Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

các công cụ thuộc chính sách tiền tệ của ngân hàng Nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (468.98 KB, 31 trang )

11
Cơ sở lý thuyết
1.1 Một số vấn đề cơ bản
1.1.1 Ngân hàng Trung ương
1.1.1.1 Khái niệm
Ngân hàng Trung ương là cơ quan đặc trách quản lý hệ thống tiền tệ của quốc gia/
nhóm quốc gia/ vùng lãnh thổ và chịu trách nhiệm thi hành chính sách tiền tệ. Mục đích
hoạt động của Ngân hàng Trung ương là ổn định giá trị của tiền tệ, ổn định cung tiền,
kiểm soát lãi suất, cứu các ngân hàng thương mại có nguy cơ đổ vỡ. Hầu hết các Ngân
hàng Trung ương thuộc sở hữu của Nhà nước nhưng vẫn có một mức độ độc lập nhất
định đối với Chính phủ.
1.1.1.2 Chức năng
Ngân hàng Trung ương có các chức năng cơ bản như sau:
- Ngân hàng của các ngân hàng thương mại: Ngân hàng Trung ương giữ các khoản
dự trữ cho các ngân hàng thương mại, thực hiện tiến trình thanh toán cho hệ thống
ngân hàng thương mại và hoạt động như một “người cho vay của phương sách
cuối cùng” đối với các ngân hàng thương mại trong trường hợp khẩn cấp.
- Ngân hàng của Chính phủ: Ngân hàng Trung ương giữ các tài khoản cho Chính
phủ, nhận tiền gửi và cho vay đối với Kho bạc Nhà nước, hỗ trợ chính sách tài
khóa của Chính phủ bằng việc mua tín phiếu của Chính phủ.
- Kiểm soát mức cung tiền để thực hiện chính sách tiền tệ nhằm ổn định và phát
triển nền kinh tế.
- Hỗ trợ, giám sát và điều tiết hoạt động của các thị trường tài chính.
1.1.1.3 Vai trò
Ngân hàng Trung ương góp phần ổn định và phát triển nền kinh tế - xã hội thông
qua điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông.
Trong nền kinh tế thị trường, mức cung tiền tệ có tác động mạnh mẽ đến tăng
trưởng kinh tế, thông qua sự thúc đẩy mức tăng giảm GDP. Do vậy điều tiết khối
lượng tiền trong lưu thông cho phù hợp với yêu cầu ổn định và phát triển kinh tế
giữ vị trí quan trọng bậc nhất trong các nhiệm vụ của Ngân hàng Trung ương. Sự
điều tiết của Ngân hàng Trung ương đối với khối lượng tiền trong lưu thông là rất


cần thiết. Bởi lẽ, do nhiều yếu tố khác nhau tác động đến mà kinh tế có lúc thăng,
lúc trầm. Mặt khác, do tình hình thu chi tiền tệ trong mỗi vùng, mỗi khu vực khác
nhau và thường xuyên biến động làm cho nhu cầu tiền tệ cũng biến đổi tương ứng.
Thông qua hoạt động điều tiết khối lượng tiền trong lưu thông của Ngân hàng
Trung ương mà mọi hoạt động kinh tế - xã hội được thực hiện một cách trôi chảy.
11
Ngân hàng Trung ương tham gia thiết lập và điều chỉnh cơ cấu nền kinh tế.
Ngân hàng Trung ương tham gia vào việc xây dựng chiến lược phát triển kinh tế -
xã hội, nhằm thiết lập một cơ cấu kinh tế hợp lý và có hiệu quả cao. Đồng thời với
vị trí đặc biệt của mình, Ngân hàng Trung ương tài trợ tín dụng cho nền kinh tế
thông qua hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng để thực hiện kế
hoạch thiết lập cơ cấu kinh tế đó.
Ngân hàng Trung ương ổn định sức mua của đồng tiền quốc gia
Để ổn định sức mua đối nội của đồng tiền quốc gia, thông qua việc xây dựng và
thực hiện chính sách tiền tệ, Ngân hàng Trung ương góp phần cân đối tổng cầu và
tổng cung tiền của toàn xã hội. Mặt khác, thông qua việc xây dựng và thực hiện
chính sách tỷ giá, lãi suất, ngoại hối … Ngân hàng Trung ương tác động mạnh đến
cân đối cung cầu ngoại tệ để góp phần ổn định tỷ giá hối đoái, ổn định sức mua
đối ngoại của đồng tiền quốc gia.
Ngân hàng Trung ương quản lý hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại và
các tổ chức tín dụng khác
Với chức năng là ngân hàng của các ngân hàng, Ngân hàng Trung ương có vai trò
quản lý toàn bộ hệ thống ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác.
Trong cơ chế thị trường, Ngân hàng Trung ương phải xây dựng và ban hành các
văn bản pháp luật quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức tín
dụng. Những chế tài đó phải được xây dựng trên cơ sở những định hướng có căn
cứ khoa học, sự nắm bắt tín hiệu thị trường nhanh nhạy, Mặt khác, Ngân hàng
Trung ương còn có trách nhiệm tổ chức thanh tra, giám sát thường xuyên hoạt
động của các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng, kịp thời phát hiện
những hành vi vi phạm pháp luật để có biện pháp xử lý thích hợp.

1.1.2 Chính sách tiền tệ
1.1.2.1 Khái niệm
Trong tác phẩm “Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính”, F.S. Miskin đã đưa ra
quan điểm về chính sách tiền tệ theo nghĩa rộng: “Chính sách tiền tệ là một trong các
chính sách vĩ mô, trong đó ngân hàng Trung ương thông qua các công cụ của mình thực
hiện việc kiểm soát và điều tiết khối lượng tiền cung ứng nhằm tác động tới các mục tiêu
cơ bản của nền kinh tế trên cơ sở đó đạt được những mục tiêu cuối cùng của mình là công
ăn việc làm cao, ổn định giá trị đồng tiền và tăng trưởng kinh tế.”
Bất kỳ nền kinh tế nào, ổn định tiền tệ và nâng cao sức mua đồng tiền trong nước
luôn được coi là mục tiêu có tính chất dài hạn. Ngân hàng Trung ương điều hành chính
sách tiền tệ phải kiểm soát được tiền tệ, làm sao cho phù hợp giữa khối lượng tiền với
11
mức tăng tổng sản phẩm quốc dân danh nghĩa, giữa tổng cung và tổng cầu tiền tệ, giữa
tiền và hàng, không gây thừa hoặc thiếu tiền so với nhu cầu của lưu thông.
Xét cho cùng, chính sách tiền tệ có thể được xác định theo 1 trong 2 hướng sau:
- Chính sách tiền tệ mở rộng là việc cung ứng thêm tiền cho nền kinh tế, nhằm khuyến
khích đầu tư, mở rộng sản xuất, tạo công ăn việc làm. Trong trường hợp này, chính sách
nhằm vào chống suy thoái.
- Chính sách tiền tệ thắt chặt là việc giảm cung ứng tiền cho nền kinh tế nhằm hạn chế
đầu tư, kìm hãm sự phát triển quá nóng của nền kinh tế, trường hợp này chính sách tiền tệ
nhắm vào việc kiềm chế lạm phát.
1.1.2.2 Mục tiêu
ý Ổn định giá trị đồng tiền: Ngân hàng Trung ương thông qua chính sách tiền tệ
có thể tác động đến việc tăng hay giảm giá trị đồng tiền của nước mình. Giá
trị đồng tiền ổn được xem xét trên 2 mặt: sức mua đối nội của đồng tiền và
sức mua đối ngoại. Tuy vậy chính sách tiền tệ ổn định không có nghĩa là tỉ lệ
lạm phát bằng 0 vì như vậy nền kinh tế không thể phát triển được, để có một tỉ
lệ lạm phát giảm phải chấp nhận một tỉ lệ thất nghiệp tăng lên.
ý Tạo công ăn việc làm: Chính sách tiền tệ mở rộng hay thu hẹp có ảnh hưởng
trực tiếp tới việc sử dụng có hiệu quả các nguồn lực xã hội, quy mô sản xuất

kinh doanh và từ đó ảnh hưởng tới tỉ lệ thất nghiệp của nền kinh tế. Để có một
tỉ lệ thất nghiệp giảm thì phải chấp nhận một tỉ lệ lạm phát tăng. Từ những
điều trên cho thấy, vai trò của Ngân hàng Trung ương khi thực hiện mục tiêu
này: tăng cường đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, chống suy thoái kinh tế
theo chu kì, tăng trưởng kinh tế ổn định, khống chế tỉ lệ thất nghiệp không
vượt quá tỉ lệ thất nghiệp tự nhiên.
ý Tăng trưởng kinh tế: Tăng trưởng kinh tế luôn là mục tiêu của mọi chính phủ
trong việc hoạch định các chính sách kinh tế vĩ mô của mình, để giữ cho nhịp
độ tăng trưởng ổn định, đặc biệt việc ổn định giá trị đồng bản tệ là rất quan
trọng, nó thể hiện lòng tin của dân chúng đối với chính phủ. Mục tiêu này chỉ
đạt được khi kết quả 2 mục tiêu trên đạt được một cách hài hòa.
Các mục tiêu trên có mối quan hệ chặt chẽ, hài hòa hỗ trợ nhau, không tách rời.
Nhưng xem xét trong thời gian ngắn hạn thì các mục tiêu này có thể mâu thuẫn
với nhau, thậm chí triệt tiêu lẫn nhau. Vậy để đạt được các mục tiêu một cách hài
hòa thì Ngân hàng Trung ương trong khi thực hiện chính sách tiền tệ cần phải có
sự phối hợp với các chính sách kinh tế vĩ mô khác.
11
1.2 Các công cụ Ngân hàng Trung ương sử dụng để thực hiện chính
sách tiền tệ
Ngân hàng Trung ương điều chỉnh mức cung tiền và các tỷ lệ lãi suất bằng nhiều
công cụ khác nhau, nhằm tác động vào lượng tiền mạnh (H) và số nhân tiền tệ. Ngoài ra,
Ngân hàng Trung ương có thể trực tiếp kiểm soát có lựa chọn một số khoản tín dụng
cũng như một vài biện pháp khác nhau. Các công cụ quản lý tiền tệ thường dùng của
Ngân hàng Trung ương được chia làm 2 nhóm công cụ chính, đó là: nhóm công cụ trực
tiếp (hành chính) và nhóm công cụ gián tiếp (thị trường).
1.2.1 Nhóm công cụ trực tiếp
Là cách thức mà Ngân hàng Trung ương trực tiếp tác động thông qua các quy định
để giới hạn mục tiêu giá cả (hoặc mục tiêu khối lượng) thường nhằm vào các chỉ tiêu trên
bảng cân đối của ngân hàng thương mại. Các công cụ này thường được áp dụng trong
điều kiện thị trường tiền tệ chưa phát triển, khả năng sử dụng các điều kiện thị trường để

điều tiết tiền tệ của Ngân hàng Trung ương còn hạn chế, như: kiểm soát trực tiếp lãi suất
của nền kinh tế, hạn mức tín dụng, tín dụng chỉ định.
1.2.1.1 Lãi suất tiền gửi
- Khái niệm: Lãi suất tiền gửi là lãi suất được áp dụng để tính lãi phải trả cho
người gửi tiền. Lãi suất tiền gửi có nhiều mức khác nhau phụ thuộc vào thời hạn, qui mô
tiền gửi.
- Cơ chế tác động: Khi Ngân hàng Trung ương thay đổi các mức ấn định lãi suất
tiền gửi thì các ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng phải tuân thủ các mức lãi
suất ấn định này, từ đó làm thay đổi lượng tiền tệ trong nền kinh tế. Nếu lãi suất tiền gửi
cao sẽ thu hút được nhiều tiền gửi làm gia tăng nguồn vốn cho vay. Ngược lại sẽ làm
giảm khả năng mở rộng kinh doanh tín dụng.
- Ưu điểm: Tác động trực tiếp và nhanh chóng đến khối lượng tiền tệ và tín dụng
của nền kinh tế.
- Hạn chế: Làm mất tính linh hoạt và quyền tự chủ kinh doanh của các tổ chức tín
dụng, giảm khả năng cạnh tranh, có thể gây tình trạng ứ đọng hoặc thiếu vốn nhất thời.
1.2.1.2 Khung lãi suất tiền gửi và cho vay hoặc lãi suất cơ bản
- Khái niệm: Lãi suất cơ bản là lãi suất thấp nhất được các ngân hàng thương mại
chủ lực áp dụng đối với các khoản vay dành cho các doanh nghiệp là khách hàng lớn, độ
tín nhiệm cao. Lãi suất này được quyết định bởi Ngân hàng Trung ương. Theo Luật Ngân
hàng Nhà nước, lãi suất cơ bản chỉ áp dụng cho Đồng Việt Nam, do Ngân hàng Nhà nước
công bố, làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh. Khung lãi suất
được xác định bởi lãi suất trần - lãi suất cao nhất cho vay và lãi suất sàn - lãi suất thấp
nhất tiền gửi mà các ngân hàng thương mại có thể áp dụng trong hoạt động tín dụng của
mình.
11
- Cơ chế tác động: Ngân hàng Trung ương có thể tác động tới khối lượng tiền
cung ứng bằng cách quy định và điều chỉnh khung lãi suất hoặc quy định điều chỉnh lãi
suất cơ bản và biên độ dao động. Ngân hàng Trung ương có thể điều hành dễ dàng việc
nới lỏng hay thắt chặt lãi suất tín dụng của nền kinh tế thông qua biên độ hẹp giữa lãi suất
đầu vào và lãi suất đầu ra cho nên nó có tác động tích cực trong việc điều hành chính

sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương.
- Ưu điểm: Giúp ngân hàng thương mại chủ động, độc lập trong kinh doanh, tăng
khả năng cạnh tranh.
- Hạn chế: Trong nền kinh tế thị trường, lãi suất rất nhạy cảm với đầu tư, nên
nhiều khi khung lãi suất do Ngân hàng Trung ương quy định trở nên gò bó, cứng nhắc
không theo kịp diễn biến của thị trường.
1.2.1.3 Hạn mức tín dụng đối với các tổ chức tín dụng
- Khái niệm: Hạn mức tín dụng là mức dư nợ tối đa mà Ngân hàng Trung ương
buộc các ngân hàng thương mại hoặc các tổ chức tín dụng phải tôn trọng trong khi cấp tín
dụng cho nền kinh tế.
- Cơ chế tác động: Đây là biện pháp Ngân hàng Trung ương khống chế mức cho
vay tối đa đối với ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng. Trên cơ sở quy mô, tình
hình hoạt động cũng như khả năng huy động vốn của từng tổ chức tín dụng, Ngân hàng
Trung ương tiến hành phân chia hạn mức tín dụng cho từng tổ chức tín dụng, đó chính là
mức tối đa mà mỗi ngân hàng, mỗi tổ chức tín dụng được phép vay từ Ngân hàng Trung
ương.
- Ưu điểm: Việc sử dụng biện pháp này tạo cho Ngân hàng Trung ương dễ đạt
được mục tiêu kiểm soát khối lượng tiền cung ứng.
- Hạn chế: Với sự biến động thường xuyên của cung và cầu tiền vay, biện pháp
này tỏ ra không còn linh hoạt phù hợp với sự biến động của nền kinh tế thị trường.
1.2.1.4 Phát hành tiền trực tiếp cho ngân sách và cho đầu tư
- Khái niệm: Phát hành tiền trực tiếp là biện pháp Ngân hàng Trung ương in thêm
tiền để bù đắp thiếu hụt của ngân sách nhà nước.
- Cơ chế tác động: Khi ngân sách nhà nước bị thiếu hụt thì một trong các biện
pháp giải quyết đó là phát hành tiền làm tăng lượng tiền trong lưu thông. NHTW phát
hành tiền trực tiếp cho đầu tư có thể thông qua con đường ngân sách nhà nước hoặc bằng
tín dụng ngân hàng.
- Ưu điểm: Bù đắp nhanh chóng sự thiếu hụt và đem lại hiệu quả tích cực cho đầu
tư nếu việc phát hành tiền được sử dụng để khai thác tiềm năng về tài nguyên và con
người.

11
- Hạn chế: Biện pháp này làm gia tăng khối lượng tiền trong lưu thông và hậu quả
là rất dễ gây ra lạm phát.
1.2.2 Nhóm công cụ gián tiếp
Các công cụ gián tiếp là các công cụ mà sự tác động của chúng vào các mục tiêu
trung gian được thông qua một biến số khác thuộc về sự kiểm soát của NHTW và phải
thông qua cơ chế tự điều tiết của các lực lượng thị trường.
1.2.2.1 Nghiệp vụ thị trường mở
- Khái niệm: Thị trường mở là thị trường tiền tệ của Ngân hàng Trung ương được
sử dụng để mua bán trái phiếu kho bạc của Nhà nước.
- Cơ chế tác động: Nếu muốn tăng mức cung tiền, Ngân hàng Trung ương sẽ mua
trái phiếu ở thị trường mở. Kết quả là họ đã đưa thêm vào thị trường một lượng tiền cơ sở
bằng cách tăng dự trữ của các ngân hàng thương mại, dẫn đến tăng khả năng cho vay,
tăng mức tiền gửi nhờ số nhân tiền tệ. Kết quả cuối cùng là mức cung tiền đã tăng gấp
bội so với số tiền mua tín phiếu của Ngân hàng Trung ương. Để có kết quả ngược lại,
Ngân hàng Trung ương sẽ bán trái phiếu của Chính phủ.
- Ưu điểm: Nghiệp vụ thị trường mở có tác động nhanh, chính xác, ít bị ảnh hưởng
bởi các thủ tục hành chính và có thể sử dụng ở bất kỳ mức độ nào. Đồng thời biện pháp
này cũng rất linh hoạt, khi có một sai lầm xảy ra trong lúc tiến hành hoạt động thị trường
mở, Ngân hàng Trung ương có thể đảo ngược lại việc sử dụng công cụ đó. Nghiệp vụ thị
trường mở còn là công cụ chính sách tiền tệ chủ động, cho phép Ngân hàng Trung ương
có thể tạo ra những biến động có khả năng hướng dẫn xu hướng thị trường trên cơ sở dự
báo như cầu vốn khả dụng.
- Hạn chế: Sự can thiệp của Ngân hàng Trung ương có thể trở nên vô hiệu khi có
tác động ngược chiều, chẳng hạn do mất cân đối trong cán cân thanh toán hoặc số dư tiền
gửi ngân hàng ở Ngân hàng Trung ương tăng lên. Khi đó, các hoạt động của thị trường
mở của Ngân hàng Trung ương nhằm tăng lượng tiền cung ứng sẽ bị triệt tiêu một phần
hay toàn bộ. Khả năng phát huy hiệu quả tối đa của nghiệp vụ thị trường mở nhiều khi
không phụ thuộc vào ngân hàng mà nó còn bị chi phối bởi môi trường kinh tế vĩ mô,
hành vi của công chúng và các quyết định của ngân hàng thương mại.

1.2.2.2 Dự trữ bắt buộc
- Khái niệm: Dự trữ bắt buộc là số tiền mà các ngân hàng thương mại giữ lại do
Ngân hàng Trung ương quy định, gửi tại Ngân hàng Trung ương, không hưởng lãi, không
được dùng để đầu tư, cho vay và thông thường được tính theo một tỉ lệ nhất định trên
tổng số tiền gửi của khách hàng để đảm bảo khả năng thanh toán, sự ổn định của hệ thống
ngân hàng.
- Cơ chế tác động: Việc thay đổi tỉ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng trực tiếp đến số
nhân tiền tệ trong cơ chế tạo tiền của các ngân hàng thương mại. Mặt khác khi tăng
11
(giảm) tỉ lệ dự trữ bắt buộc thì khả năng cho vay của các ngân hàng thương mại giảm
(tăng), làm cho lãi suất cho vay tăng (giảm), từ đó làm cho lượng cung ứng tiền giảm
(tăng).
- Ưu điểm: Đây là công cụ mang nặng tính quản lí Nhà nước nên giúp Ngân hàng
Trung ương chủ động trong việc điều chỉnh lượng tiền cung ứng và tác động của nó cũng
rất mạnh (chỉ cần thay đổi một lượng nhỏ tỉ lệ dự trữ bắt buộc là ảnh hưởng tới một lượng
rất lớn mức cung ứng tiền).
- Hạn chế: Tính linh hoạt không cao vì việc tổ chức thực hiện rất chậm chạp, phức
tạp, tốn kém và có thể ảnh hưởng không tốt tới hoạt động kinh doanh của các ngân hàng
thương mại.
1.2.2.3 Chính sách chiết khấu
- Khái niệm: Lãi suất tái chiết khấu là lãi suất quy định của Ngân hàng Trung
ương khi họ cho các ngân hàng thương mại vay tiền để đảm bảo có đầy đủ hoặc tăng
thêm dự trữ của các ngân hàng thương mại.
- Cơ chế tác động: Khi Ngân hàng Trung ương tăng lãi suất tái chiết khấu sẽ hạn
chế việc các ngân hàng thương mại vay tiền tại Ngân hàng Trung ương làm cho khả năng
cho vay của các ngân hàng thương mại giảm từ đó làm cho mức cung tiền trong nền kinh
tế giảm. Ngược lại, khi lãi suất chiết khấu thấp hơn lãi suất thị trường và điều kiện cho
vay thuận lợi, sẽ là tín hiệu khuyến khích các ngân hàng thương mại vay tiền để tăng dự
trữ và mở rộng cho vay, dẫn đến mức cung tiền sẽ tăng lên. Khi hoạt động của thị trường
mở chưa phát triển thì công cụ này trở nên quan trọng.

- Ưu điểm: Tái chiết khấu được thực hiện trên nền các giấy tờ có giá, nên thời hạn
vay mượn là rõ ràng, việc hoàn trả nợ tương đối chắc chắn, tiền vay vận động phù hợp
với sự vận động của quy luật cung cầu thị trường. Chính sách chiết khấu giúp Ngân hàng
Trung ương thực hiện vai trò là người cho vay cuối cùng đối với các ngân hàng thương
mại khi các ngân hàng thương mại gặp khó khăn trong thanh toán, và có thể kiểm soát
được hoạt động tín dụng của các ngân hàng thương mại. Đồng thời có thể tác động tới
việc điều chỉnh cơ cấu đầu tư đối với nền kinh tế thông qua việc ưu đãi tín dụng vào các
lĩnh vực cụ thể.
- Hạn chế: Hiệu quả của công cụ này còn phụ thuộc vào hoạt động cho vay của các
ngân hàng thương mại, khi ấn định lãi suất chiết khấu tại một mức đặc biệt nào đó có thể
xảy ra những sự cố biến động lớn trong khoảng cách giữa lãi suất thị trường và lãi suất
chiếu khấu.
11
Liên hệ với thực tế hoạt động của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam trong giai đoạn từ 2008 – 2013
1.3 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là ngân hàng trung ương của Việt Nam. Đây là cơ
quan đảm trách việc phát hành tiền tệ, quản lý tiền tệ và tham mưu các chính sách liên
quan đến tiền tệ cho Chính phủ Việt Nam như: phát hành tiền tệ, chính sách tỷ giá, chính
sách về lãi suất, quản lý dự trữ ngoại tệ, soạn thảo các dự thảo luật về kinh doanh ngân
hàng và các tổ chức tín dụng, xem xét việc thành lập các ngân hàng và tổ chức tín dụng,
quản lý các ngân hàng thương mại nhà nước.
Ngân hàng Nhà nước xây dựng chỉ tiêu lạm phát hàng năm để trình Chính phủ; sử
dụng các công cụ thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia, bao gồm: Tái cấp vốn, lãi suất, tỷ
giá hối đoái, dự trữ bắt buộc, nghiệp vụ thị trường mở và các công cụ, biện pháp khác để
thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia.
Người đứng đầu Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có chức danh là Thống đốc Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam. Thống đốc đương nhiệm từ ngày 3 tháng 8 năm 2011 là ông
Nguyễn Văn Bình.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được tổ chức theo mô hình ngân hàng trung ương

trực thuộc Chính phủ. Theo mô hình này, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chịu sự chi
phối trực tiếp của Chính phủ về nhân sự, về tài chính, đặc biệt là các quyết định có liên
quan đến việc xây dựng và thực hiện chính sách tiền tệ. Chính phủ có thể dễ dàng phối
hợp chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đồng bộ với các chính sách
kinh tế vĩ mô khác nhằm đảm bảo mức độ và liệu lượng tác động hiệu quả của tổng thể
các chính sách đối với mục tiêu vĩ mô trong từng thời kỳ. Mô hình này được xem là phù
hợp với yêu cầu cần tập trung quyền lực để khai thác tiềm năng xây dựng kinh tế trong
thời kỳ tiền phát triển.
1.4 Thực trạng và nhận xét việc sử dụng từng công cụ thuộc chính
sách tiền tệ Ngân hàng Nhà nước Việt Nam áp dụng trong giai
đoạn 2008 – 2013
Theo thông lệ, trong phiên họp Chính phủ thường kỳ của các tháng đầu năm, Chính
phủ sẽ ban hành “Nghị quyết về những giải pháp chủ yếu chỉ đạo, điều hành thực hiện kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước” và “Nghị quyết về các
biện pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng
trưởng bền vững.” Từ hai Nghị quyết này, chúng ta có thể thấy được hướng chỉ đạo và
thực hiện các giải pháp thuộc chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa, hay hỗ trợ ổn định
đời sống và sản xuất của nhân dân, mở rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh xã
hội … của Nhà nước trong năm đó. Qua việc tìm hiểu những thuộc chính sách tiền tệ mà
11
Nhà nước chỉ đạo thực hiện trong 2 Nghị quyết nêu trên và tác động của nó đến tình hình
kinh tế của nước ta trong giai đoạn 2008 – 2013, nhóm 5 chúng tôi nhận thấy định hướng
thực hiện chính sách tiền tệ như sau: Trong 6 năm kể từ năm 2008 đến nay, với dấu mốc
là cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu bắt nguồn từ Mỹ, nền kinh tế gặp nhiều khó khăn
và thách thức, Chính phủ đã chỉ định Ngân hàng Nhà nước Việt Nam thực hiện chính
sách tiền tệ thắt chặt nhưng linh hoạt trong chỉ đạo tùy vào từng năm. Đầu năm 2008,
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam theo đuổi chính sách tiền tệ thắt chặt, cuối năm 2008 dần
được chuyển sang chính sách tiền tệ nới lỏng một cách thận trọng cho đến năm 2009. Kể
từ 2010, chúng ta quay trở lại thực hiện chính sách tiền tệ chặt chẽ.
Mặc dù mỗi năm Ngân hàng Nhà nước Việt Nam lại thực hiện những chính sách

tiền tệ khác nhau nhưng tựu chung lại, mục tiêu mà Nhà nước hướng tới đó là: Điều hành
chính sách tiền tệ linh hoạt, thận trọng, hiệu quả; sử dụng linh hoạt các công cụ của
chính sách tiền tệ; gắn kết chặt chẽ, đồng bộ với chính sách tài khóa nhằm bảo đảm thực
hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát, tăng cường ổn định vĩ mô và bảo đảm tăng trưởng hợp
lý với chủ trương:
- Ngân hàng Nhà nước luôn bám sát diễn biến thị trường tiền tệ, giám sát chặt chẽ
và hỗ trợ thanh khoản kịp thời cho các tổ chức tín dụng.
- Các hoạt động điều hành tín dụng được Ngân hàng Nhà nước thực hiện theo mục
tiêu tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, kiểm soát cho vay ngoại tệ và chống đô la hóa.
- Ngân hàng Nhà nước quyết tâm xử lý nợ xấu.
Để đạt được các mục tiêu trên, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã kết hợp sử dụng
nhiều công cụ của chính sách tiền tệ, cả trực tiếp lẫn gián tiếp, mà chúng tôi sẽ trình bày
dưới đây.
11
1.4.1 Lãi suất cơ bản
1.4.1.1 Thực trạng
Tại Việt Nam, lãi suất cơ bản là lãi suất chỉ áp dụng đối với đồng Việt Nam, do
Ngân hàng Nhà nước công bố, làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh
doanh. Lãi suất cơ bản được đề cập đến trong Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, có
hiệu lực từ ngày 01 tháng 10 năm 1998. Các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh
(lãi suất huy động, lãi suất cho vay) bằng đồng Việt Nam không được vượt quá 150% lãi
suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tại thời điểm đó.
Bảng lãi suất cơ bản từ 2008 – 2010
Giá trị Văn bản quyết định Ngày áp dụng
9% "2619/QĐNHNN 05/11/2010" 05-11-2010
8% 2665/QĐ-NHNN 25/11/2009 01-12-2009
7% 172/QĐ-NHNN 23/1/2009 01-02-2009
8.5% 3161/QĐ-NHNN 19/12/2008 22-12-2008
10% 2948/QĐ-NHNN 03/12/2008 05-12-2008
11% 2809/QĐ-NHNN 21-11-2008

12% 2559/QĐ-NHNN 3/11/2008 05-11-2008
13% 2316/QĐ-NHNN 20/10/2008 21-10-2008
14% 1317/QĐ-NHNN 10/6/2008 11-06-2008
12% 1099/QĐ-NHNN 16/5/2008 19-05-2008
8.75% 305/QĐ-NHNN 30/1/2008 01-02-2008
8.25%/năm 3096/QĐ-NHNN 01-01-2008
Nguồn: Website Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
11
Chúng ta có thể thấy, công cụ lãi suất cơ bản dao động nhiều nhất trong khoảng
nửa sau năm 2008 đến đầu năm 2009. Đây cũng là thời gian có sự chuyển đổi về chính
sách tiền tệ từ thắt chặt sang nới lỏng. Sau hơn 2 năm giữ ổn định ở mức 8,25%/năm, lãi
suất cơ bản đã được Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tăng lên 8,75% từ 1/2/2008 và nhảy
vọt lên mức 12%/năm từ 19/5/2008 và một tháng sau đó, từ 11/6 tăng lên 14% nhằm thu
bớt lượng tiền trong lưu thông. Và kết quả là lạm phát đã bị chặn đứng và đẩy lùi từ đỉnh
điểm 3,91%/tháng trong tháng 5 xuống các mức thấp hơn trong quý 3 và thậm chí âm
trong các tháng cuối năm.Tỷ lệ lạm phát cả năm 2008 chỉ còn là 19,89%.
Nguồn: Tính toán từ số liệu của Website Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Sau khi thực hiện thành công vai trò kiềm chế lạm phát, Ngân hàng Nhà nước đã
từng bước nới lỏng chính sách tiền tệ và lãi suất vẫn là một công cụ hết sức quan trọng.
Lãi suất cơ bản đã hạ dần xuống 13%, 12% và liên tiếp được điều chỉnh tới 3 lần trong
vòng 1 tháng cuối năm 2008 trước khi giữ ổn định ở mức 7% từ 1/2/2009. Nhằm hỗ trợ
nền kinh tế trong bối cảnh bị tác động bởi suy thoái tài chính toàn cầu, Chính phủ đã
quyết định thực hiện kế hoạch kích cầu thông qua lãi suất và Ngân hàng Nhà nước có
trách nhiệm triển khai nhiệm vụ này. Ngân hàng Nhà nước đã giữ mức lãi suất cơ bản 7%
trong vòng 10 tháng năm 2009. Đến năm 2010, Ngân hàng Nhà nước đã duy trì lãi suất
cơ bản ổn định ở mức 8% trong suốt 10 tháng đầu năm và thực hiện điều chỉnh lên mức
9% trong hai tháng cuối năm trước sức ép của lạm phát. Năm 2012, ngay từ đầu năm,
Ngân hàng Nhà nước đã đưa ra lộ trình giảm lãi suất trung bình mỗi quý 1%/năm, tuy
11
nhiên, trên cơ sở khả năng kiểm soát lạm phát theo mục tiêu đề ra, kinh tế vĩ mô từng

bước cải thiện, hoạt động ngân hàng ổn định, hỗ trợ và tháo gỡ khó khăn cho hoạt động
sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Và cho tới năm 2013, lãi suất cơ bản luôn dao
động trong khoảng 8%/năm.
1.4.1.2 Nhận xét
Có thể nói, công cụ lãi suất của Ngân hàng Nhà nước đã đem lại một số hiệu quả
nhất định khi Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh để giảm được mặt bằng lãi suất hỗ trợ
hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhưng vẫn đảm bảo đủ để
góp phần kiểm soát lạm phát ở mức hợp lý. Việc điều hành lãi suất của Ngân hàng Nhà
nước đã thật sự chủ động, dẫn dắt được thị trường, trần lãi suất được quy định (150% x
lãi suất cơ bản, Bộ luật dân sự quy định nếu trên mức này sẽ bị coi là cho vay nặng lãi )
là điều hợp lý và cần thiết trong điều kiện thị trường biến động.
Tuy nhiên, vai trò của công cụ lãi suất cơ bản đã phần nào đã bị hạn chế do kể từ
tháng 4/2010, Ngân hàng Nhà nước mở lại cơ chế lãi suất thỏa thuận cho khoản vay trung
và dài dạn và áp dụng cho đến nay. Với cơ chế lãi suất thỏa thuận, lãi suất cơ bản không
còn nhiều ảnh hưởng đến điều chỉnh lãi suất cho vay trên thị trường. Có những lúc, mức
9%/năm của lãi suất cơ bản (2011) trở nên mờ nhạt, khi lãi suất huy động của các ngân
hàng thương mại cao nhất đã 14%/năm, lãi suất cho vay có từ 18% - 20%/năm.
1.4.2 Hạn mức tín dụng đối với các tổ chức tín dụng
1.4.2.1 Thực trạng
Sau hơn 13 năm được dỡ bỏ, đến năm 2011, công cụ hạn mức tín dụng lại được
Ngân hàng Nhà nước sử dụng trong điều hành. Cụ thể, theo Chỉ thị 01/CT-NHNN, ngày
01/3/2011 về thực hiện giải pháp tiền tệ và hoạt động ngân hàng, Thống đốc Ngân hàng
Nhà nước yêu cầu các ngân hàng thương mại xây dựng kế hoạch tăng trưởng tín dụng
cho năm 2011 không được tăng quá 20% dư nợ so với cuối năm 2010 và phải được Ngân
hàng Nhà nước phê duyệt. Bên cạnh hạn mức tín dụng nói chung, trong năm 2011, Ngân
hàng Nhà nước còn quy định hạn mức tín dụng đối với lĩnh vực phi sản xuất, như: bất
động sản, chứng khoán, vay tiêu dùng khác đến ngày 31/12/2011 còn tối đa 16%. Kết
quả thực hiện đến hết năm 2011, dư nợ tín dụng cả nền kinh tế chỉ đạt 12%, thấp hơn
nhiều kế hoạch đề ra. Rút kinh nghiệm năm 2011, ngay từ đầu năm 2012, tại Chỉ thị số
01/2012/CT-NHNN, ngày 13/02/2012 về tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ và đảm bảo

hoạt động ngân hàng an toàn, hiệu quả, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã giao chỉ tiêu
kế hoạch tăng trưởng tín dụng cho 4 nhóm ngân hàng thương mại có phân biệt dựa trên
chất lượng, trực tiếp là tỷ lệ nợ xấu của từng ngân hàng. Việc phân bổ hạn mức tín dụng
được ấn định, và có sự phân biệt theo 4 nhóm ngân hàng tùy theo sức khỏe: 17%, 12%;
8% và 0% để tạo mức tăng dư nợ hợp lý (dự kiến khoảng 15-17 % cả năm), đồng thời
không để những ngân hàng quản trị kém, tài chính không lành mạnh vẫn tăng trưởng bất
chấp rủi ro và gây tác động xấu đến cả hệ thống. Sau đó, cơ quan này đã điều chỉnh tăng
11
chỉ tiêu cho 36 tổ chức tín dụng có điều kiện thực tế mở rộng cho vay an toàn; đồng thời,
vẫn khống chế hạn mức tín dụng trong lĩnh vực phi sản xuất là 16%. Kết quả là năm
2012, dư nợ cho vay đối với nền kinh tế chỉ tăng được 8,91%, thấp hơn rất nhiều so với
kế hoạch đề ra. Năm 2013, mặc dù lạm phát đã được kiểm soát khá ổn định, nhưng Ngân
hàng Nhà nước vẫn tiếp tục duy trì sử dụng công cụ hạn mức tín dụng. Theo Chỉ thị
01/CT-NHNN, ngày 31/01/2013 về tổ chức thực hiện chính sách tiền tệ và đảm bảo hoạt
động ngân hàng an toàn, hiệu quả năm 2013, thì Ngân hàng Nhà nước đặt mục tiêu tăng
trưởng tín dụng toàn hệ thống là 12%, đồng thời, căn cứ vào năng lực tài chính cũng như
kế hoạch phát triển của từng ngân hàng để quy định chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng. Theo
đó, có 3 nhóm chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng chính: 12%, 9% và 5%, ngoài ra một số ngân
hàng vẫn có những mức chỉ tiêu cao hơn và cũng có những ngân hàng chỉ tiêu này bằng
0. Mặc dù Ngân hàng Nhà nước cho biết, đến hết tháng 7/2013, tổng dư nợ cho vay đối
với nền kinh tế mới chỉ tăng có 5,02%, nhưng đến cuối năm, con số này đã vượt mức lên
thành 12,51%.
1.4.2.2 Nhận xét
Mặc dù mới chỉ quay lại từ năm 2011, công cụ hạn mức tín dụng cũng đã mang lại
những hiệu quả nhất định. Bởi lẽ, nó thúc đẩy các ngân hàng thương mại phấn đấu hoạt
động hiệu quả, nâng cao chất lượng và các chỉ số an toàn để được xếp hạng tín nhiệm cao
và có hạn mức tăng trưởng cao. Đồng thời, nó còn điều chỉnh và hạn chế tốc độ tăng
trưởng tín dụng cao hơn tăng trưởng huy động vốn, góp phần cải thiện tính thanh khoản
của từng ngân hàng và cả hệ thống, giảm áp lực lạm phát. Nó còn có tác động mạnh mẽ
và có hiệu quả đến mục tiêu tái cơ cấu, sáp nhập các ngân hàng thương mại yếu kém,

tăng vốn chủ sở hữu, nâng cao năng lực cạnh tranh.
Tuy nhiên, việc khống chế dư nợ phi sản xuất khoảng 16% theo chính sách thắt
chặt tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước nhằm hướng dòng vốn vào khu vực trực tiếp làm ra
của cải vật chất… là điều cần thiết, song do tính chất “cào bằng” nên những dự án cần ưu
tiên đầu tư như phân khúc nhà ở xã hội, nhà ở cho tái định cư, nhà ở cho người thu nhập
thấp, hay như thị trường bất động sản cao cấp ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh vẫn
khá phát triển, … bị ảnh hưởng. Không những thế, năm 2012, Ngân hàng Nhà nước đã
phân loại các nhóm tổ chức tín dụng làm căn cứ phân hạng mức tín dụng, nhưng cơ quan
này lại không công khai các tiêu chí xếp hạng, phương pháp tính toán và bảng xếp hạng.
Vì vậy, việc phân loại này không có sức thuyết phục đối với các tổ chức tín dụng. Trong
điều kiện ở Việt Nam hiện nay, các tiêu chí và phương pháp đánh giá, xếp hạng tín nhiệm
các tổ chức tín dụng còn rất nhiều bất cập, chất lượng xếp hạng tín nhiệm của một vài tổ
chức công bố chưa được thị trường công nhận. Vì vậy, căn cứ để đánh giá, xếp loại, phân
hạng các tổ chức tín dụng để từ đó phân bổ hạn mức tín dụng còn nhiều vấn đề, chưa đảm
bảo chính xác, công khai, minh bạch.
11
1.4.3 Nghiệp vụ thị trường mở
1.4.3.1 Thực trạng
Quy chế đầu tiên về nghiệp vụ thị trường mở được Thống đốc Ngân hàng Nhà
nước ban hành kèm theo Quyết định số 85/2000/QĐ-NHNN14 ngày 9/3/2000 là mốc
quan trọng đánh dấu sự phát triển của thị trường tiền tệ Việt Nam. Ngày 5/1/2007, Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quy chế về nghiệp vụ thị trường mở kèm theo
Quyết định số 01/2007/QĐ-NHNN và Quy chế này được sửa đổi, bổ sung tại Quyết định
số 27/2008/QĐ-NHNN ngày 30/9/2008. Để hỗ trợ và tăng tính linh hoạt cho thị trường
tiền tệ, ngày 7/4/2004, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành Quy chế về môi giới
tiền tệ kèm theo Quyết định số 351/2004/QĐ-NHNN nhằm tạo lập những chủ thể chuyên
nghiệp cho thị trường.
Cùng với thị trường liên ngân hàng, nghiệp vụ thị trường mở cũng có sự tăng
trưởng, phát triển không ngừng về doanh số giao dịch cũng như số lượng thành viên thị
trường. Cơ chế, quy trình nghiệp vụ ngày càng hoàn thiện: quy trình thanh toán được rút

ngắn, từ thanh toán sau 2 ngày kể từ năm 2000, rút xuống còn 1 ngày vào năm 2001, và
từ năm 2002 đến nay thanh toán ngay trong ngày thực hiện giao dịch. Định kỳ giao dịch
cũng được rút ngắn, từ 10 ngày/phiên năm 2000 xuống còn 1 phiên/tuần vào năm 2001, 2
phiên/tuần vào năm 2002, 3 phiên/tuần từ tháng 11/2004, đến nay Ngân hàng Nhà nước
thực hiện theo định kỳ hàng ngày.
Khối lượng giao dịch nghiệp vụ thị trường mở tăng mạnh qua các năm. Năm 2008,
Ngân hàng Nhà nước thực hiện 401 phiên đấu thầu, tăng 46 phiên so với năm 2007. Tổng
doanh số giao dịch năm 2008 là 1.036 nghìn tỷ đồng, tăng 618 nghìn tỷ đồng so với năm
2007. Năm 2011, để đáp ứng nhu cầu vốn cho các tổ chức tín dụng trong điều kiện gặp
khó khăn về thanh khoản, Ngân hàng Nhà nước tổ chức 431 phiên mua có kỳ hạn giấy tờ
có giá với tổng doanh số trúng thầu là 2.800 nghìn tỷ đồng. Năm 2012, thanh khoản của
hệ thống được cải thiện hơn, số tiền Ngân hàng Nhà nước cung ứng cho các ngân hàng
thông qua nghiệp vụ thị trường mở trong 10 tháng đầu năm đạt 404 nghìn tỷ đồng với số
phiên đấu thầu giảm xuống còn 257 phiên.
Trong năm 2013, khối lượng giao dịch trên thị trường liên ngân hàng diễn ra khá
ổn định và đồng đều qua các quý so với năm 2012, đồng thời hoạt động bơm, hút tiền trên
thị trường mở cũng rất nhịp nhàng, gần như là lượng cung tiền được dự báo phù hợp với
nhu cầu và diễn biến của nền kinh tế và khối lượng giao dịch cũng giảm đáng kể so với
năm 2012.
1.4.3.2 Nhận xét
Nghiệp vụ thị trường mở được xem là còn khá mới ở Việt Nam để Ngân hàng Nhà
nước điều hành chính sách tiền tệ. Phiên giao dịch đầu tiên được thực hiện vào tháng
7/2000. Mặc dù vậy, việc triển khai nghiệp vụ thị trường mở cơ bản đã đáp ứng được yêu
cầu đổi mới của nền kinh tế, chuyển dần từ sử dụng các công cụ tiền tệ trực tiếp sang sử
11
dụng công cụ gián tiếp, giúp các tổ chức tín dụng đảm bảo khả năng thanh toán nhanh
chóng, kịp thời. Nghiệp vụ thị trường mở đang dần trở thành kênh chủ đạo để Ngân hàng
Nhà nước bơm tiền ra nền kinh tế và thu tiền về từ lưu thông, góp phần quan trọng điều
hoà vốn khả dụng của các ngân hàng thương mại.
Hoạt động thị trường mở có ý nghĩa quan trọng. Thứ nhất, các ngân hàng thương

mại có thêm vốn để cấp tín dụng, tức là gia tăng được lượng vốn khả dụng. Thứ hai, lãi
suất cho vay có điều kiện giảm do các ngân hàng thương mại có nhiều vốn để cho vay
hơn. Thứ ba, các chủ thể kinh tế nhờ đó gia tăng được cơ hội tiếp cận nguồn vốn do
lượng cung nhiều hơn và lãi suất giảm thấp hơn.
Tuy nhiên, Ngân hàng Nhà nước còn gặp nhiều khó khăn trong điều hành nghiệp
vụ thị trường mở nhằm kiểm soát lượng tiền cung ứng, điều này ảnh hưởng bởi: Hoạt
động thị trường mở không bắt buộc (đến năm 2011 đã có 49 thành viên tham gia song chỉ
có các tổ chức tín dụng có quy mô lớn mới tham gia giao dịch thường xuyên) cũng như
khả năng dự báo cung – cầu vốn khả dụng còn nhiều yếu kém.
1.4.4 Dự trữ bắt buộc
1.4.4.1 Thực trạng
Nguồn: GAFIN/SBV
Ở nước ta, để ngăn ngừa sự tăng trưởng tín dụng quá nóng nhằm kiểm soát lạm
phát, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã được điều chỉnh khá mạnh vào năm 2007 (từ 5% lên 10%).
Ngày 16/1/2008, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Quyết định số
187/2008/QĐ-NHNN về việc điều chỉnh dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng.
Theo đó, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các loại tiền gửi sẽ tăng lên 1 đơn vị % so với quy
định trước đó. Ngoài việc áp dụng dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ
hạn từ 24 tháng trở xuống, Ngân hàng Nhà nước còn quy định mở rộng diện các loại tiền
11
gửi phải dự trữ bắt buộc bao gồm các loại tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn. Còn với
các loại tiền gửi thì tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ tăng 1 đơn vị phần trăm so với hiện nay. Cụ
thể, đối với tiền VND không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng, tỷ lệ dự trữ bắt buộc
được tăng từ 10% lên 11%, đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên, tỷ lệ dự trữ bắt
buộc được tăng từ 4% lên 5%. Đối với tiền gửi bằng ngoại tệ không kỳ hạn và có kỳ hạn
dưới 12 tháng tăng từ 10% lên 11%, đối với tiền gửi có kỳ hạn trên 12 tháng tỷ lệ dự trữ
bắt buộc tăng từ 4% lên 5%. Theo Ngân hàng Nhà nước, mục đích của việc điều chỉnh dự
trữ bắt buộc nhằm rút bớt tiền từ lưu thông về. Ngân hàng Nhà nước cũng cho rằng, đối
với các tổ chức tín dụng, việc điều chỉnh dự trữ bắt buộc lần này, mặc dù có thể làm tăng
chi phí huy động vốn nhưng chỉ ở mức thấp, mặt bằng lãi suất huy động và cho vay của

tổ chức tín dụng ít có khả năng tăng do chệch lệch lãi suất của các tổ chức tín dụng tương
đối cao. Lý giải cho việc quyết định tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, Ngân hàng Nhà nước cho
rằng, năm 2008, nền kinh tế nước ta được dự báo tiếp tục tăng trưởng ở mức cao, thu hút
vốn đầu tư nước ngoài thuận lợi, nhưng việc kiểm soát tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng
thấp hơn tăng trưởng kinh tế gặp khó khăn, do giá cả hàng hóa diễn biến phức tạp. Vốn
đầu tư gián tiếp nước ngoài gia tăng, gây sức ép tăng giá VND và kéo theo phương tiện
thanh toán bằng ngoại tệ tăng lên. Vì vậy, với chức năng của mình và thực hiện chỉ đạo
của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước điều hành các công cụ chính sách tiền tệ một cách
chủ động, theo nguyên tắc thị trường, nhằm ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát và thúc
đẩy tăng trưởng kinh tế.
Đến 1/3/2009, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt
buộc đối với tiền gửi bằng đồng Việt Nam của các tổ chức tín dụng. Tỷ lệ dữ trữ bắt buộc
đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng được điều chỉnh đối với mọi
loại hình tổ chức tín dụng. Tỷ lệ dữ trữ bắt buộc đối với tiền gửi có kỳ hạn trên 12 tháng
áp dụng cho mọi tổ chức tín dụng là 1% trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc.
Theo đó, các ngân hàng thương mại nhà nước, ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại
thương Việt Nam, ngân hàng thương mại cổ phần đô thị, ngân hàng liên doanh, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, công ty tài chính áp dụng mức
dự trữ bắt buộc là 3% trên tổng số dư tiền gửi.
1.4.4.2 Nhận xét
Xét cho cùng lạm phát là do lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế tăng lên nhanh
hơn sự phát triển của bản thân nền kinh tế. Nói nôm na là “in” nhiều tiền quá so với mức
cần thiết và đó là một loại thuế trá hình đánh vào tất cả mọi người. “In” thêm tiền không
chỉ có nghĩa là in thêm tiền giấy, việc tăng tín dụng của các ngân hàng cũng góp phần vào
việc “in thêm tiền” này. Hệ số “tạo tiền” của tín dụng về cơ bản tỷ lệ nghịch với tỷ lệ dự
trữ bắt buộc, giả sử dự trữ bắt buộc là 5% thì vòng quay đồng tiền là 20 lần, nhưng nếu
tăng dự trữ bắt buộc lên 10% thì hệ số đó giảm một nửa, chỉ còn 10. Chính vì thế dự trữ
bắt buộc là công cụ rất hữu hiệu để giảm lượng tiền lưu thông trong nền kinh tế. Điều này
được thể hiện rất rõ khi tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã được điều chỉnh khá mạnh vào năm 2007
11

(từ 5% lên 10%) và năm 2008 - khi tình hình dần bình ổn trở lại, tỷ lệ dự trữ bắt buộc đã
được điều giảm dần một cách linh hoạt.
Tuy nhiên, trong giai đoạn 2010 – 2012, công cụ này không phát huy được tác
dụng nhiều, hay nói nặng hơn là “tê liệt” vì tăng trưởng tín dụng quá nóng trong khi tỷ lệ
dữ trữ bắt buộc lại quá thấp. Cụ thể, khi lạm phát cao Ngân hàng Nhà nước sẽ phải hút
tiền về, biện pháp có thể sử dụng tới là tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc với các tổ chức tín
dụng. Nhưng thời gian qua, do hệ thống ngân hàng thiếu thanh khoản nên nếu Ngân hàng
Nhà nước tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc thì sẽ gây khó khăn cho nền kinh tế. Vì vậy, công cụ
này không được Ngân hàng Nhà nước sử dụng như 1 công cụ chủ yếu để quản lý lượng
tiền trong lưu thông mà chỉ sử dụng kết hợp với các công cụ khác để ổn định nền kinh tế.
1.4.5 Chính sách chiết khấu và tái cấp vốn
1.4.5.1 Thực trạng
Ngày 10/06/2008, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành hai Quyết định số 1316/QĐ-
NHNN và Quyết định số 1317/QĐ-NHNN ngày 10/6/2008 về việc điều chỉnh lãi suất cơ
bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu. Theo đó, kể từ ngày 11/6/2008, Ngân
hàng Nhà nước sẽ điều chỉnh lãi suất cơ bản từ 12%/năm tăng lên 14%/năm, lãi suất tái
cấp vốn từ 13%/năm tăng lên 15%/năm, lãi suất tái chiết khấu từ 11%/năm tăng lên
13%/năm và có hiệu lực thực hiện kể từ ngày 11/6/2008. Các tổ chức tín dụng ấn định lãi
suất huy động và cho vay bằng Đồng Việt Nam ở mức hợp lý, để tăng khả năng huy động
và cho vay vốn.
Từ năm 2008 đến 2013, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành 41 văn bản quy định lãi
suất tái chiết khấu giấy tờ có giá đối với các tổ chức tín dụng. Dưới đây là dữ liệu tổng
hợp các mức lãi suất tái chiết khấu trong giai đoạn này.
Lãi suất tái chiết khấu Lãi suất tái cấp vốn
Giá trị
(%/năm)
Văn bản quyết
định
Ngày áp
dụng

Giá trị
(%/năm)
Văn bản quyết
định
Ngày áp
dụng
5% 1073/QĐ-NHNN 13-05-2013 7%
1073/QĐ-
NHNN
13-05-2013
6%
643/QĐ-NHNN
25/3/2013
26-03-2013 8%
643/QĐ-NHNN
25/3/2013
26-03-2013
7% 2646/QD-NHNN 24-12-2012 9%
2646/QD-
NHNN
24-12-2012
8%
1289/QĐ-NHNN
29/6/2012
01-07-2012 10%
1289/QĐ-
NHNN
29/6/2012
01-07-2012
9% 1196/QĐ-NHNN

8/6/2012
11-06-2012 11% 1196/QĐ-
NHNN
11-06-2012
11
8/6/2012
10%
1081/QĐ-NHNN
25/5/2012
28-05-2012 12%
1081/QĐ-
NHNN
25/5/2012
28-05-2012
11%
693/QĐ-NHNN
10/4/2012
11-04-2012 13%
693/QĐ-NHNN
10/4/2012
11-04-2012
12%
407/QĐ-NHNN
12/3/2012
13-03-2012 14%
407/QĐ-NHNN
12/3/2012
13-03-2012
13%
929/QĐ-NHNN

29/4/2011
01-05-2011 15%
2210/QĐNHNN
06/10/2011
10-10-2011
12%
379/QĐ-NHNN
8/3/2011
08-03-2011 14%
929/QĐ-NHNN
29/4/2011
01-05-2011
7%
447/TB-NHNN
29/11/2010
01-12-2010 13%
692/QĐ-NHNN
31/3/2011
01-04-2011
7%
2620/QĐNHNN
05/11/2010
05-11-2010 12%
379/QĐ-NHNN
8/3/2011
08-03-2011
6%
402/TB-NHNN
27/10/2010
01-11-2010 11%

271/QĐNHNN
17/02/2011
17-02-2011
6%
352/TB-NHNN
27/9/2010
01-10-2010 9%
447/TB-NHNN
29/11/2010
01-12-2010
6%
316/TB-NHNN
25/08/2010
01-09-2010 9%
2620/QĐNHNN
05/11/2010
05-11-2010
6%
316/TB-NHNN
25/8/2010
01-09-2010 8%
402/TB-NHNN
27/10/2010
01-11-2010
6%
220/TB-NHNN
24/06/2010
10-08-2010 8%
352/TB-NHNN
27/9/2010

01-10-2010
6%
259/TB-NHNN
27/7/2010
01-08-2010 8%
316/TB-NHNN
25/8/2010
01-09-2010
6%
189/TB-NHNN
31/5/2010
01-06-2010 8%
259/TB-NHNN
27/7/2010
01-08-2010
6%
26/TB-NHNN
26/01/2010
01-02-2010 8%
220/TB-NHNN
24/06/2010
01-07-2010
6%
2664/QĐ-NHNN
25/11/2009
01-12-2009 8%
189/TB-NHNN
31/5/2010
01-06-2010
5% 2232/QĐ-NHNN 01-10-2009 8%

26/TB-NHNN
26/01/2010
01-02-2010
5%
837/QĐ-NHNN
10/4/2009
10-04-2009 8%
2664/QĐ-
NHNN
25/11/2009
01-12-2009
11
6%
173/QĐ-NHNN
23/1/2009
01-02-2009 7,0%
2232/QĐ-
NHNN
01-10-2009
7,5%
3159/QĐ-NHNN
19/12/2008
22-12-2008 7%
837/QĐ-NHNN
ngày 10/4/2009
10-04-2009
9%
2949/QĐ-NHNN
3/12/2008
05-12-2008 8,0%

173/QĐ-NHNN
23/1/2009
01-02-2009
10% 2810/QĐ-NHNN 21-11-2008 9.5%
3159/QĐ-
NHNN
19/12/2008
22-12-2008
11%
2561/QĐ-NHNN
3/11/2008
05-11-2008 11,0%
2949/QĐ-
NHNN
03/12/2008
05-12-2008
12%
2318/QĐ-NHNN
20/10/2008
21-10-2008 12,00%
2810/QĐ-
NHNN
20/11/2008
21-11-2008
13%
1316/QĐ-NHNN
10/6/2008
11-06-2008 13,00%
2561/QĐ-
NHNN

03/11/2008
05-11-2008
11%
1099/QĐ-NHNN
16/05/2008
19-05-2008 14,00%
2318/QĐ-
NHNN
20/10/2008
21-10-2008
11%
1098/QĐ-NHNN
16/5/2008
19-05-2008 15,00%
1316/QĐ-
NHNN
10/06/2008
11-06-2008
6%
306/QĐ-NHNN
30/1/2008
01-02-2008 13,00%
1099/QĐ-
NHNN
16/05/2008
19-05-2008
7,50%
306/QĐ-NHNN
30/01/2008
01-02-2008

Nguồn: Website Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Trong năm 2013, các mức lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà nước được điều
chỉnh giảm hai lần. Hiện tại, lãi suất tái cấp vốn được điều chỉnh giảm từ mức 9%/năm
xuống còn 7%/năm; lãi suất tái chiết khấu từ 7%/năm xuống còn 5%/năm; lãi suất cho vay
qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong
thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng từ 10%/năm xuống còn
8%/năm.
1.4.5.2 Nhận xét
Do Ngân hàng Nhà nước kiểm soát và chủ động được lãi suất tái chiết khấu nên cũng
kiểm soát và tác động hợp lý lên lượng tiền tồn tại trên thị trường. Với xu hướng lãi suất
11
tái chiết khấu theo chiều hướng giảm như hiện nay khiến nảy sinh ra mối lo ngại lạm phát
sẽ tăng cao trở lại. Tuy nhiên trên thực tế không có ai bắt Ngân hàng Nhà nước tái chiết
khấu, tái cấp vốn ồ ạt. Để sử dụng hiệu quả công cụ này, Ngân hàng Nhà nước phải xác
định với mục tiêu tăng trưởng kinh tế của năm, liều lượng tiền cần bao nhiêu là đủ, trên
cơ sở đó để bơm tiền ra. Tiếp đó, phải quản lý được dòng tiền, đảm bảo tiền đi vào sản
xuất, kinh doanh chứ không phải các lĩnh vực đầu cơ. Chỉ tín dụng sản xuất kinh doanh
mới được tái chiết khấu. Nếu kiểm soát được luồng tiền, bơm tiền đúng lưu lượng, sẽ
không có khả năng gây lạm phát.
1.4.6 Tỷ giá hối đoái
1.4.6.1 Thực trạng
Nguồn: IFS và Tổng hợp CafeLand
Trước tình trạng nhập siêu trong 5 tháng đầu năm 2008, cùng với các biện pháp khác,
ngày 10/6/2008, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh tăng 2% tỷ giá bình quân liên ngân
hàng (16.139 VND/USD lên 16.461 VND/USD) góp phần khuyến khích xuất khẩu và
hạn chế nhập siêu. Tiếp đó, đến ngày 25/12/2008, tỷ lệ tăng thêm 3% thành
16.984VND/USD. Tỷ giá VND/USD tiếp tục tăng cao trong năm 2009 – 2010 thì năm
2011-2012 lại giảm xuống rất thấp. Cụ thể: năm 2011 chỉ tăng 2,2%; năm 2012 chỉ còn
tăng 0,96%. Năm 2012, tỷ giá khá ổn định nguyên nhân do khách quan là nền kinh tế suy
11

yếu, nhu cầu nhập khẩu giảm làm cho cán cân thanh toán thặng dư lớn, bên cạnh đó thì
tăng trưởng tín dụng thấp, lạm phát thấp cũng đã góp phần làm cho tỷ giá ổn định. Ngoài
ra, tỷ giá ổn định còn do Ngân hàng Nhà nước đã quyết liệt hơn trong việc chống đô la
hóa và tạo được lòng tin từ người dân.
Sự ổn định của tỷ giá được kéo dài đến hết quý I/2013. Nhưng, sang đầu quý II/2013,
thị trường đã có những biến động. Cụ thể là, từ cuối tháng 4/2013 đến cuối tháng 6/2013,
nhiều ngân hàng thương mại đã nâng giá USD lên kịch trần cho phép 1 USD đổi 21.036
VND. Thậm chí tại số đông ngân hàng thương mại tăng giá mua lên kịch trần 21.036
VND, trong khi giá bán USD trên thị trường tự do lên tới 21.320 VND. Trước áp lực đó,
cộng với một số diễn biến kinh tế vĩ mô khác, kể từ ngày 28/6/2013, Ngân hàng Nhà
nước đã điều chỉnh tăng tỷ giá liên ngân hàng lên thêm 1% so với trước đó. Theo đó, các
NHTM cũng đồng loạt điều chỉnh tăng tỷ giá mua - bán ngoại tệ của mình.
Sau đợt điều chỉnh đó, bắt đầu từ đầu tháng 7/2013, tại các ngân hàng thương mại, tỷ
giá VND/USD được niêm yết phổ biến ở mức từ 21.110-21.140 VND/USD (mua vào) và
21.220-21.230 VND/USD (bán ra), tăng từ 5-20 VND/USD so với ngày 28/6/2013 và
tăng bình quân 1% so với trước ngày 28/6/2013. Giá USD trên thị trường tự do những
ngày cuối tháng 6 và đầu tháng 7/2013 cũng biến động. Cụ thể, tỷ giá VND/USD trên thị
trường tự do tại Hà Nội sáng ngày 1/7/2013 niêm yết ở mức 21.380 - 21.430 VND/USD
(mua vào - bán ra), tăng 30 đồng mua vào và giảm 20 đồng bán ra so với chiều ngày
28/6/2013; tiếp đó đến ngày 8/7/2013 lại tăng lên 21.800 VND/USD
Hiện tại, Ngân hàng Nhà nước đang sử dụng chính sách tỷ giá linh hoạt có điều tiết,
tức là Ngân hàng Nhà nước đưa ra mức tỷ giá mục tiêu để quy định các giao dịch trên thị
trường chỉ được dao động quanh mức này với biên độ theo quy định (hiện là +/-1%).
1.4.6.2 Nhận xét
Việc điều chỉnh tỷ giá thêm 1% ngày 28/6/2013 khiến một số người lạc quan kỳ
vọng Việt Nam sẽ có những bứt phá như Nhật Bản. Hành động phá giá đồng Yen đến
25% của Thủ tướng Shinzo Abe đã thúc đẩy mạnh mẽ xuất khẩu và tăng trưởng GDP,
giúp nước này vượt qua được tình trạng suy thoái, trì trệ kéo dài và đã bắt đầu phục hồi.
Tuy nhiên, xét về cơ cấu hàng xuất khẩu hiện nay, thì các mặt hàng như điện thoại di
động, điện tử máy tính, dệt may, da giày có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất, nhưng hầu

hết linh phụ kiện đều phải nhập khẩu để gia công tại Việt Nam,. Vì vậy, khi tỷ giá tăng sẽ
làm đội giá các sản phẩm, linh kiện nhập khẩu và gây khó khăn cho cạnh tranh trong xuất
khẩu.
Việc điều chỉnh tỷ giá chắc chắn sẽ tác động đến lạm phát, vì nền kinh tế nước ta
có tỷ lệ nhập khẩu trên GDP rất cao, có năm lên đến 90% GDP; giá các sản phẩm nhập
khẩu, như: xăng dầu, nguyên liệu cho thức ăn gia súc, dược phẩm sẽ tăng lên và hoàn
toàn không phải tình cờ, mà giá xăng dầu đã được điều chỉnh tăng hai lần trong tháng 6,
11
đợt điều chỉnh thứ hai vào ngày 28/6, chỉ 1 ngày ngay sau khi điều chỉnh tỷ giá và 1 lần
trong tháng 7 đã đưa giá xăng dầu lên cao nhất trong mấy năm gần đây.
Đó là chưa kể tới một loạt các mặt hàng thiết yếu khác, như: dược phẩm, thức ăn
chăn nuôi, sữa, hoá chất, thuốc trừ sâu trong nước chưa sản xuất được, đều phải nhập
khẩu với số lượng lớn. Khi tỷ giá tăng dẫn đến giá thành các mặt hàng này cũng sẽ tăng.
Các kết luận
1.5 Đánh giá về hiệu quả tổng hợp các công cụ do Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam sử dụng trong giai đoạn từ 2008 đến 2013
Chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam giai đoạn 2008 – 2013 bị chi
phối bởi những mục tiêu và sức ép chính trị - xã hội trái ngược nhau. Một mặt phải thắt
chặt hơn chính sách tiền tệ để kéo lạm phát xuống một con số, giảm tốc độ tăng trưởng
tín dụng nóng; bảo đảm thanh khoản cho cả hệ thống và ngăn chặn đổ vỡ của một số
ngân hàng yếu kém; xử lý nợ xấu cao và ngày một tăng nhanh để tạo điều kiện cơ cấu lại
toàn diện hệ thống ngân hàng. Mặt khác phải bơm thêm vốn tín dụng với lãi suất hợp lý,
để giảm bớt tình trạng khó khăn tài chính, đình đốn hoạt động của nhiều doanh nghiệp,
bảo đảm tăng trưởng hợp lý, hạn chế thất nghiệp và khó khăn đời sống của dân cư. Ngân
hàng Nhà nước đã sử dụng linh hoạt và kết hợp cả 5 công cụ chính sách tiền tệ trên để tác
động vào nền kinh tế. Kết quả là sau 6 năm, chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước
cũng đạt được nhiều thành tựu. Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn còn một số hạn chế cần phải
khắc phục.
1.5.1 Những mặt đã làm được
1.5.1.1 Kiềm chế lạm phát

Lạm phát là hiện tượng kinh tế phổ biến của mọi quốc gia trong các giai đoạn phát
triển kinh tế. Khi còn ở mức độ vừa phải, nó có những tác động tích cực nhưng khi ở mức
độ cao, nó ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh
nghiệp, các tổ chức, đến tăng trưởng kinh tế và đời sống của nhân dân.
Vấn đề luôn làm đau đầu nhà quản lý 6 năm qua chính là kiểm soát lạm phát, sau
giai đoạn quá ưu tiên cho tăng trưởng và tình trạng thâm hụt cán cân thương mại kéo dài.
Đỉnh điểm của quá trình này là lạm phát năm 2008 lên tới gần 20% và duy trì ở hai con
số năm 2010 và 2011. Giai đoạn này, nhiều tổ chức quốc tế đều bày tỏ mối quan ngại lạm
phát cao làm xấu đi môi trường kinh doanh tại Việt Nam, ảnh hưởng đến giá trị tiền
đồng.
11
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Từ năm 2011, Chính phủ tiến hành thắt chặt chính sách tiền tệ để kiểm soát lạm
phát và luôn đặt mục tiêu này lên hàng đầu. Chỉ số giá tiêu dùng đã giảm về một con số.
Trong 3 năm gần đây, nền kinh tế Việt Nam đã được cải thiện và tương đối ổn định, tỷ lệ
lạm phát liên tục giảm vào năm 2012 và 2013. Lạm phát được giảm xuống hơn 2,5 lần,
chỉ còn 6,81% năm 2012, 12 tháng năm 2013, lạm phát tiếp tục đi xuống, cuối năm còn
6,04%. Trong giai đoạn 2012-2013, CPI tăng cao nhất vào tháng 1/2012 (17,27%) và
thấp nhất vào tháng 8/2012 (5,04%) so với cùng kỳ năm trước. Với mức lạm phát 6,04%
trong năm 2013, Việt Nam đã nhường lại vị trí là nước có mức lạm phát cao nhất trong
khu vực cho Indonesia (8,32%). Việt Nam là một trong những nước thực hiện kiểm soát
lạm phát có hiệu quả nhất.
11
1.5.1.2 Tốc độ tăng trưởng GDP
Nguồn: Tổng cục Thống kê.
Giai đoạn cuối năm 2007 đầu năm 2008, Chính phủ cắt giảm chi tiêu chính phủ 48
nghìn tỉ đồng, đồng thời hủy bỏ những dự án đầu tư kém hiệu quả hay chưa thực sự cần
thiết. Từ đó, gia tăng của lạm phát đã được ngăn chặn: chỉ số giá tiêu dùng của 6 tháng
đầu năm 2008 tăng ở mức trên 2% một tháng đã được kéo giảm xuống mức 0,18% vào
tháng 9 và đạt trị số âm trong ba tháng cuối năm.

Năm 2009, tốc độ tăng trưởng nhích dần theo mỗi quý. Đưa cả năm lên 5,32%,
cao hơn kế hoạch đề ra. Kinh tế Việt Nam đã vượt qua giai đoạn khó khăn. GDP tăng
6,9% kéo tốc độ cả năm vượt mức 5,2 %. Chính sách “kích thích kinh tế” là một lý do
đưa Việt Nam thoát khỏi đáy và tăng trưởng ổn định. Thu nhập bình quân hàng tháng
theo Nhà nước năm 2009 đạt 3 triệu đồng, tăng 14,2% so với năm 2008.
Năm 2010, tăng trưởng GDP đạt 6,78%. Nền kinh tế nước ta bước ra khỏi thời kì
suy giảm và đang trong giai đoạn phục hồi.
Quý/2010 1 2 3 4
Tăng trưởng GDP 5,84% 6.44% 7,18% 7,34%
Nguồn: Tổng cục Thống kê
11
Năm 2011, trong bối cảnh tình hình kinh tế khó khăn, GDP tăng 5,89%. Một số
ngành đạt mức tăng trưởng khá so với năm 2010. Sản lượng lúa đạt mức kỉ lục, đạt mức
42,3 triệu tấn, tăng 2,3 triệu tấn so với năm 2010. Giá trị sản xuất nông, lâm, thủy sản
năm 2011 tăng 5,2% so với năm 2010. Vốn đầu tư toàn xã hội tăng 5,7% so với năm
2010 và bằng 34,6% GDP. Chỉ số sản xuất công nghiệp cũng tăng 6,8%.
Năm 2012, GDP ước tính tăng 5,03% so với năm 2011. Theo Tổng cục Thống kê,
mức tăng trưởng năm nay tuy thấp hơn mức tăng 5,89% của năm 2011 nhưng trong bối
cảnh kinh tế thế giới gặp khó khăn do khủng hoảng tài chính và khủng hoảng nợ công ở
châu Âu chưa được giải quyết, cả nước tập trung thực hiện mục tiêu ưu tiên kiềm chế lạm
phát, ổn định kinh tế vĩ mô thì mức tăng như vậy là hợp lý và thể hiện xu hướng cải thiện
qua từng quý, “khẳng định tính kịp thời, đúng đắn và hiệu quả của các biện pháp và giải
pháp thực hiện của Trung ương Đảng, Quốc hội và Chính phủ”.
Đến năm 2013, GDP ước tính tăng 5,42% so với năm 2012. Trong đó, quý I tăng
4,76%; quý II tăng 5,00%; quý III tăng 5,54% và quý IV tăng 6,04%. Mức tăng trưởng
này, theo ông Nguyễn Bích Lâm, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê, tuy thấp hơn mục
tiêu 5,5% đề ra nhưng cao hơn mức tăng 5,25% của năm 2012 (theo giá cố định năm
2010) và có tín hiệu phục hồi.
Tuy GDP 3 năm gần đây chưa đạt kế hoạch đề ra ban đầu cũng như chỉ tiêu đã
điều chỉnh, song đây là mức tăng có thể chấp nhận được và có phần cao hơn chút ít so với

mức bình quân của các nước ASEAN (5,1%/năm trong thời kỳ 2011-2013, theo IMF).
1.5.1.3 Lao động – việc làm
Nguồn: Tổng cục Thống kê

×