Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

151 Hoàn thiện phân cấp quản lý ngân sách nhà nước ở Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 99 trang )


1
MỤC LỤC

Trang
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục ký hiệu chữ viết tắt
Danh mục bảng biểu
Mở đầu 1
Chương 1
: TỔNG QUAN VỀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

3
1.1 Tổ chức hệ thống ngân sách nhà nước 3
1.1.1 Khái niệm và bản chất ngân sách nhà nước
3
1.1.1.1 Khái niệm ngân sách nhà nước
3
1.1.1.2 Bản chất của ngân sách nhà nước
4
1.1.2 Tổ chức hệ thống NSNN ở các nước có nền kinh tế thị trường
6
1.2 Phân cấp quản lý NSNN 7
1.2.1 Khái niệm phân cấp quản lý NSNN
7
1.2.2 Các nguyên tắc về phân cấp quản lý NSNN 9
1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến phân cấp quản lý NSNN
10
1.2.3.1 Tổ chức hành chính nhà nước
10


1.2.3.2 Phân cấp quản lý kinh tế - xã hội của Nhà nước
10
1.2.3.3 Tính hiệu quả của phân cấp
11
1.2.3.4 Trình độ phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương
11
1.3 Kinh nghiệm phân cấp quản lý NSNN ở một số nước trên thế giới
12
1.3.1 Phân cấp quản lý ngân sách ở Cộng hòa Pháp
12
1.3.2 Phân cấp quản lý ngân sách ở Cộng hòa Liên Bang Đức
18
1.3.3 Phân cấp quản lý ngân sách ở Cộng hòa nhân dân Trung Hoa
23
Kết luận chương 1
29
Chương2
THỰC TRẠNG PHÂN CẤP QUẢN LÝ NSNN Ở TỈNH BÀ RỊA – VŨNG
TÀU

30
2.1 Khái quát về đặc điểm kinh tế - xã hội của Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu 30
2.1.1Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên của Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
30
2.1.2 Những thành tựu về kinh tế - xã hội giai đoạn 2001-2005
31
2.2 Thực trạng phân cấp quản lý NSĐP tại Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu 32
2.2.1 Trước khi có Luật NSNN( năm 1991-1996) 33
2.2.1.1 Cơ sở pháp lý 33
2.2.1.2 Kết quả thu, chi và cân đối các cấp NSĐP ở Tỉnh BR-VT

35
2.2.2 Sau khi có Luật NSNN (từ năm 1997 đến nay) 37
2.2.2.1 Giai đoạn 1997-2003 37
2.2.2.1.1 Cơ sở pháp lý 37
2.2.2.1.2 Kết quả thu, chi và cân đối các cấp NSĐP ở Tỉnh BR-VT 42
2.2.2.2 Giai đoạn 2004 đến nay 45
2.2.2.2.1 Cơ sở pháp lý 45
2.2.2.2.2 Kết quả thu, chi và cân đối các cấp NSĐP ở Tỉnh BR-VT 50
2.2.3 Đánh giá chung về những thành tựu và tồn tại trong phân cấp quản lý
NSNN ở Tỉnh BRVT
54
2.2.3.1 Những thành tựu đạt được trong phân cấp quản lý NSNN
54


2
2.2.3.2 Những tồn tại trong phân cấp quản lý NSNN 55
Kết luận chương 2 57
Chương 3:
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÂN CẤP NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC Ở
TỈNH BÀ RỊA – VŨNG TÀU

58
3.1 Phương hướng phát triển kinh tế - xã hội của Tỉnh Bà rịa – Vũng tàu
giai đoạn 2006-2010
58
3.2 Quan điểm hoàn thiện phân cấp quản lý NSNN ở Tỉnh BRVT 59
3.3 Giải pháp hoàn thiện phân cấp quản lý NSNN ở Tỉnh BRVT 61
3.3.1 Những kiến nghị với Trung ương
61

3.3.1.1 Hoàn thiện cơ sở pháp lý
61
3.3.1.2 Thay đổi lại phương pháp xác định tỷ lệ phần trăm phân chia các khoản
thu và số bổ sung từ NSTW cho NSĐP
68
3.3.1.3 Về dự phòng ngân sách và dự trữ tài chính
70
3.3.2 Những kiện nghị đối với Tỉnh Bà rịa – Vũng tàu
71
3.3.2.1 Phương hướng phân cấp nguồn thu,nhiệm vụ chi, tỷ lệ phần trăm phân
chia nguồn thu giữa các cấp NS trong thời gian tới ở tỉnh BR-VT
71
3.3.2.2 Về tổ chức hành chính
72
3.3.2.3 Về phân cấp quản lý kinh tế
73
3.3.2.4 Kiện toàn tổ chức và nâng cao vai trò của HĐND
73
Kết luận chương 3
75
Kết luận 76
Tài liệu tham khảo
Phụ lục


















3

DANH MỤC CÁC BẢNG


1. Bảng 2.1 Kết quả thu, chi và cân đối các cấp NSĐP ở Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu
giai đoạn 1992-1996. ..................................................................................(tr 35)
2. Biểu đồ 2.1 kết quả thu ngân sách các cấp .................................................(tr 36)
3. Biểu đồ 2.2 kết quả chi NSĐP ....................................................................(tr 37)
4. Bảng 2.2 Kết quả thu, chi và cân đối ngân sách ở NSĐP Tỉnh Bà Rịa – Vũng
Tàu giai đoạn 1997-2003.............................................................................(tr 43)
5. Biểu đồ 2.3 kết quả thu ngân sách các cấp .................................................(tr 44)
6. Biểu đồ 2.4 kết quả chi NSĐP.................................................................... (tr 45)
7. Bảng 2.3 Kết quả thu,chi và cân đối ngân sách các cấp ở Tỉnh Bà Rịa – Vũng
Tàu giai đoạn 2004-2006 ............................................................................(tr 50)
8. Biểu đồ 2.5 kết quả thu ngân sách các cấp .................................................(tr 51)
9. Biểu đồ 2.6 kết quả chi NSĐP ....................................................................(tr 52)













4

DANH MỤC VIẾT TẮT


Ngân sách nhà nước : NSNN
Ngân sách trung ương : NSTW
Ngân sách địa phương : NSĐP
Hội đồng nhân dân : HĐND
Ủy ban nhân dân : UBND
Tổng sản phẩm quốc nội : GDP
Sản xuất kinh doanh : SXKD
Doanh nghiệp nhà nước : DNNN
Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài : DN.ĐTNN
Doanh nghiệp có vốn cổ phần nhà nước : DNCP
Tư bản chủ nghĩa : TBCN
Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu : Tỉnh BRVT










LỜI MỞ ĐẦU


5
Phân cấp quản lý ngân sách nhà nước là một vấn đề có vai trò quan trọng
trong quản lý vĩ mô nhưng nó cũng rất phức tạp, liên quan đến việc giải quyết mối
quan hệ giữa các cấp quản lý trong việc tạo lập, phân phối, sử dụng quỹ NSNN.
Phân cấp quản lý NSNN có mục đích là chuyển giao trách nhiệm về quản lý
NSNN cho chính quyền cấp dưới nhằm đưa chính quyền về gần với dân, phải tạo ra
những dịch vụ công cộng thuận tiện cho dân chúng với những chi phí thấp nhất và
mang lại cho người dân cơ hội tham gia vào quá trình ra quyết sách, đồng thời nâng
cao tính tự chủ, tự chịu trách nhiệm của chính quyền địa phương, tạo điều kiện cho
chính quyền địa phương hoạt động độc lập hơn trong khả năng của mình. Một hệ
thống phân cấp được thiết kế tốt sẽ mang lại nhiều lợi ích trong việc đẩy mạnh tăng
trưởng và ổn định kinh tế, ngược lại việc phân cấp được tiết kế không tốt, hoặc giám
sát kém, lỏng lẻo đối với hoạt động của chính quyền cấp dưới sẽ ảnh hưởng đến tăng
trưởng kinh tế, quản lý Nhà nước và cung cấp dịch vụ.
Công cuộc đổi mới đất nước, sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa và xu hướng mở cửa, hội nhập quốc tế tạo ra những tiền đề và đòi
hỏi phải đổi mới, tăng cường phân cấp quản lý nhà nước giữa Trung ương và địa
phương nhằm phát huy mạnh mẽ tính năng động, sáng tạo, tăng quyền tự chủ, tự chịu
trách nhiệm của chính quyền địa phương các cấp trong quản lý, thực hiện các nhiệm
vụ phát triển kinh tế – xã hội trên địa bàn.Trong thực tế những năm vừa qua, nước ta
đã thực hiện tương đối tốt việc phân cấp quản lý NSNN, nhờ đó đã đóng góp phần ổn
định và lành mạnh hóa nền tài chính quốc gia, tạo điều kiện ổn định và tăng trưởng

kinh tế, phát triển xã hội, phát triển nội lực phục vụ công cuộc công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước. Tuy nhiên, qua quá trình thực hiện, cơ chế phân cấp hiện hành đã
bộc lộ một số tồn tại, hạn chế như thẩm quyền quyết định ngân sách nhà nước còn
chồng chéo, một số nguồn thu, nhiệm vụ chi phân cấp còn chưa hợp lý, cơ chế
thưởng, cơ chế xác định số bổ sung cho ngân sách cấp dưới chưa tạo ra động lực
mạnh mẽ thúc đẩy các cấp chính quyền địa phương thực sự làm chủ ngân sách của
mình.
Phân cấp quản lý NSNN không có mô hình chung cho tất cả các nước để áp
dụng. Vì vậy, để phân cấp quản lý NSNN ở nước ta có hiệu quả, khắc phục những


6
yếu kém trong thời gian vừa qua, tập trung nguồn lực, tạo điều kiện để Nhà nước
thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ quản lý kinh tế - xã hội trên phạm vi quốc gia
cũng như từng địa phương thì cần thiết phải nghiên cứu sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn
thiện phân cấp quản lý NSNN.
Xuất phát từ lý do khách quan trên, đề tài “Hoàn thiện phân cấp quản lý ngân
sách nhà nước ở Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu” được lựa chọn nhằm mục đích đưa ra một
số nội dung cần phải sửa đổi, bổ sung để góp phần hoàn thiện phân cấp quản lý
NSNN trong thời gian tới.
Về phạm vi, đề tài chủ yếu tập trung vào việc nghiên cứu, giải quyết về phân
cấp quản lý nguồn thu, nhiệm vụ chi ngân sách giữa các cấp ngân sách, không
nghiên cứu phân cấp quản lý về tài sản, tài nguyên, tổ chức bộ máy, cán bộ, công
chức..v.v.
Phương pháp nghiên cứu là phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của chủ nghĩa Mác – Lênin, trên cơ sở hệ thống hóa các vấn đề lý luận về ngân
sách nhà nước, đối chiếu với thực tế tình hình phân cấp quản lý ngân sách nhà nước
của một số nước trên thế giới và một số địa phương trong thời gian qua nhằm xác
định một số vấn đề còn bất hợp lý, đề xuất biện pháp khả thi nhằm từng bước hoàn
thiện cơ chế phân cấp quản lý ngân sách nhà nước của Việt Nam và tại Tỉnh Bà Rịa –

Vũng Tàu.
Đề tài gồm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về phân cấp quản lý NSNN.
Chương 2: Thực trạng phân cấp quản lý NSNN ở Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Chương 3: Hoàn thiện phân cấp quản lý ngân sách nhà nuớc ở Tỉnh Bà Rịa –
Vũng Tàu.




7
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ PHÂN CẤP QUẢN LÝ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
1.1 Tổ chức hệ thống ngân sách nhà nước:
1.1.1 Khái niệm và bản chất NSNN.
1.1.1.1 Khái niệm NSNN.
Doanh nghiệp, Hộ gia đình và Chính phủ là ba chủ thể chính cấu thành nên nền
kinh tế - xã hội. Mỗi chủ thể đều có hoạt động thu, chi đặc trưng riêng. Tài chính
doanh nghiệp và tài chính hộ gia đình gắn chặt và phục vụ trước hết cho hoạt động
của doanh nghiệp và hộ gia đình nên chúng được xem là khâu tài chính không tập
trung, trong hệ thống tài chính của một quốc gia, chúng đóng vai trò cơ sở. Hoạt
động thu, chi của Chính phủ có tác động đến các hoạt động của kinh tế vĩ mô thông
qua thuế và các khoản chi tiêu công nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế chúng được
xem là khâu tài chính tập trung gắn liền với quyền lực chính trị của Nhà nước.
Trong bối cảnh hiện nay, Chính phủ vừa hoạt động như một quan toà để xét xử
tranh chấp trong xã hội, như một cảnh sát để duy trì an ninh xã hội theo pháp luật,
như một doanh nhân để gia tăng công sản hay như một chủ gia đình khi chăm lo các
vấn đề xã hội. Do đó hoạt động tài chính của Nhà nước thật đa dạng, phạm vi hoạt
động rộng lớn và có ảnh hưởng sâu sắc đến toàn bộ nền kinh tế của đất nước.
Bộ phận quan trọng của tài chính Nhà nước là NSNN. Trong quá trình phân

phối các nguồn lực tài chính của xã hội, NSNN huy động và sử dụng một bộ phận
thu nhập của xã hội để thực hiện các chức năng của Nhà nước. Trên thực tế, nhìn bề
ngoài hoạt động của NSNN biểu hiện đa dạng dưới hình thức các khoản thu và các
khoản chi tài chính của Nhà nước ở các lĩnh vực hoạt động kinh tế - xã hội. Các
khoản thu, chi này được liệt kê, tập hợp trong một bảng dự toán thu, chi tài chính
được thực hiện trong một khoảng thời gian nhất định. Các khoản thu mang tính chất
bắt buộc của NSNN là một bộ phận các nguồn tài chính được tạo ra chủ yếu trong


8
khu vực sản xuất kinh doanh và dịch vụ. Các khoản chi chủ yếu của ngân sách mang
tính chất cấp phát được hướng vào đầu tư và tiêu dùng trong xã hội. Các khoản thu,
chi của NSNN luôn gắn liền với việc sử dụng quyền lực chính trị của Nhà nước bằng
sự thể chế hoá của luật pháp và gắn với nhu cầu về tài chính để đảm bảo thực hiện
chức năng của Nhà nước.
Vì vậy, NSNN theo khái niệm của Luật NSNN hiện hành thì “Ngân sách nhà
nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước đã được các cơ quan nhà nước có
thẩm quyền quyết định và được thực hiện trong một năm để đảm bảo thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của nhà nước.” (điều 1 luật NSNN)
Từ khái niệm này, chúng ta có thể xem xét NSNN ở 3 phương diện: (1) Xét về
nội dung vật chất: NSNN là quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của Nhà nước được sử
dụng để thực hiện các chức năng của Nhà nước. (2) Xét về cơ chế quản lý: NSNN là
một bảng dự toán thu, chi tài chính chủ yếu của một quốc gia trong một thời kỳ,
thường là một năm. Nhà nước đưa ra danh mục các khoản thu mà Chính phủ chỉ
được phép thu và danh mục các khoản chi tiêu trong khuôn khổ NSNN được Quốc
hội phê chuẩn.(3) Xét về mặt pháp lý: NSNN là một bộ luật tài chính, bởi lẽ nó được
xây dựng dựa trên hệ thống các văn bản pháp luật có liên quan và được cơ quan lập
pháp của Nhà nước quyết định và có giá trị trong năm ngân sách, là một đạo luật cơ
bản ngắn hạn mang tính chất áp đặt và buộc các chủ thể kinh tế - xã hội có liên quan
phải tuân thủ.

1.1.1.2 Bản chất của NSNN:
Hoạt động của NSNN là hoạt động phân phối các nguồn lực tài chính của xã hội
gắn liền với việc hình thành và sử dụng quỹ NSNN. Trong quá trình đó xuất hiện
hàng loạt các quan hệ tài chính giữa một bên là Nhà nước và một bên là các chủ thể
trong xã hội và chúng được thể hiện ở phần thu ,chi của NSNN. Hệ thống các quan


9
hệ tài chính này tạo nên bản chất kinh tế của NSNN, thể hiện dưới những hình thức
cụ thể sau:
- Quan hệ kinh tế giữa NSNN với các Doanh nghiệp, phát sinh trong quá trình
hình thành thu của NSNN dưới hình thức là thuế. Trong quá trình sử dụng quỹ
NSNN, nhà nước hỗ trợ vốn, đào tạo, cho vay ưu đãi…vv cho các doanh nghiệp, chi
đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp thuộc các thành
phần kinh tế phát triển. Thông qua quan hệ kinh tế, nhà nước kiểm tra được hoạt
động của các doanh nghiệp.
- Quan hệ kinh tế giữa NSNN với các đơn vị hành chính, sự nghiệp phát sinh
trong quá trình phân phối lại các khoản thu nhập, thể hiện bằng việc NSNN cấp kinh
phí đảm cho hoạt động bộ máy hành chính của Nhà nước theo dự toán được cấp có
thẩm quyền phê duyệt. Ngoài các đơn vị hành chính thì các đơn vị sự nghiệp thông
qua hoạt động của mình còn có nguồn thu dưới hình thức phí, thu dịch vụ và thu
khác. Nguồn thu này một phần dùng để trang trải các chi phí trong quá trình hoạt
động, một phần làm nghĩa vụ với Nhà nước.
- Quan hệ kinh tế giữa NSNN với các tầng lớp dân cư, thể hiện thông qua quan
hệ phân phối lại giữa NSNN với dân cư. Một bộ phận dân cư làm nghĩa vụ tài chính
với nhà nước thông qua các khoản thuế, phí và lệ phí..vv.., đồng thời một bộ phận
dân cư nhận từ NSNN các khoản chi trợ cấp xã hội hoặc được hưởng từ các phúc lợi
xã hội công cộng từ nguồn NSNN đầu tư.
- Quan hệ giữa NSNN với thị trường tài chính. Xuất phát từ chính sách tài
chính, tiền tệ, yêu cầu về vốn, Nhà nước có thể tham gia thị trường tài chính bằng

việc phát hành các loại chứng khoán (tín phiếu, trái phiếu..vv) nhằm huy động vốn
trong xã hội để đáp ứng yêu cầu cân đối NSNN hoặc Nhà nước tham gia góp vốn cổ
phần, cho các doanh nghiệp vay dưới hình thức mua lại các chứng khoán của các
doanh nghiệp phát hành. Quan hệ này sẽ phát triển đa dạng, phong phú khi thị trường


10
vốn phát triển. Xét về bản chất, việc huy động vốn của Nhà nước là một hình thức
động viên các nguồn tài chính nhàn rỗi trong xã hội có hoàn trả.
Tóm lại, khi xem xét bản chất của NSNN chúng ta cần quan tâm đến các vấn đề sau:
+ NSNN là một bảng dự toán tài chính của Nhà nước, được thực hiện trong một
thời kỳ (thường là 1 năm) có 3 đặc trưng cơ bản là : tính dự toán, tính cân đối và tính
thời hạn.
+ Mức độ tập trung các nguồn tài chính vào NSNN tuỳ thuộc tiềm lực kinh tế
quốc dân, nhiệm vụ phải thực hiện, định hướng quản lý và chính sách tích tụ, tập
trung vốn của Nhà nước.
+ NSNN là phạm trù kinh tế khách quan nhưng được sử dụng theo ý định chủ
quan của Nhà nước trong từng thời kỳ, phải đặt trong mối quan hệ lợi ích của các chủ
thể tham gia vào quá trình phân phối các nguồn tài chính mà từ đó hình thành nên
NSNN.
+ Bản chất của NSNN do bản chất kinh tế, chính trị của các chủ thể tài chính và sự
tương tác giữa các chủ thể tài chính quy định. Trong các chế độ chính trị khác nhau, các
chủ thể tài chính mang bản chất khác nhau biểu hiện ở cơ sở kinh tế, nguồn lực tài
chính, phương thức phân phối và sử dụng cũng như cách thức thực hiện lợi ích kinh tế
do việc sử dụng các nguồn lực tài chính đem lại.
Như vậy, Bản chất NSNN trong nền kinh tế thị trường là hệ thống những muối
quan hệ kinh tế giữa Nhà nước và xã hội, phát sinh trong quá trình Nhà nước huy
động và sử dụng các nguồn tài chính nhằm đảm bảo yêu cầu thực hiện các chức năng
của Nhà nước.
1.1.2 Tổ chức hệ thống NSNN ở các nước có nền kinh tế thị trường.

Hệ thống NSNN là tổng thể cấp ngân sách, giữa chúng có mối quan hệ hữu cơ
với nhau đã được xác định bởi sự thống nhất về cơ sở kinh tế-chính trị, bởi pháp chế
và các nguyên tắc tổ chức của Nhà nước.


11
Ở các nước có nền kinh tế thị trường, hệ thống ngân sách nhà nước được tổ chức phù
hợp với hệ thống hành chính, có hai hình thức tổ chức hệ thống hành chính, đó là:
- Những nước có hệ thống hành chính liên bang thì hệ thống ngân sách gồm 3
cấp gồm:
+ Ngân sách Liên bang.
+ Ngân sách bang.
+ Ngân sách địa phương.
Đặc điểm nổi bật của hệ thống ngân sách Nhà nước Liên bang là tính độc lập
tương đối của các cấp ngân sách, ngân sách cấp dưới không thể hiện vào ngân sách
cấp trên và ngân sách cấp trên không bao gồm ngân sách cấp dưới. Mỗi cấp chính
quyền nhà nước tự lập, xét duyệt và chấp hành ngân sách của mình. Muốn biết tổng
số thu, chi của Nhà nước phải cộng ngân sách của tất cả các cấp, từ Trung ương đến
Địa phương.
- Những nước có hệ thống hành chính theo thể chế phi Liên bang thì hệ thống
ngân sách gồm 2 cấp là: NSTW và NSĐP. Đặc điểm nổi bật của hệ thống ngân sách
phi Liên bang là ngân sách cấp dưới là một bộ phận không thể tách rời của ngân sách
cấp trên; Quốc hội quyết định ngân sách trong đó có NSĐP.
Tuy nhiên dù là hệ thống ngân sách Nhà nước Liên bang hay Phi liên bang thì
vai trò chủ yếu đều thuộc về NSTW, Chính phủ thâu tóm các nguồn thu quan trọng
và đảm nhận các nhiệm vụ chi chủ yếu nhất.
1.2, Phân cấp quản lý NSNN
1.2.1, Khái niệm phân cấp quản lý NSNN
Phân cấp quản lý ngân sách là việc phân định nhiệm vụ, quyền và trách nhiệm
của các cấp chính quyền trong quản lý điều hành ngân sách. Nói cách khác, phân cấp

quản lý NSNN chính là việc giải quyết mối quan hệ về tài chính giữa các cấp chính
quyền trong quyết định tạo lập, phân phối và sử dụng quỹ NSNN.


12
Phân cấp quản lý NSNN thực chất là việc giải quyết các mối quan hệ chủ yếu sau đây:
- Quan hệ về mặt chế độ, chính sách (kể cả chế độ kế toán và quyết toán NSNN).
- Quan hệ về vật chất, tức là quan hệ trong việc phân giao nhiệm vụ chi và
nguồn thu cũng như trong cân đối NSNN của các cấp chính quyền nhà nước.
- Quan hệ về chu trình NSNN, tức là quan hệ về quản lý trong chu trình vận
động của NSNN, từ khâu lập NSNN đến chấp hành và quyết toán NSNN.
Về mặt lý thuyết, trên thế giới hiện nay đang tồn tại 3 quan điểm về phân cấp
quản lý ngân sách :
- Quan điểm thứ nhất, theo quan điểm này thì NSNN được coi là duy nhất và
thống nhất, Nhà nước chỉ có một ngân sách do chính quyền Nhà nước trung ương
quản lý và quyết định sử dụng, không có ngân sách địa phương. Trong một số trường
hợp nhất định, Nhà nước trung ương có thể ủy quyền cho các cấp chính quyền địa
phương thực hiện một số nhiệm vụ.
- Quan điểm thứ hai cho rằng ngoài ngân sách trung ương do Nhà nước trung
ương quản lý và quyết định sử dụng, các cấp chính quyền địa phương có ngân sách
của riêng của mình và độc lập trong hệ thống NSNN.
- Quan điểm thứ ba thừa nhận có ngân sách các cấp chính quyền địa phương nhưng
ngân sách các cấp này tồn tại không độc lập: Ngân sách địa phương tuy được hưởng một số
nguồn thu, đảm nhận một số nhiệm vụ chi nhưng NSNN vẫn do Trung ương quyết định.
Địa phương chỉ quyết định ngân sách của mình sau khi trung ương đã quyết định NSNN
(trong đó có ngân sách địa phương) và giao ngân sách cho địa phương.
Trong ba quan điểm trên, việc phân cấp quản lý NSNN theo quan điểm thứ nhất
sẽ tạo điều kiện tập trung được toàn bộ các nguồn lực vào tay Nhà nước trung ương,
cũng như đảm bảo tính thống nhất, bình đẳng giữa các địa phương và có điều kiện
khắc phục tình trạng cục bộ ở địa phương.



13
Tuy nhiên, hạn chế chủ yếu của việc phân cấp theo quan điểm này là không
phát huy được tính chủ động, sáng tạo của địa phương trong việc quản lý, khai thác
nguồn thu. Không khuyến khích địa phương chăm lo, khai thác nguồn thu nên nguồn
lực toàn xã hội tăng chậm, tính tiết kiệm, hiệu quả ít được quan tâm; đồng thời tạo ra
tính thụ động, ỷ lại của địa phương đối với trung ương.
Phân cấp theo quan điểm thứ hai bảo đảm tính độc lập của ngân sách địa
phương nhưng vẫn có thể tập trung được nguồn lực cho Nhà nước trung ương để
thực hiện những nhiệm vụ kinh tế - xã hội của quốc gia. Vì ngân sách địa phương
độc lập và được phân cấp mạnh mẽ nên đã tạo ra động lực thúc đẩy các cấp chính
quyền địa phương trong khai thác, bồi dưỡng nguồn thu trên địa bàn, từ đó tạo điều
kiện cả ngân sách trung ương và ngân sách địa phương tăng thu; đồng thời khi ngân
sách đã là của mình sẽ có tác dụng khuyến khích các cấp trong việc sử dụng tiết
kiệm, có hiệu quả nguồn lực.
Tuy nhiên, hạn chế chủ yếu của phân cấp theo quan điểm này lại chính là khó
khăn trong việc xác định nội dung và giới hạn phân cấp: phân cấp như thế nào, phân
cấp đến đâu, không phân cấp những nguồn thu, nhiệm vụ chi nào …; mặt khác, phân
cấp theo quan điểm này cũng dễ nãy sinh tình trạng cục bộ do sự phát triển không
đồng đều, mất cân đối giữa các địa phương, các vùng lãnh thổ nếu như ngân sách
trung ương không có đủ khả năng điều chỉnh vĩ mô để chi phối, định hướng phát
triển cho ngân sách địa phương.
Phân cấp theo quan điểm thứ ba, xét về hình thức là sự dung hoà giữa quan
điểm thứ nhất và quan điểm thứ hai, nhưng về thực chất thì gần giống như quan điểm
thứ nhất vì ngân sách địa phương không độc lập (cấp trên quyết định ngân sách cấp
dưới, cấp dưới quyết định ngân sách cấp mình trên cơ sở quyết định của cấp trên) và
không được phân cấp mạnh mẽ nên không khuyến khích tính chủ động, sáng tạo của
các cấp chính quyền địa phương.



14
Trong ba quan điểm trên, mỗi quan điểm đều có những ưu điểm và nhược điểm
nhất định, do vậy, cần phải căn cứ vào tình hình, đặc điểm cụ thể của mỗi quốc gia
song xu thế chung của thế giới hiện nay là thực hiện phân cấp ngân sách mạnh mẽ
cho địa phương.
1.2.2, Các nguyên tắc về phân cấp quản lý NSNN:
Khi tiến hành phân cấp quản lý ngân sách phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản sau:
- Phân cấp quản lý ngân sách phải thực hiện đồng bộ với phân cấp quản lý kinh
tế - xã hội và tổ chức bộ máy hành chính. Đồng thời phải dựa trên cơ sở các chức
năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước của chính quyền địa phương.
- Nguyên tắc đảm bảo tính hiệu quả và vai trò chủ đạo của NSTW không chia
cắt nguồn thu làm phân tán và suy yếu nguồn lực tài chính quốc gia đồng thời mở
rộng quyền tự chủ cho các cấp ngân sách trong việc tổ chức và khai thác nguồn lực
của địa phương để thúc đầy kinh tế địa phương phát triển, giảm bớt sự can thiệp trực
tiếp của chính quyền trung ương và tăng cương vai trò giám sát, kiểm tra của chính
quyền trung ương đối với chính quyền địa phương.
- Phân cấp quản lý ngân sách phải đảm bảo tính công bằng. Nguyên tắc này
nhằm đảm bảo tính công bằng trong việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của công dân
và yêu cầu về thụ hưởng hàng hóa và dịch vụ do các cấp chính quyền cung cấp cũng
như sự công bằng giữa các vùng, miền.
1.2.3 Các nhân tố ảnh hưởng đến phân cấp quản lý NSNN.
1.2.3.1, Tổ chức hành chính nhà nước:
Tổ chức hành chính nhà nước là nhân tố ảnh hưởng rất lớn đến phân cấp quản
lý NSNN.
Chúng ta biết rằng nếu quốc gia được tổ chức hành chính theo mô hình nhà
nước liên bang thì quyền lực cũng như những nhiệm vụ trọng yếu nhất sẽ được tập


15

trung ở cấp liên bang và bang. Chỉ những nhiệm vụ trực tiếp gắn với người dân mới
được phân cấp cho các cấp chính quyền dưới liên bang.
Thông thường đối với nhiều quốc gia (không phân biệt tổ chức nhà nước theo
mô hình liên bang hay phi liên bang) nếu càng có nhiều cấp hành chính thì việc phân
cấp quản lý ngân sách cho từng cấp chính quyền cũng phải phân định ra nhiều thang
bậc-tức là phải chia xẻ nguồn thu, nhiện vụ chi cũng như thẩm quyền cho mỗi cấp.
Tuy nhiên, cũng không nhất thiết mỗi cấp chính quyền là mỗi cấp ngân sách, vì
việc phân cấp quản lý ngân sách cho các cấp chính quyền địa phương còn tuỳ thuộc
mức độ phi tập trung quyền lực của nhà nước Trung ương, nên trong một số trường
hợp, tuy vẫn có nhiều cấp chính quyền nhưng không phải cấp chính quyền nào cũng
được nhà nước Trung ương phân cấp quản lý ngân sách. Ngược lại cũng có trường
hợp số cấp chính quyền ít hơn số cấp ngân sách như ở Cộng Hòa Liên Bang Đức,
Cộng Hòa Pháp.
1.2.3.2, Phân cấp quản lý kinh tế - xã hội của Nhà nước:
Phân cấp quản lý kinh tế - xã hội là cơ sở tiền đề quan trọng để phân cấp quản lý ngân
sách vì mỗi cấp chính quyền đều có chức năng, nhiệm vụ nhất định về quản lý kinh tế - xã
hội và để các cấp chính quyền thực hiện được đầy đủ chức năng, nhiệm vụ của mình theo
luật định thì nhất thiết phải có các nguồn lực tương ứng đảm bảo.
NSNN không chỉ là cơ sở vật chất để các cấp chính quyền thực hiện các chức
năng, nhiệm vụ của mình, đồng thời nó cũng chịu ảnh hưởng, tác động trở lại của
hiệu quả hoạt động quản lý kinh tế - xã hội của Nhà nước (tác động đến thu, chi ngân
sách). Vì vậy, việc phân cấp quản lý ngân sách phù hợp với các nhiệm vụ quản lý
kinh tế - xã hội có ý nghĩa rất quan trọng, vừa đảm bảo cho các cấp chính quyền có
nguồn lực để thực hiện tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế xã hội; mặt khác, cũng có tác
động tích cực trong việc quản lý và khai thác các nguồn lực trên địa bàn.


16
Phân cấp quản lý kinh tế - xã hội là cơ sở, tiền đề để phân cấp quản lý ngân
sách nhưng phân cấp quản lý NSNN (thông qua việc xác nhận, huy động nguồn lực,

sử dụng nguồn lực) lại có tác động trở lại đến phân cấp quản lý kinh tế - xã hội, thúc
đẩy phân cấp quản lý kinh tế - xã hội ngày càng hoàn thiện hơn.
1.2.3.3,Tính hiệu quả của phân cấp.
Phân cấp quản lý NSNN như thế nào? Phân cấp những nguồn thu và nhiệm vụ
chi gì cho mỗi cấp, ngoài yêu cầu phải phù hợp với phân cấp quản lý kinh tế - xã hội
còn phải đặc biệt lưu ý đến tính hiệu quả trong thu, chi NSNN.
Đến lượt mình, tính hiệu quả thể hiện trước hết ở thẩm quyền quyết định ngân
sách và việc phân cấp nguồn thu và nhiệm vụ chi. Nguồn thu, nhiệm vụ chi giao cho
cấp nào quản lý có hiệu quả thì nên phân cấp cho ngân sách địa phương để tránh bị
động; những nhiệm vụ chi mang tính xã hội rộng rãi và gắn với quyền lợi của người
dân thì phân cấp cho các cấp chính quyền địa phương.
1.2.3.4, Trình độ phát triển Kinh tế - Xã hội của từng địa phương :
Trình độ phát triển kinh tế - xã hội của từng địa phương có ảnh hưởng rất lớn
đến nội dung và mức độ phân cấp quản lý NSNN. Thông thường, đối với những quốc
gia có sự khác biệt không nhiều về trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa các địa
phương, vùng, lãnh thổ thì việc phân cấp quản lý NSNN cho các cấp chính quyền địa
phương là giống nhau (thẩm quyền, nguồn thu, nhiệm vụ chi, cơ chế chính sách …)
còn đối với những quốc gia mà trình độ phát triển kinh tế - xã hội giữa các địa
phương, vùng lãnh thổ có sự chênh lệch lớn thì việc phân cấp quản lý NSNN cho các
cấp chính quyền địa phương lại trở nên phức tạp – phù hợp với địa phương này
nhưng lại không phù hợp với địa phương khác. Chính vì vậy đã có những ý kiến cho
rằng cần có 2 loại phân cấp quản lý ngân sách là đô thị và phi đô thị hoặc về giới hạn
phân cấp, chỉ nên thực hiện phân cấp giữa trung ương và địa phương, còn phân cấp
cụ thể trong nội bộ địa phương, giao cho địa phương quyết định.


17
- Những thách thức cần giải quyết trong phân cấp quản lý NSNN :
Khi thực hiện phân cấp quản lý NSNN, bất kỳ quốc gia nào (không phân biệt
trình độ phát triển, truyền thống văn hoá, hoàn cảnh địa lý …) cũng phải đối mặt với

những thách thức giống nhau hết sức to lớn mà nhiều khi chính những thách thức này
nếu không được giải quyết thỏa đáng có thể dẫn đến sụp đổ cả quốc gia. Có nhiều
thách thức đặt ra cần giải quyết, trong đó không thể không kể đến 2 thách thức lớn.
Thách thức thứ nhất là phân cấp có khả năng làm nảy sinh mất công bằng, bình
đẳng giữa các địa phương hay nói cách khác sự chênh lệch về cơ sở hạ tầng cũng như
khả năng cung ứng các dịch vụ xã hội, nhất là các dịch vụ y tế, giáo dục… cho nhân
dân giữa các địa phương có nguy cơ ngày càng tăng.
Thách thức thứ hai là phân cấp có khả năng dẫn đến các địa phương vì lợi ích
cục bộ mà bỏ qua lợi ích quốc gia, địa phương phát triển kinh tế - xã hội một cách
“vô chính phủ”, không bám sát, tôn trọng định hướng chung cũng như những cân đối
lớn, những mục tiêu ưu tiên của quốc gia.
1.3 Kinh nghiệm phân cấp quản lý NSNN ở một số nước trên thế giới:
1.3.1 Phân cấp quản lý ngân sách ở Cộng Hòa Pháp:
►Về tổ chức hành chính:
Nước Cộng hòa Pháp là Quốc gia theo thể chế Nhà nước thống nhất, có 26
vùng, 100tỉnh và 36.500xã. Trong từng cấp hành chính nói trên đều có cơ quan
quyền lực do dân bầu và cơ quan hành chính Nhà nước.
Cơ quan quyền lực cao nhất là Quốc hội (Hạ viện), ở các cấp địa phương là
HĐND, các cơ quan này đều do dân bầu và là cấp có thẩm quyền quyết định ngân
sách. Quốc hội quyết định phân bổ NSTW, HĐND quyết định phân bổ ngân sách
trong từng đơn vị hành chính địa phương.


18
Cơ quan hành chính của Quốc gia là Chính phủ, ở các cấp địa phương là UBND
(Tòa thị chính). Về mặt ngân sách, cơ quan hành chính các cấp có nhiệm vụ xây
dựng dự toán và tổ chức thực hiện ngân sách đã được Quốc hội (HĐND) quyết định.
►Về hệ thống ngân sách và phân cấp ngân sách:
Các cấp chính quyền đều có ngân sách để thực hiện một số nhiệm vụ được phân
định theo Pháp luật. Vì vậy, hệ thống ngân sách của Pháp bao gồm:

+ Ngân sách trung ương;
+ Ngân sách vùng;
+ Ngân sách Tỉnh;
+ Ngân sách xã;
Do quy mô xã và ngân xã của Cộng hòa Pháp rất khác nhau, có xã chỉ vài trăm
dân, có xã lên tới hàng trăm triệu dân. Vì vậy, gần đây ở Pháp đã bước đầu hình thành
một tổ chức mới để giải quyết một số nhiệm vụ chung của các xã vừa và nhỏ mà những
nhiệm vụ này thường vượt quá khả năng của các xã như giải quyết nước thải, môi
trường,… Để khuyến khích thành lập các liên xã, Chính phủ Trung ương thường khuyến
khích thông qua việc bổ sung trợ cấp cho Liên xã. Ngoài nguồn bổ sung từ NSTW như
trên, Liên xã còn có nguồn thu từ đóng góp của các xã thành viên.
Ngân sách các cấp của Cộng hòa Pháp độc lập với nhau, không có quan hệ thứ
bậc, trên dưới mà chỉ có quan hệ bổ sung từ NSTW cho ngân sách cấp dưới. Việc
phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi cho các cấp được thực hiện theo các nguyên tắc
những nguồn thu lớn (thuế thu nhập, thuế giá trị gia tăng), những nhiệm vụ chi trọng
yếu (Quốc phòng, an ninh,…) thuộc nhiệm vụ của NSTW. Những nguồn thu nhỏ
hơn (thuế nhà ở, thuê đất,…) và những nhiệm vụ chi gắn với dân (giáo dục, vệ sinh
môi trường…) được phân giao cho các cấp địa phương.
Nguồn thu và nhiệm vụ chi của từng cấp được Pháp luật quy định cụ thể như sau:
► Về nhiệm vụ chi:


19
+ Ngân sách trung ương:
Chi đầu tư các công trình quan trọng: chi trợ giá đối với một số doanh nghiệp
công ích; Chi đảm bảo hoạt động của bộ máy do Trung ương quản lý (bao gồm cả
chi lương giáo viên) và các hoạt động thường xuyên khác; chi quốc phòng; chi trả lãi
tiền vay đầu tư; trợ cấp cho ngân sách các cấp chính quyền địa phương và trợ cấp
bảo đảm xã hội ( giải quyết việc làm, thất nghiệp).
+ Ngân sách Vùng:

Chi đào tạo ngành nghề, đầu tư xây dựng và bảo dưỡng trường cấp III; trả lãi
tiền vay đầu tư; chi đảm bảo hoạt động của bộ máy do vùng quản lý và các hoạt động
thường xuyên khác; chi giải quyết việc làm; phòng chống các tệ nạn xã hội; quy
hoạch trong phạm vi vùng.
+ Ngân sách Tỉnh:
Các hoạt động xã hội ( trợ giúp trẻ em, nguời có tuổi, người tàn tật, trợ giúp
thuốc men), khai thác cảng biển (cảng thương mại và cảng đánh cá), chở học sinh đi
học, quy hoạch nông thôn, đầu tư xây dựng và bảo dưỡng trường phổ thông trung
học; trả lãi tiền vay đầu tư; Chi đảm bảo hoạt động của bộ máy do tỉnh quản lý và
các hoạt động thường xuyên khác.
+ Ngân sách xã:
Chi đảm bảo các công việc khai sinh, khai tử, hộ khẩu, xử lý rác thải, nước thải,
môi trường, đường xá của xã, vệ sinh dịch tễ, thư viện; trả lãi tiền vay đầu tư; Chi đảm
bảo hoạt động của bộ máy do xã quản lý và các hoạt động thường xuyên khác.
► Về nguồn thu:
Để đảm bảo thực hiện được các nhiệm vụ chi trên, nhìn chung từng cấp ngân
sách đều có các khoản thu từ thuế và thu tiền vay để đầu tư. Ngoài ra ngân sách các
cấp chính quyền địa phương còn được bổ sung từ NSTW.


20
* Ngân sách trung ương:
- Các khỏan thuế ( NSTW hưởng 100%)
+ Thuế giá trị gia tăng;
+ Thuế doanh nghiệp;
+ Thuế thu nhập ( thu nhập cá nhân và thu nhập công ty);
- Vay để đầu tư.
* Ngân sách các cấp chính quyền địa phương:
- Thu từ thuế ( chiếm khỏan 60% tổng thu NSĐP)
+ Thuế nhà ở;

+ Thuế đất đai ( gồm thuế đất xây dựng và thuế đất không xây dựng);
+ Thuế nghề nghiệp ( đánh vào giá trị tài sản hữu hình và quỹ lương).
Theo Luật định ngân sách các cấp chính quyền địa phương đều được hưởng một
phần các khoản thuế trên theo từng mức thuế suất khác nhau. ( đối tượng, căn cứ và
chính sách thuế do Trung ương quy định, nhưng HĐND các cấp được quyền quyết định
tăng, giảm thuế suất trong khung nhất định, mỗi loại thuế có khung riêng).
Ngoài các khỏan thuế trên, ngân sách các cấp còn được thu một số loại thuế
nhất định như ngân sách cấp tỉnh có nguồn thu từ thuế sử dụng ô tô, thuế trước bạ,..
và một số khỏan về phí, lệ phí.
- Thu trợ cấp từ NSTW ( chiếm khỏan 30% tổng thu NSĐP): do các cấp chính
quyền địa phương độc lập với nhau nên mỗi cấp đều được nhận trợ cấp trực tiếp từ
NSTW để thực hiện một số nhiệm vụ chi như sau:
+ Trợ cấp cân đối: khoản trợ cấp này được xác định theo nhiều tiêu thức, trong
đó tiêu thức cơ bản nhất là dân số, mức độ giàu nghèo của địa phương… Về nguyên
tắc, khoản trợ cấp này được xác định trong từng năm, nhưng vừa qua các địa phương
đã thảo luận với Chính phủ ổn định mức bổ sung trong 3 năm nhưng Chính phủ phải
giữ ổn định tỷ lệ lạm phát.


21
+ Trợ cấp đầu tư bao gồm:
Trợ cấp mua thiết bị đầu tư: Khi các địa phương thực hiện xây dựng các công
trình, dự án thuộc đối tượng đầu tư của ngân sách sẽ được Trung ương xem xét, hỗ trợ.
Trợ cấp bằng việc thoái thu một phần thuế giá trị gia tăng để địa phương có
nguồn đầu tư.
+ Trợ cấp để bù đắp thiếu hụt nguồn thu của địa phương khi thực hiện chính
sách miễn thuế cho một số đối tượng trong chính sách thuế Trung ương quy định ( ví
dụ: theo quy định, nguời nghèo được miễn thuế nhà ở, do thực hiện việc miễn này,
địa phương mất nguồn thu, nên Trung ương phải bù đắp nguồn này cho địa phương)
- Ngoài các khoản trợ cấp như trên, trong một số trường hợp, địa phương còn

được bổ sung để thực hiện một số mục tiêu, bổ sung từ Cộng đồng chung Châu Âu.
- Vay để đầu tư:
Trong trường hợp có nhu cầu đầu tư mà các nguồn thu từ thuế và trợ cấp không đủ
đáp ứng, các địa phương được quyền vay từ mọi đối tượng kể cả vay nước ngoài để đầu
tư. Việc vay này không bị ràng buộc bởi bất cứ điều kiện nào, trừ trường hợp phát hành
trái phiếu ra nước ngoài thì phải xin phép Chính Phủ và không được vay khoản này để
trả nợ khoản vay kia. Khi địa phương vay Nhà nước không đứng ra bảo lãnh.
► Cân đối ngân sách địa phương:
Ngân sách các cấp chính quyền địa phương của Cộng hòa Pháp được cân đối
theo nguyên tắc: Tổng số chi phải nhỏ hơn hoặc bằng tổng số thu ( bao gồm cả thu
tiền vay và bổ sung từ NSTW)
Khi lập và quyết định dự toán NSĐP phải xem xét cân đối giữa chi thường
xuyên và nguồn đảm bảo chi thường xuyên, chi đầu tư và nguồn đảm bảo chi đầu tư.
- Nguồn để đảm bảo chi thường xuyên là các khoản thu từ thuế, trợ cấp cân đối.
- Nguồn đảm bảo chi đầu tư là phần hỗ trợ mua thiết bị xây dựng các công trình
của địa phương và nguồn cấp lại 1 phần thuế giá trị gia tăng trên địa bàn địa phương.


22
- Trường hợp tiết kiệm được chi thường xuyên thì nguồn tương ứng sẽ được
chuyển sang chi đầu tư.
Trong quá trình chấp hành ngân sách, nếu có biến động phải thực hiện điều
chỉnh để ngân sách luôn được cân đối.
Nhận xét:
Nhìn chung việc quản lý ngân sách và phân cấp quản lý ngân sách ở Cộng hòa
Pháp có nhiều ưu điểm:
Về phân cấp ngân sách, các cấp ngân sách hoàn toàn tự chủ về ngân sách của
mình, điều đó tạo động lực quan trọng thúc đẩy tất cả các địa phương có trách nhiệm
quản lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn tài chính của địa phương.
Mặc dù địa phương được tự chủ về ngân sách nhưng Nhà nước Trung ương vẫn

tham gia vào công tác quản lý nhưng vai trò tham gia của Nhà nước cũng có mức độ,
chủ yếu là Luật pháp về ngân sách, không tham gia sâu vào từng nội dung thu,chi cụ
thể của từng địa phương. Đây cũng là một kinh nghiệm có thể xem xét việc đổi mới
phân cấp ngân sách ở Việt nam. Việt nam đã có quyết định ổn định ngân sách địa
phương từ 3 – 5 năm, đây là bước tiến quan trọng trong quá trình tạo quyền tự chủ
cho địa phương. Tuy nhiên, vấn đề cũng cần nghiên cứu là sự tham gia của Chính
phủ hàng năm về ngân sách đối với địa phương như thế nào? Có đi quá sâu vào các
khoản thu, chi không?
Về quản lý ngân sách cũng có một số điểm học tập để từng bước cải tiến:
- Quốc hội Cộng hòa Pháp chỉ quyết định NSTW ( bao gồm cả phần bổ sung
cho các địa phương). Vấn đề này có thể suy nghĩ trong tương lai, ngân sách trình
Quốc hội có thể chia thành 2 phần: phần Trung ương quyết định trực tiếp, phần địa
phương Quốc hội có quyết định riêng trong đó chủ yếu là phần trợ cấp cho địa
phương nhằm tránh một tồn tại khi giao ổn định, tổng hợp NSNN lại không phù hợp
với chi tiết của các địa phương.


23
- Hệ thống kiểm tra của Cộng hòa Pháp tổ chức tương đối chặt chẽ, đảm bảo
việc sử dụng ngân sách đúng mục đích; tiết kiệm, hiệu quả; vấn đề này ở Việt Nam
cần được tiếp tục nghiên cứu cải tiết chất lượng công tác kiểm soát chi của Kho bạc
nhà nước, kiểm toán và các tổ chức thanh tra, kiểm tra khác nhưng thủ tục hành
chính và bộ máy vẫn còn rườm rà và cồng kềnh.
- Một số nhiệm vụ chi của ngân sách có thể chuyển giao cho tư nhân thực hiện
để giảm bớt gánh nặng cho ngân sách. Xác định rõ phạm vi ngân sách đảm bảo và
phạm vi xã hội và các thành phần kinh tế phải lo.
1.3.2 Phân cấp quản lý ngân sách ở Cộng Hoà Liên Bang Đức:
►Về phân cấp hành chính:
Cộng hòa liên bang Đức là Quốc gia theo thể chế Nhà nước Liên bang, có diện
tích 357.021km

2
với dân số khoảng 82,1triệu người, về hành chính được phân thành
3 cấp: Cấp liên bang, cấp bang (16 bang), cấp địa phương (xã, thành phố). Trong đó
cấp Liên bang và Bang là cấp nhà nước (được ban hành Hiến pháp và Luật). Trong
mỗi cấp hành chính đều có cơ quan pháp luật và cơ quan hành pháp.
Cơ quan lập pháp ở Bang và Liên Bang là Quốc hội, ở địa phương là HĐND.
Cơ quan hành pháp ở Bang và Liên Bang là Chính Phủ. Ở địa phương là UBND.
Về thẩm quyền, Quốc hội Liên bang ban hành các Luật có phạm vi điều chỉnh
trên toàn bộ Liên Bang, các Bang ban hành các Luật có phạm vi điều chỉnh trong
Bang (có gắn với sự điều chỉnh các Luật của Liên Bang); HĐND địa phương ban
hành các nghị quyết trong phạm vi địa phương.
Về ngân sách, Quốc hội ( HĐND) là cơ quan quyết định phê chuẩn ngân sách
còn Chính phủ (UBND) là cơ quan lập, trình các phương án ngân sách để Quốc hội
(HĐND) quyết định và tổ chức thực hiện, điều hành ngân sách theo các quyết định
của Quốc Hội (HĐND). Để sử dụng kinh phí tiết kiệm và có hiệu quả, Quốc hội


24
(HĐND) còn quyết định cả những vấn đề về quy hoạch giao thông, đô thị và nhân sự
của từng Bộ, cơ quan.
Ngoài 3 cấp hành chính trên ở Đức còn có cấp liên xã và liên vùng, đây là cấp
trung gian để xử lý các nhiệm vụ vượt quá phạm vi và khả năng của xã (giải quyết
các nhiệm vụ chi của một xã, một liên xã không thể giải quyết được). Hiến pháp Liên
bang có quy định những điều kiện để thành lập liên xã, liên vùng.
Để đại diện quyền lợi cho các địa phương, ở Đức còn có các tổ chức hội như
hội liên xã. Về mặt pháp lý các hội trên hoạt động như một tổ chức tư nhân và giống
như chiếc cầu nối giữa các cơ quan của Chính phủ và địa phương. Kinh phí của hội
do các xã thành viên đóng góp. Trước khi Chính phủ đưa ra những chính sách có liên
quan đến địa phương thì đều có thông báo và tham khảo ý kiến của hội. Hội thảo
luận với các địa phương và thông báo kết quả trở lại cho Chính phủ. Trong một số

trường hợp còn liên minh với các đảng, phái hoặc công luận để đấu tranh với Chính
phủ nhằm bảo vệ quyền lợi cho địa phương. Đồng thời hội còn giúp địa phương các
vấn đề về kỹ thuật quản lý, hướng dẫn tổ chức thực hiện các văn bản.
► Về phân cấp ngân sách:
Các cấp chính quyền được tự chủ trong việc quản lý ngân sách, được quyền
quyết định dự toán ngân sách trong phạm vi những nguồn thu, nhiệm vụ chi đã được
Luật pháp quy định.
Việc quản lý ngân sách phải tính đến yếu tố cân bằng tổng thể của nền kinh tế,
xu hướng phát triển kinh tế, kế hoạch tài chính dài hạn, trình độ phát triển kinh tế để
đảm bảo việc làm, ổn định giá cả và cân bằng kinh tế đối ngoại. Đảm bảo tính thống
nhất của chính sách kinh tế - tài chính – ngân sách, đảm bảo thực hiện những mục
tiêu quan trọng nhất của nền kinh tế. Vì vậy, việc xây dựng kế hoạch ngân sách hàng
năm phải thực hiện đồng thời với kế hoạch tài chính trung hạn.


25
Quy định nguyên tắc cân đối ngân sách: Thu, Chi ngân sách phải cân đối, vay
mới cho ngân sách phải nhỏ hơn chi đầu tư phát triển, các cấp ngân sách đều được
vay đầu tư, việc vay phải được tính toán cụ thể về thời gian vay, mức vay, lãi suất,…
để tránh việc vay về nhưng chưa sử dụng đến hoặc sử dụng không hết gây lãng phí
ngân sách. Trong quá trình điều hành ngân sách trường hợp ngân sách có tồn quỹ cao
thì có thể sử dụng để cho vay.
Toàn bộ các khoản thu đều được tập trung đầy đủ vào NSNN. Toàn bộ các
khoản chi đều được chi từ NSNN, không chỉ định các khoản chi cụ thể từ những
khoản thu nhất định. Không gán thu, bù chi.
Ngân sách các cấp của Cộng hòa liên bang Đức độc lập với nhau. Mỗi cấp đều
được phân định nguồn thu và nhiệm vụ chi cụ thể và được thể hiện trong Luật.
* Về nhiệm vụ chi:
Được phân định theo nguyên tắc những nhiệm vụ chi trọng yếu của quốc gia do
ngân sách Liên bang đảm nhận. Những nhiệm vụ mang tính chất xã hội rộng rãi gắn với

người dân, tùy theo từng nhiệm vụ cụ thể do cấp bang và cấp địa phương đảm nhận:
- Liên bang đảm nhận một số nhiệm vụ chi như Quốc phòng, an ninh, ngoại
giao, bộ máy Liên bang,… hỗ trợ cho các Bang.
- Bang đảm nhận các nhiệm vụ hệ thống hạ tầng xã hội, trợ giúp xã hội ( thất
nghiệp), cảnh sát trật tự, đào tạo các trường Đại học, trả lương cho giáo viên, hệ
thống giáo dục, chi bộ máy nhân sự Bang,… hỗ trợ cho các địa phương.
- Địa phương ( xã) thực hiện các nhiệm vụ còn lại gắn với thực tế quyền lợi của
người dân ở địa phương như chăm lo cơ sở vật chất cho giáo dục, các công trình công
cộng thoát nước, công viên, nghĩa trang, chi hoạt động của bộ máy xã.
* Phân định nguồn thu:
Để thực hiện các nhiệm vụ chi được quy định như trên, ngân sách các cấp đều
có nguồn thu như:

×