Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

tiểu luận phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên đề các hình thức nghiên cứu khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (413.45 KB, 26 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
 
TIỂU LUẬN
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
(Chương trình sau đại học)
CÁC HÌNH THỨC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
GVHD: PGS.TS. TRỊNH VĂN BIỀU
HVTH: LÊ VIẾT ÁI LAN

TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 03 NĂM 2013
Các hình thức nghiên cứu khoa học
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 3
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN 4
1.1. Khái niệm 4
1.2. Các chức năng cơ bản của nghiên cứu khoa học 5
1.3. Các đặc điểm của nghiên cứu khoa học 6
1.4. Các bước nghiên cứu khoa học 7
1.5. Các yêu cầu nghiên cứu khoa học 9
1.6. Tầm quan trọng của việc nghiên cứu khoa học………………….10
CHƯƠNG 2: CÁC HÌNH THỨC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC 10
2.1. Các loại hình nghiên cứu khoa học 10
2.1.1. Nghiên cứu cơ bản 10
2.1.2. Nghiên cứu ứng dụng 11
2.1.3. Nghiên cứu triển khai 11
2.1.4. Mối liên hệ giữa các hình thức nghiên cứu 12
2.2. Các hình thức công bố kết quả nghiên cứu 14
2.1. Tóm tắt khoa học 14
2.2. Tổng luận khoa học 14
2.3. Nhận xét khoa học 15
2.4. Bài báo khoa học 17


2.5. Báo cáo khoa học 19
2.6. Luận văn khoa học 22
2.6.1. Khóa luận tốt nghiệp đại học 23
2.6.2. Luận văn thạc sĩ 24
2.6.3. Luận án tiến sĩ 24
KẾT LUẬN 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO 26
Lê Viết Ái Lan Trang
2
Các hình thức nghiên cứu khoa học
MỞ ĐẦU
Nghiên cứu khoa học (NCKH) có các hình thức khác nhau với qui mô, mức độ, yêu
cầu, cấu trúc,vai trò khác nhau.
Việc nắm bắt được các hình thức NCKH sẽ giúp chúng ta tiếp cận và thực hiện một cách
chính xác, có hiệu quả công việc nghiên cứu khi mà NCKH ngày càng trở thành hoạt
động không thể thiếu , đóng vai trò quan trọng, sống còn đối với sự phát triển của mỗi
quốc gia và có tác động sâu sắc đến từng lĩnh vực của đời sống, xã hội
Lê Viết Ái Lan Trang
3
Các hình thức nghiên cứu khoa học
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN
1 Khái niệm [1]
 Nghiên cứu là một công việc mang tính chất tìm tòi, xem xét cặn kẽ một
vấn đề nào đó để nhận thức nó hoặc để giảng giải cho người khác rõ. Ví dụ: nghiên cứu
một bài toán, nghiên cứu bảng giờ tàu để tìm chuyến đi thích hợp cho mình,…
Nghiên cứu có hai dấu hiệu:
- Con người làm việc (tìm kiếm) tự lực (cá nhân hoặc nhóm).
- Tìm ra cái mới cho chủ thể, cho mọi người.
Nếu đối tượng của công việc là một vấn đề khoa học thì công việc ấy gọi là nghiên
cứu khoa học. Nếu con người làm việc, tìm kiếm, xem xét một vấn đề nào đó một cách

có phương pháp thì cũng có thể gọi là nghiên cứu khoa học.
 NCKH là một hoạt động xã hội, với chức năng tìm kiếm những điều mà
khoa học chưa biết, hoặc là phát hiện bản chất sự vật, phát triển nhận thức khoa học về
thế giới; hoặc là sáng tạo phương pháp mới và phương tiện kĩ thuật mới để cải tạo thế
giới.
Theo Dương Thiệu Tống, NCKH là một hoạt động tìm hiểu có tính hệ thống đạt
đến sự hiểu biết được kiểm chứng. Nó là một hoạt động nỗ lực có chủ đích, có tổ chức
nhằm thu thập những thông tin, xem xét kỹ, phân tích xếp đặt các dữ liệu lại với nhau rồi
đánh giá các thông tin ấy bằng con đường quy nạp và diễn dịch.
 Vậy, NCKH là hoạt động tìm tòi, khám phá bản chất và các quy luật vận
động của thế giới, là quá trình phát minh, sáng tạo ra những tri thức mới cho nhân
loại.
 NCKH nhằm thỏa mãn nhu cầu nhận thức và cải tạo thế giới:
Lê Viết Ái Lan Trang
4
Các hình thức nghiên cứu khoa học
- Khám phá những thuộc tính bản chất của sự vật hoặc hiện tượng.
- Phát hiện qui luật vận động của sự vật, hiện tượng.
- Vận dụng qui luật để sáng tạo giải pháp tác động vào sự vật, hiện tượng.
1 Các chức năng cơ bản của NCKH [1]
 Mô tả : là trình bày bằng ngôn ngữ hình ảnh chung nhất của sự vật, cấu
trúc, trạng thái, sự vận động của sự vật. Nghiên cứu mô tả đưa ra một hệ thống tri thức về
sự vật, giúp con người nhận dạng thế giới, phân biệt được sự khác biệt về bản chất giữa
sự vật này với sự vật khác. Nội dung mô tả có thể bao gồm: mô tả hình thái bên ngoài, mô
tả cấu trúc sự vật, mô tả động thái của sự vật trong quá trình vận động, mô tả tương tác
giữa các yếu tố cấu thành sự vật, mô tả các tác nhân gây ra sự vận động của sự vật, mô tả
hậu quả của các tác động vào sự vật, mô tả các quy luật chung chi phối quá trình vận
động của sự vật, mô tả định tính chỉ rõ các đặc trưng về chất của sự vật; mô tả định lượng
nhằm chỉ rõ các đặc trưng về lượng của sự vật.
 Giải thích : là làm rõ nguyên nhân sự hình thành và qui luật chi phối quá

trình vận động của sự vật nhằm đưa ra những thông tin về thuộc tính bản chất của sự vật
để có thể nhận dạng không chỉ những biểu hiện bên ngoài mà còn cả những thuộc tính
bên trong của sự vật. Nội dung của giải thích có thể bao gồm: giải thích nguồn gốc; giải
thích hình thái bên ngoài của sự vật, động thái của sự vật trong quá trình vận động; giải
thích cấu trúc của sự vật; tương tác giữa các yếu tố cấu thành sự vật; các tác nhân gây ra
sự vận động của sự vật, hậu quả của các tác động vào sự vật; quy luật chung chi phối quá
trình vận động của sự vật.
 Dự đoán : nhìn trước quá trình hình thành, sự tiêu vong, sự vận động và
những biểu hiện của sự vật trong tương lai. Với những công cụ về phương pháp luận
nghiên cứu, người nghiên cứu thực hiện các dự báo với độ chuẩn xác rất cao về các vấn
đề thuộc nhiều lĩnh vực: xã hội, môi trường, dân số, kiến trúc Những nghiên cứu của họ
đều xuất phát từ những sự kiện hiện tại, sự tiến triển có logic, có hệ thống trong lịch sử,
những tính toán và suy luận khoa học, Những công trình của họ có ý nghĩa rất quan trọng
Lê Viết Ái Lan Trang
5
Các hình thức nghiên cứu khoa học
cho xã hội loài người, giúp cho con người có cái nhìn rộng hơn, xa hơn, định hướng cho
sự phát triển của xã hội, của ngành mình cũng như tránh khỏi những hiểm họa có thể có
do chính con người gây ra. Tuy nhiên, mọi dự báo đều phải chấp nhận những sai lệch, kể
cả trong nghiên cứu tự nhiên và xã hội. Sự sai lệch trong kết quả dự báo có thể do nhiều
nguyên nhân : sai lệch khách quan trong kết quả quan sát, sai lệch do những luận cứ bị
biến dạng trong sự tác động của các sự vật khác; môi trường cũng luôn có thể biến động,

Những công trình nghiên cứu dự báo cũng rất có ý nghĩa đối với sự nghiệp giáo
dục, không chỉ riêng ở một quốc gia nào. Bởi trong sự phát triển chung của xã hội cũng
như sự đòi hỏi của chính xã hội đối với giáo dục, hiện nay có rất nhiều các công trình
nghiên cứu dự báo về nội dung, hình thức tổ chức giáo dục, phương tiện và phương pháp
giáo dục trong tương lai.
 Sáng tạo : làm ra sự vật mới chưa từng tồn tại. Khoa học không bao giờ
dừng lại ở ở chức năng mô tả, giải thích và dự đóan. Sứ mệnh lớn lao của khoa học là

sáng tạo các giải pháp cải tạo thế giới. Sáng tạo ở đây chứa đựng một ý nghĩa chung nhất,
bao gồm các phương pháp và phương tiện. Đó có thể là một sản phẩm mới, một phương
pháp mới, có thể là những giải pháp tác nghiệp trong hoạt động xã hội,…
1 Các đặc điểm của NCKH [1]
 Tính mới: Tính mới ở đây có thể hiểu là trước đó chưa ai biết, biết chưa
chính xác, chưa đầy đủ và chưa sâu sắc. Hướng tới cái mới đòi hỏi sự sáng tạo và nhạy
bén của tư duy. Đây là đặc điểm quan trọng nhất của lao động khoa học.
 Tính tin cậy: Kết quả nghiên cứu phải có khả năng kiểm chứng lại nhiều
lần do nhiều người khác nhau trong điều kiện giống nhau. Tính tin cậy còn thể hiện ở tài
liệu tham khảo.
 Tính thông tin: Đây là đặc điểm quan trọng của NCKH. Bất kỳ sản phẩm
nào của NCKH đều mang đặc trưng là những thông tin về qui luật vận động của sự vật
hoặc hiện tượng, thông tin về qui trình công nghệ và các tham số đi kèm qui trình đó. Đặc
Lê Viết Ái Lan Trang
6
Các hình thức nghiên cứu khoa học
điểm này phản ánh trình độ và năng lực của người nghiên cứu: phải biết tìm thấy trong
các nguồn thông tin những giá trị hữu ích phục vụ cho mục đích nghiên cứu.
 Tính khách quan: vừa là một đặc điểm của NCKH vừa là tiêu chuẩn của
người NCKH. Khách quan tức là mọi cái đưa ra đều có thể xác nhận được bằng các giác
quan hoặc bằng máy móc. Để đảm bảo tính khách quan, người NCKH không được nhận
định vội vã theo cảm tính, không được đưa ra kết luận thiếu các xác nhận bằng kiểm
chứng, mà cần phải tự trắc nghiệm lại những kết luận tưởng như đã hoàn toàn được xác
nhận.
 Tính rủi ro: Một nghiên cứu có thể thành công, có thể thất bại. Thất bại có
thể do nhiều nguyên nhân khác nhau: thiếu thông tin cần thiết và đủ tin cậy để xử lý vấn
đề đặt ra; trình độ kỹ thuật của thiết bị không đủ đáp ứng nhu cầu kiểm chứng giải quyết;
khả năng thực hiện của người nghiên cứu chưa đủ tầm xử lý vấn đề; giả thuyết nghiên cứu
đặt ra sai; những tác nhân bất khả kháng…
 Tính kế thừa: Có ý nghĩa quan trọng về mặt phương pháp luận nghiên cứu.

Ngày nay không có một NCKH nào bắt đầu từ chỗ hòan tòan trống không về kiến thức.
Mỗi nghiên cứu đều phải kế thừa các kết quả nghiên cứu của các lĩnh vực khoa học khác
nhau.
1 Các bước NCKH [1]
 Bước 1: Phát hiện vấn đề nghiên cứu
Vấn đề nghiên cứu là những điều chưa biết hoặc biết chưa thấu đáo về bản chất sự
vật hoặc hiện tượng, cần được làm rõ trong quá trình nghiên cứu. Khi vấn đề nghiên cứu
được chọn và cụ thể hóa thành 1 đề tài nghiên cứu, người nghiên cứu cần xác định cơ sở
lý thuyết cho nghiên cứu và tìm hiểu lịch sử vấn đề.
Phương pháp phát hiện vấn đề khoa học:
* Quá trình nghiên cứu, đọc và thu thập tài liệu nghiên cứu giúp cho nhà
khoa học phát hiện hoặc nhận ra các “vấn đề” và đặt ra nhiều câu hỏi cần nghiên
cứu (phát triển “vấn đề” rộng hơn để nghiên cứu). Đôi khi người nghiên cứu thấy
Lê Viết Ái Lan Trang
7
Các hình thức nghiên cứu khoa học
một điều gì đó chưa rõ trong những nghiên cứu trước và muốn chứng minh lại.
Đây là tình huống quan trọng nhất để xác định “vấn đề” nghiên cứu.
* Trong các hội nghị chuyên đề, báo cáo khoa học, kỹ thuật, … đôi khi có
những bất đồng, tranh cãi và tranh luận khoa học đã giúp cho các nhà khoa học
nhận thấy được những mặt yếu, mặt hạn chế của “vấn đề” tranh cãi và từ đó người
nghiên cứu nhận định, phân tích lại và chọn lọc rút ra “vấn đề” cần nghiên cứu.
* Trong mối quan hệ giữa con người với con người, con người với tự nhiên,
qua hoạt động thực tế lao động sản xuất, yêu cầu kỹ thuật, mối quan hệ trong xã
hội, cư xử, … làm cho con người không ngừng tìm tòi, sáng tạo ra những sản
phẩm tốt hơn nhằm phục vụ cho nhu cầu đời sống con người trong xã hội. Những
hoạt động thực tế này đã đặt ra cho người nghiên cứu các câu hỏi hay người
nghiên cứu phát hiện ra các “vấn đề” cần nghiên cứu.
* Các “vấn đề” hay các câu hỏi nghiên cứu chợt xuất hiện trong suy nghĩ
của các nhà khoa học, các nhà nghiên cứu qua tình cờ quan sát các hiện tượng của

tự nhiên, các hoạt động xảy ra trong xã hội hàng ngày.
* Tính tò mò của nhà khoa học về điều gì đó cũng đặt ra các câu hỏi hay
“vấn đề” nghiên cứu.
 Bước 2: Xây dựng giả thuyết ⇔ xác định luận đề ⇔ nhận định sơ bộ về bản
chất sự vật, hiện tượng.
Một giả thuyết cần đơn giản, cụ thể và rõ ràng về khái niệm. Giả thuyết đặt ra phải
dựa trên sự quan sát, kiến thức vốn có, các nguyên lý, kinh nghiệm trước đây hoặc dựa
vào nguồn tài liệu tham khảo, kết quả nghiên cứu tương tự trước đây để phát triển nguyên
lý chung hay bằng chứng để giải thích, chứng minh câu hỏi nghiên cứu. Xét về bản chất
logic, giả thuyết được đặt ra từ việc xem xét bản chất riêng, chung của sự vật và mối quan
hệ của chúng hay gọi là quá trình suy luận. Quá trình suy luận là cơ sở hình thành giả
thuyết khoa học.
Kiểm chứng giả thuyết khoa học chính là chứng minh hoặc bác bỏ giả thuyết.
Lê Viết Ái Lan Trang
8
Các hình thức nghiên cứu khoa học
∗ Chứng minh : sử dụng những phương pháp và quy tắc logic (luận chứng),
dựa vào phán đoán đã được công nhận (luận cứ), để khẳng định tính chính xác của
phán đoán cần chứng minh (luận đề). Nguyên tắc chứng minh:
- Luận đề phải rõ ràng và nhất quán. Trả lời câu hỏi “cần chứng minh điều
gì?”
- Luận cứ chính xác và có liên hệ trực tiếp với luận đề. Trả lời câu hỏi
“chứng minh bằng cái gì?”
-Luận chứng không vi phạm các nguyên tắc suy luận. Trả lời câu hỏi
“chứng minh bằng cách nào?”
∗ B ác bỏ: là chứng minh khẳng định tính không chính xác của phán đoán.
Chứng minh bác bỏ một trong ba yếu tố: hoặc luận đề sai, hoặc luận cứ sai hoặc
luận chứng sai
 Bước 3: Lập kế hoạch thu thập thông tin, chọn mẫu khảo sát, dự kiến tiến
độ, phương tiện và phương pháp nghiên cứu

 Bước 4: Xây dựng luận cứ lý thuyết (cơ sở lý luận)
 Bước 5: Thu thập dữ liệu ⇒ luận cứ thực tiễn của nghiên cứu
 Bước 6: Phân tích và bàn luận
 Bước 7: Kết luận và đề nghị.
1 Các yêu cầu đối với người nghiên cứu [1]
 Có trình độ chuyên môn: những người chưa đủ trình độ học vấn tối thiểu
thì không thể NCKH được. Nếu vì lí do nào đó mà những người này cần NCKH thì chắc
chắn họ phải đọc thêm, học hỏi thêm về chuyên môn. Nếu không thì những gì họ tìm thấy
(là mới, là đúng) thì cũng chỉ dừng lại ở kinh nghiệm.
 Có phương pháp làm việc khoa học:
- Khả năng và phương pháp tư duy.
- Khả năng phát hiện vấn đề và nhìn nhận vấn để bắt đầu nghiên cứu.
Lê Viết Ái Lan Trang
9
Các hình thức nghiên cứu khoa học
- Khả năng thu và xử lí, số liệu: thu số liệu bằng phương tiện gì, cách thu số
liệu, cách phân tích, lọc lựa số liệu
- Khả năng vạch kế hoạch làm việc thật khoa học, tiết kiệm thời gian và
kinh tế.
- Khả năng trình bày vấn đề khoa học: có kĩ thuật, rõ, dễ hiểu.
 Có các đức tính của một nhà khoa học chân chính:
- Nhiệt tình, say mê khoa học.
- Nhạy bén với sự kiện xảy ra.
- Khách quan, trung thực, nghiêm túc.
- Kiên trì, cẩn thận khi làm việc.
- Tinh thần hợp tác khoa học.
- Hoài nghi khoa học, dũng cảm bảo vệ chân lý khoa học.
1.6 Tầm quan trọng của việc nghiên cứu khoa học [1]
a. NCKH có vai trò quan trọng trong sự phát triển của mỗi ngành nghề, quốc gia,
nâng cao mức sống, kéo dài tuổi thọ…

b. NCKH đề xuất những lí thuyết mới, mô hình giáo dục mới, sử dụng phương pháp
mới làm cơ sở khoa học cho những chủ trương và biện pháp cải cách giáo dục.
c. NCKH góp phần quan trọng trong việc hình thành tính năng động, sáng tạo- một
trong những yêu cầu đặc biệt cần thiết trong xã hội hiện nay, là hoạt động không
thể thiếu của sinh viên trong các trường đại học, là một trong những yêu cầu cơ
bản đối với việc đào tạo cán bộ.
d. NCKH góp phần quan trọng trong việc bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ giảng
viên các trường cao đẳng, đại học, giáo viên các trường phổ thông. NCKH góp
phần nâng cao chất lượng dạy của gióa viên và chất lượng học của học sinh.
Lê Viết Ái Lan Trang
10
Các hình thức nghiên cứu khoa học
CHƯƠNG 2: CÁC HÌNH THỨC NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
2.1 Các loại hình nghiên cứu khoa học [1]
2.1.1. Nghiên cứu cơ bản
Nghiên cứu cơ bản là những hoạt động nghiên cứu tìm ra những qui luật chung,
những hướng đi lớn (nghiên cứu nguồn gốc của sự sống, nghiên cứu hệ thống giáo dục
quốc dân, nghiên cứu mô hình kinh tế, nghiên cứu vật lí, hóa học ) tìm ra loại nguyên
liệu mới, tìm ra những công cụ toán học mới v.v
Nghiên cứu cơ bản nhằm phát hiện thuộc tính, cấu trúc, động thái các sự vật,
tương tác trong nội bộ sự vật và mối liên hệ giữa sự vật với các sự vật khác. Kết quả của
nghiên cứu cơ bản là những phân tích lý luận, những kết luận về quy luật, những định
luật, những phát minh mới,… Nghiên cứu cơ bản luôn đi trước các loại hình nghiên cứu
khác.
Sản phẩm nghiên cứu cơ bản có thể là các khám phá, phát hiện, phát minh, dẫn đến
viêc hình thành một hệ thống lý thuyết có giá trị tổng quát, ảnh hưởng đến một hoặc nhiều
lĩnh vực khoa học. VD: Newton phát minh ra định luật hấp dẫn
Nghiên cứu cơ bản được phân thành hai loại :
- Nghiên cứu cơ bản thuần túy (hay nghiên cứu cơ bản tự do hoặc nghiên
cứu cơ bản không định hướng): là những nghiên cứu về bản chất sự vật để nâng

cao nhận thức, chưa có hoặc chưa bàn đến ý nghĩa ứng dụng.
- Nghiên cứu cơ bản định hướng: là những nghiên cứu cơ bản đã dự kiến
trước mục đích ứng dụng. Các hoạt động điều tra cơ bản về tài nguyên, kinh
tế, xã hội, … đều có thể xem là nghiên cứu cơ bản định hướng.
2.1.2.Nghiên cứu ứng dụng
Nghiên cứu ứng dụng là sự vận dụng quy luật được phát hiện từ nghiên cứu cơ bản
để giải thích một sự vật, tạo ra những nguyên lý mới về các giải pháp và áp dụng chúng
Lê Viết Ái Lan Trang
11
Các hình thức nghiên cứu khoa học
vào sản xúât và đời sống. Giải pháp được hiểu theo nghĩa rộng có thể là một giải pháp về
công nghệ, về vật liệu, về tổ chức và quản lý, Một số giải pháp công nghệ có thể trở
thành sáng chế. Ðây là công việc của lực lượng đông đảo nhất của các nhà khoa học với
xu hướng là đưa các kết quả của nghiên cứu cơ bản vào phục vụ cho xã hội loài người.
Không có họ, mọi nghiên cứu khoa học đều vô nghĩa. Tuy nhiên các kết quả của nghiên
cứu ứng dụng cũng vẫn còn trong phòng thí nghiệm, để có thể đưa vào sử dụng thì còn
phải tiến hành một loại hình nghiên cứu khác gọi là nghiên cứu triển khai.
2.1.3.Nghiên cứu triển khai
Nghiên cứu triển khai là sự vận dụng các quy luật (thu được từ nghiên cứu cơ bản)
và các nguyên lý (thu được từ nghiên cứu ứng dụng) để đưa ra các hình mẫu và quy trình
sản xuất với những tham số khả thi về kỹ thuật.
Sản phẩm của nghiên cứu triển khai chỉ mới là những hình mẫu khả thi về kỹ thuật,
nghĩa là không còn rủi ro về mặt kỹ thuật, để áp dụng được còn phải tiến hành nghiên cứu
những tính khả thi khác như: khả thi tài chính, khả thi kinh tế, khả thi môi trường, khả thi
xã hội… Hoạt động triển khai bao gồm hai giai đoạn: triển khai trong phòng thí nghiệm
và triển khai bán đại trà.
2.1.4.Mối liên hệ giữa các loại hình nghiên cứu
Sự phân chia loại hình nghiên cứu như trên đây được áp dụng phổ biến trên thế
giới. Phân chia là để nhận thức rõ bản chất của nghiên cứu khoa học, để có cơ sở lập kế
hoạch nghiên cứu, cụ thể hóa các cam kết trong hợp đồng nghiên cứu giữa các đối tác.

Tuy nhiên trên thực tế, trong một đề tài có thể tồn tại cả ba loại hình nghiên cứu, hoặc tồn
tại hai trong ba loại hình nghiên cứu.
VD: quá trình biên soạn SGK:
- Nhà lí luận dạy học nghiên cứu quá trình dạy học, các nguyên tắc dạy
học (NCCB).
- Các nhà lí luận dạy học bộ môn vận dụng vào việc tìm kiếm một cấu trúc
sách giáo khoa với nội dung phù hợp cho lứa tuổi, cho thời đại (NC ứng dụng).
Lê Viết Ái Lan Trang
12
Các hình thức nghiên cứu khoa học
- Các nhà lí luận dạy học, giáo viên triển khai bộ SGK ở một số trường,
một số khu vực. Họ tiếp tục nghiên cứu, điều chỉnh để có bộ SGK cho toàn quốc
(NC triển khai).
Việc tạo ra lý thuyết mới về toán, giải được những phương trình phức tạp, hoặc
việc nghiên cứu tìm tòi những hạt cơ bản trong vật lý đều không trực tiếp làm ra sản
phẩm. Nhưng, những kiến thức cơ bản đó sẽ giúp ích rất lớn cho nghiên cứu ứng dụng,
làm tiền đề cho những nghiên cứu phát triển công nghệ mới tiên tiến hơn.
Toàn bộ các loại hình nghiên cứu và mối liên hệ giữa các loại hình nghiên cứu
được trình bày trong sơ đồ bên dưới:
Lê Viết Ái Lan Trang
Nghiên cứu cơ bản
Nghiên cứu
ứng dụng
Triển khai
Nghiên cứu cơ bản
thuần túy
Nghiên cứu cơ bản
định hướng
Triển khai trong
phòng thí nghiệm

Nghiên cứu
nền tảng
Nghiên cứu
chuyên đề
Triển khai
bán đại trà
Quan hệ giữa các loại hình nghiên cứu
13
Các hình thức nghiên cứu khoa học
2.2. Các hình thức công bố kết quả nghiên cứu
2.2.1. Tóm tắt khoa học (TTKH) [1,2]
TTKH là loại nghiên cứu khoa học đơn giản nhất trong đó tác giả viết ngắn gọn lại
nội dung một bài báo khoa học, một báo cáo khoa học hay một cuốn sách nhằm giới thiệu
lại nội dung cho những người chưa đọc hoặc chưa nghe nội dung ấy. Bài tóm tắt phải có
đánh giá và kết luận về công trình đó. Ðây cũng chính là tính khoa học của bài tóm tắt, nó
thể hiện trình độ chuyên môn của tác giả làm TTKH.
TTKH phải thỏa mãn các yêu cầu sau:
 TTKH phải ngắn, gọn nhưng đủ ý chính của công trình. Tùy bài viết
mà có thể tóm tắt từ 5 đến 10 câu. Tóm tắt một cuốn sách có thể dài hơn.
- Phần nội dung các đoạn: cần tóm tắt rút ngắn lại sao cho mỗi đoạn hoặc
nhiều đoạn thành một câu đơn giản hoặc câu phức tạp.
- Không cần đề cập các chi tiết vụn vặt trong bài viết. Nếu cần dẫn chứng
cho rõ câu tóm tắt thì chỉ viết ví dụ một vài chi tiết.
- Chắp nối các câu lại cho thành một bài viết có các ý liên tục.
 Câu kết luận hoặc nhận xét của bài tóm tắt phải sắc bén và chắc chắn về
chuyên môn. Nó trả lời cho các câu hỏi: Cái gì là mới ? Cái gì được tập trung thảo
luận nhiều (nếu là một báo cáo khoa học)? Cái gì sẽ còn tiếp tục nghiên cứu?
2.2.2. Tổng luận khoa học [1,2]
Tổng luận khoa học là một bản mô tả khái quát toàn bộ thành tựu và những vấn đề
đang tồn tại liên quan đến một công trình nghiên cứu. Ðây là loại hình nghiên cứu cao

hơn tóm tắt khoa học, nội dung đa dạng hơn: người nghiên cứu tóm tắt, đánh giá, tổng kết
nhiều tài liệu của một hội nghị, hội thảo khoa học, một tập san khoa học
Nội dung của một tổng luận khoa học thưòng gồm các phần sau:
- Lý do làm tổng luận.
- Giới thiệu chung về toàn bộ vấn đề được làm tổng luận.
Lê Viết Ái Lan Trang
14
Các hình thức nghiên cứu khoa học
- Tóm lược các thành tựu, các luận đề, cách tiếp cận, phương pháp nghiên
cứu và các trường phái khoa học.
- Nhận xét của người viết tổng luận về các thành tựu, cách tiếp cận, phương
pháp nghiên cứu và chỉ ra chỗ mạnh, chỗ yếu, những vấn đề chưa được giải quyết
hoặc giải quyết chưa đầy đủ, chưa trọn vẹn…
Có hai cách làm:
 Tổng luận theo bài viết: thâu tóm các bản tóm tắt khoa học cho từng bài
trong tập san hoặc từng báo cáo trong hội nghị khoa học. Ðể ngắn gọn và
mang tính khoa học, tác giả có thể vắn tắt giới thiệu những bài mà mình cho
là không có gì đặc sắc, còn những bài quan trọng (nội dung mới, nội dung
đáng quan tâm hoặc đang bàn cãi ) có thể tóm tắt đầy đủ như một tóm tắt
khoa học.
 Tổng luận theo chủ đề khoa học: tập trung các bài cùng một chủ đề để tóm
tắt như một TTKH. Mỗi chủ đề được tóm tắt thành một bài, các nội dung
của một chủ đề được tiếp nối một cách hệ thống, trong đó ý của tác giả nào
phải viết rõ tên tác giả đó. Các ý mới hoặc còn tranh luận cũng được đưa ra
chắc chắn và sắc bén.
2.2.3. Nhận xét khoa học [1,2,3]
2.2.3.1. Nhận xét phản biện khoa học:
Là một văn bản viết với mục đích phân tích, đánh giá công trình nghiên cứu, luận
văn, luận án.
a) Về hình thức trình bày của bản nhận xét phản biện:

Nêu đủ các thông tin về thủ tục: tên đề tài, chuyên ngành, mã số của chuyên
ngành; họ và tên tác giả; họ và tên, chức trách, học hàm, học vị, đơn vị công tác của
người phản biện; sau đó là nội dung nhận xét.
b) Về nội dung nhận xét của các phiên bản cần nêu rõ:
- Tính cấp thiết, ý nghĩa lý luận và thực tiễn của để tài.
Lê Viết Ái Lan Trang
15
Các hình thức nghiên cứu khoa học
- Khẳng định đề tài không trùng lặp với các công trình đã công bố trong và ngoài nước.
- Nhận xét về độ tin cậy, tính hợp lý của việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu.
- Mô tả nội dung và nội dung từng chương:
+ Phân tích theo cấu trúc lôgic của nội dung, chỉ rõ chỗ mạnh, chỗ yếu.
+ Nhận xét về kết quả nghiên cứu đã đạt được.
+ Khẳng định những đóng góp mới, những bổ sung mới (phát hiện mới về
qui luật, sáng tạo mới về các giải pháp hoặc các nguyên lý công nghệ) của tác giả
góp phần phục vụ cho thực tiễn vầ bổ sung cho lý thuyết khoa học.
- Nêu những ưu điểm về nội dung và kết cấu công trình.
- Nhận xét về những luận cứ chưa được xác nhận do trở ngại tự nhiên, do điều kiện
kĩ thuật, do hạn chế nhận thức, do sai phạm trong công tác tiếp cận, do sai phạm logic suy
luận…
- Nêu những thiếu sót, tồn tại về nội dung và hình thức của công trình, luận văn,
luận án.
- Ghi rõ nội dung công trình, luận văn, luận án được công bố trên các tạp chí, kỷ
yếu hội nghị khoa học nào, giá trị khoa học ra sao.
- Khẳng định công trình, luận văn, luận án đã đáp ứng các yêu cầu về nội dung và
hình thức của công trình khoa học, luận văn, luận án; bản tóm tắt phản ánh đúng nội dung
cơ bản của công trình, luận văn, luận án và tác giả xứng đáng được công nhận học vị thạc
sĩ, tiến sĩ hay công trình nghiên cứu được chấp nhận, đánh giá, xếp loại ở mức độ nào.
- Phần khuyến nghị của phản biện: công trình có thể được chấp nhận; công trình
cần được chỉnh lý hoặc bổ sung; công trình phải làm lại; công trình cần được tiếp tục phát

triển; công trình được áp dụng…
2.2.3.2. Nhận xét luận án ở Hội đồng cơ sở
Theo hướng dẫn đánh giá luận án tiến sĩ số 8217/SĐH của Bộ Giáo dục và Đào tạo
ngày 01/9/2000, bản nhận xét luận án ở Hội đồng cơ sở cần nêu rõ các nội dung sau :
- Ý nghĩa khoa học của đề tài.
Lê Viết Ái Lan Trang
16
Các hình thức nghiên cứu khoa học
- Sự hợp lí và độ tin cậy của các phương pháp nghiên cứu.
- Đánh gía các kết quả đạt được, những đóng góp mới và giá trị của những đóng
góp đó.
- Những ưu điểm, thiếu sót; những điểm cần bổ sung, sửa chữa.
- Nhận xét về chất lượng các bài báo đã được công bố của nghiên cứu sinh. Khẳng
định các bài báo đó có chứa đựng nội dung chủ yếu của luận án hay chưa.
- Kết luận nội dung và hình thức của luận án có đáp ứng được yêu cầu của một
luận án tiến sĩ và có thể bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp nhà nước hay chưa.
2.2.4. Bài báo khoa học (BBKH)[2]
Bài báo khoa học là một ấn phẩm mà nội dung có chứa những thông tin mới (dựa
trên kết quả quan sát và thực nghiệm khoa học) có giá trị khoa học và thực tiễn được đăng
trên các tạp chí khoa học chuyên ngành với những mục đích khác nhau như: công bố một
ý tưởng khoa học; công bố từng kết quả riêng biệt của một công trình nghiên cứu dài hạn;
công bố kết quả nghiên cứu toàn bộ cồg trình; đề xướng một cuộc tranh luận hay tham gia
tranh luận trên các tạp chí hoặc hội nghị khoa học.
Bài báo khoa học là những bài thực sự là một công trình nghiên cứu, những bài
báo khác dưới dạng trao đổi kinh nghiệm, thông tin, định hướng hoạt động… không được
đánh giá là công trình nghiên cứu. Bài báo được chấp nhận là một công trình nghiên cứu
khoa học phải đạt 4 tiêu chuẩn sau:
Lê Viết Ái Lan Trang
17
Các hình thức nghiên cứu khoa học

 Phải nêu rõ mục tiêu nghiên cứu:
Tác giả phải nêu mục tiêu và đối tượng nghiên cứu hay đặt vấn đề của bài
báo, sau đó là phần giải quyết vấn đề và kết luận.
 Cần có các kết quả mới:
Nội dung bài báo phản ánh kết quả của một công trình NCKH, cho nên nó
phải chứa đựng những điểm mới, phải có giá trị khoa học và thực tiễn. Các số liệu,
kết quả thu được phải rõ ràng, chính xác.
 Phải có phản biện:
Người phản biện phải am hiểu chuyên môn của bài báo. Khi đọc, người
phản biện phải xét cả tính mới cùng ý nghĩa khoa học và thực tiễn của vấn đề
nghiên cứu, xem xét vấn đề công bố có trùng lặp với những công trình khác
không, bài báo có sai sót gì không. Nếu cần thiết người phản biện thông qua tạp
chí đề nghị tác giả sửa chữa, bổ sung cho đến khi bài báo đạt yêu cầu.
 Phải có danh mục tài liệu tham khảo.
Có hai yêu cầu đặt ra cho một bài báo khoa học là:
- Bài báo khoa học phải mang tính thuyết phục cao.
- Ðộ dài ngắn của bài báo khoa học tùy thuộc vào nội dung công việc, song
nói chung không quá dài và mang tính trao đổi thông tin là chủ yếu.
Bài báo khoa học thường được viết dưới dạng một tiểu luận: nêu lý do; trình bày
cơ sở lý thuyết; chỉ ra hiện trạng thực tế; khẳng định những phát hiện mới; đề xuất ứng
dụng và những khuyến nghị tiếp tục nghiên cứu. Mỗi bài báo khoa học luôn có ba phần
chính:
1. Mở đầu: nêu lên mục đích bài viết (trả lời câu hỏi: tại sao tôi viết bài
này?). Ðoạn mở đầu không dài lê thê và cần làm thu hút người đọc, gây tâm lí tò
mò để họ tiếp tuc đọc bài của mình.
2. Luận chứng: Ðây là đoạn quan trọng nhất của bài báo khoa học. Luận
chứng gồm nhiều luận cứ. Vấn đề có được thuyết phục hay không là ở các luận cứ.
Lê Viết Ái Lan Trang
18
Các hình thức nghiên cứu khoa học

Cho nên trong luận chứng cần trình bày rõ ràng từng luận cứ (sự kiện, hiện tượng,
lần làm thí nghiệm và kết quả ). Những chú ý khi viết luận chứng:
- Một bài báo dù là viết về một vấn đề đơn giản cũng cần ít nhất ba luận cứ
cho một kết luận (sơ đồ a).
- Các luận cứ cho một kết luận cần được làm rõ, tập trung vào một tiêu điểm
để đủ khái quát hóa cho kết luận ấy một cách vững chắc.
- Bài báo dài hay ngắn cũng do các luận cứ nhiều hay ít. Nếu nhiều luận cứ,
nhiều biểu bảng thì cần chọn lọc hoặc rút ngắn một cách hợp lí, đủ để thỏa mãn
yêu cầu về tính thuyết phục.
- Nếu một bài báo đưa ra nhiều kết luận quan trọng thì cần gom các luận cứ
cho một kết luận lại thành một đoạn. Có thể phân chia đề mục cho rõ ràng và dễ
nhận thức (sơ đồ b)
3. Kết luận chung của bài báo: Ðoạn này mang hai ý nghĩa: thâu tóm kết
quả để đề xuất ý kiến nào đó và phải nói lên được tư tưởng chính của tác giả.
2.2.5. Báo cáo khoa học (BCKH)
Báo cáo khoa học là một bài phát biểu được trình bày tại hội nghị khoa học chuyên
ngành; nội dung phải là một tài liệu có giá trị khoa học, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn- đó
là kết quả của quá trình nghiên cứu của tác giả hoặc đồng tác giả.
Lê Viết Ái Lan Trang
19
Các hình thức nghiên cứu khoa học
Nếu so sánh BBKH với một BCKH (cùng một nội dung) thì chúng giống nhau ở
cấu trúc song khác nhau ở chỗ một bên thì viết một bên thì nói. Viết thì bị giới hạn ở số
trang còn nói thì bị giới hạn ở thời gian. Thông thường, mỗi BCKH được dành cho
khoảng thời gian từ 10 đến 15 phút. Tạm phân biệt hai loại BCKH như sau:
2.2.5.1. BCKH trong hội thảo, hội nghị khoa học:
Đây không phải là việc đọc lại bài viết mà là nói trưóc Hội nghị. Một báo cáo
tham dự hội nghị, hội thảo khoa học cần nêu được những nội dung ngắn gọn, súc tích đi
thẳng vào chủ đề với đầy đủ các tài liệu lý thuyết và thực tế; có luận cứ và luận chứng; có
kết luận xác đáng; có đề xuất các giải pháp cho thực tiễn; tác giả có đề xuât ý kiến thảo

luận. Trình bày báo cáo rõ ràng, lập luận lôgic chặt chẽ, tự tin và diễn cảm; tránh trình
bày đơn điệu, khô khan, giải thích dài dòng hoặc đọc toàn văn báo cáo.
Nội dung báo cáo gồm:
 Mở đầu: Có thể lấy hoặc không lấy mở đầu trong bài viết, tùy hoàn
cảnh của buổi báo cáo. Ví dụ: Trước đó đã có người trình bày một vấn đề có liên
quan đến nội dung của mình, có thể nói vài câu về bài đó rồi tiếp: tuy nhiên,
chúng tôi lại có những suy nghĩ theo một hướng hơi khác một chút, chúng tôi xin
tham gia trao đổi với các đồng nghiệp trong hội thảo này v v Ðiều hết sức chú
ý là mở đầu không dài nhưng cần làm thu hút cử tọa.
 Phần chính của báo cáo: tư tưởng của tác giả có được thuyết phục
hay không là ở phần này. Các luận cứ không nhất thiết phải được thể hiện hết ở
đây. Có thể có những luận cứ trình bày lướt qua nhưng cũng có những luận cứ
quan trọng phải trình bày rõ hơn bài viết. Ví dụ: các biểu bảng số liệu, các câu hỏi
điều tra quan trọng, các đồ thị, các kết quả thí nghiệm , bằng cách sử dụng đèn
chiếu, video hoặc máy tính.
 Phần kết luận: Nói một vài nhận định, triển vọng của vấn đề, vài
kiến nghị. Nếu bài viết mang tính chất thảo luận thì cần kết thúc một cách khiêm
tốn.
Lê Viết Ái Lan Trang
20
Các hình thức nghiên cứu khoa học
2.2.5.2. Báo cáo luận văn, công trình NCKH:
Luận văn hoặc một công trình NCKH cần được giới thiệu không chỉ kết quả công
việc mà còn nhiều vấn đề khác có liên quan, thậm chí chỉ mang tính chất thủ tục. Tính thủ
tục là nhất thiết phải có ở một báo cáo luận văn (BCLV) bởi vì dù sao đi nữa, đây cũng là
một nội dung đào tạo đối với tác giả. Thời gian dành cho mỗi BCLV chỉ 15 đến 20 phút
(không kể thời gian trao đổi, chất vấn). Vì vậy chọn cái gì để nói là điều quan trọng cho
tác giả, đôi khi nó có ảnh hưởng trực tiếp đến việc đánh giá đề tài, dù cho bài viết và kết
quả luận văn có thể được đánh giá thế nào đi nữa.
Trình tự của một BCLV như sau:

 Mở đầu: giới thiệu tên đề tài, người hướng dẫn và phản biện.
 Ðặt vấn đề: Tại sao nghiên cứu vấn đề này? (có thể nói tự do hoặc
đọc nguyên văn trong bài tóm tắt để đảm bảo thời gian). Giả thuyết của đề tài là
gì? Các bước làm đề tài? Các phương pháp nghiên cứu?
 Nội dung chính: những công việc nghiên cứu và kết quả
* Một số vấn vấn đề lí thuyết đã nghiên cứu để làm cơ sở chính cho
đề tài.
* Nếu là đề tài quan sát, điều tra thì giới thiệu mẫu quan sát, chọn
mẫu điều tra, bảng hỏi, kết quả công việc, nhận xét
* Nếu là công trình lí thuyết thì trình bày các luận cứ, các công đoạn
tính toán, các suy luận.
* Nếu là công trình thực nghiệm thì trình bày việc chọn mẫu thực
nghiệm (TNSP) bảng số liệu, hình ảnh, phương pháp xử lí số liệu, suy
luận
 Kết luận:
* Nhắc lại giả thuyết và khẳng định các giả thuyết đó.
* Những khó khăn, sai số, nguyên nhân sai số, hướng khắc phục.
* Kiến nghị (nếu có), hứa hẹn tiếp tục nghiên cứu.
Lê Viết Ái Lan Trang
21
Các hình thức nghiên cứu khoa học
 Chú ý:
- Tất cả các nội dung báo cáo đều phải chuẩn bị trên giấy trong (transparency) để
tiết kiệm thời gian. Những bản giấy trong này cần được chuẩn bị riêng, nếu là văn bản thì
chú ý tóm tắt nội dung cần trình bày và cỡ chữ cho phù hợp. Những bảng số liệu, đồ thị
thì có thể chụp nguyên trong LV hoặc thêm những hình ảnh bên ngoài cho bài báo cáo
thêm phong phú và sinh động.
- Một BCKH luôn có chất vấn của Hội đồng nghiệm thu (hay Hội đồng chấm luận
văn) hoặc trao đổi giữa tác giả và cử tọa. Vì vậy, khi trình bày, tác giả không cần nói tỉ mỉ
mọi chuyện mình đã làm cũng như không cần dừng lại lâu ở các hình chiếu, sơ đồ, biểu

bảng. Khi trao đổi, người nào cần chỗ nào, ta chiếu lại cho rõ để lí giải thêm.
2.2.6. Luận văn khoa học [1,2,3]
Luận văn khoa học là một hình thức NCKH, báo cáo đề tài nghiên cứu của mình
khi tác giả lấy một văn bằng ở bậc đại học và sau đại học trước khi kết thúc bậc học. Luận
văn vừa thể hiện ý tưởng khoa học của tác giả vừa thể hiện kết quả của quá trình tập sự
nghiên cứu bằng những phương pháp và kỹ năng NCKH nhất định. Viết luận văn là công
việc luyện tập cho tác giả không những trong việc tìm kiếm nội dung khoa học mới mà cả
về nghệ thuật trình bày để trong tương lai tác giả có thể tự mình bắt tay vào NCKH và
viết công trình của mình.
Lê Viết Ái Lan Trang
22
Các hình thức nghiên cứu khoa học
2.2.6.1. Khóa luận tốt nghiệp Ðại học:
Là bài nghiên cứu của sinh viên ở năm cuối cùng, có giá trị thay thế cho các môn
thi tốt nghiệp, sinh viên phải vận dụng tổng hợp kiến thức của nhiều bộ môn và những
hiểu biết chung đã tích lũy được trong khóa học. Đề tài ít nhiều phải đề xuất được những
ý kiến mới, những khái quát có tầm lý luận, có tác dụng mở rộng và đào sâu tri thức của
giáo trình hoặc có thể được vận dụng ít nhiều vào thực tiễn. Mục đích chính là tạo điều
kiện cho sinh viên làm quen với công tác NCKH ở mức độ tổng hợp lí thuyết, vận dụng lí
thuyết đã học vào một công việc cụ thể, thao tác nhiều trong phòng thí nghiệm hoặc có
thể cho ra một sản phẩm nhỏ.
2.2.6.2. Luận văn Thạc sĩ:
Là bài nghiên cứu tốt nghiệp của học viên cao học. Nội dung luận văn mang tính chất
nghiên cứu và tự lực nhiều hơn, năng lực tìm kiếm, kĩ năng
sử dụng thiết bị tốt hơn so với khóa luận tốt nghiệp Ðại học.
Luận văn thạc sĩ phải thể hiện được các kiến thức về lý
thuyết và thực hành về chuyên môn, về phương pháp giải
quyết vấn đề đã được đặt ra. Các kết quả của luận văn phải
chứng tỏ là tác giả đã biết vận dụng phương pháp nghiên
cứu và các kiến thức tiếp thu được trong quá trình học tập để thực hiện đề tài.

Yêu cầu đối với luận văn thạc sĩ:
- Có độ dài khoảng 100 trang và được bảo vệ trước Hội đồng để lấy học vị thạc sỹ.
- Luận văn phải có ý nghĩa khoa học, ý nghĩa thực tiễn
- Số liệu và các nguồn trích dẫn phải chính xác và đáng tin cậy
- Văn phong mạch lạc, chuẩn xác
- Được trình bày đúng quy định và thể hiện người viết có phương pháp nghiên cứu.
Lê Viết Ái Lan Trang
23
Các hình thức nghiên cứu khoa học
2.2.6.3. Luận án Tiến sĩ:
Là công trình khoa học kết thúc quá trình đào tạo của nghiên cứu sinh, do tác giả
gần như tự lực hoàn toàn thực hiện. Luận án thể hiện khả năng độc lập, sáng tạo nghiên
cứu khoa học của nghiên cứu sinh. Luận án đánh dấu bước ngoặt của người làm khoa học,
nó chứng tỏ tác giả đã có khả năng làm việc khoa học độc lập. Không những thế, tác giả
còn có khả năng hướng dẫn hoặc chủ trì một công việc khoa học quan trọng sau này.
Luận án tiến sĩ phải có hai tính chất quan trọng:
a.Tính học thuật (academic)
- Triển khai bằng ngôn ngữ khoa học,những khung lý luận cơ bản trong ngành
- Gói ghém có phê phán tất cả các lý luận, các kết quả mà các công trình nghiên cứu
trước đã đạt được liên quan đến đề tài của mình
b.Tính độc sáng (originality)
-Đặt ra được những vấn đề mới
-Đưa ra được những giả thuyết hay lý luận mới
-Kiểm chứng bằng những tư liệu mới
Lê Viết Ái Lan Trang
24
Các hình thức nghiên cứu khoa học
KẾT LUẬN
Các kết quả nghiên cứu khoa học cần được viết ra dưói dạng các tài liệu khoa học
khác nhau để công bố (trừ những lĩnh vực phải giữ bí mật). Các tài liệu khoa học có thể

mang nhiều ý nghĩa: để trao đổi thông tin khoa học, đón nhận những ý kiến bình luận, bổ
sung, góp ý của đồng nghiệp, đi tìm địa chỉ áp dụng, khẳng định quyền tác giả đối với
công trình…
Để kết quả NCKH nhận được nhiều nhận xét khách quan, được nhiều người biết và
vận dụng thì người nghiên cứu cần phải trình bày dưới các hình thức NCKH phù hợp.



Lê Viết Ái Lan Trang
25

×