Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Tìm hiểu chính sách tôn giáo của triều Nguyễn trong giai đoạn 1802-1883 (từ Gia Long đến Tự Đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (744.75 KB, 110 trang )


1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA LỊCH SỬ






TRƯƠNG THUÝ TRINH








TÌM HIỂU CHÍNH SÁCH TÔN GIÁO CỦA
TRIỀU NGUYỄN TRONG GIAI ĐOẠN 1802
- 1883
(TỪ GIA LONG ĐẾN TỰ ĐỨC)




LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS. TS. ĐỖ QUANG HƯNG







HÀ NỘI - 2004



2
MỤC LỤC

A - Phần mở đầu

B - Nội dung
Chương I: Tình hình xã hội Việt Nam trong giai đoạn 1802 - 1883
I.1. Chính trị
I.2. Xã hội
I.3. Kinh tế
I.4. Tôn giáo

Chương II: Chính sách đối với "Tam giáo"
II.1. Nho giáo
II.2. Phật giáo
II.3. Đạo giáo

Chương III: Chính sách đối với Công giáo
III.1. Âm mưu của thực dân Pháp với vấn đề Công giáo
III.2. Chính sách hai mặt của hai vị vua đầu triều Nguyễn
III.3. Chính sách "Cấm đạo"

III.3.1. Triều Minh Mệnh
III.3.2. Triều Thiệu Trị
III.3.3. Triều Tự Đức

C - Một số nhận xét và kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục ảnh
Trang
1

9
9
9
12
15
19

26
26
45
56

64
64
67
71
72
75
77


93



3

A - MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chúng tôi chọn đề tài Chính sách tôn giáo của triều Nguyễn trong giai
đoạn 1802- 1883 (từ Gia Long đến Tự Đức) vì một số lý do sau đây :
1.1. Phải thực hiện một nhiệm vụ lớn của khoá đào tạo Thạc sỹ Lịch sử
mà bản thân theo đuổi, đó là thực hiện nghiên cứu và trình bày một vấn đề
lịch sử dưới dạng một luận văn hoàn chỉnh. Công việc này sẽ giúp chúng tôi
tích luỹ kiến thức về hoạt động nghiên cứu khoa học lịch sử, rèn luyện một hệ
thống kỹ năng cần thiết, từ đó có thêm niềm say mê, tự tin khi chọn việc
nghiên cứu khoa học làm con đường giúp ích cho xã hội.
1.2. Vấn đề lựa chọn nếu được giải quyết tốt sẽ giúp cho chúng tôi sáng
tỏ thêm một điều vốn là thắc mắc phát sinh khi tiếp cận kiến thức lịch sử nước
nhà thời kỳ tiền cận đại: Triều Nguyễn đã xử lý vấn đề tôn giáo như thế nào?
nên đánh giá ra sao cho thoả đáng ?
Là một vấn đề đã qua, nhưng tìm hiểu nó trong thời điểm hiện nay cũng
có phần phù hợp. Bởi vì, tôn giáo vốn đã là vấn đề nhạy cảm, buộc xã hội
luôn phải hướng về nó, đặc biệt nhà nước nào cũng không thể coi thường vấn
đề tôn giáo. Có lẽ lịch sử tôn giáo đang ở thời điểm chưa từng có: Tôn giáo
vận động không còn mang tính tự thân mà nó bị ý chí, quyền lực chính trị chi
phối ngày càng sâu sắc, công khai, nó liên tiếp phát sinh các tông phái mới,
hình thành những hiện tượng tín ngưỡng lạ kỳ, tiếp tục chiến tranh ở từng nơi,
từng lúc, làm khuynh đảo nhiều quốc gia, nhiều mối quan hệ quốc tế buộc
chúng ta phải đặt câu hỏi: lợi cho kẻ nào ? hại cho những ai ?
1.3. Tìm hiểu một vấn đề lịch sử sẽ giúp chúng tôi có thêm hiểu biết,

nhìn nhận lại thực trạng tôn giáo ở đất nước ta trong thời điểm này Việc rút

4
kinh nghiệm từ các bài học lịch sử, dù nó là thành công hay thất bại đều có ý
nghĩa quan trọng. Điều này đặc biệt có ý nghĩa trong hoàn cảnh hiện nay, khi
Đảng và nhà nước ta đang hướng sự quan tâm vào vấn đề đổi mới trong chính
sách tôn giáo.
Trong Nghị quyết 24 gần đây của Chính phủ, đã nêu rõ quan điểm đổi
mới trong vấn đề tôn giáo: Tín ngưỡng tôn giáo là nhu cầu tinh thần của một
bộ phận nhân dân, đạo đức tôn giáo có những điều phù hợp với sự nghiệp xây
dựng xã hội mới
Lần đầu tiên, vấn đề Chính sách văn hoá với tôn giáo đã được đề cập
tới trong Nghị quyết Hội nghị TW lần thứ V (khoá VIII). Trên cơ sở tôn trọng
quyền tự do tín ngưỡng và không tín ngưỡng của dân, bảo đảm cho các tôn
giáo hoạt động bình thường trên cơ sở tôn trọng pháp luật nghiêm cấm xâm
phạm tự do tín ngường và không tín ngưỡng. Đảng và Nhà nước ta khẳng
định cần phải: Khuyến khích những ý tưởng công bằng, bác ái, hướng thiện
trong tôn giáo, đồng thời tuyên truyền khắc phục tệ mê tín dị đoan, chống vụ
lợi tôn giáo tín ngưỡng thực hiện ý đồ chính trị xấu [100, 66-67]
Tôn giáo vốn là một vấn đề phức tạp, chứa đựng nhiều mối liên quan
đa chiều mang tính lịch sử, xã hội, văn hoá, tâm linh Đây cũng là những khó
khăn lớn của chúng tôi khi nghiên cứu về vấn đề này. Kết quả nghiên cứu có
được chắc chắn là không lớn. Chúng tôi sẽ cố gắng hệ thống lại vấn đề chính
sách tôn giáo đầu triều Nguyễn, trên cơ sở đó nhìn nhận, đánh giá vấn đề một
cách khách quan và chân thực nhất.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài :
2.1. Vấn đề tôn giáo dưới triều Nguyễn từng được đề cập không ít trong
các tác phẩm sử học, từ trước cách mạng tháng Tám (1945). Song, căn cứ
vào tài liệu sưu tầm được, chúng tôi nhận thấy: chưa có công trình nào chuyên


5
biệt nghiên cứu về vấn đề chính sách tôn giáo dưới triều Nguyễn mang tính hệ
thống và tổng thể. Duy nhất có một bài nghiên cứu tổng quan song khá sơ
lược về Chính sách tôn giáo của nhà Nguyễn nửa đầu thế kỷ XIX của PGS.
Nguyễn Văn Kiệm đăng trên tạp chí nghiên cứu lịch sử số 6 (271) năm 1993.
Nguồn tư liệu chủ yếu là Bộ Đại Nam Thực lục Chính biên, từ những dẫn
chứng chọn lọc tác giả đã phác thảo một số nét cơ bản của chính sách tôn giáo
triều Nguyễn. Đó là, nhà Nguyễn chọn Khổng giáo làm tư tưởng chính thống.
Một mặt duy trì các phong tục tập quán từ truyền thống Tam giáo Nho - Phật
- Lão và tục thờ cúng tổ tiên nhằm xây dựng một xã hội ổn định. Mặt khác,
hạn chế các tôn giáo khác để chúng không cạnh tranh với hệ tư tưởng Nho
giáo, đặc biệt là các biện pháp tẩy chay, cấm đoán đối với đạo Kitô. Là một
bài tạp chí nên nội dung ngắn gọn, song nó đã gợi cho chúng tôi những định
hướng quan trọng trong quá trình nghiên cứu.
2. 2. Tài liệu về Thiên Chúa giáo chiếm số lượng tương đối phong phú.
Bằng nhiều nguồn tư liệu khác nhau, song các tác giả đều có chung một nhận
xét cho rằng công cuộc truyền bá Thiên Chúa giáo ở Việt Nam gắn liền với
quá trình thực dân hoá. Nổi bật ở đây có các cuốn "Thập giá và lưỡi gươm"
của Trần Tam Tỉnh do Nhà Xuất bản Trẻ ấn hành, năm 1988, "Đạo Thiên
chúa và chủ nghĩa thực dân tại Việt Nam" luận án tiến sĩ của Cao Huy Thuần
tại Paris, Nhà xuất bản Hương Quê ấn hành năm 1988
Về vấn đề Chính sách Công giáo triều Nguyễn, có thể tìm thấy rải rác ở
một số cuốn sách như: phần viết về '„Thực chất của chính sách cấm đạo giết
đạo'‟ trong cuốn “Một số vấn đề lịch sử Thiên Chúa giáo ở Việt Nam” của
GS. Đỗ Quang Hưng xuất bản năm 1991 - Tủ sách Đại học Tổng hợp. Những
chỉ dụ, sắc dụ về Thiên Chúa giáo qua các triều vua Gia Long, Minh Mệnh,
Thiệu Trị, Tự Đức được tác giả hệ thống lại đã tạo ra những hình dung quan
trọng về bộ mặt chính sách Công giáo triều Nguyễn. Cùng với việc phân tích

6

tình hình chính trị - xã hội, các động thái và phản ứng của triều Nguyễn trước
vấn đề Công giáo, tác giả đi đến lý giải thực chất của chính sách cấm đạo
dưới triều Nguyễn.
Trong cuốn "Sự du nhập của Thiên Chúa giáo vào Việt Nam từ thế kỷ
XVII đến XIX", PGS. Nguyễn Văn Kiệm dành riêng Chương V để nói về
chính sách của triều Nguyễn đối với Công giáo. Nội dung, diễn biến chính
sách và các đối pháp của triều Nguyễn với Thiên Chúa giáo được trình bày
theo trình tự thời gian gắn liền với từng sự kiện lịch sử. Cách trình bày này
giúp cho người đọc dễ dàng nắm bắt được các vấn đề về động cơ, căn nguyên,
và diễn biến của chính sách Công giáo triều Nguyễn. Chúng tôi cũng thấy đây
là một điểm hay cần vận dụng trong quá trình nghiên cứu. Tác giả cũng muốn
chỉ ra rằng chính sách Thiên Chúa giáo của triều Nguyễn như là một phản ứng
có tính chất tự vệ trước âm mưu xâm lược của thực dân Pháp. Bên cạnh
những tài liệu chính sử, tác giả có sử dụng tư liệu nước ngoài có giá trị do
chính tác giả sưu tầm và biên dịch.
Cuốn "Việt Nam Giáo sử" (Tập I) của Phan Phát Huồn, Nhà xuất bản
Cứu Thế - Sài gòn, năm 1958, là một cuốn lịch sử về quá trình du nhập và
phát triển đạo Thiên Chúa kể từ khi nó được truyền bá vào Việt Nam cho đến
những năm đầu thế kỷ XX. Song nội dung cuốn sách phản ánh khá đầy đủ và
sinh động các khía cạnh về tổ chức giáo hội, các hoạt động tôn giáo, trong đó
có nói đến chính sách tôn giáo dưới triều Nguyễn. Cuốn sách này cung cấp
những tư liệu từ các báo cáo, thư từ, ghi chép cá nhân của các thừa sai người
Pháp và người nước ngoài. Do đó, đây là nguồn tư liệu có thể tham khảo được
trong việc tìm hiểu tình hình sinh hoạt Công giáo và chính sách Công giáo ở
Việt Nam những năm đầu thế kỷ XIX.
Ngoài ra, có thể kể tên một số bài nghiên cứu có liên quan đến chính
sách Công giáo dưới triều Nguyễn trên tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo của Viện

7
Nghiên cứu Tôn giáo: bài viết “Công giáo và Lê Văn Duyệt’’ của GS. Đỗ

Quang Hưng, số 2 (08) - 2001 ; Đặc biệt với bài "Trở lại chính sách cấm đạo
của triều Nguyễn qua bộ Đại Nam Thực lục" của NCV. Lê Thị Thắm số 2
(14) - 2002, tác giả đã bỏ nhiều công sức để khảo cứu toàn bộ bộ sách Đại
Nam Thực lục (tổng số 38 tập) tìm ra các văn bản hành chính của nhà Nguyễn
có liên quan đến Công giáo bao gồm các sắc dụ, chiếu, chỉ, điều lệ để có
một hình dung sát thực nhất về chính sách cấm đạo dưới triều Nguyễn. Tiếc
rằng trong khuôn khổ một bài tạp chí nên tác giả chỉ đưa ra những phân tích,
nhận định vắn tắt.
Mặc dù mảng tài liệu Công giáo khá phong phú, song phần nghiên cứu
có liên quan đến chính sách Công giáo triều Nguyễn lại không nhiều và không
tập trung. Tuy vậy, đây cũng là nguồn tư liệu để chúng tôi tham khảo phục vụ
cho quá trình nghiên cứu.
2.3. Sách, đề tài nghiên cứu về ba tôn giáo Nho - Phật - Đạo ở Việt
Nam từ khi lập quốc cho hết thời kỳ cận đại, cung cấp tư liệu có liên quan
trực tiếp hoặc gián tiếp đến vấn đề nghiên cứu. Có một số cuốn tiểu biểu như:
Việt Nam Phật giáo sử luận ( tập III) của Nguyễn Lang, Nho giáo của Trần
Trọng Kim, Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam của GS. Phan Đại Doãn
(chủ biên); Đạo giáo với văn hoá Việt Nam của Nguyễn Đăng Duy, Các hình
thái tín ngưỡng tôn giáo ở Việt Nam của Nguyễn Đăng Duy
Ngoài ra, có một số sách về lịch sử tư tưởng có liên quan đến truyền
thống tam giáo cũng là nguồn tham khảo quan trọng cho việc nghiên cứu, đó
là: Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến cách mạng tháng
tám (tập I) của GS. Trần Văn Giầu, Lịch sử tư tưởng Việt Nam (tập II) của Lê
Sĩ Thắng

8
Đặc điểm chung của hầu hết các sách, đề tài nghiên cứu về tam giáo đó
là đi sâu tìm hiểu tư tưởng, giáo lý, tình hình sinh hoạt tôn giáo, lịch sử tôn
giáo Về vấn đề chính sách đối với tam giáo dưới triều Nguyễn ít được đề
cập. Đây là một khó khăn lớn cho chúng tôi trong quá trình nghiên cứu. Có

tình hình nêu trên là do bắt nguồn từ thực tế sinh hoạt tôn giáo dưới triều
Nguyễn: Công giáo là vấn đề nổi cộm thời kỳ này nên thu hút được sự quan
tâm của các nhà nghiên cứu, trong khi Tam giáo diễn ra phẳng lặng nên ít
được quan tâm nghiên cứu một cách đầy đủ.
3.4. Một số công trình nghiên cứu do cán bộ Viện Nghiên cứu Tôn giáo
thực hiện trong thời gian gần đây: "Các điển lễ và nghi lễ tôn giáo triều
Nguyễn qua Khâm định đại Nam Hội điển Sử lệ" của ThS. Nguyễn Ngọc
Quỳnh, năm 2000, và "Chính sách tôn giáo tín ngưỡng dưới triều Nguyễn"
qua bộ Đại Nam Thực lục Chính biên và Minh Mệnh Chính yếu, đề tài viết
chung của ThS. Nguyễn Ngọc Quỳnh và NCV. Võ Phương Lan, năm 2001.
Kết quả nghiên cứu mới dừng ở mức độ khảo cứu, song cũng đã giúp ích rất
nhiều cho nghiên cứu của chúng tôi.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nêu lên những dẫn chứng lịch sử có liên quan tới đối sách của nhà
Nguyễn đối với các tôn giáo lớn, lâu đời: Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo và
tôn giáo mới được du nhập vào Việt Nam từ mấy thế kỷ trước là Thiên Chúa
Giáo.
- Phân tích nguyên nhân cơ bản của hệ thống đối sách ấy, thành công,
thất bại, bài học về chính sách tôn giáo nhìn từ góc độ sử học và tôn giáo học
ở mức độ có thể.
4. Đối tƣợng nghiên cứu

9
- Chính sách tôn giáo của nhà Nguyễn được khái quát từ hệ thống đối
sách đối với từng tôn giáo cụ thể. Chính sách đó có thể được biểu hiện bằng
các văn bản pháp luật, cũng có thể là thái độ, cách ứng xử hay những việc làm
cụ thể
- Ở đây chỉ chú ý vào những sự kiện lịch sử có liên quan xảy ra trong
khoảng thời gian từ 1802 đến 1883. Bởi vì, đây là thời gian các vua Nguyễn
còn có quyền điều hành triều chính và quốc gia còn độc lập, tự chủ (tương

đối). Từ 1883 trở đi Việt Nam nằm dưới quyền bảo hộ của thực dân Pháp,
Chính quyền phong kiến mà vua là người đại diện đã mất hết mọi quyền lực,
luôn chịu sự khống chế, điều khiển của chính quyền thực dân.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Các phương pháp được sử dụng trong luận án bao gồm:
Trên cơ sở phương pháp luận sử học Mác - Lênin, áp dụng các phương
pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, lô gích, hệ thống và các phương pháp liên
chuyên ngành khác.
6. Nguồn tƣ liệu
Luận văn dựa vào các nguồn tài liệu chính sau đây:
Hai bộ luật được ban hành dưới triều Nguyễn: Hoàng Việt Luật lệ (Luật
Gia Long) và Khâm định Đại Nam Hội điển sử lệ. Trong hai bộ chính thức
này, có các luật và lệ quy định về tôn giáo.
Bộ Quốc triều Hình luật (Luật Hồng Đức) là bộ luật dưới triều Lê, song
nó là cơ sở quan trọng để so sánh, đối chiếu trong quá trình tìm hiểu luật pháp
triều Nguyễn.
Các tài liệu chính sử : Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Nam thực lục, Khâm
định Đại Nam hội điển sử lệ, Đại Nam liệt truyện, Lịch triều tạp kỷ, Lịch triều

10
hiến chương loại chí để tìm hiểu chính sách tôn giáo qua các luật lệ, sắc lệnh,
chỉ dụ của triều đình nhà Nguyễn về các vấn đề có liên quan đến tôn giáo.
Các tài liệu thư tịch cổ: Minh Đạo, Minh Mệnh chính yếu, Tự Đức đạo
biện, Nguyễn Trường Tộ di khảo, Tây Dương Gia tô bí lục để tìm hiểu tư
tưởng, quan điểm về các vấn đề tôn giáo qua một số nhân vật tiêu biểu đương
thời.
Tài liệu dịch từ nhiều thứ tiếng qua các thư từ, nhật ký, báo cáo, ghi
chép của các thương nhân, thừa sai, giáo xứ và các sĩ quan hải quân nước
ngoài.
Ngoài việc xử lý các tài liệu chính sử, tài liệu gốc, chúng tôi cũng tập

hợp và kế thừa kết quả của các công trình nghiên cứu đi trước có liên quan
đến vấn đề này.
7. Bố cục luận văn :
Luận văn gồm các nội dung chính sau đây:
A - Mở đầu: Trình bầy các vấn đề phương pháp luận nghiên cứu
B - Nội dung: Kết quả nghiên cứu gồm 3 chương :
- Chương I: Tình hình xã hội Việt Nam trong giai đoạn 1802 - 1883
- Chương II: Chính sách đối với "Tam giáo"
- Chương III: Chính sách đối với Công giáo
C - Một vài nhận xét và kết luận.




B - NỘI DUNG

11
CHƢƠNG I
TÌNH HÌNH XÃ HỘI VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 1802 - 1883
I.1. Chính trị
Năm 1802, sau gần 30 năm chống phá phong trào Tây Sơn, nhà
Nguyễn lên nắm quyền trị vì đất nước. Triều Nguyễn đứng trước nhu cầu to
lớn về thống nhất lãnh thổ và hàng loạt các khó khăn, hậu quả của ba thế kỷ
nội chiến đó là: vấn đề biên giới, dân tộc, dân cư, phong trào đấu tranh chống
đối triều đình trong quần chúng nhân dân Để có được sức mạnh giải quyết
các vấn đề trên một cách nhanh nhất, trên cơ sở hệ tư tưởng Nho giáo, nhà
Nguyễn dựng lên một thiết chế chính trị tập quyền chuyên chế.
* Bộ máy nhà nước:
Triều Nguyễn xây dựng nhà nước quân chủ chuyên chế dựa trên mô
hình nhà nước phong kiến Trung Hoa. Để tránh những đảo lộn chính trị - xã

hội không cần thiết, trong 30 năm đầu cơ cấu tổ chức hành chính về cơ bản
được giữ nguyên. Trong bộ máy chính quyền trung ương, vua giữ vị trí tối
cao nắm mọi quyền hành và quyết định mọi việc. Lục bộ là cơ quan chủ chốt
giúp vua giải quyết các việc, thời Minh Mệnh lập thêm Nội các (1820), Đô sát
viện (1834), Tôn nhân phủ (1836)
Về đơn vị hành chính, Gia Long tổ chức lại trên cơ sở các đơn vị hành
chính cũ, lấy Phú Xuân làm kinh đô, 11 trấn phía Bắc là Bắc Thành, 5 trấn
cực Nam là Gia Định thành. Với kiểu tổ chức này, chính quyền trung ương
phải chia xẻ quyền lực với các Tổng trấn, song nó giúp cho triều đình mới
thành lập có thể kiểm soát được toàn bộ lãnh thổ.
Bắt đầu từ năm 1831 - 1832, Minh Mệnh tiến hành cuộc cải cách hành
chính: bãi bỏ Bắc thành, Gia Định thành; trên cơ sở 24 trấn, lộ, dinh và 1 phủ
Phụng Thiên (Thăng Long cũ), tách đổi thành 30 tỉnh kể từ Bắc chí Nam và

12
phủ Thừa Thiên. Để tăng cường kiểm soát đối với các khu vực miền núi, đặc
biệt vùng miền núi phía Bắc, Minh Mệnh áp dụng chế độ "lưu quan". Khác
với chế độ "thổ quan" trước đây, chế độ lưu quan đã giúp nhà nước nắm được
quyền kiểm soát xuống tận các châu huyện biên giới, hạn chế xu hướng tự trị,
cát cứ của các tù trưởng miền núi [32, 137].
Như vậy, nhờ cải cách, Minh Mệnh đã thống nhất bộ máy nhà nước từ
trung ương đến địa phương, với 4 cấp trung ương - tỉnh/phủ - huyện/ châu -
làng/ xã. Kể từ đây, quyền lực của nhà nước được củng cố đáng kể.
* Hệ thống luật pháp:
Hệ thống luật pháp nhà Nguyễn từ Gia Long đến Tự Đức chủ yếu tập
hợp trong 3 bộ điển pháp, đó là:
Hoàng Việt Luật lệ (hay còn gọi là Luật Gia Long) do vua Gia Long
ban hành năm 1813. Về hình thức, bộ luật gồm 398 điều, chia làm 22 quyển,
các điều khoản xắp xếp theo thẩm quyền của lục bộ. Trong lời đề tựa, Gia
Long khẳng định cơ sở xây dựng bộ luật dựa vào luật pháp của “các triều đại

nước ta làm căn bản, tham chiếu luật Hồng Đức và luật nhà Thanh”. Song,
trên thực tế nó vận dụng hầu như sao chép toàn bộ luật nhà Thanh [90, 137].
Đại Nam hội điển toát yếu do vua Minh Mệnh ban hành năm 1833. Nhà
vua cho Nội các tóm lược các lệ của mình và vua Gia Long theo phạm vi
quản lý của lục bộ.
Khâm Định Đại Nam hội điển sử lệ do vua Thiệu Trị ban hành năm
1843, bao gồm toàn bộ các lệ của Gia Long và Minh Mệnh được tập hợp và
chỉnh sửa.
Nhìn vào hệ thống luật pháp triều Nguyễn, chúng ta thấy có hai bộ
phận chính là luật và lệ, trong đó, Luật Gia long được xem là bộ luật cở sở.
Do dập khuôn theo luật nhà Thanh nên khi áp dụng vào thực tế xã hội Việt

13
Nam Luật Gia Long không tránh khỏi những điểm bất hợp lý. Để khắc phục
tình trạng này, các vua Nguyễn thường xuyên phải ban các chỉ dụ bổ sung nên
nhiều khi, lệ có hiệu lực hơn luật. Ví dụ, triều Gia Long, năm 1817, trong khi
thu thuế ruộng ẩn lậu, so sánh các quy định giữa luật và lệ nhà vua cho rằng:
"luật như thế nặng quá, cứ theo lệ mà làm " [66, 329].
Tuy nhiên, trên thực tế, luật pháp nhà nước còn chịu sự chi phối của
một hệ thống luật bất thành văn của các làng xã, đó là lệ làng. Với nguyên tắc
"Phép vua thua Lệ làng", luật nước muốn được nhân dân tuân thủ thì nó phải
phù hợp với lệ làng. Tiếc rằng luật pháp nhà Nguyễn không có được điều này.
Xuất phát từ nhu cầu tập trung quyền lực và đối phó với tình hình chính trị xã
hội và phong trào đấu tranh trong nhân dân, triều Nguyễn tăng cường tính áp
chế cho luật pháp bằng cách rập khuôn máy móc theo luật nhà Thanh. Do đó,
đặc điểm nổi bật của luật triều Nguyễn là tính chuyên chế, độc đoán, quá
nghiêng về quyền lợi của giai cấp thống trị nên nhiều khi đối lập với nhân
dân. Trong đó, tính chuyên chế được đặc biệt thể hiện qua luật Tứ bất dưới
triều Gia Long, và sau này là các chính sách bế quan toả cảng, cấm đạo diệt
đạo dưới triều Minh Mệnh và Tự Đức. Với những đặc điểm nêu trên, luật

pháp triều Nguyễn luôn vấp phải phản ứng quyết liệt từ phía nhân dân, mà
đỉnh cao của nó là các phong trào khởi nghĩa và nổi dậy trong nhân dân.
Để có một vương triều mạnh, nhà Nguyễn dựng lên một thiết chế nhà
nước tập quyền chuyên chế và chế độ luật pháp hà khắc nhằm trấn áp các
phong trào chống đối và nhanh chóng ổn định tình hình chính trị xã hội. Song
những định chế luật pháp và thể chế chính trị triều Nguyễn thiếu một cơ sở xã
hội vững chắc. Nó chỉ giúp cho triều Nguyễn duy trì và đảm bảo sự tồn tại
của vương quyền, chứ không giải quyết được tình trạng chính trị - xã hội rối
ren. Trong suốt thời gian triều Nguyễn trị vì, phong trào chống đối triều đình

14
của dân chúng diễn ra mạnh mẽ với hàng trăm các cuộc khởi nghĩa lớn nhỏ ở
những mức độ khác nhau.
I.2. Xã hội
Trong lòng xã hội chất chứa nhiều mâu thuẫn đối kháng. Chính sách cai
trị hà khắc, sự bất lực của chính quyền trung ương đã làm cho các mâu thuẫn
giai cấp trở nên gay gắt; đời sống nhân dân cực khổ; xã hội lâm vào tình trạng
khủng hoảng liên miên
Những mâu thuẫn đối kháng tồn tại ngay trong lòng xã hội, đặc biệt là
mâu thuẫn giữa triều đình phong kiến Nguyễn với quần chúng nhân dân. Thứ
nhất là do nguồn gốc ra đời của triều Nguyễn, dựa vào các thế lực bên ngoài
và tiêu diệt triều Tây Sơn nên không được dân chúng ủng hộ. Thứ hai, triều
Nguyễn được thiết lập trên cơ sở sự tan vỡ của ba chính quyền Lê, Trịnh và
Tây Sơn. Tư tưởng nhân tâm ly tán là mầm mống cho các cuộc khởi nghĩa nổ
ra ở khắp nơi, đặc biệt, vùng Bắc Hà trở thành cái nôi của các cuộc khởi
nghĩa.
Trong điều kiện xã hội - chính trị phức tạp, triều Nguyễn cho thi hành
chính sách cai trị hà khắc, bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị một cách
cực đoan. Các chính sách do triều Nguyễn đề ra không thực hiện được, mà
còn gây ra sự phản đối gay gắt trong nhân dân, làm cho xã hội càng trở nên

rối loạn. Điều này được thể hiện ở một số chính sách sau đây:
Triều Nguyễn thi hành chính sách quân điền, lấy ruộng đất của địa chủ
đem sung công, để bảo vệ ruộng công trước xu thế tư hữu hoá đang diễn ra
mạnh mẽ. Song triều Nguyễn đã thất bại, gây nên phản ứng gay gắt trong giới
địa chủ, đồng thời làm đảo lộn nền tảng kinh tế - xã hội. Địa chủ và cường
hào cấu kết với nhau ra sức lũng đoạn đời sống làng xã, đổ mọi gánh nặng
kinh tế lên vai người nông dân. Bị bóc lột thậm tệ, nông dân bị dồn tới bước

15
đường cùng, mất tư liệu sản xuất, thậm chí không còn khả năng làm nghĩa vụ
sưu thuế, lối thoát duy nhất của họ là đi xiêu tán, hoặc tham gia vào các
phong trào khởi nghĩa. Dân xiêu tán và phong trào nổi dậy là hai hiện tượng
phổ biến trong xã hội thời kỳ này, nó phản ánh tình trạng khủng hoảng của xã
hội Việt Nam dưới triều Nguyễn. Giai đoạn 1802 - 1847 có 1.814 làng xiêu
tán, nhà nước chỉ kiểm soát được khoảng 20% các xã trong phạm vi cả nước.
Trong vòng 80 năm đầu triều Nguyễn có tới gần 400 cuộc khởi nghĩa [59,
457], với những cuộc khởi nghĩa nông dân có quy mô lớn như cuộc khởi
nghĩa Phan Bá Vành, Ba Nhàn - Tiền Bột
Để củng cố quyền lực của nhà nước, triều Nguyễn, đặc biệt là triều
Minh Mệnh đã tiến hành cải cách hành chính trong phạm vi cả nước. Tuy
nhiên, ở những vùng dân tộc thiểu số, chính sách cư dân, dân tộc cứng nhắc
của triều Nguyễn đã làm cho đời sống chính trị, xã hội, văn hoá và tín ngưỡng
ở nơi đây bị đảo lộn Hàng loạt các cuộc khởi nghĩa và nổi dậy của các dân
tộc thiểu số đã nổ ra. Vùng núi phía Bắc, cuộc khởi nghĩa của Lê Duy Lương
ở Hoà Bình (1832 - 1838) có liên quan đến người Mường, cuộc khởi nghĩa
của Nông Văn Vân (1829 - 1943) ở vùng Bảo Lạc, Đồng Mu có liên quan đến
người Tày. Phía Nam, có cuộc nổi dậy của nhân dân Vách Đá từ năm 1803
kéo dài suốt thời Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị, Tự Đức. Đặc biệt là cuộc
khởi nghĩa của người Khơ me ở các tỉnh Trà Vinh, Vĩnh Long, An Giang,
Kiên Giang diễn ra trong suốt những năm 40.

Cuối cùng là sự suy yếu và bất lực của chính quyền trung ương trước
các vấn đề xã hội. Dưới triều Nguyễn, ngoài gánh nặng sưu thuế, binh dịch,
bệnh dịch, hạn hán, mất mùa, xảy ra thường xuyên làm cho đời sông nhân dân
càng thêm cơ cực. Nhiều bằng chứng cho thấy triều Nguyễn có quan tâm tới
đời sống nhân dân. Song, sự suy yếu của chính quyền trung ương và lơi lỏng
quản lý, nên quan lại địa phương mặc sức hoành hành bớt xén, ăn chặn của

16
dân. Nhà nước thì tốn kém tiền của trong khi đời sống nhân dân vẫn không
được cải thiện [64, 454-457].
Triều Nguyễn tỏ ra lúng túng trong chính sách cư dân, dân tộc đối với
một vài bộ phận cư dân mới, tiêu biểu là cộng đồng người Hoa và cộng đồng
người Công giáo:
Cộng đồng người Hoa, vào những năm 50, lợi dụng sự nhân nhượng
của triều Nguyễn trước triều đình Mãn Thanh đã ồ ạt tràn vào Việt Nam.
Trong đó, một số phần tử gây quấy nhiễu và cướp pháp ở những vùng biên
giới giáp danh. Có kẻ còn tham gia vào các cuộc nổi dậy của người Việt.
Cho đến năm 1800, cả nước có tới 310.000 giáo dân [40, 72]. Như vậy,
cộng đồng Công giáo đã trở thành một thực thể xã hội, đòi hỏi triều đình phải
có một chính sách ứng xử phù hợp. Tuy nhiên, Công giáo thời kỳ này bị thực
dân lợi dụng, nên một số giáo dân đã bị lôi kéo vào các hoạt động chống phá
triều đình, tiêu biểu là vụ Lê Văn Khôi (1832-1833), vụ đảo chính của thái tử
Hồng Bảo (năm 1851), cuộc khởi nghĩa của Lê Duy Phụng (1856) Đây là
một trong nhiều nguyên nhân chính khiến cho Công giáo bị xã hội tẩy chay và
bị triều đình đàn áp. Từ 1825 đến 1862, triều đình ban hành liên tiếp 14 chỉ dụ
cấm đạo, tạo lên những vụ bắt bớ, tàn sát người Công giáo.
Các biện pháp cứng rắn và hành động ngược đãi giáo dân của triều
Nguyễn càng làm cho mâu thuẫn lương - giáo trở nên gay gắt, đẩy người
Công giáo sang bên kia chiến tuyến. Giáo dân thì lầm tưởng người Pháp là
những người bảo trợ cho quyền tự do tôn giáo nên đã quay lưng lại với triều

đình để đi theo người Pháp. Điều này nằm trong những mưu đồ của chủ
nghĩa thực dân, phá hoại xã hội Việt Nam từ bên trong. Mặt khác, bên ngoài
chúng gây sức ép, lấy lý do bảo vệ quyền tự do tôn giáo để nổ súng xâm lược
nước ta. Sau khi Pháp nổ súng xâm lược, mâu thuẫn lương - giáo tiếp tục là

17
nguyên nhân của nhiều cuộc nổi dậy trong nhân dân. Triều đình thì đầu hàng
từng bước rồi dựa hẳn vào Pháp để đàn áp phong trào đấu tranh của nhân dân.
Trước sự phản bội của triều đình, phong trào đấu tranh tiếp tục nổ ra mạnh
mẽ trong phạm vi cả nước. Mục tiêu của các cuộc khởi nghĩa bắt đầu thay đổi,
vừa đánh Pháp vừa chống triều đình Huế với khẩu hiệu "Bình Tây sát Tả" ,
"Phen này ta đánh cả triều lẫn Tây".
Như vậy, lên nắm quyền trong điều kiện xã hội rối ren, với một chính
sách cai trị hà khắc và sự suy yếu của chính quyền trung ương, triều Nguyễn
đã không giải quyết được tình trạng xã hội khủng hoảng. Các mâu thuẫn đối
kháng trong xã hội, đặc biệt là mâu thuẫn giữa toàn thể nhân dân với chính
sách cai trị của triều Nguyễn được chuyển hoá thành hàng trăm cuộc khởi
nghĩa và nổi dậy. Nó là minh chứng chân thực nhất cho tình trạng xã hội
khủng hoảng, đồng thời phản ánh sự bất lực của triều Nguyễn trước thực tại
xã hội đó. Đặc biệt, sai lầm của triều Nguyễn trong vấn đề cộng đồng Công
giáo gây ra mối xung đột lương - giáo, góp phần làm cho xã hội Việt Nam trở
nên mục ruỗng và suy yếu, tạo điều kiện cho thực dân Pháp xâm lược nước ta.
I.3. Kinh tế
* Về nông nghiệp:
Nằm trong hệ tư tưởng Nho giáo, triều Nguyễn thi hành chính sách
"trọng nông ức thương", do đó nông nghiệp được đặc biệt ưu tiên phát triển.
Đầu triều Nguyễn, tình hình sản xuất nông nghiệp đình đốn do chiến tranh
loạn lạc kéo dài. Sau một thời gian khôi phục, nông nghiệp đã có được những
thành tựu nhất định. Nhờ có chính sách khai hoang hợp lý, diện tích canh tác
được liên tục được mở mang. Triều đình khuyến khích nhân dân khai hoang

lập ấp dưới nhiều hình thức cá nhân, 'doanh điền', 'doanh trại nhờ đó, nhiều
vùng đất ở cả Đàng Trong và Đàng Ngoài được khai phá. Giai đoạn 1924 -

18
1857 số làng khẩn hoang và số ruộng đất khai hoang liên tục gia tăng. Tuy
nhiên, cùng với quá trình mở mang diện tích canh tác là quá trình hoang hoá
trở lại do nạn dân xiêu tán, nhiều ruộng đất bị bỏ hoang đặc biệt dưới triều Tự
Đức [64, 446-450].
Mặc dù được triều đình quan tâm, song sản xuất nông nghiệp vẫn theo
lối tiểu nông truyền thống, phụ thuộc nhiều vào yếu tố thiên nhiên, vỡ đê lụt
lội xảy ra thường xuyên ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống nhân dân. Nông
nghiệp thời kỳ này chưa thoát khỏi phương thức sản xuất phong kiến. Thực
ra, dưới triều Nguyễn ruộng đất tư hữu đang phát triển mạnh, chiếm tới 80%
diện tích canh tác. Song đi ngược lại xu thế phát triển, triều Nguyễn củng cố
chế độ ruộng đất công hữu và quan hệ sản xuất phong kiến bằng chế độ "quân
điền". Chính sách này không tạo ra cho nông nghiệp những bước phát triển
đột phá, chưa nói đến hậu quả của nó làm xáo trộn đời sống kinh tế - xã hội
nông thôn, đẻ ra nạn cường hào địa chủ và nông dân tiếp tục bị bóc lột thậm
tệ.
* Công - Thương nghiệp:
Bộ phận thủ công nghiệp nhà nước có được bước tiến do áp dụng một
số công nghệ phương Tây vào việc chế tạo tàu chiến súng ống phục vụ cho
quốc phòng. Năm 1835 chế ra chiếc thang bay, không lâu sau lại chế ra chiếc
xe Thuỷ Hoả kí tế, ứng dụng nguyên lý máy vào việc nghiền thuốc súng bằng
hơi nước. Năm 1838 đã thành công làm xe máy xẻ gỗ bằng sức nước. Năm
1839, lần đầu tiên chế tạo thành công chiếc tàu thuỷ chạy bằng hơi nước
[64, 451]
Về thủ công dân gian, chính sách ức thương của triều đình thủ tiêu yếu
tố kinh tế hàng hoá, làm cho tình hình sản xuất thủ công nghiệp bị suy giảm.
Ngoài một số làng nghề ra đời từ thế kỷ trước như làng dệt Hiền Lương, gốm


19
Bát Tràng, khảm Phú Xuyên sản xuất thủ công nghiệp phổ biến ở hầu hết
các làng xã với tư cách 'nghề phụ'. Thủ công nghiệp dân gian về cơ bản vẫn
phát triển theo hướng tự nhiên, quy mô nhỏ hộ gia đình mang tính tính chất
tiểu nông truyền thống.
Thương nghiệp: Thương nghiệp trong nước, sau một thời gian dài nội
chiến, nhà Nguyễn lên nắm quyền đã làm được một số việc cơ bản như thống
nhất hệ thống tiền tệ, đơn vị đo lường trong toàn quốc. Song do chính sách ức
thương nên thương nghiệp kém phát triển. Triều Nguyễn nắm độc quyền
thương nghiệp, điều hành thông qua các hoạt động trưng thu chủ yếu để phục
vụ nhu cầu tiêu dùng của triều đình và dự trữ quốc phòng. Hoạt động này
không tạo điều kiện cho thương nghiệp phát triển, ngược lại nó kìm chế sức
sản xuất, cản trở lưu thông và trao đổi hàng hoá ở cả thị trường trong và ngoài
nước.
Các hoạt động buôn bán trong dân gian bị triều đình hạn chế, đặc biệt
dưới triều Minh Mệnh với biện pháp ngăn sông cấm chợ làm cho thương
nghiệp suy giảm nghiêm trọng. Sự lụi tàn của Phố Hiến, Kẻ Chợ, Hội An,
thay thế vào đó là một số trung tâm buôn bán mới Hà Nội, Đà Nẵng, Gia
Định song qui mô và mức độ trao đổi hàng hoá kém hơn. Hoạt động thương
nghiệp thời kỳ này chủ yếu dựa vào mạng lưới chợ địa phương và một số các
làng buôn như: Đa Loan, Đa Ngưu, Báo Đáp, Phù Lưu Tuy nhiên, sự ra đời
của các làng buôn cũng như sự phát triển hoàn thiện của mạng lưới chợ địa
phương là một biện pháp giải quyết bế tắc của nền kinh tế tiểu nông, thực
chất, thương nghiệp chưa có được những bước phát triển đột phá. [19]
Ngoại thương chịu ảnh hưởng trực tiếp của chính sách ngoại giao của
triều đình, nên tình hình diễn biến phức tạp, không nhất quán và có xu hướng
bế quan toả cảng.

20

Trong quan hệ giao thương với nước ngoài, triều Nguyễn ưu tiên đối
với các nước khu vực châu á, đặc biệt là người Hoa. Theo nhận xét của M.
Buiơvơ trong cuốn "Cuộc hành trình xứ Đông Dương" thì "ở vương quốc
Annam hầu hết nền ngoại thương là do các ghe của người Trung Hoa đảm
nhiệm". Hiện tượng người Hoa lợi dụng những sơ hở của triều đình, làm giả
thuyền của triều đình đi mua hàng để trốn thuế hoặc những thủ đoạn "cân
sai và đo cũng không đúng" khá phổ biến. Vì vậy, những đóng góp về lợi ích
kinh tế của Hoa thương không nhiều, thay vào đó là sự lũng đoạn nền kinh tế
ngoại thương Việt Nam.
Trong quan hệ buôn bán với các nước phương Tây, triều Nguyễn có
thái độ dè dặt, hạn chế. Sang thế kỷ XIX, tư bản phương Tây đã khác với hai
thế kỷ trước. Họ muốn đi đến các hiệp định thông thương để giành được
nhiều đặc quyền trong quan hệ buôn bán. Người Anh, người Mỹ nhiều lần xin
đặt quan hệ buôn bán với triều đình nhưng đều bị từ chối. Ngoại thương cởi
mở nhất là dưới thời Gia Long, do có quan hệ với người Pháp từ trước, nên
nhà vua dành cho người Pháp nhiều đặc ân. Tuy nhiên, triều đình đã thẳng
thừng từ chối khi phía Pháp đề nghị ký hiệp định thông thương. Quan điểm
của triều Nguyễn là cho phép các tàu thuyền nước ngoài được phép vào Việt
Nam buôn bán với điều kiện phải tuân thủ pháp luật Việt Nam, không nhất
thiết phải ràng buộc bằng các hiệp định thương mại [59]. Triều đình muốn
giành quyền chủ động trong quan hệ buôn bán với các nước phương Tây.
Chính vì vậy, dưới triều Nguyễn, tình hình ngoại thương diễn biến thất
thường, lúc thì nhà nước mở cửa thông thương, lúc thì lại đóng cửa thi hành
chính sách bế quan toả cảng. Chính sách đóng của càng trở nên gắt gao trong
thời kỳ Minh Mệnh, Tự Đức thi hành chính sách cấm đạo. Thái độ cảnh giác
và xua đuổi các thương nhân phương Tây của triều đình làm cho ngoại
thương thời kỳ này rơi vào tình trạng tiêu điều, bế tắc.

21
Chính sách đóng cửa của triều Nguyễn đã làm cho nền kinh tế, quốc

phòng yếu kém, khiến cho nước ta nhanh chóng bị khuất phục trước âm mưu
xâm lược của chủ nghĩa thực dân. Chính sách đóng cửa, xua đuổi các nước
phương Tây trong khi lại ưu tiên người Pháp đã tạo điều kiện cho người Pháp
dễ bề gây áp lực quân sự đối với Việt Nam. Triều Nguyễn thi hành chính sách
đóng cửa đã đi ngược lại xu thế phát triển. Việc Pháp cưỡng bức Việt Nam
phải mở cửa tất yếu sẽ xảy ra.
Kinh tế Việt Nam thế kỷ XIX, dưới ảnh hưởng trực tiếp của hệ tư
tưởng Nho giáo "trọng nông ức thương", nền kinh tế phát triển mất cân đối.
Nông nghiệp có được một vài bước tiến không đáng kể. Công - thương
nghiệp vẫn rơi vào tình trạng đình trệ, bế tắc. Những bước tiến nhỏ của nó
chưa đủ sức phá vỡ mối quan hệ sản xuất phong kiến. Đặc biệt, tưởng rằng để
bảo vệ đất nước trước âm mưu xâm lược của tư bản phương Tây, nhà Nguyễn
thi hành chính sách kiềm chế ngoại thương, nhưng chính điều đó góp phần
giam cầm đất nước trong tình trạng nghèo đói và lạc hậu, không tạo ra được
cho đất nước có một sức mạnh để đối phó với âm mưu xâm lược của chủ
nghĩa thực dân.
I.4. Tôn giáo
Trải qua mấy thế kỷ nội chiến liên miên, sự bất ổn của tình hình chính
trị - xã hội là điều kiện thuận lợi cho các hoạt động tôn giáo phát triển. Khi
Gia Long lên ngôi, tình trạng này tiếp tục kéo dài gây ra cho triều đình nhiều
khó khăn trong việc ổn định tình hình chính trị xã hội. Đặc biệt, có một số
thay đổi trong hệ thống tôn giáo như: bên cạnh tín ngưỡng truyền thống là tục
thờ cúng tổ tiên và truyền thống tam giáo Nho - Phật - Đạo, có sự xuất hiện
của đạo Thiên Chúa, đạo Ki-tô, hay còn gọi là Công giáo (được người phương
Tây truyền vào từ thế kỷ XVI). Trước khi Pháp can thiệp, Việt Nam vẫn còn

22
là một nước phong kiến độc lập, song sự bùng phát các sinh hoạt tôn giáo, với
một số nhân tố mới đã đặt ra cho triều Nguyễn những thách đố không nhỏ.
Trước tiên là chính sách độc tôn Nho giáo trong mối tương quan của

truyền thống tam giáo. Trong 3 tôn giáo Nho, Phật, Đạo, duy chỉ có Nho giáo
với tư cách là quốc giáo được triều đình tạo điều kiện phát triển, còn lại Phật,
Lão bị hạn chế. Lên nắm quyền trong một điều kiện chính trị - xã hội không
thuận lợi, triều Nguyễn chủ trương dựa vào Nho giáo để tập trung quyền lực,
củng cố vương quyền và ổn định xã hội. Tuy nhiên, tình hình sinh hoạt tôn
giáo, đặc biệt sự phát triển của Phật, Lão đã cản trở quá trình tập trung quyền
lực của triều Nguyễn. Điều này được phản ánh khá chân thực và sinh động
trong những ghi chép của vua quan triều Nguyễn:
Đối với đạo Phật: "Gần đây có kẻ sùng đạo Phật, xây dựng chùa chiền
quá cao, lầu gác tráng lệ, đúc chuông tô tượng rất đỗi trang hoàng , cùng là
đàn chay, chạy đàn, mở hội, phí tổn về cúng Phật nuôi sư không thể chép hết,
để cầu phúc báo viển vông, đến nỗi tiêu hao máu mỡ " [65, 161-169].
Đối với đạo giáo: " Nay thói thờ quỷ, mù quáng đã sâu, người ta
không hay giữ yên tính mệnh, động đến là xin phù chú, kêu đồng bóng lập đàn
trường , khua chuông trống, như chiều gió lướt, tập tục theo nhau, làm cho
mê hoặc. Kẻ có tà thuật đều giả thác ảo huyền, làm rối tai mắt. Thổi bùa vẽ
khoán, tạ pháp án để sinh nhai: chuộc mệnh gọi hồn, xem nhà bệnh là hàng
quý. Thậm chí phụ đồng thiếp tính, bịa đặt lời thần, cấm thuốc nhịn ăn, làm
cho người bệnh không thể chữa được nữa. Lại còn ngựa rơm người giấy, đập
cửa đốt nhà, cùng với mọi thứ bùa thuốc mê hoặc đã dùng thuật để nhiễu
người, lại gõ cửa để xin chữa, lừa dối trăm chiều, thực làm hại lớn cho dân
chúng " [65,161-169].

23
Những hoạt động trên đây của Phật, Lão đi ngược lại quá trình tập
trung quyền lực, đối lập với tinh thần giáo lý Nho giáo, làm ảnh hướng trực
tiếp đến vị trí của Nho giáo trong xã hội, gây ra cho triều đình không ít những
khó khăn. Vì vậy, ngay sau khi lên ngôi, năm 1804 Gia Long đã phải ra chỉ dụ
về tôn giáo nhằm hạn chế sự phát triển của các tôn giáo trong nước và chấn
chỉnh kỷ cương xã hội.

Song triều Nguyễn cũng gặp phải những mâu thuẫn trong khi thi hành
chính sách đối với Phật, Lão. Chẳng hạn: một mặt, để bảo vệ vị trí của Nho
giáo, tập trung quyền lực và củng cố vương quyền cần phải có biện pháp hạn
chế đối với Phật, Lão. Mặt khác, lại phải đảm bảo quyền tự do tôn giáo một
cách tương đối để duy trì một xã hội ổn định. Gia Long trước khi mất không
quên căn dặn Minh Mệnh không nên cấm đoán các tôn giáo lớn trong nước, vì
những xáo trộn về văn hoá xã hội sẽ gây ra bạo động chính trị. Điều này hoàn
toàn không đơn giản, vì triều Nguyễn lên nắm quyền trong một điều kiện chế
độ phong kiến đang trên đà suy yếu, sức mạnh Nho giáo đặc biệt có ý nghĩa
đối với triều Nguyễn trong việc củng cố vương quyền. Tuy nhiên, đứng trước
hệ tư tưởng Tống Nho chuyên chế và cực đoan, truyền thống Tam giáo đồng
nguyên rất dễ bị xúc phạm. Trên thực tế, khi vị trí độc tôn của Nho giáo được
bảo vệ thì Phật, Lão và tất cả những yếu tố đi ngược lại tinh thần giáo lý Nho
giáo và xu hướng tập quyền đều bị loại bỏ. Luật pháp Nguyễn xếp Phật, Lão
vào hàng "tà đạo" và luôn bị khống chế. Trước sức ép của triều đình, Phật,
Lão lùi về chốn làng xã hoà quyện vào các sinh hoạt trong dân gian. Đó là
minh chứng cho thấy Phật, Lão không tàn lụi nhưng đã thực sự sa sút về vị
thế xã hội.
Về tình hình sinh hoạt Công giáo, mặc dù là một "đạo lạ" mới vào
nước ta được mấy thế kỷ, song nó đã thu hút được niềm tin của một bộ phận
dân chúng. "Lại như đạo Gia tô là tôn giáo nước khác truyền vào nước ta, bịa

24
đặt ra thuyết thiên đường địa ngục khiến kẻ ngu phu ngu phụ chạy vạy như
điên, tiêm nhiễm thành quen, mê mà không biết "[65,161-169].
Đầu thế kỷ XIX, số giáo dân Công giáo lên tới 310.000 giáo dân, với 3
Giám mục, 15 thừa sai ngoại quốc, 119 linh mục bản xứ. Điều đó cho thấy
Công giáo đã thực sự trở thành một thực thể xã hội [40].
Tuy nhiên, Công giáo có nhiều điểm khác biệt, thậm chí đối lập với
những truyền thống văn hoá Việt Nam. Xung đột về văn hoá đã dẫn đến xung

đột về xã hội. Công giáo buộc các tín đồ phải từ bỏ những tín ngưỡng bản địa,
kể cả đó là những truyền thống lâu đời của người dân Việt Nam. Ngoài ra,
Công giáo, với những lễ nghi tôn giáo riêng, đã tạo ra một trường sinh hoạt
văn hoá khép kín giữa những người đi theo Công giáo, khiến cho giáo dân
phải đoạn tuyệt với những truyền thống văn hoá và tách ra khỏi khối cộng
đồng dân tộc. Vì thế, đa số dân chúng có thái độ tẩy chay Công giáo, làm cho
xung đột lương - giáo trong xã hội trở nên gay gắt.
Như vậy, Công giáo với những xung đột về văn hoá, xung đột về xã hội
vốn đã là một khó khăn đối với triều Nguyễn. Đặc biệt, thời kỳ này, Công
giáo gắn liền với âm mưu bành trướng của chủ nghĩa thực dân và trở thành
một thách thức lớn lao đối với triều Nguyễn.
Trong khoảng 30 năm đầu, do các hoạt động lợi dụng tôn giáo chưa
thật rõ rệt, nên tình hình sinh hoạt Công giáo diễn ra tương đối bình ổn. Bắt
đầu từ những năm 30 trở đi, trong nước xuất hiện nhiều cuộc nổi dậy có dính
líu đến Công giáo, đe doạ trực tiếp đến sự vong tồn của vương triều và tình
hình an ninh trật tự trong nước. Vào những năm 50, dưới triều Tự Đức, hải
quân Pháp công khai bênh vực Công giáo, liên tục tấn công vũ trang, nguy cơ
một cuộc chiến tranh xâm lược đang đến gần. Để bảo vệ chủ quyền dân tộc,

25
các vua Nguyễn đã thi hành chính sách "cấm đạo" tàn khốc đối với Công
giáo
Trước vấn đề Công giáo đầy mới mẻ và phức tạp, triều Nguyễn lại
không có nhiều hiểu biết và trải nghiệm nên không tránh khỏi những sai lầm.
Do lầm lẫn giữa Công giáo với các hành động lợi dụng tôn giáo của thực dân
phương Tây, triều Nguyễn đặt Công giáo ra khỏi vòng pháp luật, xúc phạm
quyền tín ngưỡng chân chính của các giáo dân.
Thời kỳ đầu, Gia Long muốn thi hành chính sách cấm đạo, nhưng vì
mối quan hệ sâu đậm với người Pháp trước đây nên chưa dám ra tay. Song
việc Gia Long chọn Minh Mệnh nối ngôi phần nào đã thể hiện được mong

muốn này. Minh Mệnh là người sùng Nho và rất ác cảm với Công giáo, ngay
sau khi lên ngôi cho áp dụng biện pháp quản lý chặt các giáo sĩ, đặc biệt hành
động tiêu diệt các thế lực thân Công giáo đã dẫn đến vụ nổi loạn Lê Văn
Khôi. Năm 1832 - 1833, vụ việc Lê Văn Khôi mở đường cho chính sách cấm
đạo diệt đạo dưới triều Nguyễn. Các vua Thiệu Trị, Tự Đức sau này đều tiếp
tục thi hành chính sách cấm đạo của triều Minh Mệnh. Đặc biệt, triều Tự Đức,
trước các hành động gây hấn của hải quân Pháp ở bên ngoài, thì chính sách
cấm đạo diệt đạo ở trong nước càng được xiết chặt.
Bản thân Công giáo có một sức mạnh nội tại khiến nó thu hút được số
lượng không nhỏ trong dân chúng. Dưới triều Tự Đức, cứ 10 người thì có 4
người đi theo Công giáo, hầu hết đều xuất phát từ niêm tin tôn giáo. Việc triều
Nguyễn cấm đạo, xúc phạm quyền tín ngưỡng chân chính, làm cho các giáo
dân xem người Pháp là người bảo trợ duy nhất cho quyền hành đạo của họ.
Năm 1858, Pháp nổ súng xâm lược Việt Nam, với việc một số giáo dân lầm
lạc đi theo Pháp, thì cộng đồng Công giáo bị coi là những kẻ phản bội tổ
quốc, chính sách cấm đạo càng được xiết chặt. Đứng trước nạn ngoại xâm,
trong lúc đất nước cần tới sức mạnh đoàn kết hơn bao giờ hết, thì với chính

×