Tải bản đầy đủ (.docx) (43 trang)

tiểu luận phương pháp nghiên cứu khoa học chuyên đề Các phương pháp nghiên cứu khoa học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (861.01 KB, 43 trang )

1

MỤC LỤC


2

MỞ ĐẦU
Theo các nhà thống kê, sự phát triển của xã hội loài người
nửa cuối thế kỷ 20 bằng tổng sự phát triển của xã hội lồi người
trước đó. Điều đó cho thấy tri thức đã là một trong những động lực
quan trọng mang tính quyết định sự tồn tạo và phát triển của xã hội.
Xã hội trở thành một “xã hội của tri thức”. Điều đó làm cho việc nghiên cứu khoa học,
tập dượt nghiên cứu khoa học thành một hoạt động cần thiết cho sinh viên, học viên trong
các trường đại học, học viện, viện nghiên cứu, bên cạnh đó, cơng tác nghiên cứu của cán
bộ, giảng viên cũng đã được xem trọng hơn rất nhiều.
Để những công trình nghiên cứu này có hiệu quả cao, có thể giúp người đọc am
hiểu và vận dụng được vào thực tiễn, thì người nghiên cứu phải phải vận dụng một cách
chính xác phương pháp cụ thể cho từng cơng trình nghiên cứu. Để có thế lựa chọn đúng
thì chí ít cũng phải nắm được một cách khái quát là hiện nay có những loại phương pháp
nghiên cứu nào để từ đó mới đi sâu tìm hiểu đặc điểm, chức năng, ưu và nhược điểm của
từng phương pháp cụ thể, và đó cũng chính là lý do tơi xin trình bày đề tài: “Các phương
pháp nghiên cứu khoa học”.
Do thời gian có hạn và giới hạn của nội dung tiểu luận, trong đề tài này, tôi chỉ xin
giới thiệu tổng quan về các phương pháp nghiên cứu khoa học hiện nay, khơng đi q sâu
vào phân tích từng loại phương pháp cụ thể. Nếu có gì sơ sót tơi rất mong nhận được sự
đóng góp chân tình từ thầy PGS.TS. Trịnh văn Biều và các bạn. Xin chân thành cảm ơn!


3


Chương 1. CƠ SỞ CHUNG CỦA PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
1.1. Khái niệm khoa học và nghiên cứu khoa học
Theo Từ điển Tiếng Việt “Khoa học là hệ thống tri thức tích lũy trong q trình
lịch sử và được thực tiễn chứng minh, phản ánh những quy luật
khách quan của thế giới bên ngoài cũng như về hoạt động tinh
thần của con người, giúp con người có khả năng cải tạo thế giới
hiện thực”. Khoa học là một vấn đề có tính lịch sử bởi lẽ đối
tượng và phương pháp của khoa học không ngừng phát triển
qua thời gian. Khoa học luôn phát triển cùng với sự phát triển
của xã hội.
Hệ thống tri thức được nói ở đây là hệ thống tri thức khoa học. Khoa học, trong
trường hợp này , được hiểu như một hệ thống tĩnh tại các tri thức, xem khoa học như một
sản phẩm trí tuệ được tích luỹ từ trong hoạt động tìm
tịi, sáng tạo của nhân loại. Có thể phân chia tri thức
theo 2 hệ thống: tri thức kinh nghiệm và tri thức khoa
học, trong đó:

Tri thức kinh nghiệm
Là những hiểu biết được tích lũy
một cách rời rạc, có thể là ngẫu nhiên từ
kinh nghiệm sống qua hoạt động sống
hàng ngày trong mối quan hệ giữa con
người với con người và giữa con người với
thiên nhiên. Q trình tích lũy này giúp con
người hiểu biết về sự vật, về cách quản lý
thiên nhiên và hình thành mối quan hệ giữa
những con người trong xã hội. Tri thức
kinh nghiệm được con người không ngừng
sử dụng và phát triển trong hoạt động thực

tế. Tuy nhiên, tri thức kinh nghiệm chưa
thật sự đi sâu vào bản chất, chưa thấy được

Tri thức kh

Là những hiểu biết
cách có hệ thống nhờ
cứu khoa học, các ho
khoa học được vạch sẵn
có mục tiêu xác định (k
và được tiến hành dựa
các phương pháp khoa
như tri thức kinh nghiệ
dựa trên kết quả quan
qua những thí nghiệm
xảy ra ngẫu nhiên tron
trong tự nhiên. Tri thứ
chức trong khuôn khổ


4

hết các thuộc tính của sự vật và mối quan môn khoa học như: triết học, sử họ
hệ bên trong giữa sự vật và con người. Vì tế học, tốn học, sinh học,…
vậy, tri thức kinh nghiệm chỉ phát triển đến
một hiểu biết giới hạn nhất định, nhưng tri
thức kinh nghiệm là cơ sở cho sự hình
thành tri thức khoa học.
Theo từ điển tiếng Việt “Nghiên cứu là xem xét, làm cho
nắm vững vấn đề để nhận thức, tìm cách giải quyết.“Nghiên cứu khoa học là sự tìm kiếm

những điều mà khoa học chưa biết: hoặc là phát hiện bản chất sự vật, phát triển nhận
thức khoa học về thế giới; hoặc là sáng tạo phương pháp mới và phương tiện kỹ thuật
mới để làm biến đổi sự vật phục vụ cho mục tiêu hoạt động của con người”
Mục đích của nghiên cứu khoa học là tìm tịi, khám phá bản chất và các quy luật vận
động của thế giới, tạo ra thông tin mới, nhằm ứng dụng chúng vào sản xuất vật chất hay
tạo ra những giá trị tinh thần, để thoả mãn nhu cầu cuộc sống của con người. Nhiều
nghiên cứu khoa học không chỉ là nhận thức thế giới mà cịn cải tạo thế giới, khoa học
đích thực ln vì cuộc sống con người. Q trình nghiên cứu khoa học được tổ chức hết
sức chặt chẽ, luôn phải chọn lọc và sử dụng các phương pháp nghiên cứu. Phương
pháp gắn liền với hoạt động có ý thức của con người, là một trong những yếu tố quyết
định sự thành công của hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới.

1.2. Khái niệm phương pháp nghiên cứu khoa học và phương pháp luận
nghiên cứu khoa học
1.2.1 Phương pháp và phương pháp nghiên cứu khoa học
Thuật ngữ “phương pháp” bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “methodos”, dùng để chỉ
những cách thức được chủ thể sử dụng nhằm đạt được mục đích đã đề ra.
Đến nay phương pháp cịn được hiểu theo nhiều cách khác nhau:


Phương pháp là cách thức, con đường, phương tiện, là tổ hợp các bước
mà chủ thể phải đi theo để đạt được mục đích.


5


Phương pháp là hệ thống những quy tắc, nguyên tắc phù hợp với các quy
luật khách quan, dung để chỉ đạo hoạt động nhận thức và thực tiễn của con
người.




Theo lý thuyết hoạt động phương pháp là cách thức của chủ thể tác động
vào đối tượng nhằm đạt được mục đích đã đề ra.



Theo lý thuyết hệ thống thì hoạt động là một hệ thống bao gồm 3 thành tố
cơ bản: mục đích – nội dung – phương pháp. Phương pháp là con đường, là sự
vận động của nội dung đến mục đích.
Phương pháp nghiên cứu khoa học là tổ hợp các thao tác, biện pháp thực tiễn

hoặc lý thuyết mà nhà khoa học sử dụng để nhận thức, khám phá đối tượng, tạo ra
những hệ thống kiến thức về đối tượng. Phương pháp nghiên cứu khoa học có liên quan
tới ba vấn đề quan trọng: Phương pháp luận, phương pháp cụ thể và logic tiến hành
các cơng trình khoa học.
1.2.2 Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu khoa học
Phương pháp luận là lí luận về phương pháp, là hệ thống những quan điểm,
nguyên tắc chung về phương pháp. Nói cách khác thì phương pháp luận chính là lý luận
về phương pháp bao hàm hệ thống các phương pháp, thế giới quan và nhân sinh
quan của người sử dụng phương pháp và các nguyên tắc để giải quyết các vấn đề đã đặt
ra.
Phương pháp luận nghiên cứu khoa học là hệ thống lý thuyết về phương pháp, bao
gồm những quan điểm tiếp cận đối tượng nghiên cứu, các lý thuyết về cơ chế sáng tạo, hệ
thống lý thuyết về phương pháp, kỹ thuật tiến hành nghiên cứu một công trình khoa học
cùng với phương pháp tổ chức, quản lý quá trình ấy. Phương pháp luận được chia thành
phương pháp bộ môn – lý luận về phương pháp được sử dụng trong một bộ môn khoa
học và phương pháp luận chung cho các khoa học. Phương pháp luận là một trong 3 bộ
phận quan trọng của khoa học, đó là:

- Hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật, lý thuyết, học thuyết khoa học.


6

- Hệ thống các tri thức ứng dụng các thành tựu khoa học vào thực tiễn.
- Hệ thống lý thuyết về phương pháp nghiên cứu khoa học.
Trong nghiên cứu khoa học, phương pháp và phương pháp luận là hai khái niệm
gần nhau nhưng không đồng nhất. Phương pháp luận thuần túy lý luận, phương pháp
vừa lý luận vừa thực tiễn, phương pháp luận chỉ đạo phương pháp, phương pháp xuất
phát từ phương pháp luận trong sự thống nhất chung.

1.2.3. Đặc điểm và đặc trưng của phương pháp nghiên cứu khoa học [2],[10]
1.2.3.1 Đặc điểm của phương pháp nghiên cứu khoa học
- Phương pháp có tính mục đích vì hoạt động của con người đều có mục đích,
mục đích nghiên cứu các đề tài nghiên cứu khoa học chỉ đạo việc tìm tịi và lựa chọn
phương pháp nghiên cứu và ngược lại nếu lựa chọn phương pháp chính xác, phù hợp sẽ
làm cho mục đích nghiên cứu đạt tới nhanh hơn, và đơi khi vượt qua cả u cầu mà mục
đích đã dự kiến ban đầu.
- Phương pháp nghiên cứu gắn chặt với nội dung của các vấn đề cần nghiên cứu.
Phương pháp là hình thức vận động của nội dung. Nội dung công việc quy định phương
pháp và phương pháp là cách thực hiện nội dung, là yếu tố quyết định chất lượng của
công việc. Trong mỗi đề tài khoa học đều có phương pháp cụ thể, trong mỗi ngành khoa
học có một hệ thống phương pháp đặc thù.
- Phương pháp là cách làm việc của chủ thể, cho nên
nó gắn chặt với chủ thể và như vậy phương pháp có tính chủ
quan. Tính chủ quan của phương pháp chính là năng lực
nhận thức, kinh nghiệm hoạt động sáng tạo của chủ thể, thể
hiện trong việc ý thức được các quy luật vận động của đối
tượng và sử dụng chúng để khám phá chính đối tượng.

- Phương pháp là cách làm việc của chủ thể và bao giờ cũng xuất phát từ đặc điểm
của đối tượng, phương pháp gắn chặt với đối tượng, và như vậy phương pháp có tính
khách quan. Tính khách quan quy định việc chọn cách này hay cách kia trong hoạt động


7

của chủ thể. Đặc điểm của đối tượng chỉ dẫn cách chọn phương pháp làm việc, trong
nghiên cứu khoa học cái chủ quan phải tuân thủ cái
khách quan. Các quy luật khách quan tự chúng chưa
phải là phương pháp, nhưng nhờ có chúng mà ta phát
hiện ra phương pháp. Ý thức về sự sáng tạo của con
người phải tiếp cận được các quy luật khách quan của
thế giới.
- Phương pháp nghiên cứu khoa học có một cấu
trúc đặc biệt đó là một hệ thống các thao tác được sắp xếp theo một chương trình tối ưu.
Sự thành cơng nhanh chóng hay khơng của một hoạt động nghiên cứu chính là phát hiện
được hay khơng lơgíc tối ưu của các thao tác hoạt động và sử dụng nó một cách có ý
thức.
- Phương pháp nghiên cứu khoa học ln cần có các cơng cụ hỗ trợ, cần có các
phương tiện kỹ thuật hiện đại với độ chính xác cao. Phương tiện và phương pháp là hai
phạm trù khác nhau nhưng chúng lại gắn bó chặt chẽ với nhau căn cứ vào đối tượng
nghiên cứu mà ta chọn phương pháp nghiên cứu, theo yêu cầu của phương pháp nghiên
cứu mà chọn các phương tiện phù hợp, nhiều khi còn cần phải tạo ra các công cụ đặc biệt
để nghiên cứu một đối tượng nào đó. Chính các phương tiện kỹ thuật hiện đại đảm bảo
cho quá trình nghiên cứu đạt tới độ chính xác cao.
1.2.3.2 Đặc trưng của phương pháp nghiên cứu khoa học
Sự hiểu biết của khoa học hiện đại không những đem lại cho con người những
hiểu biết sâu sắc về thế giới, mà còn đem lại cho con người cả những hiểu biết về
phương pháp nhận thức thế giới, ngày này cùng với bản thân khoa học người ta cũng

chú ý tới phương pháp nhận thức khoa học. Phương pháp gắn liền với hoạt động có ý
thức của con người là một trong những yếu tố quyết định sự thành công của hoạt động
nhận thức và cải tạo thế giới. Phương pháp là phạm trù phức tạp, có phạm vi bao quát
rộng, với nhiều cấp độ và rất phong phú về nội dung và chủng loại. Phương pháp
nghiên cứu khoa học có ba đặc trưng quan trọng:


8

- Một là: Phương pháp luôn gắn với những tư tưởng cơ bản, có tính ngun
tắc, định hướng chỉ đạo hoạt động, đó chính là các quan điểm tiếp cận đối tượng, là
thế giới quan của nhà nghiên cứu.
- Hai là: Phương pháp là một hệ thống các phương thức hoạt động, bao gồm
thủ pháp, các thao tác hoạt động có tính kỹ thuật. Đó là các phương pháp cụ thể.
- Ba là: Phương pháp là hệ thống các quy trình hoạt động, là trình tự các bước
đi, bao gồm logic tiến trình và logic nội dung của hoạt động. Phương pháp có tính quy
trình.

1.2.4. Phân loại phương pháp nghiên cứu khoa học [1],[2]
Dựa trên những đặc điểm cơ bản của phương pháp và phương pháp luận nghiên
cứu khoa học, người ta tìm cách phân loại chúng. Trong thực tế có nhiều cách phân loại
phương pháp:
a) Dựa vào phạm vi sử dụng


Nhóm phương pháp chung nhất dùng cho tất cả các lĩnh vực khoa học



Nhóm phương pháp chung dùng cho một nhóm khoa học




Nhóm phương pháp đặc thù chỉ dùng cho một lĩnh vực cụ thể

b) Dựa trên trình độ nghiên cứu và tính chất của đối tượng


Nhóm các phương pháp mơ tả



Nhóm các phương pháp giải thích



Nhóm các phương pháp phát hiện

c) Dựa vào lý thuyết thơng tin


Nhóm các phương pháp thu thập thơng tin



Nhóm các phương pháp xử lý thơng tin



Nhóm các phương pháp trình bày và lưu trữ thơng tin


d) Dựa vào đặc điểm của hoạt động


Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận



Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn


9


Nhóm các phương pháp tốn học

Chương 2: CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
KHOA HỌC
2.1. Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý luận
Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận là những phương pháp thu thập thông tin khoa
học dựa vào việc nghiên cứu các tài liệu, văn bản đã có và từ đó rút ra các kết luận
bằng các thao tác tư duy logic.
Phương pháp nghiên cứu lý luận được dùng cho tất cả các ngành khoa học. Khác
với nghiên cứu thực nghiệm phải sử dụng các yếu tố, điều kiện vật chất tác động vào đối
tượng nghiên cứu, trong nghiên cứu lý thuyết quá trình tìm kiếm phát hiện diễn ra thơng
qua tư duy trìu tượng, sử dụng các phương tiện ngôn ngữ, chữ viết, v.v…Do vậy loại
phương pháp này giữ một vị trí rất cơ bản trong nghiên cứu khoa học xã hội- nhân văn.
Trong phương pháp lý thuyết do đặc tính của q trình sáng tạo khoa học diễn ra
thơng qua tư duy trìu tượng, suy luận, khái qt hố, lại khơng được thực tiễn kiểm
chứng ngay, mà phải trải qua một thời gian khá dài đúng sai mới sáng tỏ. Điều đó dễ dẫn

người làm khoa học phạm vào sai lầm chủ quan duy ý chí, tự biện. Coi trọng phương
pháp lý thuyết trong nghiên cứu khoa học xã hội, người làm khoa học cần chú ý kết hợp


10

phương pháp này với phương pháp quan sát, tổng kết thực tiễn.Sự kết hợp này là yếu tố
bổ sung, giúp người nghiên cứu khoa học tránh được những hạn chế do phương pháp lý
thuyết đưa lại.
Điểm xuất phát của nghiên cứu thực nghiệm là quan sát thực tiễn, quan sát sự vận
động của đối tượng nghiên cứu. Trong nghiên cứu lý thuyết, nền tảng và điểm xuất phát
của quá trình nghiên cứu là tri thức lý luận các quan điểm, các lý thuyết. Do vậy việc nắm
vững hệ thống lý luận nền tảng đóng vai trị rất quyết định trong loại phương pháp này.
Nắm vững lý thuyết nền là cơ sở hình thành định hướng trong nghiên cứu hình thành các
trường phái khoa học.
Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận bao gồm các phương pháp sau:


Đọc và nghiên cứu tài liệu



Phương pháp phân tích và tổng hợp



Phương pháp diễn dịch và qui nạp




Phương pháp phân loại, hệ thống hóa



Phương pháp xây dựng giả thuyết



Phương pháp lịch sử

2.1.1. Đọc và nghiên cứu tài liệu[1],[2],[3],[5]
2.1.1.1. Khái niệm
Để làm tốt việc nghiên cứu tài liệu trong nghiên cứu khoa học, khơng chỉ địi hỏi
biết cách tìm kiếm và tìm được nhiều tài liệu tham khảo có giá trị, mà cịn có u cầu cao
về phương pháp đọc tài liệu, kĩ thuật ghi chú và khai thác hiệu quả các thông tin từ tài
liệu đó.
Đọc tài liệu có nghĩa là phân tích, phê phán tóm tắt, trích lục, … các sách vở, tạp
chí, báo chí tư liệu, văn kiện bản thảo,… nói chung là các loại văn bản đã hoặc chưa xuất
bản, có liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp đến đề tài, giúp ta giải quyết các nhiệm vụ
nghiên cứu.


11

2.1.1.2. Tầm quan trọng của việc đọc và nghiên cứu tài liệu
Trong nghiên cứu khoa học, thơng tin có vai trị hết sức quan trọng. Vì thế đọc và
nghiên cứu tài liệu là một công việc quyết định sự thành cơng của đề tài.
Đọc tài liệu giúp ta có thêm kiến thức sâu sắc về các phương diện khác nhau thuộc
chủ đề nghiên cứu, hiểu rõ hơn về đề tài.
Đọc tài liệu có vai trị đặc biệt quan trọng trong mọi giai đoạn nghiên cứu khoa học,

từ khâu lựa chọn đề tài, soạn đề cương nghiên cứu, thu thập tài liệu, sự kiện trong giai
đoạn triển khai việc nghiên cứu cho đến lúc xử lí các tài liệu và cả sau đó, khi viết kết
quả nghiên cứu và đưa nó vào thực tiễn.
Đọc tài liệu nhằm mục đích giúp ta thừa kế được kết quả nghiên cứu của những
người đi trước và phương pháp nghiên cứu của họ để giải quyết những vấn đề liên quan
đến đề tài nghiên cứu của mình.
Đọc tài liệu giúp ta biết vấn đề nào cần nghiên cứu, đề tài nào có thể nghiên cứu,
sử dụng phương pháp, biện pháp, kĩ thuật nào phù hợp với

hồn

cảnh của mình…Việc đọc tài liệu cũng nhằm theo dõi xem

có gì

mới được cơng bố xung quanh đề tài của mình để ta kịp

thời

vận dụng những thành tựu mới để hiệu chỉnh và cải tiến

cơng

trình của ta đến mức tối ưu.
Khi thực hiện các nhiệm vụ của đề tài, đọc và nghiên

cứu

tài liệu giúp cho việc xây dựng luận cứ để chứng minh giả
thuyết khoa học có hiệu quả. Mỗi khi cảm thấy “bí” về ý tưởng, tìm đọc các tài liệu liên

quan ta sẽ nhận được các lời gợi ý cần thiết.
2.1.1.3. Phân loại tài liệu


Theo nguồn gốc của tài liệu:


Tài liệu nguyên cấp



Tài liệu thứ cấp



Tài liệu tam cấp


12


Theo phương tiện phát hành:



Tài liệu trên băng đĩa (băng cassette, video, CD-ROM, DVD)





Tài liệu in trên giấy (sách, báo)
Tài liệu trên internet...

Theo độ sâu chun mơn:


Tài liệu khoa học phổ thơng



Tài liệu khoa học kỹ thuật chun ngành

2.1.1.4. Khi lựa chọn tài liệu cần chú ý





Tính khoa học, mức độ chính xác và tính trung thực của tài liệu
Quy trình cơng bố thơng tin được tổ chức với sự phản biện khoa học chặt chẽ
Uy tín, kinh nghiệm xuất bản khoa học của đơn vị phát hành tài liệu
Uy tín, kinh nghiệm khoa học của tác giả

2.1.1.5. Phương pháp đọc và nghiên cứu tài liệu


Các bước đọc tài liệu




Trước khi đọc
 Một đề tài nghiên cứu khoa học nghiêm túc đòi hỏi người nghiên cứu phải đọc

nhiều tài liệu tham khảo liên quan đến chủ đề đang quan tâm, một cách có
chiến lược và hiệu quả. Tự đặt những câu hỏi để xác định rõ ràng mục đích đọc
tài liệu, đánh giá sơ bộ tài liệu cần đọc trước khi đi vào từng chi tiết.


Mục đích, động cơ đọc tài liệu? - Giải trí, tìm hiểu tổng qt hay chuyên
sâu làm sáng tỏ một vấn đề,...



Vấn đề nào cần quan tâm? - Đó là những khía cạnh của vấn đề đã được
xác định trong quá trình lựa chọn đề tài nghiên cứu, chủ đề cần tìm hiểu.






Những thắc mắc đang cần tìm câu trả lời?
Kiểu thơng tin nào đang cần có? - Số liệu thống kê, kết quả nghiên cứu,
hình ảnh minh hoạ, báo cáo tổng hợp,...
Cần đọc lướt qua toàn bộ tài liệu để đánh giá sơ bộ mức độ phù hợp của tài
liệu với nhu cầu đề tài, phạm vi giới hạn và trọng tâm của tài liệu.


13



Xem kĩ nội dung phần tóm tắt của tài liệu, đọc các đề mục chính và phụ
trong bài để tạo một mối liên hệ chung giữa toàn bộ các khái niệm quan trọng,
các từ khố.



Trong khi đọc

Cần tập trung và chú ý cao độ , sử dụng phương pháđọc thích hợp với các mục đích
đặt ra :
 đọc gạn lọc: chỉ đọc những gì quan trọng, cốt lõi, mới mẻ, hấp dẫn nhất
 chỉ đọc tựa, các tựa phụ, đoạn đầu và đoạn cuối, câu đầu và câu cuối

của các đoạn khác, ghi nhớ các ý chính,
 chú ý đặc biệt đến những từ nối quan trọng tạo mối liên hệ trong lập

luận suốt tồn bài,
 khơng đọc các chi tiết nhỏ cụ thể;
 đọc định vị: đọc lướt qua tài liệu để tìm các thơng tin chính xác, một

mẩu trích dẫn, khái qt các yếu tố liên quan,... địi hỏi xác định rõ
mục đích đọc ngay từ đầu;
 đọc chéo: đọc nhanh qua tất cả các trang, đoạn văn bản mà không chú

ý vào một điểm cụ thể nào trong bài, phù hợp với những tài liệu chỉ
cung cấp các thơng tin cơ bản, phổ thơng, khơng địi hỏi nhiều kiến
thức chun mơn sâu;
 đọc bình thường: mức độ đúng... bình thường như vẫn gọi là "đọc",


tức đọc lần lượt tồn bộ văn bản, có thể nhanh hay chậm tuỳ khả
năng,


tiếp nhận thơng tin một cách bình thường trong q trình đọc
mà khơng địi hỏi một sự tập trung cao độ với nhiều thao tác tư
duy phức tạp và thông thường không đủ để đáp ứng yêu cầu
cao khi đọc tài liệu khoa học;

 đọc tích cực: là phương pháp đọc hiểu quả nhất, bằng cách:
 ghi chú, đánh dấu các ý chính,
 tóm tắt tồn bộ tài liệu hoặc các phần quan trọng,


14
 biết lĩnh hội kiến thức, tiêu hố thơng tin một cách chủ động,

có chọn lọc,
 đánh giá, so sánh, liên hệ giữa các ý, các tài liệu, các tác giả

khác nhau nhằm đưa ra một cái nhìn phân tích/tổng hợp/phê
bình đối với mọi tài liệu và thơng tin khoa học.
• Sau khi đọc
 Sau khi đọc xong, cần kiểm tra, đối chiếu lại những gì thu được với các mục đích




ban đầu.
Có đáp ứng các u cầu chun mơn đặt ra chưa?

Có đạt được mục đích định ra ban đầu chưa?
Có giải đáp được những thắc mắc cần tìm câu trả lời chưa?
Và từ đó, xác định là đã hoàn tất việc đọc tài liệu, hay cần phải đọc lại, hay cần
phải đọc mở rộng thêm trong các tài liệu khác...
• Phương pháp đọc tài liệu


Đọc một cuốn sách khoa học

Ngoài các nguyên tắc chung và các bước đọc tài liệu đã trình bày ở các phần trên, đối với
một số loại tài liệu khoa học phổ biến, có thể mô tả một số chi tiết cụ thể hơn.
Đối với một cuốn sách khoa học, khi đánh giá sơ bộ cần chú ý các phần sau:

Trang bìa trước
Trang bìa sau

Trang nhan đề

Mục lục

Cung cấp các thông tin nhận diện như tựa sách, tựa phụ (xác định
hướng chuyên sâu của sách), tên tác giả, nhà xuất bản.
Thường có tiểu sử tóm tắt của tác giả, có khi có tóm tắt nội dung
sách hoặc các lời bình luận.
Đây là trang chính cung cấp thơng tin xuất bản để trình bày tham
khảo, chứ khơng phải trang bìa trước.
Sau trang này, trong các sách nước ngoài, thường là phần giới thiệu
các lần xuất bản trước, thông tin bản quyền, lưu chiểu, số hiệu sách
ISBN, số hiệu tái bản và năm xuất bản.
Đây là việc quan trọng khi đọc sơ bộ một cuốn sách, vì trong đó thể

hiện cấu trúc ý tưởng, hướng lập luận và trình bày vấn đề của tác
giả. Mục lục cho phép xác định, với nhu cầu đang có, cần đọc toàn
bộ nội dung hay chỉ lựa chọn vài phần đáng quan tâm.


15

Mở đầu,
lời giới thiệu

Trong phần mở đầu, tác giả thường giới thiệu mục đích, đại ý, cách
trình bày các ý tưởng, các giả thuyết đưa ra và các phương pháp
giải quyết vấn đề,...Lời giới thiệu đơi khi có những lời bình luận,
nhận xét, đánh giá tổng quát của những người có uy tín, dựa vào đó
có thể xác nhận giá trị khoa học của sách.

Kết luận

Phần này cho phép hình dung trước một đích đến của việc đọc tài
liệu, ước lượng mức độ phù hợp của nội dung sách với nhu cầu của
đề tài, …



Trong q trình đọc chi tiết từng phần, nên:

 xác định nơi có câu trả lời các câu hỏi đặt ra thông qua các đề mục chính và tiểu

mục, khái niệm cơ bản trong mỗi phần;
 tóm tắt một cách có hệ thống nội dung của mỗi phần đã đọc:

 đọc phần mở đầu và kết luận để xác định mục đích của tác giả và trọng tâm bài,
 ghi chú ra giấy các ý tưởng chính, các phương pháp và những vấn đề được giải

quyết trong bài.


Đọc một bài báo khoa học

Các bài báo khoa học là những nguồn cung cấp thơng tin có thể xem là phổ biến nhất
trong các nghiên cứu khoa học nói chung. Tuỳ mỗi chuyên ngành mà cấu trúc của một
bài báo khoa học có sự khác biệt cụ thể, song một cách tổng qt, ln có những phần
quan trọng sau:


mở đầu;



đối tượng và phương pháp nghiên cứu;



kết quả và thảo luận;



kết luận.

Riêng với các bài báo mang tính chất tổng hợp, cấu trúc các phần có thể được chia thành:



mở đầu;


16


các nhóm chủ đề, khía cạnh được xử lí;



kết luận, triển vọng.

Thông thường, để đọc một bài báo, nhà nghiên cứu sẽ
xem trước nội dung tóm tắt để quyết định đọc hay
không đọc chi tiết tài liệu.Ở đây xin giới thiệu một sơ đồ
đọc tổng quát cho một bài báo kết quả nghiên cứu như
sau:

(dựa trên mẫu của Service des bibliothèques de l'UQM, 2006)

2.1.2. Phương pháp phân tích và tổng hợp [1],[2],[4],[5],[6]
2.1.2.1. Khái niệm
Phương pháp phân tích lý thuyết là phương pháp nghiên cứu các văn bản, tài
liệu lý luận khác nhau về một chủ thể bằng cách phân tích chúng thành từng bộ
phận, từng mặt theo lịch sử thời gian, để hiểu chúng một cách đầy đủ toàn diện.
Phân tích lý thuyết cịn nhằm phát hiện ra những xu hướng, những trường phái nghiên
cứu của từng tác giả và từ đó chọn lọc những thơng tin quan trọng phục vụ cho đề tài
nghiên cứu của mình.
Khi chúng ta đứng trước một đối tượng nghiên cứu, chúng ta cảm giác được nhiều

hiện tượng đan xen nhau, chồng chéo nhau làm lu mờ bản chất của nó.Vậy muốn hiểu


17

được bản chất của một đối tượng nghiên cứu chúng ta cần phải phân chia nó theo cấp
bậc. Nhiệm vụ của phân tích là thơng qua cái riêng để tìm ra được cái chung, thơng qua
hiện tượng để tìm ra bản chất, thơng qua cái đặc thù để tìm ra cái phổ biến.
Khi phân chia đối tượng nghiên cứu cần phải:
+ Xác định tiêu thức để phân chia.
+ Chọn điểm xuất phát để nghiên cứu.
+ Xuất phát từ mục đích nghiên cứu để tìm thuộc tính riêng và chung.
Bước tiếp theo của phân tích là tổng hợp. Tổng hợp là q trình ngược với q
trình phân tích, nhưng lại hỗ trợ cho q trình phân tích để tìm ra cái chung cái khái
quát.
Phương pháp tổng hợp lý thuyết là những phương pháp liên kết từng mặt, từng
bộ phận thông tin từ các lý thuyết đã thu thập được để tạo ra một hệ thống lý thuyết
mới đầy đủ và sâu sắc về chủ đề nghiên cứu. Tổng hợp lý thuyết được thực hiện khi ta
đã thu thập được nhiều tài liệu phong phú về một đối tượng. Tổng hợp cho chúng ta
tài liệu toàn diện và khái quát hơn các tài liệu đã có.
Phân tích và tổng hợp là hai phương pháp có chiều hướng đối lập nhau song
chúng lại thống nhất biện chứng với nhau. Phân tích chuẩn bị cho tổng hợp và tổng hợp
lại giúp cho phân tích càng sâu sắc hơn.
Phân tích và tổng hợp là hai phương pháp gắn bó chặt chẽ quy định và bổ sung
cho nhau trong nghiên cứu, và có cơ sở khách quan trong cấu tạo, trong tính quy luật
của bản thân sự vật. Trong phân tích, việc xây dựng một cách đúng đắn tiêu thức phân
loại làm cơ sở khoa học hình thành đối tượng nghiên cứu bộ phận ấy, có ý nghĩa rất
quan trọng. Trong nghiên cứu tổng hợp vai trò quan trọng thuộc về khả năng liên kết
các kết quả cụ thể( có lúc ngược nhau) từ sự phân tích, khả năng trìu tượng, khái qt
nắm bắt được mặt định tính từ rất nhiều khía cạnh định lượng khác nhau.

Nghiên cứu lý thuyết thường bắt đầu từ phân tích các tài liệu đã tìm ra cấu trúc
các lý thuyết, các trường phái, các xu hướng phát triền của lý thuyết. Từ phân tích


18

người ta lại tổng hợp chúng lại để xây dựng thành một hệ thống khái niệm, phạm trù,
tiến tới tạo thành các lý thuyết khoa học mới. Từ những kết quả nghiên cứu từng mặt,
phải tổng hợp lại để có nhận thức đầy đủ, đúng đắn cái chung, tìm ra được bản chất, quy
luật vận động của đối tượng nghiên cứu.
Với các ngành khoa học tự nhiên, kỹ thuật do tính chính xác quy định, mặt phân
tích định lượng có vai trò khá quyết định kết quả nghiên cứu. Quá trình tổng hợp, định
tính ở đây hoặc giả là những phán đoán, dự báo thiên tai, chỉ đạo cả quá trình nghiên cứu,
hoặc giả là những kết luận rút ra từ phân tích định lượng. Trong các ngành khoa học xã
hội - nhân văn, sự hạn chế độ chính xác trong phân tích định lượng làm cho kết quả
nghiên cứu lệ thuộc rất nhiều vào tổng hợp, định tính. Song chính đặc điểm này dễ làm
cho kết quả nghiên cứu bị sai lệch do những sai lầm chủ quan duy ý chí.
2.1.2.2. Các nguồn tài liệu để phân tích - tổng hợp [1],[2]
Nguồn tài liệu được phân tích từ nhiều góc độ: chủng loại, tác giả, logic,… Xét về
chủng loại có các loại tài liệu sau đây:
- Tạp chí và báo cáo khoa học trong ngành.
- Tác phẩm khoa học.
- Tài liệu lưu trữ.
- Thông tin đại chúng.
Các tài liệu nguồn trên đây có thể tồn tại dưới 2 dạng:
(1) Tài liệu nguồn cấp 1: gồm tài liệu nguyên gốc của chính tác giả hoặc của nhóm
tác giả viết.
(2) Tài liệu nguồn cấp 2: gồm những tài liệu được tóm tắt, xử lý, biên soạn, biên
dịch trích dẫn từ tài liệu gốc cấp 1.
Trong nghiên cứu khoa học người ta ưu tiên sử dụng tài liệu gốc cấp 1. Chỉ trong

trường hợp khơng tìm được tài liệu gốc cấp 1 thì mới sử dụng tài liệu gốc cấp 2.


19

2.1.3. Phương pháp diễn dịch và qui nạp [1]
Phương pháp diễn dịch là phương pháp suy luận từ cái chung đến cái riêng. Đó là
phương pháp đi từ cái bản chất, nguyên tắc, nguyên lý đã được thừa nhận để tìm ra các
hiện tượng, các biểu hiện, cái trùng hợp cụ thể trong sự vận động của đối tượng.
Phương pháp diễn dịch nhờ vậy có ý nghĩa rất quan trọng trong những bộ môn
khoa học thiên về nghiên cứu lý luận, ở đây người ta đưa ra những tiền đề, giả thuyết, và
bằng những suy diễn logic để rút ra những kết luận, định lý, công thức.
Phương pháp quy nạp ngược lại với phương pháp diễn dịch. Đó là phương pháp
đi từ cái riêng đến cái chung, từ những hiện tượng riêng lẻ, rời rạc, độc lập ngẫu nhiên
rồi liên kết các hiện tượng ấy với nhau để tìm ra bản chất của một đối tượng nào đó.
Từ những kinh nghiệm, hiểu biết các sự vật riêng lẻ người ta tổng kết quy nạp
thành những nguyên lý chung. Cơ sở khách quan của phương pháp quy nạp là sự lặp lại
của một số hiện tượng này hay hiện tượng khác
do chỗ cái chung tồn tại, biểu hiện thông qua
cái riêng. Nếu như phương pháp phân tích tổng hợp đi tìm mối quan hệ giữa hình thức và
nội dung thì phương pháp quy nạp đi sâu vào
mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng. Một
hiện tượng bộc lộ nhiều bản chất. Nhiệm vụ của
khoa học là thông qua hiện tượng để tìm ra bản chất, cuối cùng đưa ra giải pháp. Phương
pháp quy nạp đóng một vai trị quan trọng trong việc phát hiện ra các quy luật, rút ra từ
những kết luận tổng quát đưa ra các giả thuyết.
Trong nghiên cứu khoa học, người ta cịn có thể xuất phát từ những giả thuyết hay
từ những nguyên lý chung để đi sâu nghiên cứu những hiện tượng cụ thể nhờ vậy mà có
nhận thức sâu sắc hơn từng đối tượng nghiên cứu.
Diễn dịch và quy nạp là hai phương pháp nghiên cứu theo chiều ngược nhau song

liên hệ chặt chẽ và bổ sung cho nhau trong mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng. Nhờ


20

có những kết quả nghiên cứu theo phương pháp quy nạp
trước đó mà việc nghiên cứu có thể tiếp tục, phát triển theo
phương pháp diễn dịch. Phương pháp diễn dịch, do vậy mở
rộng giá trị của những kết luận quy nạp vào việc nghiên cứu đối tượng.
2.1.4. Phương pháp phân loại, hệ thống hóa [1],[2],[6],[6]
Trên cơ sở phân tích lý thuyết để tiến tới tổng hợp chúng người ta lại thực hiện
quá trình phân loại và hệ thống kiến thức.
Phân loại là phương pháp sắp xếp các tài liệu khoa học theo một chủ đề , theo
từng mặt, từng đơn vị kiến thức có cùng một dấu hiệu bản chất, cùng hướng phát triển
thành một hệ thống logic chặt chẽ.
Phân loại làm cho khoa học từ chỗ có kết cấu phức tạp trong nội dung thành
cái dễ nhận thấy, dễ sử dụng theo mục đích nghiên cứu của các đề tài. Phân loại còn
giúp ta hiểu rõ hơn về đối tượng nghiên cứu, từ đó dễ phát hiện các quy luật phát triền
của khách thể, cũng như sự phát triền của kiến thức khoa học, để từ đó mà dự đoán
được các xu hướng phát triền mới của khoa học và thực tiễn.
Phương pháp hệ thống hóa là phương pháp sắp xếp tri
thức khoa học thành hệ thống trên cơ sở một mơ hình lý
thuyết làm cho sự hiểu biết của ta về đối tượng được đầy đủ và
sâu sắc.
Hệ thống hóa là phương pháp tuân theo quan điểm hệ
thống - cấu trúc trong nghiên cứu khoa học. Những thông tin
đa dạng thu thập từ các nguồn, các tài liệu khác nhau, nhờ phương pháp hệ thống hóa
mà ta có được một chính thể với một kết cấu chặt chẽ để từ đó mà ta xây dựng một lý
thuyết mới hồn chỉnh.
Phân loại và hệ thống hóa là hai phương pháp đi liền với nhau, trong phân loại

đã có yếu tố hệ thống hóa, hệ thống hóa phải dựa trên cơ sở của phân loại và hệ thống


21

hóa làm cho phân loại được đầy đủ và chính xác hơn. Phân loại và hệ thống hóa là
hai bước tiến để tạo ra những kiến thức mới sâu sắc và toàn diện.
2.1.5. Phương pháp xây dựng giả thuyết [1],[2],[4],[4]
Giả thuyết là nhận định sơ bộ, là kết luận giả định của nghiên cứu, là luận điểm
khoa học mà người nghiên cứu đặt ra. Giả thuyết còn là một phán đoán về quan hệ nhân
quả. Một giả thuyết là một phát biểu tạm thời, có thể đúng và cũng có thể khơng đúng.
Vì vậy, cần phải kiểm nghiệm để chấp nhận hay bác bỏ.
Phương pháp xây dựng giả thuyết là phương pháp nghiên cứu đối tượng bằng
cách dự đoán bản chất của đối tượng và tìm cách chứng minh các dự đốn đó.
Như vậy phương pháp giả thuyết có hai chức năng: chức năng dự đoán và chức năng
chỉ đường, trên cơ sở dự đốn mà tìm bản chất của sự kiện. Với hai chức năng đó giả
thuyết đóng vai trò là một phương pháp nhận thức.
Trong nghiên cứu khoa học khi phát hiện ra các hiện tượng lạ mà với kiến thức
đã có, khơng thể giải thích được, người ta thường tiến hành bằng so sánh hiện tượng
chưa biết với các hiện tượng đã biết, tri thức cũ với trí tưởng tượng sáng tạo mà hình
dung cái cần tìm. Đó chính là thao tác xây dựng giả thuyết.
Trong giả thuyết, dự đoán được lập luận theo lối giả định - suy diễn, có tính xác
suất, cho nên cần phải chứng minh. Chứng minh giả thuyết được thực hiện bằng hai
cách: chứng minh trực tiếp và chứng minh gián tiếp. Chứng minh trực tiếp là phép
chứng minh dựa vào các luận chứng chân thực và bằng các quy tắc suy luận để rút ra
luận đề. Chứng minh gián tiếp là phép chứng minh khẳng định rằng phản luận đề là
gian dối và từ đó rút ra luận đề chân thực.
Với tư cách là phương pháp biện luận, giả thuyết được sử dụng như là thực
nghiệm của tư duy, thử nghiệm thiết kế các hành động lý thuyết. Suy diễn để rút ra các
kết luận chân thực từ giả thuyết là thao tác logic quan trọng của quá trình nghiên cứu

khoa học.


22

Phương pháp xây dựng giả thuyết có thể coi là một trong những phương pháp
quan trọng nhất của nghiên cứu khoa học. Với các đề tài về khoa học tự nhiên hay khoa
học kỹ thuật thì giả thiết ln ln được kiểm chứng bằng thí nghiệm. Cịn các đề tài về
khoa học xã hội, giả thuyết được kiểm chứng bằng các thực nghiệm xã hội học.
2.1.6. Phương pháp lịch sử [1],[2]
2.1.6.1. Khái niệm
Các đối tượng nghiên cứu (sự vật, hiện tượng) đều ln biến đổi, phát triển theo
những hồn cảnh cụ thể của nó, tạo thành lịch sử liên tục được biểu hiện ra trong sự đa
dạng, phức tạp, nhiều hình nhiều vẻ có cả tất nhiên và ngẫu nhiên.
Phương pháp lịch sử là phương pháp thông qua miêu tả tái hiện hiện thực với sự
hỗn độn, lộn xộn, bề ngoài của các yếu tố, sự kiện kế tiếp nhau, để nêu bật lên tính quy
luật của sự phát triển. Hay nói một cách khác, phương pháp lịch sử là phương pháp
nghiên cứu bằng đi tìm nguồn gốc phát sinh, q trình phát triển và biến hóa của đối
tượng, để phát hiện bản chất và quy luật của đối tượng.
Mọi sự vật và hiện tượng của tự nhiên và xã hội đều có lịch sử của mình, tức là
có nguồn gốc phát sinh, có vận động phát triển và tiêu
vong. Quy trình phát triển lịch sử biểu hiện tồn bộ tính cụ

thể

của nó, với mọi sự thay đổi, những bước quanh co, những cái
ngẫu nhiên, những cái tất yếu, phức tạp, mn hình, mn vẻ,
trong các hồn cảnh khác nhau và theo một trật tự thời gian
nhất định. Đi theo dấu vết của lịch sử chúng ta sẽ có bức tranh trung thực về bản thân
đối tượng nghiên cứu.

Nếu như các quy luật tự nhiên tồn tại một cách lâu dài, thì các quy luật xã hội tồn
tại, vận động trên những điều kiện xã hội nhất định. Thoát ly tính lịch sử cụ thể ln là
một nguy cơ dẫn các phương pháp nghiên cứu lý luận trong nghiên cứu khoa học xã hội
rơi vào tình trạng duy tâm, siêu hình, bám giữ lấy những ngun lý, cơng thức lỗi thời lạc
hậu trở thành giáo điều kinh viện, kìm hãm khoa học.


23

2.1.6.2. Đặc điểm
Phương pháp lịch sử có những đặc điểm sau:

• Nó phải đi sâu vào tính mn màu mn vẻ của lịch sử, tìm ra cái đặc thù, cái cá
biệt ở trong cái phổ biến. Và trên cơ sở nắm được những đặc thù cá biệt đó mà
trình bày thể hiện cái phổ biến của lịch sử.

• Phương pháp lịch sử cịn u cầu chúng ta phải tìm hiểu cái không lặp lại bên
cái lặp lại. Các hiện tượng lịch sử thường hay tái diễn, nhưng không bao giờ diễn
lại hoàn toàn như cũ. Phương pháp lịch sử phải chú ý tìm ra cái khác trước, cái
khơng lặp lại để thấy những nét đặc thù lịch sử. Thí dụ, cũng là khởi nghĩa nông
dân, nhưng khởi nghĩa nông dân Nguyễn Hữu Cầu có khác khởi nghĩa nơng dân
Hồng Hoa Thám về đối tượng, quy mơ và hình thức đấu tranh…

• Phương pháp lịch sử lại yêu cầu chúng ta phải theo dõi những bước quanh co,
thụt lùi tạm thời…của phát triển lịch sử. Bởi vì lịch sử phát triển mn màu
mn vẻ, có khi cái cũ chưa đi hẳn, cái mới đã nảy sinh. Hoặc khi cái mới đã
chiếm ưu thế, nhưng cái cũ hãy cịn có điều kiện và nhu cầu tồn tại trong một
chừng mực nhất định. Phương pháp lịch sử phải đi sâu vào những uẩn khúc đó.

• Phương pháp lịch sử u cầu chúng ta đi sâu vào ngõ ngách của lịch sử, đi sâu

vào tâm lý, tình cảm của quần chúng, hiểu lịch sử cả về điểm lẫn về diện, hiểu từ
cá nhân, sự kiện, hiện tượng đến tồn bộ xã hội.

• Phương pháp lịch sử phải chú ý những tên người, tên đất, không gian, thời gian,
thời gian cụ thể, nhằm dựng lại q trình lịch sử đúng như nó diễn biến.


24

2.2. Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn đó là nhóm các phương pháp trực
tiếp tác động vào đối tượng có trong thực tiễn để làm bộc lộ bản chất và các quy luật
vận động của các đối tượng ấy.
Nhóm này có các phương pháp cụ thể sau đây:
Phương pháp quan sát
Phương pháp trò chuyện, phỏng vấn
Phương pháp điều tra thu thập thơng tin
Phương pháp thực nghiệm
Phương pháp mơ hình hóa
Phương pháp chuyên gia
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm thực tiễn
2.2.1. Phương pháp quan sát [1], [2],[5]
2.2.1.1. Khái niệm
Quan sát là sự cảm thụ bằng các giác quan về các sự vật, hiện tượng trong trạng
thái tự nhiên vốn có của chúng. Quan sát là phương pháp sử dụng một cách có chủ định,
có kế hoạch các giác quan cùng với chữ viết, ký hiệu và các phương tiện kĩ thuật (máy
ảnh, quay phim, camera, …) để ghi nhận, thu thập những thơng tin mục đích nghiên
cứu. Đây là hình thức quan trọng của nhận thức và thu thập thông tin, nhờ quan sát mà ta
có thơng tin về đối tượng, trên cơ sở đó mà tiến hành các bước tìm tịi và khám phá tiếp
theo. Quan sát với tư cách là phương pháp nghiên cứu khoa học là một hoạt động có mục

đích, có kế hoạch được tiến hành một cách có hệ thống.
Đây là một trong những hình thức chủ yếu của nhận
thức kinh nghiệm, để tạo ra những thông tin ban đầu,
nhờ đó mà sau này xây dựng lý thuyết và kiểm tra lý


25

thuyết bằng thực nghiệm và như vậy nó là con đường để gắn nghiên cứu lý thuyết với
nghiên cứu hoạt động thực tiễn.
2.2.1.2. Phân loại các phương pháp
Dựa vào cách thức quan sát:





Quan sát trực tiếp: người quan sát tiếp cận đối tượng nghiên cứu một cách trực
tiếp.



Quan sát gián tiếp: người quan sát tiếp cận đối tượng nghiên cứu một cách gián
tiếp qua camera.



Quan sát cơng khai: có sự thơng báo trước cho người được quan sát biết.




Quan sát bí mật: được thực hiện trong điều kiện hồn tồn tự nhiên.

Dựa vào phương thức thức quan sát:
• Quan sát có chủ định: người quan sát xác định trước mục đích, lên kế hoạch cụ



thể, lựa chọn thời gian, địa điểm, phương tiện,…
• Quan sát khơng chủ định: người quan sát bất chợt thấy sự vật, hiện tượng cần
nghiên cứu và ghi lại bằng giấy bút, máy ảnh,…
Dựa vào số lượng người tham gia quan sát:
• Quan sát cá nhân: chỉ một người quan sát thực hiện.
• Quan sát tập thể: việc quan sát do nhiều người cùng phối hợp thực hiện
• Dựa vào phương tiện quan sát:
• Quan sát bằng mắt thường.
• Quan sát bằng kính hiển vi điện tử.
• Quan sát bằng camera.
• Quan sát bằng đầu dị có gắn camera.


2.2.1.3. Chức năng
Quan sát khoa học có ba chức năng:


Thu thập thơng tin thực tiễn: là chức năng quan trọng nhất.



Kiểm chứng các giả thuyết hay các lý thuyết đã có.




Đối chiếu các kết quả trong nghiên cứu lý thuyết với thực tiễn để hoàn thiện lý


×