nữa phương pháp này giúp khai thác có hiệu quả những số liệu và phân tích một
cách hệ thống hàng loạt tỷ số theo chuỗi thời gian liên tục hoặc theo từng giai
đoạn.
Bên cạnh đó các nhà phân tích còn sử dụng phương pháp phân tích
DUPONT. Bằng việc phân tách các yếu tố tác động đến yếu tố nghiên cứu. Với
phương pháp này, các nhà phân tích sẽ biết được nguyên nhân dẫn đến các hiện
tượng tốt, xấu trong hoạt động của doanh nghiệp. Thực chất của phương pháp này
là tách một tỷ số tổng hợp phản ánh sức sinh lợi của doanh nghiệp như thu nhập
trên tài sản (ROA), thu nhập sau thuế trên vốn chủ sở hữu (ROE) thành tích số có
mối quan hệ với nhau. Điều đó cho phép phân tích ảnh hưởng của các tỷ số đó và
đưa ra số liệu tổng hợp.
1.2.4 Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp.
Trên cương vị quản lý doanh nghiệp, để có cơ sở quản lý, định hướng doanh
nghiệp trong kỳ tới, các nhà quản lý phải biết được tình hình biến động tài sản,
mức thừa thiếu vốn kinh doanh, tình hình công nợ và thu hồi nợ, tình hình thanh
toán và khả năng thanh toán trong những kỳ qua. Do đó, khi phân tích tài chính
cần dựa trên các yêu cầu để cung cấp chính xác phục vụ cho quản lý.
Sinh viên: Trần Thị Nhàn Lớp: TCDN NQ
18
Trường Đại học Kinh tế quốc dân Khoa Ngân hàng – Tài chính
Thông thường trong phân tích tài chính người ta thường sử dụng các tỷ lệ tài chính
và các tỷ lệ này được phân thành 4 nhóm cơ bản là:
- Nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán: đây là nhóm chỉ tiêu được sử dụng để
đánh giá khả năng đáp ứng các khoản nợ của doanh nghiệp.
- Nhóm tỷ lệ về khả năng hoạt động: đây là nhóm chỉ tiêu đặc trưng cho

việc sử dụng tài nguyên, nguồn lực của doanh nghiệp.
- Nhóm tỷ lệ về khả năng cân đối vốn (cơ cấu vốn): để phản ánh múc độ ổn
định và tự chủ về tài chính cũng như khả năng sử dụng nợ vay của doanh nghiệp.
- Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lời: phản ánh hiệu quả sản xuất kinh
doanh tổng hợp nhất của doanh nghiệp.
Tùy theo mục đích phân tích tài chính mà nhà phân tích quan tâm, chú
trọng đến những chỉ tiêu nào.
Mỗi nhóm chỉ tiêu bao gồm nhiều tỷ lệ và trong từng trường hợp, các tỷ lệ
được lựa chọn sẽ phụ thuộc vào bản chất, quy mô của hoạt động tài chính. Và
chính việc phân tích các nhóm chỉ tiêu này là nội dung cơ bản của hoạt động phân
tích tài chính. Nhìn chung, nội dung phân tích tài chính bao gồm những vấn đề chủ
yếu sau:
+ Đánh giá khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp.
+ Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn của doanh nghiệp.
+ Phân tích tình hình tài chính và khả năng thanh toán.
+ Phân tích đánh giá cơ cấu và tình hình đầu tư.
+ Phân tích tình hình sử dụng và hiệu quả sử dụng vốn.
+ Phân tích khả năng sinh lời của vốn kinh doanh.
Bên cạnh các số liệu trên báo cáo tài chính, để thấy được thực trạng tài
chính doanh nghiệp các nhà phân tích tài chính còn sử dụng các tỷ số tài chính để
giải thích thêm mối quan hệ tài chính trong doanh nghiệp. Mỗi một doanh nghiệp
Sinh viên: Trần Thị Nhàn Lớp: TCDN NQ
19
Trường Đại học Kinh tế quốc dân Khoa Ngân hàng – Tài chính
khác nhau có các tỷ số tài chính khác nhau. Do vậy, các tỷ số tài chính được coi là
những biểu hiện đặc trưng nhất về tình hình tài chính doanh nghiệp trong thời kỳ
nhất định. Tình hình tài chính của một doanh nghiệp được đánh giá lành mạnh
trước hết phải thể hiện ở khả năng chi trả. Vì vậy chúng ta bắt đầu đi phân tích khả
năng thanh toán của doanh nghiệp.
1.2.4.1 Các hệ số về khả năng thanh toán.

Đây là nhũng chỉ tiêu được nhiều đối tượng quan tâm như: nhà đầu tư, người cho
vay, nhà cung cấp nguyên vật liệu…bởi lẽ thông qua các tỷ số này họ biết được
doanh nghiệp có đủ khả năng để chi trả các khoản nợ tới hạn hay không?
* Hệ số khả năng thanh toán tức thời.
Hệ số khả năng thanh toán tức thời là mối quan hệ giữa giữa tài sản ngắn hạn và
nợ ngắn hạn của doanh nghiệp.
Hệ số thanh toán tức thời = tài sản ngắn hạn/ nợ ngắn hạn
Tỷ số này cho biết những TSNH của doanh nghiệp có đáp ứng được yêu cầu thanh
toán các khoản nợ ngắn hạn hay không? Nếu chỉ tiêu này≥1 điều đó nói lên rằng
doanh nghiệp đảm bảo được khả năng thanh toán tức thời. Với tỷ số này <1 lúc
này doanh nghiệp mất khả năng thanh toán về mặt kỹ thuật hay TSNH không đáp
ứng được khả năng thanh toán nợ ngắn hạn.
* Hệ số khả năng thanh toán nhanh.
Hệ số khả năng thanh toán nhanh là thước đo về khả năng trả nợ ngay, không dựa
vào việc phải bán các lọa vật tư, hàng hóa đước xác định theo công thức:
Hệ số thanh toán nhanh= (tài sản ngắn hạn- hàng tồn kho)/nợ ngắn hạn
Tỷ số này cho biết nếu loại bỏ chỉ tiêu HTK( có tính thanh khoản kém nhất trong
TSNH) thì các chỉ tiêu còn lại có tính thanh khoản cao hơn có đáp ứng được yêu
cầu thanh toán nợ ngắn hạn hay không?
+ Khi chỉ tiêu này ≥1 đáp ứng yêu cầu
+ Khi chỉ tiêu này <1 khả năng thanh toán nhanh kém
* Khả năng thanh toán bằng tiền.
Hệ số khả năng thanh toán bằng tiền là mối quan hệ giữa các khản nợ ngắn hạn
được trang trải bằng tiền mặt với công thức:
Sinh viên: Trần Thị Nhàn Lớp: TCDN NQ
20
Trường Đại học Kinh tế quốc dân Khoa Ngân hàng – Tài chính
Hệ số thanh toán bằng tiền= tiền và tương đương tiền/ nợ ngắn hạn
Chỉ tiêu này cho biết doanh nghiệp có đáp ứng được các khoản nợ ngắn hạn
khi thanh toán bằng tiền mặt hay không? Đối với mỗi ngành khác nhau thì đòi hỏi

ở chỉ tiêu này cũng khác nhau. Đối với các doanh nghiệp sản xuất khi tỷ số này>1
cho thấy đây là điều không tốt vì khi lượng tiền mặt được dự trữ nhiều để thanh
toán các khoản nợ ngắn hạn thì lượng tiền này tạm ngừng lưu thông, luân chuyển
sẽ gây lãng phí cho doanh nghiệp trong việc sử dụng nguồn lực tài chính. Ngược
lại đối với ngành tín dụng với đặc điểm nhu cầu sử dụng tiền mặt và các giấy tờ
tương đương tiền cao thì thỷ số này >1 nói nên rằng tổ chức tín dụng này đảm bảo
được khả năng thanh toán bằng tiền và đây là yếu tố rất quan trọng và sống còn
của ngành tín dụng. Ngoài ra, để chính xác hơn trong việc xác định lượng tiền mặt
trong thanh toán nhanh doanh nghiệp cần so sánh với trung bình ngành để có các
quyết định chính xác cho doanh nghiệp.
1.2.4.2 Nhóm chỉ tiêu về khả năng hoạt động.
Trong sản xuất kinh doanh do đặc điểm TSLĐ là tham gia thường xuyên suốt các
công đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh, nên việc đẩy nhanh tốc độ luân
chuyển của TSLĐ (VLĐ) là rất cần thiết, góp phần đáp ứng nhu cầu về vốn sản
xuất kinh doanh, đồng thời nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Đặc
biệt đối với các doanh nghiệp lấy nhiệm vụ kinh doanh thương mại là chính thì
điều đó càng quan trọng, và tỷ trọng VLĐ thường chiếm tỷ lệ cao trong tổng tài
sản của doanh nghiệp. Để đánh giá năng lực hoạt động của vốn lưu động ta cần
xem xét các tỷ số sau:
* Vòng quay khoản phải thu:
Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ chuyển đổi các khoản phải thu thành tiền mặt của
doanh nghiệp. Vòng quay càng lớn thì chứng tỏ tốc độ thu hồi các khoản nợ càng
nhanh và doanh nghiệp sẽ tăng được vốn hoạt động sản xuất kinh doanh.
Với công thức:
Vòng quay khoản phải thu= doanh thu thuần/ phải thu bình quân
Tỷ lệ này được đánh giá càng nhỏ càng tốt nhưng nếu quá nhỏ sẽ ảnh hưởng đến
doanh thu làm giảm tính hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong
Sinh viên: Trần Thị Nhàn Lớp: TCDN NQ
21
Trường Đại học Kinh tế quốc dân Khoa Ngân hàng – Tài chính

trường hợp tỷ số này nhỏ với doanh thu tăng trưởng đi kèm với sự tăng lên của
vòng quay khoản phải thu cho biết tốc độ luân chuyển hay khả năng thu hồi tiền từ
bán hàng và cung cấp dịch vụ của doanh nghiệp luôn đạt hiệu quả cao.
* Kỳ thu tiền bình quân:
Kỳ thu tiền bình quân=365*phải thu bình quân/dtt
Tỷ số này cho biết 1 ngày doanh thu bình quân thì doanh nghiệp mất bao nhiêu
ngày để thu hồi khoản phải thu. Vì vậy số ngày phải thu càng ít thì tốc độ luân
chuyển khoản phải thu càng lớn và khả năng thu tiền từ hoạt động bán hàng và
cung cấp dịch vụ sẽ càng đạt hiệu quả.
* Vòng quay hàng tồn kho (ACP)= doanh thu thuần/ hàng tồn kho bình quân
Khi tốc độ luân chuyển hàng tồn kho bình quân thay đôi thì ảnh hưởng như thế
nào tới doanh thu thuần và giá vốn hàng bán?
Vòng quay hàng tồn kho càng lớn nói lên rằng hàng tồn kho của doanh nghiệp
giảm và tốc độ luân chuyển hàng tồn kho tăng. Hiệu quả hoạt động sản xuất kinh
doanh ngày một gia tăng.
* Số ngày tồn kho bình quân (AAI)= hàng tồn kho*365/giá vốn hàng bán
Cho biết một ngày giá vốn hàng bán cần bao nhiêu ngày để luân chuyển hàng tồn
kho. Với số ngày càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển hàng tồn kho càng nhanh.
* Chu kỳ hoạt động của doanh nghiệp (OC) = AAI + ACP
Hay nói cách khác:
Chu kỳ hoạt động của doanh nghiệp = số ngày tồn kho bq+số ngày thu hồi tiền bq
chu kỳ hoạt động của doanh nghiệp càng ngắn, tốc độ luân chuyển vốn lưu động
nhanh, chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra được rút ngắn, tăng hiệu quả trong hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp tốt hơn (tạo ra nhiều doanh lợi). Ngược lại chu
kỳ hoạt động của doanh nghiệp càng cao thì chi phí doanh nghiệp bỏ ra lớn làm
giảm hiệu quả trong kinh doanh.
* Vòng quay khoản phải trả
Phản ánh khả năng trì hoãn của doanh nghiệp đối với các nhà cung ứng dịch vụ.
Vòng quay khoản phải trả càng nhỏ thì số thời gian doanh nghiệp trì hoãn thanh
Sinh viên: Trần Thị Nhàn Lớp: TCDN NQ

22
Trường Đại học Kinh tế quốc dân Khoa Ngân hàng – Tài chính
toán của doanh nghiệp đối với nhà cung ứng càng cao.
* Số ngày phải trả bình quân (APP)=phải trả bình quân*365/giá Vốn hàng bán
Cứ một ngày giá vốn hàng bán hoặc 1ngay mua vật tư bình quân cần bao nhiêu
ngày doanh nghiệp mới phải thanh toán. Số ngày càng lớn thì khả năng trì hoãn
đối với nhà cung cấp càng tốt.
* Chu kỳ luân chuyển của tiền (CCC)= OC-APP
= ACP + AAI – APP
Trường hợp CCC = 0 => doanh nghiệp không cần phải huy động hay vay
tiền để chi trả nợ ngắn hạn, các khoản phải trả…
* Khả năng thanh toán lãi vay (TIE)= ebit/lãi vay
Tỷ số này càng lớn thì khả năng thanh toán lãi vay của doanh nghiệp càng cao.
1.2.4.3 Tỷ số về khả năng cân đối vốn.
* Hệ số nợ= Tổng nợ/ tổng tài sản
Cho biết doanh nghiệp sử dụng bao nhiêu nợ vay để đầu tư vào tài sản của doanh
nghiệp, tỷ trọng này càng cao thì sự phụ thuộc về tài chính của doanh nghiệp vào
nợ vay càng lớn, rủi ro kinh doanh càng cao.
* Đòn bảy tài chính:
=tổng tài sản/vốn chủ sở hữu
Cho biết doanh nghiệp sử dụng bao nhiêu vốn chủ sở hữu để đầu tư vào tài
sản. Tỷ số này càng thấp thi rủi ro càng thấp.
= vốn chủ sở hữu/ nợ dài hạn
Tỷ số này cho biết trong cơ cấu cốn dài hạn của doanh nghiệp tỷ lệ vcsh
chiếm bao nhiêu phần trăm. Tỷ lệ này càng lớn rủi ro mất khả năng thanh toán của
doanh nghiệp càng thấp.
1.2.4.4 Nhóm tỷ số phản ánh khả năng sinh lời.
Phản ánh khả năng sinh lời của từng chỉ tiêu trên
* Hiệu suất sử dụng tổng tài sản ( vòng quay tổng tài sản)
=doanh thu/tổng tài sản bình quân

Sinh viên: Trần Thị Nhàn Lớp: TCDN NQ
23
Trường Đại học Kinh tế quốc dân Khoa Ngân hàng – Tài chính
Chỉ tiêu này cho biết trung bình một đồng tài sản tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu
trong kỳ
* Hiệu suất sử dụng tài sản cố định= Doanh thu thuần/tài sản cố định bình quân
cho biết 1đồng tài sản tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu trong kỳ kinh doanh. Chỉ
tiêu này càng lớn khả năng tạo doanh thu từ tài sản cố định càng cao.
* Hiệu suất sử dụng vốn lưu động=doanh thu thuần/tài sản ngắn hạn bình quân
Cho biết 1đồng tài sản ngắn hạn doanh nghiệp đầu tư tạo ra bao nhiêu đồng doanh
thu. Tỷ số này càng cao phản ánh khả năng tạo tiền của tài sản ngắn hạn của doanh
nghiệp càng cao.
* Tỷ suất lợi nhuận gộp(lợi nhuận gộp biên)
=lợi nhuận gộp/doanh thu thuần
Cho biết 1đồng doanh thu doanh nghiệp tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Ngoài ra
chỉ tiêu này còn cho biết khả năng tiết kiệm chi phí trực tiếp của doanh nghiệp đến
đâu. Tỷ số này càng cao cho biết khả năng tiết kiệm chi phí trực tiếp của doanh
nghiệp càng cao.
* Tỷ suất lợi nhuận ròng(lợi nhuận ròng biên)
=lợi nhuận sau thuế/doanh thu thuần
Cho biết 1đồng doanh thu thuần doanh nghiệp tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau
thuế và cho biết khả năng tiết kiệm tổng chi phí của doanh nhiệp đến đâu. Tỷ số
này càng cao nói lên khả năng tiết kiệm tổng chi phí của doanh nghệp càng cao.
* Suất sinh lời tổng tài sản:
=lợi nhuận bình quân/tổng tài sản bình quân
Đây là một trong những chỉ tiêu tài chính quan trọng và đặc trưng khi tiến hành
phân tích, đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp. Chỉ tiêu này cho biết
1đồng tài sản bình quân tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế.
* Suất sinh lời vốn đầu tư:
=lợi nhuận sau thuế/ tổng vốn đầu tư

Có thể nói các chỉ tiêu sinh lời của doanh nghiệp càng cao phản ánh hiệu suất sinh
Sinh viên: Trần Thị Nhàn Lớp: TCDN NQ
24
Trường Đại học Kinh tế quốc dân Khoa Ngân hàng – Tài chính
lời của doanh nghiệp là càng cao, tỷ số này càng cao càng tốt.
1.2.5 Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp
1.2.5.1 Qúa trình hình thành và phát triển của hoạt động phân tích tài
chính doanh nghiệp.
Khi xã hội có sự phân công về lao động, có sự chiếm hữu khác nhau về tư
liệu sản xuất và sản phẩm lao động, nền sản xuất hàng hóa ra đời và tiền tệ xuất
hiện. các quỹ tiền tệ được tạo lập và được sử dụng bởi các tổ chức kinh tế, tổ chức
xã hội hay cá nhân tiêu dùng và đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Các quan hệ
kinh tế đó nảy sinh phạm trù tài chính.
Sự ra đời của nền sản xuất hàng hóa-tiền tệ làm xuất hiện các nguồn tài
chính, đó là của cải xã hội biểu hiện dưới hình thái giá trị. Sản xuất và trao đổi
hàng hóa xuất hiện, tiền tệ cũng vì thế xuât hiện như một yêu cầu khách quan với
tư cách là vật ngang giá chung cho quá trình trao đổi. Trong điều kiện nền kinh tế
phát triển, tiền tệ đã được xã hội sử dụng vào việc phân phối sản phẩm xã hội và
thu nhập quốc dân để tạo lập nên các quỹ tiền tệ riêng phục vụ cho những mục
đích riêng của mỗi chủ thể.
Khi xã hội loài người phát triển đi cùng với đó nền thể chế nhà nước ngày
một phát triển. Nhà nước với chức năng quyền lực và để duy trì hoạt động của
mình đã tạo lập những ngân sách thông qua quá trình phân phối tổng sản phẩm
quốc dân dưới hình thức giá trị, hình thành tài chính nhà nước thúc đẩy sự phát
triển của nền kinh tế mà mở rộng phạm vi của hoạt động tài chính. Đặc biệt trong
điều kiện nền kinh tế thị trường thì doanh nghiệp là những chủ thể rất quan trọng
trong nền kinh tế. Các doanh nghiệp đã và đang đóng góp rất lớn trong ngân sách
nhà nước hay nói cách khác cho sự phát triển nói chung của xã hội. Xã hội phát
triển đi theo đó là môi trường cạnh tranh, môi trường kinh doanh sẽ khắt khe đòi
hỏi doanh nghiệp phải có chính sách trong chiến lược phát triển của minh để tồn

tại và phát triển và một yếu tố quan trọng giúp doanh nghiệp tồn tại là hạ thấp chi
phí sản xuất kinh doanh. Điều đó đòi hỏi doanh nghiệp có một hệ thống quản lý tài
chính trong việc giảm chi phí sản xuất. Từ đó, xuất hiện hoạt động phân tích tài
chính doanh nghiệp.
1.2.5.2 Các nhân tố khách quan ảnh hưởng đến hoạt động phân tích tài
chính doanh nghiệp.
Hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân
Sinh viên: Trần Thị Nhàn Lớp: TCDN NQ
25
Trường Đại học Kinh tế quốc dân Khoa Ngân hàng – Tài chính
tố. Để đánh giá chính xác hơn hoạt động tài chính của doanh nghiệp, khi phân tích
tình hình tài chính thông qua hệ thống báo cáo tài chính của doanh nghiệp tại các
kỳ nghiên cứu ta cần xem xét và đánh giá kết hợp cùng với việc đánh giá các nhân
tố khách quan ảnh hưởng đến hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp. Với nền
kinh tế thị trường hiện nay thì các doanh nghiệp chịu ảnh hưởng rất lớn bởi các
quy luật kinh tế, lạm phát…để tồn tại và phát triển trong điều kiện đó, các doanh
nghiệp cần thích nghi với những quy luật khách quan của thị trường.
Một chu kỳ kinh tế bao gồm: bắt đầu hình thành rùi phát triển và sau đó suy
thoái. Tại mỗi giai đoạn khác nhau của chu kỳ kinh tế đòi hỏi các nhà quản lý
doanh nghiệp có những nhận định, xử lý thông tin và có các quyết định kinh tế
khác nhau. Với giai đoạn phát triển. lúc này nhìn chung toàn bộ nền kinh tế có xu
hướng mở rộng, nền kinh tế cần nhiều của cải vật chất. Nhận thấy thời cơ, các
doanh nghiệp đầu tư cho mở rộng sản xuất, kin doanh. Việc làm được tạo ra, của
cải vật chất nhiều lên, đời sống người dân được cải thiện và nâng cao, xã hội phát
triển. Có thể nói giai đoạn này nền kinh tế tăng trưởng mạnh, hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp có nhiều thuận lợi. Khi nền kinh tế phát triển đỉnh
điểm, lượng của cải vật chất các doanh nghiệp sản xuất ra đã bắt đầu bão hòa,
lượng cung bằng cầu lúc này các nhà sản xuất cần xác định nhu cầu của thị trường
về mặt hàng doanh nghiệp mình sản xuất và có những chiến lược kinh doanh phù
hợp để đem lại hiệu quả tốt nhất. Đối với giai đoạn nền kinh tế rơi vào tình trạng

suy thoái, lúc này lượng hàng hóa sản xuất ra nhiều hơn nhu cầu của xã hội. Nền
kinh tế có xu hướng co hẹp sản xuất, sự cạnh tranh trở lên ngay gắt hơn bao giờ,
để tồn tại trong điều kiện đó đòi hỏi các doanh nghiệp cần có những phương án
kinh doanh vượt trội so với các sản phẩm cùng loại trên thị trường cả về mẫu mã
và chất lượng sản phẩm. Đối với mỗi ngành nghề, sản phẩm, sản xuất kinh doanh
của doanh nghiệp khác nhau mà ta có những nhận định khác nhau. Bên cạnh đó,
việc phân tích tài chính phụ thuộc rất lớn vào các chính sách quản lý kinh tế của
chính phủ và nhà nước. Với mỗi giai đoạn kinh tế cụ thể của đất nước mà nhà
nước lại có những chính sách quản lý kinh tế khác nhau và khi đi vào thực tế thì
phụ thuộc vào nền kinh tế thế giới tại mỗi thời điểm nhất định các chính sách đó
lại có các mức độ hiệu quả khác nhau và việc đánh giá hay nhận xét một doanh
nghiệp có tình hình tài chính như thế nào ta cần xem xét vào mỗi thời điểm cụ thể
của nền kinh tế và nhũng nhân tố khách quan ảnh hưởng để có những quyết định
Sinh viên: Trần Thị Nhàn Lớp: TCDN NQ
26

×