Tải bản đầy đủ (.doc) (85 trang)

Phát triển bền vững hệ thống Logistics trên địa bàn thành phố Hà Nội trong điều kiện mở cửa thị trường dịch vụ Logistics

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (467.68 KB, 85 trang )

Chuyên đề thực tập GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
MỤC LỤC
SV: Nguyễn Thị Ly Lớp: QTKD TM 51B
Chuyên đề thực tập GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
DANH MỤC SƠ ĐỒ, BẢNG BIỂU
SV: Nguyễn Thị Ly Lớp: QTKD TM 51B
Chuyên đề thực tập GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, tiến bộ khoa học công nghệ và
phân công lao động xã hội sâu sắc trên phạm vi toàn cầu, khối lượng hàng hóa, dịch
vụ được sản xuất và cung ứng ra trên thị trường ngày càng nhiều, các quan hệ kinh
tế cũng ngày càng trở nên phong phú và phức tạp hơn. Hơn nữa, sự cạnh tranh giữa
các doanh nghiệp không chỉ về chất lượng hàng hóa hay giá cả mà còn cạnh tranh
trong cả hệ thống quản lý lưu thông, phân phối hàng hóa. Trong quá trình đó,
Logistics có cơ hội phát triển ngày càng mạnh mẽ. Cùng với quá trình phát triển,
Logistics đã được chuyên môn hóa và phát triển trở thành một ngành dịch vụ đóng
vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế.
Logistics không những làm cho quá trình lưu thông, phân phối được thông
suốt, chuẩn xác và an toàn, mà còn giảm được chi phí vận tải. Nhờ đó hàng hoá
được đưa đến thị trường một cách nhanh chóng kịp thời. Người tiêu dùng sẽ mua
được hàng hoá một cách thuận tiện, linh hoạt, thỏa mãn nhu cầu của mình. Người
mua có thể chỉ cần ở tại nhà, đặt mua hàng bằng cách gọi điện thoại, gửi fax, gửi e-
mail hoặc giao dịch qua Internet…. cho người bán hàng, thậm chí cho hãng sản xuất
hàng hoá là có thể nhanh chóng nhận được thứ hàng cần mua, được vận chuyển đến
tận nhà. Có hiệu quả đó chính là nhờ ứng dụng hệ thống Logistics vào sản xuất và
lưu thông.
Logistics là một ngành mới mẻ đối với Việt Nam tuy nhiên nó lại là ngành
mang lại nguồn lợi lớn cho các nước phát triển. Trong những năm gần đây, cùng
với sự phát triển của nền kinh tế, sự gia tăng của hoạt động xuất nhập khẩu và đầu
tư, dịch vụ logistics tại Việt Nam đang có bước phát triển mạnh mẽ và là một trong
những ngành có tiềm năng phát triển rất lớn. Tỷ trọng dịch vụ logistics chiếm


khoảng 15% trong kim ngạch xuất khẩu. Trong mười năm tới, kim ngạch xuất khẩu
của Việt Nam ước đạt 200 tỉ USD/năm và do đó tiềm năng phát triển dịch vụ
logistics ở Việt Nam là rất lớn. Gia nhập WTO, bước vào sân chơi toàn cầu, các
doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ logistics sẽ có cơ hội phát triển nhanh, tuy nhiên
SV: Nguyễn Thị Ly Lớp: QTKD TM 51B
3
Chuyên đề thực tập GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
cũng sẽ có không ít những khó khăn, thách thức khi phải cạnh tranh với các doanh
nghiệp nước ngoài. Để cạnh tranh được, các doanh nghiệp cần phải quan tâm phát
triển hệ thống Logistics của mình để thực hiện tốt các hoạt động dịch vụ Logistics.
Hà Nội là Thủ đô của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là trung tâm
văn hóa, chính trị, kinh tế của cả nước. Theo quy hoạch, tới năm 2050, Hà Nội sẽ là
Thủ đô- biểu trưng của Quốc gia, một đô thị hiện đại, năng động và hiệu quả, trung
tâm hành chính-chính trị Quốc gia, một trung tâm lớn của Quốc gia về văn hóa-
khoa học-đào tạo-kinh tế, một trung tâm du lịch và giao dịch Quốc tế có tầm khu
vực Châu Á- Thái Bình Dương. Là khu trung tâm văn hóa, kinh tế của cả nước, do
vậy Hà Nội cần phải có được một hệ thống cơ sở hạ tầng Logistics đô thị xứng tầm
để có thể đáp ứng được nhu cầu lưu thông hàng hóa, thông tin cực lớn của xã hội,
phát huy được hết tiềm năng cũng như mục tiêu đặt ra của mình. Chính vì vậy em
đã chọn đề tài “Phát triển bền vững hệ thống Logistics trên địa bàn thành phố
Hà Nội trong điều kiện mở cửa thị trường dịch vụ Logistics”.
Nghiên cứu đề tài này giúp ta hiểu được vai trò của Logistics cũng như hệ
thống Logistics và tầm quan trọng của việc phát triển bền vững hệ thống Logistics
tại Hà Nội, nhất là trong giai đoạn hội nhập nền kinh tế nói chung và mở cửa thị
trường dịch vụ Logistics nói riêng. Từ đó thấy được thực trạng phát triển hệ thống
Logistics trên địa bàn Hà Nội và có những giải pháp phát triển hoàn thiện hơn.
Phạm vi nghiên cứu: hệ thống Logistics đã được ứng dụng vào hoạt động sản
xuất và đời sống, đặc biệt là trong các lĩnh vực phức tạp bao gồm nhiều quá trình,
nhiều công đoạn khác nhau mà cần phải thực hiện bởi nhiều tổ chức, nhiều chủ thể
có liên quan. Ngày nay, hệ thống Logistics càng có vị trí và vai trò quan trọng đối

với hoạt động sản xuất và đời sống, được ứng dụng rộng rãi trong các lĩnh vực khác
nhau: và phát triển thành 3 nhóm riêng biệt: hệ thống Logistics trong quân sự; hệ
thống Logistics trong sản xuất, kinh doanh, thương mại; hệ thống Logistics trong
quản lý xã hội. Trong bài này, em xin nghiên cứu hệ thống Logistics trong sản xuất,
kinh doanh, thương mại trên địa bàn
SV: Nguyễn Thị Ly Lớp: QTKD TM 51B
4
Chuyên đề thực tập GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
Đề tài bao gồm những nội dung chính như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về phát triển bền vững hệ thống Logistics
Chương 2: Đánh giá thực trạng phát triển hệ thống Logistics trên địa bàn
thành phố Hà Nội
Chương 3: Phát triển bền vững hệ thống Logistics trên địa bàn thành phố Hà
Nội trong điều kiện mở cửa thị trường dịch vụ Logistics
SV: Nguyễn Thị Ly Lớp: QTKD TM 51B
5
Chuyên đề thực tập GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
HỆ THỐNG LOGISTICS
1.1. PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG HỆ
THỐNG LOGISTICS
1.1.1. Phát triển bền vững
1.1.1.1. Từ phát triển đến phát triển bền vững
Phát triển là khuynh hướng vận động đã xác định về hướng của sự vật: hướng
đi lên từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Khái niệm phát triển
được sử dụng trong nhiều lĩnh vực từ kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội cho tới
những vấn đề của đời sống hằng ngày. Nhưng cách đây khoảng hơn một nửa thế kỷ,
khi thế giới bước ra khỏi thế chiến thứ hai, vấn đề phát triển có một nội dung thuần
túy kinh tế. Các chương trình mở mang quốc gia, các chính sách và kế hoạch kinh tế

xã hội chỉ quan tâm tới các vấn đề về đầu tư, sản xuất, công nghiệp hóa, tự túc
lương thực, hiện đại hóa nông nghiệp, sản xuất thay thế nhập khẩu, v.v. Lúc bấy giờ
phát triển kinh tế đồng nghĩa với tăng trưởng kinh tế, không có sự phân biệt, cân
nhắc hoặc so sánh giữa phẩm và lượng trong công cuộc mở mang quốc gia. Cùng
với sự tiến bộ của khoa học công nghệ, các nước trên thế giới thi đua công nghiệp
hóa, khai thác tài nguyên, tìm kiếm thị trường nhằm mục đích tăng trưởng kinh tế
mà bất chấp hậu quả. Với tình trạng thi đua sản xuất không giới hạn và khai thác vô
ý thức các tài nguyên đó đã làm ô nhiễm môi trường, môi sinh, làm cạn kiệt dự trữ
tài nguyên thiên nhiên trên thế giới. Điều này đòi hỏi các quốc gia cần chủ trương
bảo vệ môi trường, tôn trọng môi sinh, quản lý hữu hiệu tài nguyên thiên nhiên,
thực hiện công bằng và ổn định xã hội.
Trên thực tế, mối quan hệ giữa bảo vệ thiên nhiên và sử dụng tài nguyên thiên
nhiên cũng là mối quan tâm hàng đầu của các tổ chức quốc tế từ sau đại chiến thế
giới II (UNDP, UNESCO, WHO, FAO, ICSU). Các tổ chức này đã phối hợp chặt
chẽ trong việc tìm hiểu diễn biến môi trường tự nhiên, từ đó đưa ra chương trình
SV: Nguyễn Thị Ly Lớp: QTKD TM 51B
6
Chuyên đề thực tập GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
hành động hướng các quốc gia phát triển theo mô hình bền vững. Đầu thập niên 80
của thế kỷ 20, thuật ngữ phát triển bền vững lần đầu tiên được sử dụng trong chiến
lược bảo tồn thế giới do Hiệp hội bảo tồn thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên
quốc tế, Quỹ động vật hoang giã thế giới và Chương trình môi trường Liên hiệp
quốc đề xuất, cùng với sự trợ giúp của UNESCO và FAO. Tuy nhiên khái niệm này
chính thức phổ biến rộng rãi trên thế giới từ sau báo cáo Brundtland (1987). Theo
Brundtland: “Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm thỏa mãn các yêu cầu hiện
tại nhưng không tổn hại cho khả năng của các thế hệ tương lai để đáp ứng yêu cầu
của chính họ”. Kể từ sau báo cáo Brundtland, khái niệm bền vững trở thành khái
niệm chìa khóa giúp các quốc gia xây dựng quan điểm, định hướng, giải pháp tháo
gỡ bế tắc trong các vấn đề trong phát triển.
1.1.1.2. Nội dung của phát triển bền vững

Nội dung của phát triển bền vững là “đáp ứng nhu cầu hiện tại mà không gây
trở ngại cho đáp ứng nhu cầu mai sau”. Điều đó có nghĩa là sử dụng ở mức tối
thiểu, tránh lãng phí các dạng tài nguyên không tái tạo; giảm rác thải bằng cách tái
chế, tái sử dụng và giảm sử dụng; sử dụng bền vững các dạng tài nguyên tái tạo.
Nội dung này được thể hiện ở các mặt kinh tế, xã hội, môi trường, chính trị.
Về mặt xã hội, bền vững có nghĩa là xã hội công bằng, cuộc sống an bình. Sự
phát triển bền vững cần đề phòng tai biến, không để có người sống ngoài lề xã hội
hoặc bị xã hội ruồng bỏ. Xã hội không thể phát triển bền vững nếu có một tầng lớp
xã hội đứng ngoài công cuộc xây dựng và mở mang quốc gia. Thế giới không có
phát triển bền vững về mặt xã hội nếu cuộc sống hoặc tính mạng của một phần nhân
loại bị đe dọa vì bệnh tật, đói nghèo, thiên tai… Phát triển bền vững về mặt xã hội
còn có nghĩa con người có môi trường sống hài hòa, công bằng, tiến bộ.
Về mặt kinh tế, có sự kết hợp hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển
văn hóa, xã hội, với việc sử dụng các điều kiện nguồn lực, tài nguyên thiên nhiên,
khoa học, công nghệ. Cần phân biệt phát triển với tăng trưởng. Tăng trưởng chú
trọng tới vật chất và số lượng, tích lũy và bành trướng trong khi phát triển quan tâm
tới tiềm năng, phẩm chất, phục vụ con người một cách toàn diện, về vật chất lẫn
SV: Nguyễn Thị Ly Lớp: QTKD TM 51B
7
Chuyên đề thực tập GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
tinh thần. Phát triển bền vững về mặt kinh tế nghịch với gia tăng sản xuất không
giới hạn, chinh phục thị trường bằng mọi cách, thương mại hóa bất cứ hàng hóa
hoặc dịch vụ nào, tìm lợi nhuận tối đa trong mọi hoàn cảnh. Phát triển bền vững
kinh tế đòi hỏi phải cân nhắc ảnh hưởng bây giờ hay sau này của hoạt động và tăng
trưởng sản xuất lên chất lượng cuộc sống, xét xem có gì bị hư hại, bị phí phạm hay
không.
Phát triển bền vững về môi trường có nghĩa phải bảo vệ khả năng tái sinh của
hệ sinh thái, nhịp độ gia tăng sử dụng tài nguyên không có khả năng tái sinh phải
tùy thuộc khả năng sáng chế tư liệu thay thế. Sau cùng, mức độ ô nhiễm phải thấp
hơn khả năng tái tạo của môi trường, môi sinh. Yêu cầu bền vững về môi trường –

môi sinh buộc phải giới hạn sự tăng trưởng kinh tế, phát triển kinh tế phải bảo vệ
môi trường – môi sinh.
Về phương diện chính trị, phát triển bền vững có nghĩa kết hợp và dung hòa
các vấn đề xã hội, kinh tế và môi trường để hệ thống tổ chức và sinh hoạt chính trị
không có căng thẳng, xáo trộn, có thể đi tới rối loạn hoặc đổ vỡ. Các định chế chính
trị cần phải tôn trọng và bảo về công bằng, khuyến khích các đối tượng thụ hưởng
đối thoại và tham gia trong tinh thần phù hợp với các nguyên tắc dân chủ tự do.
Tính quan liêu và bàn giấy phải được xóa bỏ vì nó trói buộc con người, đè nén xã
hội, cản trở mọi sự đổi thay, tiến bộ.
Như vậy, có thể nói phát triển bền vững là quá trình phát triển có sự kết hợp
chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa ba mặt của sự phát triển. Đó là: phát triển kinh tế,
công bằng xã hội và bảo vệ môi trường.
1.1.2. Phát triển bền vững hệ thống Logistics
1.1.2.1. Các quan niệm về Logistics
Theo nhiều tài liệu ghi chép, trong lịch sử nhân loại ban đầu Logistics được sử
dụng như một từ chuyên môn trong quân đội, được hiểu với nghĩa là công tác hậu
cần. Sau này thuật ngữ Logistics dần được áp dụng trong nhiều lĩnh vực khác nhau
của đời sống kinh tế - xã hội, được lan truyền từ châu lục này sang châu lục khác, từ
nước này sang nước khác, hình thành nên một ngành Logistics thịnh hành toàn cầu.
Cho đến nay, khái niệm về Logistics vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau tùy theo từng
SV: Nguyễn Thị Ly Lớp: QTKD TM 51B
8
Chuyên đề thực tập GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
góc độ và mục đích nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên có thể thấy Logistics được
hiểu theo cả nghĩa rộng và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, Logistic là quá trình lập kế hoạch, thực hiện và kiểm soát
một cách hiệu quả về mặt chi phí dòng lưu chuyển và phần dự trữ nguyên vật liệu,
bán thành phẩm và thành phẩm, cùng những thông tin liên quan từ điểm khởi đầu
của quá trình sản xuất đến điểm tiêu thụ cuối cùng nhằm mục đích thỏa mãn được
các yêu cầu của khách hàng. Theo quan niệm này, Logistics gắn liền cả quá trình

đầu vào của sản xuất, sản xuất ra hàng hóa và phân phối lưu thông có nghĩa là
Logistics được hiểu như một quá trình có tác động từ giai đoạn tiền sản xuất cho tới
khi hàng hóa tới tay của người tiêu dùng cuối cùng.
Theo nghĩa hẹp, Logistics được hiểu như là các hoạt động dịch vụ gắn liền với
quá trình phân phối, lưu thông hàng hóa và Logistics là hoạt động thương mại gắn
với các dịch vụ cụ thể. Theo điều 233, luật Thương mại Việt Nam lần đầu tiên đưa
ra khái niệm về dịch vụ logistics: “Dịch vụ logistics là hoạt động thương mại, theo
đó thương nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công đoạn bao gồm nhận hàng,
vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm thủ tục hải quan, các thủ tục giấy tờ khác, tư vấn
khách hàng, đóng gói bao bì, ghi ký mã hiệu, giao hàng hoặc các dịch vụ khác có
liên quan tới hàng hóa theo thỏa thuận với khách hàng để hưởng thù lao”.
Để có cái nhìn tổng quát, cần tiếp cận Logistics cả theo nghĩa rộng và nghĩa
hẹp đồng thời cần phải tiếp cận Logistics trên cả hai góc độ: vĩ mô và vi mô, phải
coi Logistics như là một khoa học và như là ngành dịch vụ của nền kinh tế quốc
dân. Trong cuốn “Logistics những vấn đề lý luận và thực tiễn ở Việt Nam” các tác
giả có viết: “Logistics là quá trình phân phối và lưu thông hàng hóa được tổ chức và
quản lý khoa học việc lập kế hoạch, tổ chức thực hiện và kiểm soát quá trình lưu
chuyển hàng hóa, dịch vụ… từ điểm khởi nguồn sản xuất đến tay người tiêu dùng
cuối cùng với chi phí thấp nhất nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất xã hội tiến
hành được nhịp nhàng, liên tục và đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của khách hàng”.
1.1.2.2. Hệ thống Logistics
SV: Nguyễn Thị Ly Lớp: QTKD TM 51B
9
Chuyên đề thực tập GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
Hệ thống là tập hợp các phần tử có quan hệ hữu cơ với nhau, tác động chi phối
lẫn nhau theo các quy luật nhất định để trở thành một chỉnh thể. Về hệ thống
Logistics do có nhiều cách tiếp cận nên có nhiều định nghĩa khác nhau. Trong báo
cáo này, em xin trình bày hệ thống Logistics theo định nghĩa hệ thống Logistics
quốc gia (hệ thống Logistics trong nền Kinh tế Quốc dân). Hệ thống Logistics quốc
gia là tổng thể khung thể chế pháp lý, các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ Logistics,

các doanh nghiệp sử dụng dịch vụ và hệ thống cơ sở hạ tầng.
a. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật Logistics
Cơ sở hạ tầng kỹ thuật Logistics có thể coi là nhân tố nền tảng, tạo cơ sở hoạt
động và tác động trực tiếp đến hệ thống dịch vụ Logistics. Logistics là chuỗi kết
hợp nhiều loại hoạt động kinh tế nhằm tối ưu hóa vị trí và tối ưu hóa quá trình chu
chuyển, dự trữ hàng hóa từ điểm đầu đến điểm cuối. Dịch vụ Logistics chỉ phát triển
khi các hoạt động ngày một đem lại hiệu quả cao hơn trên cơ sở giải quyết các bài
toán tối ưu hóa ở từng khâu đặt trong mối liên hệ đảm bảo tối ưu hóa hoạt động của
cả chuỗi Logistics. Do vậy cơ sở hạ tầng được xem là những nhân tố nền tảng, tạo
bước phát triển dịch vụ Logistics ngay từ những bước đi ban đầu của quá trình phát
triển. Cơ sở hạ tầng Logistics bao gồm cơ sở hạ tầng phần cứng và cơ sở hạ tầng
phần mềm. Cơ sở hạ tầng phần cứng bao gồm hệ thống hạ tầng giao thông vận tải,
cảng quan nội địa, kho tàng bến bãi… Công nghệ thông tin và truyền thông là cơ sở
hạ tầng phần mềm có vai trò quyết định trong cạnh tranh trong ngành Logistics.
Cơ sở hạ tầng giao thông vận tải đóng vai trò quan trọng phục vụ cho việc
cung cấp các dịch vụ Logistics. Cơ sở hạ tầng giao thông vận tải bao gồm cơ sở
hạ tầng vận tải đường biển, đường sắt, đường bộ, đường thủy nội địa và đường
hàng không.
Cảng thông quan nội địa (Inland Clearance Depot – ICD) còn gọi là cảng nội
địa, cảng cạn là một trong những cơ sở hạ tầng kỹ thuật quan trọng của hệ thống
Logistics, là cơ sở vật chất quan trọng trong phát huy ưu thế cho hoạt động
Logistics. Thông thường, cảng thông quan nội địa được đặt ở vị trí cách xa cảng
biển, sâu trong đất liền thực hiện các chức năng cơ bản như: làm thủ tục hải quan,
SV: Nguyễn Thị Ly Lớp: QTKD TM 51B
10
Chuyên đề thực tập GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
đầu mối chuyển tiếp các container sang các phương tiện vận tải khác, gom hàng,
hoàn tất thủ tục chờ xuất cảng. Hệ thống ICD phát triển giải quyết cơ bản tình trạng
tắc nghẽn của khu vực cảng biển, góp phần đảm bảo rút ngắn thời gian giao hàng,
phát huy lợi thế và tạo mối liên kết giữa các phương thức vận tải, hỗ trợ đắc lực cho

phát triển dịch vụ Logistics.
Trong quá trình phát triển kinh tế của bất kỳ quốc gia nào, công nghệ thông tin
và truyền thông cũng giữ vai trò quan trọng và là một trong những tiêu chí định
hướng đối với phát triển các ngành kinh tế. Công nghệ thông tin và truyền thông
phát triển trong bối cảnh toàn cầu hóa đã và đang tạo ra những cơ hội đột phá toàn
diện cho phát triển kinh tế, đảm bảo kết nối thông tin thông suốt giữa các nền kinh
tế trên phạm vi toàn cầu. Công nghệ thông tin và truyền thông phát triển cho phép
giảm thiểu thời gian và chi phí giao dịch, chuyển tải nhanh chóng thông tin, thu hẹp
khoảng cách trong kinh doanh dịch vụ Logistics ngay trong một quốc gia, một khu
vực kinh tế cũng như giữa các quốc gia trong mạng lưới Logistics toàn cầu. Cơ sở
hạ tầng công nghệ thông tin và truyền thông bao gồm: hệ thống máy tính, thiết bị
truyền thông và các dịch vụ đi kèm, điện thoại, mạng tế bào, truyền thông vệ tinh,
phương tiện quảng bá và những dạng truyền thông khác. Đây được coi là nhân tố
sống còn của hệ thống Logistics, một trong những yếu tố quan trọng đảm bảo khả
năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
b.Thể chế chính sách pháp luật
Hoạt động của hệ thống dịch vụ Logistics diễn ra mang tính toàn cầu nên hoạt
động của hệ thống dịch vụ Logistics của quốc gia phải chịu sự ràng buộc trong các
mối quan hệ phức tạp đan xen và sự điều chỉnh không những của pháp luật quốc gia
mà còn của cả pháp luật quốc tế. Bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế tất yếu dẫn đến
hoạt động Logistics của quốc gia phải tiếp cận và tham gia vào chuỗi Logistics toàn
cầu. Do vậy môi trường pháp lý của Việt Nam đối với loại dịch vụ này chịu nhiều
tác động của các quy định pháp luật, tập quán và thông lệ quốc tế. Các nguồn luật,
tập quán và thông lệ quốc tế ảnh hưởng tới sự phát triển thị trường dịch vụ này rất
đa dạng. Các quy định thuộc pháp luật quốc tế như công ước quốc tế và hiệp định
SV: Nguyễn Thị Ly Lớp: QTKD TM 51B
11
Chuyên đề thực tập GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
quốc tế liên quan đến dịch vụ Logistics là căn cứ pháp lý mang tính nền tảng trong
việc điều chỉnh dịch vụ Logistics ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập, đồng thời,

các tập quán thương mại quốc tế cũng là nguồn quy định quan trọng chi phối việc
cung ứng dịch vụ này: Công ước quốc tế về vận tải đường biển (Gencon), Công ước
về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế (CISG), Quy tắc thực hành thư tín dụng
chứng từ UCP 600, Điều kiện thương mại quốc tế (Incoterm 2010) … Các cam kết
quốc tế trong các Hiệp định song phương và khu vực, trong WTO của Việt Nam về
mở cửa thị trường dịch vụ Logistics.
Các quyết định, quy hoạch, chiến lược, chính sách phát triển và quy định của
pháp luật trong nước liên quan đến dịch vụ Logistics trên cơ sở phù hợp với luật
pháp, tập quán và thông lệ quốc tế. Các đạo luật liên quan đến dịch vụ Logistics như
Luật Thương mại 2005, Luật Giao dịch điện tử từ ngày 9/12/2005, Luật Hải quan
2006 và một số đạo luật quan trọng khác điều chỉnh các hoạt động giao thông vận
tải như Luật Hàng không dân dụng Việt Nam (2006), Luật Hàng hải (2005)… cùng
hàng loạt các văn bản dưới luật khác. Hệ thống thể chế, chính sách của một quốc
gia tác động rất lớn đến độ mở của nền kinh tế. Khi một nền kinh tế có độ mở lớn,
hội nhập sâu rộng với kinh tế thế giới sẽ tạo ra nhiều cơ hội cũng như không ít thách
thức cho các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp cung ứng, kinh doanh dịch
vụ Logistics nói riêng.
Như vậy, hệ thống luật pháp quốc gia và quốc tế sẽ tạo môi trường, hành lang
cho dịch vụ Logistics hoạt động, phát triển và hội nhập theo một trật tự kỷ cương
nhất định phù hợp với luật pháp quốc gia và quốc tế.
c.Nguồn nhân lực ngành dịch vụ Logistics
Nguồn nhân lực khu vực dịch vụ Logistics là nguồn nhân lực làm việc trong
tất cả các công ty hoặc doanh nghiệp cung ứng các dịch vụ Logistics. Cũng như các
lĩnh vực khác, nguồn lực con người đóng vai trò vô cùng quan trọng trong ngành
dịch vụ Logistics. Con người không chỉ quyết định hiệu quả của việc khai thác, sử
dụng các nguồn lực tự nhiên và nguồn lực khác hiện có mà còn góp phần quan
trọng vào sự phát triển bền vững trong tương lai. Nguồn nhân lực với số lượng hợp
SV: Nguyễn Thị Ly Lớp: QTKD TM 51B
12
Chuyên đề thực tập GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào

lý, chất lượng cao giúp nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng trong Logistics,
giảm thiểu chi phí cho hệ thống Logistics, tối ưu hóa dịch vụ Logistics.
Ở Việt Nam, nguồn nhân lực trong dịch vụ Logistics nằm trong hàng loạt các
nhóm doanh nghiệp khác nhau như: các công ty vận tải đường biển, bộ, sắt, thủy và
hàng không; các công ty xếp dỡ, cung ứng dịch vụ kho bãi; các công ty giao nhận;
các công ty cho thuê mua container; các công ty cung ứng dịch vụ kiểm tra và phân
tích kỹ thuật; các công ty kinh doanh dịch vụ bưu chính và dịch vụ chuyển phát
nhanh… chứ không chỉ nằm riêng trong khối công ty vận tải giao nhận. Nguồn
nhân lực trong ngành Logistics cũng được chia thành 3 cấp độ: đội ngũ cán bộ quản
lý, đội ngũ nhan viên văn phòng, đội ngũ công nhân lao động trực tiếp tại các công
ty vận tải, kho bãi, nhà xưởng.
Nguồn nhân lực của khu vực dịch vụ Logistics tại Việt Nam được đào tạo từ
nhiều nguồn khác nhau, trong đó ở cấp bậc đại học, các trường đào tạo chuyên
ngành hoặc sát chuyên ngành Logistics kể đến như trường Đại học Giao thông TP.
Hồ Chí Minh, Đại học Hàng hải, Đại học Ngoại thương, Đại học Giao thông vận tải
Hà Nội. Ngoài ra còn một số nhân lực tốt nghiệp từ các ngành đào tạo khác của các
trường trong khối kinh tế.
d.Các doanh nghiệp cung ứng và doanh nghiệp sử dụng dịch vụ Logistics
Doanh nghiệp cung ứng dịch vụ Logistics là doanh nghiệp cung cấp các dịch
vụ về vận chuyển, giao nhận, kho hàng, hải quan, tư vấn khách hàng và các dịch vụ
khác liên quan đến hàng hóa nhằm đảm bảo quá trình phân phối, lưu chuyển hàng
hóa một cách hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Doanh nghiệp có thể cung
cấp một chuỗi các dịch vụ trên hoặc một số dịch vụ trong chuỗi dịch vụ trên. Ở Việt
Nam, các doanh nghiệp Logistics chủ yếu cung cấp một số dịch vụ trong chuỗi dịch
vụ Logistics.
Có nhiều cách phân loại các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ Logistics. Theo
tính chất hoạt động, có thể chia thành doanh nghiệp Logistics thuần túy và không
thuần túy. Doanh nghiệp kinh doanh Logistics thuần túy chuyên cung cấp các dịch
vụ trong chuỗi dịch vụ Logistics. Đây là hoạt động kinh doanh chính của doanh
SV: Nguyễn Thị Ly Lớp: QTKD TM 51B

13
Chuyên đề thực tập GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
nghiệp. Doanh nghiệp Logistics không thuần túy kinh doanh nhiều loại hàng hóa,
dịch vụ trong đó có dịch vụ Logistics hoặc doanh nghiệp tự thực hiện các hoạt động
Logistics của mình.
Theo tính chuyên môn hóa của các doanh nghiệp Logistics, người ta chia
thành: các công ty cung cấp dịch vụ vận tải (đơn phương thức và đa phương thức),
các công ty cung cấp dịch vụ phân phối (cung cấp dịch vụ kho bãi và dịch vụ phân
phối), các công ty cung cấp dịch vụ hàng hóa (giao nhận gom hàng lẻ, đóng gói vận
chuyển, khai thuê hải quan), các công ty cung cấp dịch vụ Logistics chuyên ngành
(công ty công nghệ thông tin, công ty viễn thông, công ty cung cấp giải pháp tài
chính, bảo hiểm…).
Theo khả năng tài chính của các công ty cung cấp dịch vụ Logistics có thể
chia thành: các công ty sở hữu tài sản và các công ty không sở hữu tài sản. Các
công ty sở hữu tài sản thực sự có riêng đội vận tải, nhà kho… và sử dụng chúng để
quản tất cả hay một phần các hoạt động Logistics cho khách hàng của mình. Các
công ty Logistics không sở hữu tài sản thì hoạt động như một người hợp nhất các
dịch vụ Logictics và phần lớn các dịch vụ là đi thuê ngoài. Họ có thể phải đi thuê
phương tiện vận tải, nhà kho, bến bãi…
Doanh nghiệp sử dụng dịch vụ Logistics: với những lợi ích to lớn của các dịch
vụ Logistics, ngày nay các doanh nghiệp sử dụng ngày càng nhiều các dịch vụ trong
chuỗi dịch vụ Logistics. Các doanh nghiệp sử dụng dịch vụ Logistics có thể thuê
ngoài, thuê các doanh nghiệp chuyên cung cấp dịch vụ Logistics hoặc tự thực hiện
các hoạt động Logistics của mình trong điều kiện sở hữu các phương tiện vận tải,
nhà xưởng, thiết bị và các nguồn lực con người để thực hiện các hoạt động
Logistics.
1.1.2.3. Phát triển bền vững hệ thống Logistics
Phát triển bền vững hệ thống Logistics là phát triển các nhân tố trong hệ thống
Logistics theo hướng bền vững. Logistics ngày càng đóng vai trò là một ngành kinh
tế quan trọng của Việt Nam. Theo dự báo, tới năm 2020 khi kim ngạch xuất nhập

khẩu của Việt Nam có thể đạt mức 200 tỉ USD/năm thì nhu cầu sử dụng Logistics
SV: Nguyễn Thị Ly Lớp: QTKD TM 51B
14
Chuyên đề thực tập GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
lại càng lớn. Hệ thống Logistics đảm bảo cho việc sử dụng và phát triển các dịch vụ
Logistics một cách có hiệu quả không chỉ ở hiện tại mà còn đảm bảo cho sự phát
triển trong tương. Do đó, cần phải phát triển bền vững các yếu tố trong hệ thống
Logistics, đảm bảo các yêu cầu cơ bản sau:
−Quy hoạch dài hạn kết cấu hạ tầng giao thông, các điểm thông quan, cảng
biển, sân bay, kho bãi … mang tính tổng thể toàn quốc, có tính đến sự kết nối với
khu vực và quốc tế chứ không phải là cục bộ địa phương, mạnh ai lấy làm, xin cho
tùy tiện. Phát triển công nghệ cho ngành, chủ yếu là công nghệ thông tin như các hệ
thống IT, phần mềm TMS, WMS,… Các hệ thống này sẽ giúp doanh nghiệp giảm
chi phí, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
−Nhà nước cần xây dựng và hoàn thiện hành lang, khung pháp lý, các Hiệp
hội về Logistics tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động trong ngành có định
hướng và nền tảng pháp lý ổn định để phát triển. Chính sách là bộ phận năng động
nhất, có độ nhạy cảm cao trước sự biến động, xu hướng phát triển dịch vụ Logistics
trong khu vực và trên thế giới theo hướng chấp nhận cạnh tranh quốc tế, phù hợp
với nhu cầu hội nhập. Thực tế nhiều nước đã chứng minh sự thành cong trong phát
triển dịch vụ Logistics đều bắt nguồn từ việc lựa chọn, ban hành, sử dụng và hoàn
thiện hệ thống chính sách thích hợp như: chính sách đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng
giao thông vận tải, chính sách phát triển hệ thống công nghệ thông tin và truyền
thông quốc gia…
−Tập trung, ưu tiên đào tạo, phát triển nguồn nhân lực có chất lượng phục vụ
cho ngành Logistics. Việc đào tạo cần được tiến hành ở cả ba cấp độ đối với cán bộ
hoạch định chính sách, cán bộ quản lý và cán bộ làm nghiệp vụ cụ thể. Mở các
chuyên ngành đáo tạo Logistics trong các trường đại học, cao đẳng, mở các Trung
tâm/Viện đào tạo Logistics đào tạo các kiến thức về Logistics một cách bài bản.
Bên cạnh đào tạo kiến thức chuyên môn, cần chú trọng đào tại ngoại ngữ (đặc biệt

là tiếng anh) và khả năng ứng dụng công nghệ thông tin. Tìm liếm các nguồn tài trợ
trong, ngoài nước cho các chương trình đào tạo ngắn hạn.
−Đối với các doanh nghiệp cung ứng dịch vụ Logistics để tồn tại và phát triển
được trong môi trường cạnh tranh khốc liệt cần phải trang bị đầy đủ cơ sở vật chất
SV: Nguyễn Thị Ly Lớp: QTKD TM 51B
15
Chuyên đề thực tập GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
kỹ thuật cũng như nguồn nhân lực phục vụ cho hoạt động dịch vụ Logistics. Doanh
nghiệp cần hiểu rõ, nhận thức đúng về quy trình cung cấp các dịch vụ Logistics; đầu
tư cơ sở vật chất, nâng cấp và mở rộng hệ thống kho bãi, các trang thiết bị và dịch
vụ hỗ trợ khác; đào tạo hệ thống nguồn nhân lực có kinh nghiệm và được trang bị
đầy đủ kiến thức chuyên môn am hiểu luật pháp trong nước và quốc tế. Đặc biệt
ứng dụng công nghệ thông tin vào quá trình hoạt động của doanh nghiệp…
−Đối với các doanh nghiệp sử dụng dịch vụ Logistics cần có những kế hoạch
cụ thể phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của mình: tự thực hiện hoạt động
Logistics hoặc đi thuê ngoài.
1.2. MỐI QUAN HỆ GIỮA HỆ THỐNG LOGISTICS VÀ SỰ PHÁT TRIỂN
BỀN VỮNG
1.2.1. Vai trò của hệ thống logistics đối với sự phát triển kinh tế
Hệ thống Logistics là các nhân tố đảm bảo cho hoạt động Logistics có thể diễn
ra. Do vậy vai trò của hệ thống Logistics cũng như vai trò của Logistics đối với sự
phát triển kinh tế xã hội ngày càng quan trọng nhất là trong điều kiện mở cửa hội
nhập, thể hiện ở những điểm sau:
Thứ nhất, hệ thống Logistics là công cụ hữu hiệu để liên kết các hoạt động của
các mắt xích khác nhau trong chuỗi giá trị toàn cấu như cung cấp, sản xuất , lưu
thông phân phối, mở rộng thị trường cho các hoạt động kinh tế. Logistics giúp các
quốc gia có điều kiện thuận lợi để lựa chọn phương án tham gia vào chuỗi giá trị
toàn cầu. Quốc gia giàu, các tập đoàn xuyên quốc gia có thể dễ dàng trong việc giữ
lại những khâu, những mắt xích trong chuỗi có giá trị gia tăng cao nhất, như thiết
kế, phân phối, tiếp thị…, còn các khâu khác có giá trị gia tăng thấp thì đẩy ra bên

ngoài cho các quốc gia nghèo, đang phát triển. Tuy nhiên, đây cũng là cơ hội để các
nước này tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Thứ hai, hệ thống Logistics phát triển góp phần mở rộng thị trường trong buôn
bán quốc tế. Sự lưu chuyển hàng hóa trở nên thuận lợi, thông suốt và giảm chi phí
sẽ làm cho các lợi thế của các quốc gia được tiếp cận một cách dễ dàng. Nhờ đó thị
trường buôn bán giữa các nước trở nên sinh động, đa dạng, phong phú hơn.
SV: Nguyễn Thị Ly Lớp: QTKD TM 51B
16
Chuyên đề thực tập GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
Thứ ba, hệ thống Logistics có vai trò quan trọng trong việc tối ưu hóa chu
trình lưu chuyển của sản xuất kinh doanh từ khâu đầu vào nguyên vật liệu tới sản
phẩm cuối cùng đến tay khách hàng sử dụng. Các doanh nghiệp ngày càng quan
tâm tới các vấn đề về chi phí, đặc biệt là chi phí vận chuyển, về hàng tồn kho…
Cách thức tối ưu hóa quá trình sản xuất, lưu kho, vận chuyển hàng hóa được đặt lên
hàng đầu. Hệ thống Logistics chính là một công cụ đắc lực để thực hiện điều này.
Thứ tư, hệ thống Logistics hỗ trợ nhà quản lý ra quyết định chính xác trong
hoạt động sản xuất kinh doanh. Nhà quản trị doanh nghiệp phải giải quyết nhiều bài
toán hóc búa về nguồn nguyên liệu cung ứng, số lượng và thời điểm hiệu quả để bổ
sung nguồn nguyên liệu, phương tiện và hành trình vận tải, địa điểm kho bãi chứa
thành phẩm, bán thành phẩm. Để giải quyết những vấn đề này một cách có hiệu quả
không thể thiếu vai trò của hệ thống Logistics vì nó cho phép nhà quản lý kiểm soát
và ra quyết định chính xác về các vấn đề nêu trên.
Thứ năm, hệ thống Logistics đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo yếu
tố đúng thời gian, đúng địa điểm. Quá trình toàn cầu hóa làm cho hàng hóa và sự
vận động của chúng phong phú và phức tạp hơn nhiều đòi hỏi sự quản lý chặt chẽ,
đặt ra yêu cầu mới đối với dịch vụ vận tải và giao nhận. Đồng thời doanh nghiệp
phải làm sao để lượng hàng tồn kho là nhỏ nhất. Kết quả là hoạt động lưu thông nói
chung và hoạt động Logistics nói riêng phải đảm bảo yêu cầu giao hàng đúng lúc,
kịp thời đồng thời phải đảm bảo lượng hàng tồn kho ở mức tối thiểu. Hệ thống
Logistics giúp cho quá trình này hiệu quả hơn.

1.2.2. Mối quan hệ giữa hệ thống Logistics với phát triển bền vững
Hệ thống Logistics ngày càng đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế
xã hội. Hệ thống Logistics tạo điều kiện cho sự phát triển không chỉ của ngành
Logistics mà còn cho các ngành kinh tế khác. Bởi Logistics liên kết các hoạt động
của các mắt xích khác nhau trong chuỗi giá trị toàn cầu. Logistics phát triển đáp ứng
quá trình giao lưu buôn bán, trao đổi hàng hóa toàn cầu, góp phần quan trọng vào sự
tăng trưởng kinh tế, bố trí hợp lý nguồn tài nguyên và tự do lựa chọn ngành hàng,
tăng sức liên kết trong sản xuất và không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh của
SV: Nguyễn Thị Ly Lớp: QTKD TM 51B
17
Chuyên đề thực tập GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
sản phẩm trên thị trường. Để làm tốt điều đó, cần có một hệ thống Logistics hoàn
thiện đáp ứng tốt việc thực hiện các hoạt động Logistics.
Bên cạnh đó, mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của nước ta được khẳng định là
phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến
bộ, công bằng xã hội và bảo vệ môi trường. Trước đây, để phát triển kinh tế con
người bất chấp tất cả để đạt được sự tăng trưởng cao. Hậu quả của sự bất chấp đó là
các vấn đề về ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên,
đói nghèo… ảnh hưởng nghiêm trọng tới cuộc sống của nhân loại. Điều này không
những đòi hỏi cần có các biện pháp khắc phục mà còn cần có các chính sách phát
triển để ngăn chặn, giảm thiểu các vấn đề tiêu cựa này xảy ra. Khi đó, phát triển bền
vững được các quốc gia coi là mục tiêu của phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Bên cạnh đó, nguồn lực để phát triển là hữu hạn, nên cần phải sử dụng một cách
hợp lý, có hiệu quả để phục vụ cho cả hiện tại và trong tương lai. Có thể thấy, phát
triển bền vững là một tất yếu của quá trình phát triển kinh tế xã hội.
Phát triển hệ thống Logistics theo hướng bền vững đảm bảo cho một hệ thống
Logistics hài hòa về cả ba mặt kinh tế - xã hội – môi trường, đáp ứng được nhu cầu
hiện tại nhưng không gây trở ngại cho sự phát triển trong tương lai – mô hình
Logistics xanh. Mô hình này liên quan tới việc giảm những tác động tiêu cực tới
môi trường của hoạt động cung ứng hàng hóa. Logistics xanh đảm bảo cho những

quyết định của hôm nay không ảnh hưởng tới các thế hệ tương lai. Chuỗi cung ứng
xanh nhằm giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực của hệ thống cung ứng, quản trị
Logistics nhằm loại bỏ những gì không cần thiết trong quá trình chu chuyển và
đóng gói hàng hóa. Qua đó sẽ làm giảm chi phí Logistics. Mục tiêu chính cuối cùng
của việc phát triển bền vững hệ thống Logistics là để phối hợp các hoạt động này
trong một cách thức nhằm đáp ứng yêu cầu của khách hàng với chi phí tối thiểu mà
trong đó có mối quan hệ mật thiết đến môi trường, kinh tế, xã hội . Mà về mặt môi
trường là sự biến đổi khí hậu, ô nhiễm không khí, tiếng ồn, tai nạn… Về mặt xã hội
là sự an toàn, sức khỏe, công bằng xã hội. Logistics còn ảnh hưởng đến sự tăng
trưởng kinh tế, năng lực cạnh tranh quốc gia, hiệu suất vận tải, tạo việc làm… Như
SV: Nguyễn Thị Ly Lớp: QTKD TM 51B
18
Chuyên đề thực tập GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
vậy phát triển bền vững hệ thống Logistics đồng nghĩa với việc giúp cho phát triển
bền vững về cả ba mặt kinh tế - xã hội – môi trường.
Ngược lại nếu chỉ quan tâm đến việc phát triển hệ thống Logistics, mà không
cần biết nó có bền vững hay không, thì có thể sẽ có tác dụng ngược lại. Đầu tư cho
phát triển hệ thống Logistics mà bất chấp tất cả, không quan tâm đến môi trường thế
nào, xã hội ra sao thì đó không phải là kết quả mà con người mong muốn. Bởi lẽ
môi trường bị ô nhiễm, phá hủy, sức khỏe của con người không được đảm bảo thì
không còn ý nghĩa gì cả. Nếu không quan tâm đến tính bền vững, thì thế hệ mai sau
biết lấy gì để phát triển nữa, khi mà hệ thống Logistics đã lại trở nên lạc hậu và
không còn phù hợp. Như vậy là phát triển không có tầm nhìn chiến lược, sẽ ảnh
hưởng tiêu cực tới kinh tế - xã hội – môi trường trong hiện tại và tương lại.
Như vậy hệ thống Logistics được coi như công cụ để phát triển kinh tế xã hội,
còn phát triển bền vững chính là mục tiêu của sự phát triển đó. Hệ thống Logistics
giúp con người sử dụng các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) một cách tối ưu,
để có thể đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của bản thân và xã hội một cách tốt nhất.
Hai khía cạnh này hỗ trợ lẫn nhau tạo ra một nền kinh tế xã hội phát triển toàn diện
hơn. Hệ thống Logistics cũng là những nguồn lực hữu hạn. Để phục vụ cho nền

kinh tế xã hội có thể phát triển một cách bền vững nhất là trong ngành Logistics thì
hệ thống Logistics cũng cần phát triển theo hướng bền vững. Có nghĩa là hệ thống
đó phục vụ được nhu cầu ở hiện tại mà không ảnh hưởng tới sự phát triển trong
tương lai. Như vậy, phát triển bền vững hệ thống Logistics cũng là một tất yếu,
khách quan.
1.3. CÁC CHỈ TIÊU ĐÁNH GIÁ SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
1.3.1. Các chỉ tiêu tổng hợp về phát triển bền vững
1.3.1.1. GDP xanh
Chỉ số GDP hiện nay không phản ánh quá trình giàu lên hay nghèo đi về tài
nguyên thiên nhiên và ô nhiễm môi trường của một quốc gia. Để khắc phục sự thiếu
hụt đó, khái niệm “GDP xanh” ra đời. GDP xanh là chỉ số được tính bằng cách lấy
chỉ số GDP truyền thống trừ đi các chỉ số về cạn kiệt tài nguyên và thiệt hại do ô
SV: Nguyễn Thị Ly Lớp: QTKD TM 51B
19
Chuyên đề thực tập GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
nhiễm môi trường. Như vậy chỉ tiêu GDP xanh sẽ phản ánh được thực chất phát
triển kinh tế của một đất nước trên cả ba mặt kinh tế, xã hội và môi trường.
Việc xác định chỉ tiêu GDP xanh chính là “hạch toán chi phí môi trường” hay
còn gọi là “hạch toán xanh”. Thực chất đây là việc tính đúng, tính đủ các chi phí
liên quan tới hoạt động bảo vệ môi trường vào giá thành sản phẩm ở cấp độ doanh
nghiệp hay trong tài khoản quốc gia. Trước kia, trong sản xuất truyền thống chỉ bao
gồm các yếu tố vốn, lao động, công nghệ, thì hiện nay cần bổ sung thêm môi trường
như một yếu tố đầu vào của quấ trình sản xuất.
Phương pháp tính chỉ tiêu GDP xanh trong Hệ thống Hạch toán Kinh tế và
Môi trường Tổng hợp (SEEA): mô hình SEEA mở rộng và bổ sung các tài khoản
nguồn lực tự nhiên theo luồng và khối với các tài khoản sản xuất và tài sản. Theo
đó, đẳng thức nguồn và sử dụng được điều chỉnh bằng việc dựa vào đó đại lượng
IC vừa là chi phí môi trường đồng thời cũng chính là sự tổn thất và sự xuống cấp
môi trường do hoạt động kinh tế gây ra. Hạch toán gộp môi trường vào các tài
khoản kinh tế tương ứng với hệ thống SEEA được biểu thị qua đẳng thức về nguồn

– sử dụng như sau:
O + M = (IC + Ecc) + C + (CF – ECt) + X
Trong đó:
O – giá trị sản phẩm vật chất và dịch vụ sản xuất ra
M – nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ
IC – tiêu dùng trung gian
Ecc – chi phí môi trường
C – tiêu dùng cuối cùng
CF – tổng tích lũy tài sản
ECt – giá trị tổn thất và xuống cấp tài nguyên môi trường
X – xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ
Hạch toán GDP trong SEEA hay GDP xanh đã thể hiện khá đầy đủ những
chi phí liên quan tới bảo vệ môi trường cũng như phản ánh sự xuống cấp, suy
SV: Nguyễn Thị Ly Lớp: QTKD TM 51B
20
Chuyên đề thực tập GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
thoái nguồn tài nguyên thiên nhiên do các hoạt động kinh tế - đời sống của con
người gây ra.
1.3.1.2. Chỉ số phát triển con người
Chỉ số phát triển con người (Human Development Index – HDI) là thước đo
tổng hợp về sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia hay vùng lãnh thổ trên các
phương diện thu nhập, tri thức và sức khỏe của con người. HDI là một thước đo
tổng quát về phát triển con người. Nó đo thành tựu trung bình của một quốc gia theo
ba tiêu chí: Sức khỏe một cuộc sống dài lâu và khỏe mạnh được đo bằng tuổi thọ
trung bình; tri thức được đo bằng tỉ lệ số người lớn biết chữ và tỉ lệ nhập học các
cấp giáo dục; thu nhập đo bằng GDP bình quân đầu người.
Tính HDI: Để tính được chỉ số này, cần phải tính toán các chỉ số về tuổi thọ,
giáo dục và GDP bình quân đầu người.
•Chỉ số tuổi thọ
Chỉ số tuổi thọ đo lường thành tựu tương đối về tuổi thọ ở một nước.

•Chỉ số giáo dục
Chỉ số giáo dục đo thành tựu tương đối của một nước về tỉ lệ biết chữ ở người
lớn và tỉ lệ đi học ở các bậc tiểu học, trung học và đại học
Chỉ số giáo dục = 2/3 chỉ số biết chữ ở người lớn + 1/3 chỉ số tổng tỉ lệ đi học
•Chỉ số GDP bình quân đầu người
Khi đã tính được các chỉ số trên, ta tính chỉ số HDI như sau:
HDI = 1/3(chỉ số tuổi thọ) + 1/3(chỉ số giáo dục) + 1/3(chỉ số GDP)
SV: Nguyễn Thị Ly Lớp: QTKD TM 51B
21
Chuyên đề thực tập GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
1.3.1.3. Chỉ số bền vững môi trường
Chỉ số bền vững môi trường (Enviromental Sustainable Index – ESI) là một
chỉ số tổng hợp được tính toán dựa trên các chỉ thị chọn lọc đặc trưng cho tính bền
vững về mặt môi trường. Chỉ số ESI là một thước đo của sự tiến bộ tổng thể phát
triển theo hướng bền vững về môi trường.
Giá trị của chỉ số ESI dao động trong khoảng 0 – 100. Giá trị này càng cao,
tính bền vững môi trường càng cao. Vì vậy, chỉ số ESI có ý nghĩa trong việc định
lượng hóa sự bền vững của môi trường. Việc đánh giá mức độ bền vững thông qua
một con số tính toán rõ ràng và có cơ sở khoa học sẽ giúp cho các nhà lãnh đạo, các
cơ quan hoạch định chính sách, các chuyên gia môi trường và toàn thể công chúng
có một cái nhìn trực quan và chính xác về hiện trạng cũng như xu thế diễn biến của
môi trường trong tương lai.
Các chỉ thị đánh giá tính bền vững về môi trường để tính toán nên chỉ sô ESI
bao gồm chất lượng không khí, đa dạng sinh học,đất, chất lượng và trữ lượng nước,
áp lực dân số… Do vậy, khi lựa chọn các chỉ thị bền vững môi trường phù hợp và
áp dụng phương pháp tích hợp hiệu quả, khoa học thì chỉ số ESI sẽ trở thành một
chỉ số chuẩn mà có thể dễ dàng sử dụng để đánh giá môi trường và hoạch định
chính sách tối ưu.
1.3.2. Các chỉ tiêu về tính bền vững của các lĩnh vực
8 chỉ tiêu về kinh tế bao gồm: hiệu quả sử dụng vốn; năng suất lao động; tỷ

trọng đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp vào tốc độ tăng trưởng chung;
chỉ số giá tiêu dùng; cán cân vãng lai; bội chi ngân sách Nhà nước; Nợ của Chính
phủ và nợ nước ngoài.
10 chỉ tiêu về xã hội bao gồm: tỷ lệ nghèo; tỷ lệ thất nghiệp; tỷ lệ lao động
đang làm việc trong nền kinh tế đã qua đào tạo; hệ số bình đẳng trong phân phối thu
nhập; số bác sĩ bình quân trên 1 vạn người dân; số sinh viên trên 1 vạn dân; số thuê
bao internet trên 100 dân; tỷ lệ người dân được mua bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất
nghiệp; số người chết do tai nạn giao thông trên 100.000 dân; tỷ lệ số xã được công
nhận đạt tiêu chí nông thôn mới.
SV: Nguyễn Thị Ly Lớp: QTKD TM 51B
22
Chuyên đề thực tập GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
8 chỉ tiêu về tài nguyên-môi trường là: mức giảm tiêu hao năng lượng để sản
xuất ra một đơn vị GDP; tỷ lệ che phủ rừng; tỷ lệ đất được bảo vệ, duy trì đa dạng
sinh học; diện tích đất bị thoái hóa; mức giảm lượng nước ngầm, nước mặt; tỷ lệ
ngày có nồng độ chất thải độc thải vượt quy định cho phép; tỷ lệ các khu đô thị, khu
công nghiệp, khu chế xuất, cụm công nghiệp xử lý chất thải rắn, nước thải đạt tiêu
chuẩn quốc gia tương ứng; tỷ lệ chất thải rắn thu gom , đã xử lý đạt tiêu chuẩn, quy
chuẩn kỹ thuật quốc gia.
1.4. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI SỰ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG HỆ
THỐNG LOGISTICS
1.4.1. Các nhân tố khách quan
Các biến động về kinh tế như toàn cầu hóa kinh tế, khủng hoảng hay tăng
trưởng kinh tế toàn cầu, gia tăng thương mại quốc tế, đầu tư trực tiếp từ nước ngoài,
thành lập và gia tăng vai trò của các tổ chức quốc tế như WTO, OPEC… có ảnh
hưởng trực tiếp tới sự phát triển bền vững của một quốc gia trên các lĩnh vực trong
đó có hệ thống Logistics.
Về công nghệ: bùng nổ công nghệ thông tin và viễn thông, phát triển hạ tầng
viễn thông toàn cầu, phát triển internet, các vệ tinh liên lạc, điện thoại. Nhờ có
những thành tựu của công nghệ tin học và viễn thông, mà quan hệ giữa các khu vực

trên thế giới ngày càng gần gũi tạo nên một nền văn minh toàn cầu. Cùng với sự
phát triển của khoa học công nghệ, các nguồn tài nguyên được khai thác, sử dụng
một cách hợp lý, giảm thiểu ô nhiễm môi trường môi sinh, góp phần phát triển bền
vững kinh tế xã hội.
Về văn hóa xã hội: văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, đồng thời là động
lực của sự phát triển. Trong nền kinh tế, một mặt văn hóa dựa vào chuẩn mực của
nó là chân, thiện, mỹ để hướng dẫn và thúc đẩy người lao động không ngừng phát
huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, nâng cao tay nghề, sản xuất hàng hóa với số lượng
ngày càng nhiều với chất lượng ngày càng cao, đáp ứng nhu cầu không ngừng tăng
lên của xã hội. Mặt khác, văn hóa sử dụng sức mạnh của các giá trị truyền thống,
của đạo lý, dân tộc để hạn chế xu hướng sùng bái hàng hóa, sùng bái tiền tệ. Vì sự
phát triển bền vững, văn hóa phê phán lối sống thực dụng, chụp giật, chạy theo ham
SV: Nguyễn Thị Ly Lớp: QTKD TM 51B
23
Chuyên đề thực tập GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
muốn quá mức của “xã hội tiêu thụ”, dẫn đến chỗ làm cạn kiệt tài nguyên, ô nhiễm
môi trường sinh thái. Như vậy, văn hóa đã góp phần quan trọng vào vấn đề bảo vệ
môi trường và sự phát triển bền vững.
Về môi trường: biến đổi khí hậu toàn (mực nước biển dâng, nhiệt độ trái đất
tăng, gia tăng lũ lụt, hạn hán, và các tai biến tự nhiên khác như: trượt lở, lũ quyet, lũ
bùn đá, động đất, sóng thần ,), gia tăng ô nhiễm môi trường. Biến đổi khí hậu toàn
cầu đang là thách thức lớn nhất với nhân loại trên trái đất, đe dọa trực tiếp môi
trường sống của con người, đặc biệt trong phạm vi hệ thống các đô thị, các khu
công nghiệp và các khu dân cư, kinh tế trên trái đất. Những điều này tác động mạnh
mẽ tới sự phát triển bền vững của nhân loại.
1.4.2. Các nhân tố chủ quan
Đường lối chính sách của Nhà nước cũng ảnh hưởng tới sự phát triển của quốc
gia đó. Để đảm bảo thực hiện mục tiêu phát triển bền vững đất nước hiện nay, nhân
tố chủ quan, trước hết là nhà nước đóng vai trò quyết định nhất. Chỉ có Nhà nước,
bằng các công cụ, nhân tài, vật lực của mình mới có thể đảm bảo sự kết hợp hài hòa

các trụ cột kinh tế, xã hội và môi trường trong phát triển, khắc phục những khuyết
tật của thị trường, duy trì ổn định an ninh xã hội, đảm bảo an sinh cho người dân,
cung cấp các dịch vụ công, thực hiện phát triển văn hóa, giáo dục, khoa học công
nghệ, hợp tác quốc tế về phát triển bền vững…Để phát triển bền vững hệ thống
Logistics cần có một chiến lược phát triển một cách đúng đắn trên cơ sở đường lối
chính sách của Nhà nước. Đường lối chính sách được coi như đầu tàu dẫn dắt sự
phát triển bền vững của đất nước. Đầu tàu ấy mà sáng suốt, đi đúng hướng thì dẫn
tới thành công còn nếu sai lầm sẽ dẫn tới thất bại.
Con người là nhân tố có ảnh hưởng lớn tới sự phát triển bền vững của một
quốc gia. Trong một thời gian dài quan điểm truyền thống coi nguồn lực tự nhiên là
lợi thế hàng đầu, nguồn lực vật chất là động lực của tăng trưởng và phát triển. Điều
đó tạo ra xu hướng tập trung đầu tư vào nguồn lực vật chất và khai thác các nguồn
tài nguyên thiên nhiên, ngược lại việc đầu tư phát triển nguồn lực con người cũng
như lợi ích từ việc đầu tư đó bị xem nhẹ. Người ta coi tài nguyên thiên nhiên là của
SV: Nguyễn Thị Ly Lớp: QTKD TM 51B
24
Chuyên đề thực tập GVHD: GS.TS Đặng Đình Đào
trời cho và vô tận, do đó chúng thường bị sử dụng hết sức lãng phí, mức khai thác
thường vượt quá mức có thể phục hồi dẫn tới sự cạn kiệt tài nguyên, hủy hoại môi
trường sống của con người và sinh vật. Đó là quá trình phát triển không bền vững
mà kết quả cuối cùng lại thường hay phá hủy tất cả những kết quả đầu tiên của nó.
Khi lợi thế trước mắt từ việc đầu tư vào khai thác các nguồn lực tự nhiên dần
mất đi thì lợi thế lâu dài từ việc đầu tư vào nguồn lực con người cũng lộ rõ. Đặc biệt
khi cuộc cách mạng khoa học,công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ, khi mà nền kinh tế
thế giới đã và đang chuyển sang nền kinh tế tri thức, nguồn lực con người, nguồn
lực trí tuệ càng được thừa nhận vai trò trung tâm trong quá trình phát triến. Nguồn
lực con người xem xét chủ yếu dưới góc độ là lực lượng lao động cơ bản của xã hội,
cả trong hiện tại và tương lai. Nó chủ yếu cần được quan tâm về mặt chất lượng con
người bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực và phẩm chất
tức là toàn bộ năng lực sáng tạo, năng lực hoạt động thực tiễn của con người. Vai

trò của người lao động được V.I.Lênin nhấn mạnh là lực lượng sản xuất hàng đầu
của nhân loại. Con người là chủ thể khai thác, sử dụng các nguồn lực khác, chỉ khi
kết hợp với con người, các nguồn lực khác mới phát huy tác dụng. Mặt khác, con
người lại là khách thể, là đối tượng khai thác các năng lực thể chất và trí tuệ cho
sự phát triển. Vậy con người vừa là chủ thể vừa là khách thể của các quá trình
kinh tế-xã hội, là nguồn lực của mọi nguồn lực Đầu tư cho phát triển nguồn lực
con người mang lại hiệu quả kinh tế cao, tiết kiệm được việc khai thác sử dụng
các nguồn lực khác.
CHƯƠNG 2
SV: Nguyễn Thị Ly Lớp: QTKD TM 51B
25

×