1
ĐạI HọC QUốC GIA Hà NộI
TRƯờNG ĐạI HọC KHOA HọC Xã HộI Và NHÂN VĂN
NGUYễN THị MAI
Tổ CHứC, HOạT ĐộNG CủA
HộI LIÊN HIệP PHụ Nữ VIệT NAM 1976 - 2002
LUậN VĂN THạC Sĩ LịCH Sử
Hà Nội-2013
2
ĐạI HọC QUốC GIA Hà NộI
TRƯờNG ĐạI HọC KHOA HọC Xã HộI Và NHÂN VĂN
NGUYễN THị MAI
Tổ CHứC, HOạT ĐộNG CủA
HộI LIÊN HIệP PHụ Nữ VIệT NAM 1976 - 2002
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60 22 54
LUậN VĂN THạC Sĩ LịCH Sử
Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: PGS.TS. Tr-ơng Thị Tiến
Hà Nội - 2013
3
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU 1
Chương 1: TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ
VIỆT NAM (1976 – 1987) 11
1.1. Khái quát tổ chức, hoạt động của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam
trước năm 1976 11
1.2. Tổ chức và hoạt động của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong
những năm 1976 - 1982 18
1.2.1. Hoàn thiện và củng cố tổ chức 18
1.2.2. Hoạt động chính của Hội 27
1.3. Tổ chức và hoạt động của Hội LHPNVN nhiệm kỳ 1982 - 1987 36
1.3.1 Tổ chức Hội 36
1.3.2. Hoạt động chính của Hội 41
Chương 2: TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ
VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI (1987 – 2002) 47
2.1. Tổ chức và hoạt động của Hội nhiệm kỳ 1987-1992 47
2.1.1. Tổ chức Hội 47
2.1.2. Hoạt động chính của Hội 52
2.2. Tổ chức và hoạt động của Hội nhiệm kỳ 1992-1997 62
2.2.1. Tổ chức Hội 63
2.2.2 Hoạt động chính của Hội 67
2.3. Tổ chức và hoạt động của Hội nhiệm kỳ 1997 – 2002 77
2.3.1. Tổ chức Hội 78
2.3.2. Hoạt động chính của Hội 81
4
Chương 3: NHẬN XÉT 90
3.1. Qua gần 30 năm củng cố và phát triển từ sau khi thống nhất, tổ chức
Hội LHPN Việt Nam luôn được củng cố, hoàn thiện. 90
3.2. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã có nhiều hoạt động phong phú, đa
dạng, sát hợp với nhiệm vụ chính trị của từng giai đoạn lịch sử 92
3.3. Hội LHPN Việt Nam đã huy động được đông đảo phụ nữ tham gia vào
các hoạt động của Hội 98
3.4. Tuy đã đạt được nhiều thành quả đáng ghi nhận, nhưng tổ chức, hoạt
động của Hội vẫn còn tồn tại một số bất cập, hạn chế cần khắc phục. 105
KẾT LUẬN 107
TI LIỆU THAM KHẢO 109
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của Việt Nam, phụ nữ luôn giữ một vai
trò quan trọng. Nhận thức được tầm quan trọng của phụ nữ trong sự nghiệp cách
mạng, Cương lĩnh đầu tiên của Đảng cộng sản Việt Nam ghi rõ “Nam nữ bình
quyền” và chủ trương thành lập tổ chức riêng cho phụ nữ để lôi cuốn các tầng lớp
phụ nữ tham gia cách mạng.
Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam là tổ chức quần chúng, tập hợp rộng rãi các
tầng lớp phụ nữ Việt Nam, hoạt động vì sự bình đẳng, phát triển của phụ nữ, chăm
lo bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp và chính đáng của phụ nữ, là thành viên của Mặt
trận tổ quốc Việt Nam.
Từ khi ra đời, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã khẳng định được vai trò, vị
thế của mình trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc nói chung và giải phóng
phụ nữ nói riêng, góp phần vào phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Trong 2 cuộc
kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam cũng là một
mặt trận đoàn kết đông đảo phụ nữ trong cả nước và kêu gọi, tranh thủ sự ủng hộ
của phụ nữ quốc tế vào cuộc đấu tranh chung của dân tộc.
Từ năm 1976, dưới sự chỉ đạo chung của Đảng Cộng sản Việt Nam, Hội
Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã phối hợp cùng các ngành các cấp thực hiện các mục
tiêu kinh tế - xã hội của đất nước. Bên cạnh đó, Hội cũng đưa ra chương trình hành
động riêng nhằm bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của phụ nữ, chăm lo cho đời
sống của phụ nữ và trẻ em.
Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI khẳng định quyết tâm đổi mới
toàn diện, mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội. Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam với tư
cách là một thành viên của Mặt trận tổ quốc Việt Nam đã tổ chức, vận động chị em
phụ nữ bằng những hành động thiết thực góp phần đẩy mạnh công cuộc đổi mới đất
nước. Hoạt động của các cấp Hội được tổ chức từ Trung ương đến cấp xã với đông
đảo hội viên góp phần không nhỏ vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói
giảm nghèo của đất nước.
6
Trong sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước hiện nay, Hội Liên
hiệp phụ nữ Việt Nam đã đẩy mạnh công tác tổ chức và hoạt động, là lực lượng
quan trọng để đưa đất nước hội nhập toàn diện với thế giới.
Mặt khác, trong cơ cấu dân số Việt Nam, phụ nữ chiếm 50% và trên 52%
tổng số lực lượng lao động của cả nước, đa số phụ nữ là hội viên Hội Liên hiệp phụ
nữ Việt Nam, phụ nữ có mặt ở tất cả các ngành nghề, lĩnh vực. Với lực lượng to lớn
đó cùng đức tính cần cù, sáng tạo, chịu thương, chịu khó, các hoạt động của phụ nữ
ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình kinh tế - xã hội đất nước.
Nghiên cứu về tổ chức và hoạt động của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam từ
năm 1976 đến năm 2002 cho phép hệ thống hóa quá trình hoàn thiện về cơ cấu tổ
chức và các hoạt động chính của Hội. Trên cơ sở đó, có thể đúc kết những nhận xét,
cung cấp thêm cơ sở khoa học để Hội tiếp tục củng cố tổ chức, đồng thời có những
hoạt động tích cực, chủ động, phong phú hơn nhằm góp phần thực hiện thắng lợi
chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, mục tiêu kinh
tế - xã hội chung của đất nước, mục tiêu riêng của Hội.
Vì những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Tổ chức, hoạt động của Hội
Liên hiệp phụ nữ Việt Nam 1976 – 2002” làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Phụ nữ Việt Nam là một lực lượng quan trọng trong xã hội, với truyền thống
lịch sử vẻ vang, nên tài liệu viết về phụ nữ hiện nay không ít. Đặc biệt là các công
trình viết về các nữ anh hùng dân tộc, phong trào phụ nữ. Có thể kể đến các công
trình như:
Cuốn Lịch sử phong trào phụ nữ Việt Nam, gồm 2 tập do tác giả Nguyễn Thị
Thập chủ biên, Nhà xuất bản Phụ nữ phát hành năm 1982. Sách tập trung phân tích
các phong trào chính của phụ nữ Việt Nam từ năm 1930 đến năm 1975. Tổ chức
của Hội chưa được đề cập.
Cuốn Phong trào “Phụ nữ ba đảm đang” trong kháng chiến chống Mỹ cứu
nước do tác giả Lê Chân Phương biên soạn, Nhà xuất bản Phụ nữ phát hành 2005.
Sách tập trung trình bày, phân tích một phong trào cụ thể của Hội Liên hiệp phụ nữ
7
Việt Nam là “Phụ nữ ba đảm đang” trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, các hoạt
động khác của Hội và tổ chức Hội chưa được đề cập.
Cuốn Phụ nữ Việt Nam trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và công cuộc đổi
mới đất nước do Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam biên soạn, Nhà xuất bản Văn hóa
thông tin phát hành năm 2007. Công trình đi vào đánh giá, phân tích vai trò, vị thế
của phụ nữ Việt Nam trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và công
cuộc đổi mới đất nước thông qua việc khái quát các hoạt động, phong trào chính do
Hội phát động, tổ chức. Tổ chức Hội và vai trò của Hội chưa được quan tâm đi sâu
phân tích.
Công trình khoa học “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và
các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị đáp ứng các yêu cầu xây
dựng và phát triển dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” năm 2002 do TS. Thang
Văn Phúc làm chủ nhiệm đề tài. Công trình tập trung làm rõ sự đổi mới về tổ chức
và hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể trong điều kiện phát triển nền dân chủ xã
hội chủ nghĩa, trong đó sự đổi mới về tổ chức và hoạt động của Hội LHPN Việt
Nam mới chỉ được đề cập một cách chung chung, không chuyên sâu (phần viết
riêng về Hội chiếm dung lượng nhỏ so với toàn bộ nội dung công trình) và chủ yếu
đi vào khía cạnh dân chủ đại diện của tổ chức Hội.
Đặc biệt, sách viết về phong trào phụ nữ các tỉnh chiếm một tỉ lệ không nhỏ
trong các cuốn sách viết về phụ nữ Việt Nam: Lịch sử phong trào phụ nữ Thái Bình,
giai đoạn 1927 – 2000 do nhóm các tác giả Vũ Thị Thu Hạ, Lê Công Hưng, Trần
Mạnh Hưng… biên soạn, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia phát hành năm 2003;
“Lịch sử phong trào phụ nữ Hà Nội 1954 – 1987” do Hội Liên hiệp phụ nữ Hà Nội
biên soạn, Nhà xuất bản Hà Nội phát hành năm 1989; “Lịch sử phong trào phụ nữ
tỉnh Bắc Ninh (1930-2000)” do nhóm tác giả Phạm Khắc Thiệu, Nguyễn Xuân Hoà,
Đỗ Ngọc Uẩn… biên soạn, Hội Liên hiệp phụ nữ tỉnh Bắc Ninh phát hành năm
2000; “Lịch sử phong trào phụ nữ tỉnh Cao Bằng (1930-2010)”, do nhóm tác giả
Đinh Ngọc Viện, Trần Văn Trân, Triệu Thị Thu Trang… biên soạn, Nhà xuất bản
Chính trị Quốc gia phát hành năm 2011; “Lịch sử phong trào phụ nữ Quảng Trị
8
(1930 - 2005)” do nhóm tác giả Nguyễn Thị Châu, Nguyễn Thị Hường, Lê Thị Lan
Hương biên soạn, Nhà xuất bản Thuận Hoá phát hành năm 2007; “Lịch sử phong
trào phụ nữ tỉnh Bắc Kạn (1930 - 2006)” do tác giả Nguyễn Cao Thâm chủ biên,
Nhà xuất bản Lao động phát hành năm 2007; “Lịch sử phong trào phụ nữ tỉnh Hoà
Bình (1930-1996)” do các tác giả Lê Văn Bàng, Nguyễn Thị Minh Thuận, Bùi Thị
Chưng sưu tầm và biên soạn, Nhà xuất bản Phụ nữ phát hành năm 1999; “Truyền
thống cách mạng của phụ nữ tỉnh Bình Thuận (1913 - 2000)”, tác giả: Trần Mạnh
Tường, Trần Thị Hà Nhi, Nhà xuất bản Bình Thuận phát hành năm 2004; “Truyền
thống cách mạng phụ nữ Minh Hải 1930-1954”, Hội Liên hiệp phụ nữ Minh Hải
biên soạn, Nhà xuất bản Mũi Cà Mau phát hành năm 1993…
Những công trình trên chỉ viết về phong trào phụ nữ của tỉnh trong một giai
đoạn nhất định, chưa đề cập đến tổ chức, hoạt động chung của Hội Liên hiệp phụ nữ
Việt Nam.
Như vậy, cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu nào viết một cách
hệ thống về tổ chức và hoạt động của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam từ năm 1976
đến năm 2002. Với mong muốn làm nổi bật tổ chức, hoạt động của Hội Liên hiệp
phụ nữ Việt Nam qua các nhiệm kỳ, đồng thời tạo nên một công trình chuyên khảo,
có ý nghĩa, tác giả lựa chọn “Tổ chức, hoạt động của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt
Nam 1976 - 2002” làm đề tài luận văn thạc sĩ.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu
Đề tài nhằm hệ thống hóa, phục dựng lại cơ cấu tổ chức của Hội Liên hiệp
phụ nữ Việt Nam và hoạt động của Hội từ sau Hội nghị thống nhất Hội Liên hiệp
phụ nữ Việt Nam (1976) đến hết nhiệm kỳ Đại hội phụ nữ lần thứ VIII (2002); qua
đó để thấy rõ vai trò, vị trí của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong sự nghiệp xây
dựng và phát triển đất nước.
3.2. Nhiệm vụ
- Tập hợp, hệ thống tư liệu về tổ chức và hoạt động của Hội Liên hiệp phụ nữ
Việt Nam từ năm 1976 đến năm 2002.
9
- Trình bày những thay đổi về cơ cấu tổ chức của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt
Nam qua các nhiệm kỳ Đại hội phụ nữ (từ sau Hội nghị thống nhất Hội Liên hiệp
phụ nữ Việt Nam năm 1976 đến hết nhiệm kỳ Đại hội VIII năm 2002).
- Trình bày, phân tích hoạt động chính của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam
theo giai đoạn, nhiệm kỳ Đại hội Phụ nữ.
- Đúc kết một số nhận xét về mô hình tổ chức và hoạt động của Hội từ năm
1976 đến năm 2002.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tổ chức và hoạt động của Hội Liên hiệp
phụ nữ Việt Nam với tư cách là một tổ chức chính trị - xã hội, đại diện cho quyền
và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp phụ nữ Việt Nam, thành viên của
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
4.2. Phạm vi
- Về nội dung: Tổ chức và hoạt động của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam là
một vấn đề khá rộng. Vì vậy, trong khuôn khổ một bản Luận văn Thạc sĩ, đề tài tập
trung đi sâu nghiên cứu tổ chức bộ máy Hội ở cấp Trung ương và các hoạt động
chính, chương trình trọng tâm của Hội theo từng nhiệm kỳ.
- Về thời gian, không gian: Đề tài tập trung nghiên cứu tổ chức và hoạt động
của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam từ sau Hội nghị thống nhất (1976) đến hết
nhiệm kỳ Đại hội phụ nữ lần thứ VIII (2002) trên phạm vi cả nước.
5. Phương pháp nghiên cứu
Là một công trình nghiên cứu lịch sử, nên phương pháp nghiên cứu chính
của luận văn là phương pháp lịch sử. Ngoài ra, các phương pháp nghiên cứu khác
cũng được sử dụng trong luận văn như: so sánh, logic, thống kê phỏng vấn…
6. Nguồn tư liệu
Luận văn tập trung khai thác các tài liệu lưu trữ gồm sách, báo, nhật ký, tài
liệu viết tay về Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam từ năm 1976 đến năm 2002.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các báo cáo thống kê về hoạt động, tổ chức
của các cấp hội và tư liệu phỏng vấn…
10
7. Đóng góp của luận văn
Trình bày một cách hệ thống tương đối đầy đủ, toàn diện về bộ máy tổ chức
của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, đặc biệt là bộ máy tổ chức TW Hội qua từng
nhiệm kỳ đại hội để thấy sự thay đổi về mô hình, cơ cấu tổ chức của Hội phù hợp
với thực tiễn và nhiệm vụ cụ thể từng giai đoạn.
Trình bày, phân tích các phong trào, hoạt động chính của Hội những năm
1976 – 2002 trong bối cảnh tình hình chung của đất nước và nhiệm vụ từng nhiệm
kỳ của Hội, qua đó đánh giá thành quả, hạn chế và đóng góp của phong trào, hoạt
động do Hội tổ chức đối với tình hình kinh tế - xã hội đất nước.
Luận văn cung cấp thêm cơ sở khoa học để Hội Liên hiệp phụ nữ Việt nam
tiếp tục củng cố tổ chức và đề ra các chương trình hoạt động phong phú, sáng tạo
hơn trong thời gian tới.
8. Cấu trúc luận văn
Ngoài các phần Mở đầu, Kết luận, và Tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3
chương:
Chương 1: Tổ chức, hoạt động của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam (1976 – 1987).
Chương 2: Tổ chức, hoạt động của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam thời kỳ
đổi mới (1987 – 2002)
Chương 3: Nhận xét
11
Chương 1:
TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ
VIỆT NAM (1976 – 1987)
1.1. Khái quát tổ chức, hoạt động của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam
trước năm 1976
Ra đời từ năm 1930, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã từng bước khẳng
định vai trò, vị trí của mình, góp phần vào sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc.
Trải qua các thời kỳ với các tên gọi khác nhau: Phụ nữ giải phóng (1930 – 1935),
Phụ nữ dân chủ (1936 – 1939), Phụ nữ phản đế (1939 – 1941), Đoàn phụ nữ Cứu
quốc (1941 – 1945), phụ nữ Việt Nam đã có nhiều hoạt động tích cực, sôi nổi đóng
góp vào sự nghiệp cách mạng chung của cả nước.
Cách mạng Tháng Tám thành công, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam chính
thức được thành lập, nòng cốt là Đoàn phụ nữ Cứu quốc đại diện cho các tầng lớp
phụ nữ Việt Nam đứng trong hàng ngũ đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc.
Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ nhất diễn ra từ ngày 14-19/4/1950 tại thôn
La Bằng, xã Cù Vân (nay là xã Phú Xuyên), huyện Đại Từ, Thái Nguyên đã ra
Quyết nghị hợp nhất Đoàn phụ nữ Cứu quốc Việt Nam vào Hội LHPNVN thành
một tổ chức chính trị duy nhất của các tầng lớp phụ nữ Việt Nam, lấy tên là Hội
Liên hiệp phụ nữ Việt Nam.
Đại hội bầu Ban chấp hành Trung ương Hội gồm 32 uỷ viên, Ban thường
trực Trung ương Hội gồm 9 uỷ viên, bà Lê Thị Xuyến được bầu là Hội trưởng và 3
Phó Hội trưởng. Trong ban chấp hành Trung ương Hội LHPNVN khoá I có đầy đủ
các thành phần dân tộc, tôn giáo, nhân sĩ, trí thức, nội trợ Đặc biệt, có sự tham gia
của 04 nữ đại biểu quốc hội khoá I là bà Lê Thị Xuyến (uỷ viên thường trực quốc
hội); bà Nguyễn Thị Thục Viên (uỷ viên thường trực quốc hội); bà Tôn thị Quế và
bà Trương Thị Mỹ.
Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ I công nhận sự sáp nhập của Đoàn phụ nữ
cứu quốc và tiếp nhận bộ phận nữ công nhân viên chức của Tổng liên đoàn lao động
12
là một bộ phận của Hội, xác định Hội LHPNVN là mặt trận đoàn kết rộng rãi các
lực lượng phụ nữ và đề ra phương hướng nhiệm vụ mới của Hội là động viên mạnh
mẽ hơn nữa các tầng lớp phụ nữ tham gia các mặt hoạt động của cuộc kháng chiến
chống Pháp.
Tôn chỉ và mục đích của Hội LHPNVN là: Hội LHPNVN đoàn kết hết thảy
các tầng lớp phụ nữ Việt Nam yêu nước có tinh thần dân chủ và yêu chuộng hoà
bình, không phân biệt chủng tộc, tôn giáo, giai cấp và đảng phái để thực hiện: Cùng
nhân dân tranh đấu giành độc lập hoàn toàn cho tổ quốc, kiến thiết nước Việt Nam
dân chủ nhân dân; Bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời sống, chính trị, kinh tế, văn hoá,
xã hội cho phụ nữ để giải phóng phụ nữ và bảo vệ nhi đồng; Củng cố và phát triển
Hội thành một tổ chức lớn mạnh; góp phần xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất
(Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam); Dưới sự lãnh đạo của Liên đoàn phụ nữ dân
chủ Quốc tế đoàn kết chống đế quốc chủ nghĩa, bảo vệ dân chủ hoà bình Thế giới.
Nhiệm vụ cụ thể của Hội LHPNVN trong nhiệm kỳ là: tham gia ủng hộ
chiến đấu; vận động chị em thi đua tăng gia sản xuất; vận động phụ nữ trong vùng
địch tạm chiếm; tăng cường sự hoạt động quốc tế; cải thiện đời sống phụ nữ và bảo
vệ nhi đồng; cứu tế xã hội; vận động phụ nữ tham chính; củng cố và phát triển Hội;
góp phần xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất; tiến hành hợp nhất Đoàn Phụ nữ
Cứu quốc vào Hội LHPNVN.
Bộ máy tổ chức Trung ương Hội gồm 6 ban, đơn vị chuyên môn: Ban Văn
phòng, Ban Tổ chức, Ban Liên lạc Quốc tế, Ban Tuyên huấn, Ban Nghiên cứu kiểm
tra, Báo Phụ nữ Việt Nam – cơ quan ngôn luận của Hội.
Thời kỳ này, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã tích cực tham gia các hoạt
động hưởng ứng lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hội
LHPNVN phát động hàng loạt phong trào: "Nộp thuế nông nghiệp", mua "Công
phiếu kháng chiến", "Lập kế hoạch gia đình", "Phụ nữ học cày, học bừa", "ủng hộ
bộ đội", "nuôi quân diệt giặc", "dân công tiền tuyến", nữ du kích Hoàng Ngân
Với tư cách là thành viên của Liên đoàn phụ nữ dân chủ quốc tế, Hội
LHPNVN đã tích cực tham gia đấu tranh cho hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
13
tiến bộ xã hội cũng như tuyên truyền cho cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân
dân Việt Nam.
Thời kỳ 1954 – 1975 là thời kỳ tổ chức Hội phụ nữ cơ bản được kiện toàn và
hoạt động sôi nổi hơn so với thời kỳ trước.
Qua ba lần đại hội (Đại hội II: 1956, Đại hội III: 1961, Đại hội IV: 1974), bộ
máy tổ chức Hội từ Trung ương đến cơ sở từng bước được củng cố và hoàn thiện.
Ở Trung ương, đến Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ IV, Ban Thường trực
Trung ương Hội tồn tại từ khóa I đến khóa III được thay bằng Ban Thường vụ
Trung ương Hội. Các ban, đơn vị chuyên môn giúp việc có một số ban giữ nguyên,
một số ban, đơn vị được thành lập mới, một số ban thay đổi về tên gọi, nhiệm vụ,
nội dung hoạt động. Sau Đại hội II, bộ máy tổ chức Trung ương Hội gồm 9 ban,
đơn vị: Văn phòng thường trực, Ban Tổ chức, Ban Liên lạc quốc tế, Ban Tuyên
huấn, Ban Nghiên cứu phụ vận (khóa I là Ban Nghiên cứu kiểm tra), Báo phụ nữ
Việt Nam, Ban phúc lợi (tên gọi ban đầu là Ban Xã hội), Trường Cán bộ phụ nữ
Trung ương. Sau Đại hội III, số lượng các ban, đơn vị được giữ nguyên, một số ban,
đơn vị được đổi tên cho phù hợp với nhiệm vụ, yêu cầu. Văn phòng thường trực
thời kỳ này được đổi tên thành Ban Văn phòng Trung ương Hội, Ban Quốc tế thay
tên cũ là Ban Liên lạc quốc tế. Năm 1974, đứng trước tình hình mới của cách mạng
cả nước, miền Nam chuẩn bị giải phóng, nhiệm vụ thống nhất nước nhà sắp hoàn
thành, nhằm đáp ứng yêu cầu cách mạng chung của cả nước và phong trào, hoạt
động riêng của phụ nữ, một số ban, đơn vị mới được thành lập ở Trung ương Hội.
Do đó, sau Đại hội IV, bộ máy tổ chức ở Trung ương Hội tăng thêm 4 ban, đơn vị
mới, nâng tổng số ban, đơn vị sau Đại hội IV lên 13. Các ban, đơn vị mới thành lập
gồm: Ban Kinh tế Tài chính, Bộ phận theo dõi phát triển phụ nữ B2K5, Trường Lê
Thị Riêng và Ban miền Nam (Ngoài ra, năm 1974, có 2 ban mới được thành lập sau
Đại hội: Ban Nông nghiệp, Ban Công nghiệp. Năm 1975, thành lập thêm Ban Sử).
Cấp cơ sở, tổ chức Hội phụ nữ được tổ chức theo phân cấp tổ chức hành
chính, từ khu xuống tỉnh, thành; quận huyện đến xã. Ngoài ra, Hội còn có các tổ
chức theo địa dư, ngành nghề, sở thích, lứa tuổi. Ở các hợp tác xã sản xuất có chi
14
hội, gồm nhiều phân chi hội, tổ phụ nữ hợp thành. Đặc biệt, Hội Mẹ chiến sĩ được
quan tâm và đánh giá cao trong các hoạt động phụ vận, binh vận, địch vận và hậu
phương quân đội.
Ở miền Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Giải phóng miền Nam Việt Nam thành
lập ngày 8/3/1961 sau thắng lợi của phong trào Đồng khởi. Hội Liên hiệp Phụ nữ
Giải phóng – một bộ phận của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam,
chịu trách nhiệm tổ chức, giác ngộ và động viên các tầng lớp phụ nữ toàn miền
Nam không phân biệt tôn giáo, dân tộc, giai cấp, xu hướng chính trị cùng toàn dân
tộc anh dũng tiến lên trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam, bảo vệ miền
Bắc, tiến tới hòa bình thống nhất nước nhà và tiến lên giải phóng phụ nữ. Ngay khi
thành lập, Hội Liên hiệp phụ nữ Giải phóng đã đề ra Điều lệ và Chương trình hoạt
động. Về tổ chức, cơ bản giống tổ chức Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội Phụ
nữ Giải phóng lấy đơn vị xã, khu phố, xí nghiệp, thị trấn, chợ huyện, cơ quan làm
đơn vị tổ chức. Hội không ngừng củng cố tổ chức và phát triển hội viên trong toàn
miền. Đến năm 1973, toàn miền Nam có khoảng 91.000 hội viên Hội Phụ nữ Giải
phóng, số cán bộ Hội từ ấp, xã đến huyện, tỉnh trong toàn miền Nam là 9.884 người
và 12.532 tổ trưởng nòng cốt. [25, tr.420, 421]
Trong kháng chiến chống Mỹ, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam có rất nhiều
hoạt động đóng góp lớn vào công cuộc giải phóng đất nước. Đáng chú ý nhất là
Phong trào Thi đua 5 tốt và Phong trào Ba đảm đang. Trong đó, phong trào Thi
đua 5 tốt được thực hiện trước khi cả nước có chiến tranh, sau khi Mỹ leo thang
chiến tranh ra miền Bắc, phong trào được thay thế bằng phong trào Ba đảm đang.
(Ban đầu, phong trào có tên «Ba đảm nhiệm», năm 1967, phong trào được Bác Hồ
đổi tên thành «Ba đảm đang», từ đó, phong trào có tên gọi thống nhất chung là
«Ba đảm đang»).
Phong trào thi đua 5 tốt được phát động tại Đại hội phụ nữ toàn quốc lần thứ
III với 5 nội dung: Đoàn kết sản xuất tiết kiệm tốt; Chấp hành chính sách tốt; Tham
gia quản lý tốt; Học tập chính trị, văn hóa, kỹ thuật tốt; Xây dựng gia đình nuôi dạy
con tốt. Phong trào ra đời phù hợp với nhiệm vụ của cách mạng trong giai đoạn
15
mới, yêu cầu của các ngành, các cấp, đặc biệt nội dung 5 tốt phù hợp với yêu cầu
phấn đấu rèn luyện của người phụ nữ trong chế độ mới để có thể vừa đảm bảo được
nhiệm vụ lao động sản xuất vừa chăm lo được gia đình con cái có tác dụng động
viên phụ nữ đẩy mạnh sản xuất công tác, góp phần tích cực vào việc hoàn thành kế
hoạch Nhà nước. Phong trào đã khuyến khích chị em không ngừng học tập, nâng
cao trình độ về mọi mặt, đồng thời chăm lo hạnh phúc gia đình và quyền lợi phụ nữ,
trẻ em. Do đó, vai trò và vị trí của phụ nữ được nâng cao, tỷ lệ phụ nữ tham gia
công tác chính quyền tăng hơn trước. Tháng 4/1964, Đại hội phụ nữ 5 tốt toàn miền
Bắc đã công nhận 7 vạn cá nhân, 5000 gia đình, 3000 tổ đội đông nữ đạt danh hiệu
phụ nữ 5 tốt. Rất nhiều chị em phụ nữ được Bác Hồ tặng thưởng huy hiệu. Phong
trào phát triển sôi nổi, vượt ra khỏi phạm vi thi đua riêng của phụ nữ các cấp mà trở
thành phong trào chung trong quần chúng nhân dân. Nên đã xuất hiện “số nhà 5
tốt”, “khối phố 5 tốt” “tổ 5 tốt” “xã 5 tốt” như: khối 30 khu Đống Đa (Hà Nội), khu
phố 6 thuộc thị xã Nam Định, xã Đoàn Tùng (Hải Dương), thôn Bùi (Hà Nam)…
Phong trào “Ba đảm đang” được phát động ngày 22/3/1965 với ba nội dung:
1. Đảm nhiệm sản xuất và công tác thay thế cho nam giới đi chiến đấu.
2. Đảm nhiệm gia đình, khuyến khích chồng con yên tâm chiến đấu.
3. Đảm nhiệm phục vụ chiến đấu khi cần thiết.
Năm 1968, phong trào Ba đảm đang được đẩy lên thành cao trào Ba đảm
đang với các nội dung: Đảm đang sản xuất, công tác; Đảm đang gia đình; Đảm đang
phục vụ chiến đấu và chiến đấu.
Phong trào phụ nữ “ba đảm đang” chiến đấu chống Mỹ cứu nước nhằm huy
động và khuyến khích cao nhất tinh thần cách mạng của quần chúng phụ nữ vào
nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ miền Bắc XHCN thành hậu phương vững chắc cho
miền Nam, qua đó khích lệ tinh thần đấu tranh của lực lượng vũ trang và tăng
cường chi viện cho miền Nam.
Thực hiện chủ trương của Trung ương Hội, các Ban, các cấp Hội đã nhanh
chóng có kế hoạch học tập, triển khai kế hoạch thực hiện “ba đảm đang” rộng rãi
đến quần chúng nhân dân thông qua các buổi nói chuyện, tọa đàm, hội nghị cơ
16
sở…. Song song với việc tổ chức chỉ đạo dọc theo các cấp hội, Hội LHPNVN cũng
thực hiện phối hợp ngang với các ngành khác nhằm đưa phong trào “ba đảm đang”
thực sự trở thành hoạt động thi đua sôi nổi, chủ yếu của phụ nữ miền Bắc trong giai
đoạn 1965 – 1968.
Bằng nhiều hình thức tuyên truyền, giáo dục, khích lệ, động viên “Ba đảm
đang” đã nhanh chóng trở thành phong trào thi đua sôi nổi, rộng khắp và thu được
nhiều kết quả. Năm 1967, Ban thường trực Trung ương Hội trao tặng cờ “3 đảm
đang” cho phong trào phụ nữ 19 tỉnh, thành có thành tích xuất sắc trong phong trào
3 đảm đang. Và trao tặng bằng khen cho 7 tỉnh có nhiều cố gắng đã đạt thành tích
từng mặt trong phong trào “3 đảm đang”.
Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã chỉ đạo kịp thời, bám sát tình hình thực
tế, luôn coi trọng công tác tuyên truyền giáo dục về phong trào bằng nhiều hình
thức phong phú, đặc biệt là việc phổ biến kinh nghiệm và điển hình tiên tiến. Hội
cũng thường xuyên quan tâm đến công tác thi đua, khen thưởng trong các dịp lễ
hàng năm (8/3, 20/10) và khen thưởng đột xuất để động viên chị em.
Kết quả, gần 2000 phụ nữ đạt thành tích xuất sắc trong mọi lĩnh vực công
tác, học tập, sản xuất, chiến đấu và phục vụ chiến đấu đã được tặng thưởng huy hiệu
Bác Hồ, 4 triệu phụ nữ được TW Hội LHPNVN khen tặng danh hiệu phụ nữ Ba
đảm đang.
Những thành tích to lớn của phụ nữ trong phong trào “ba đảm đang” hoàn
toàn xứng đáng với 8 chữ vàng mà Hồ Chủ tịch tặng cho phụ nữ nhân kỷ niệm 20
năm ngày thành lập Hội LHPNVN (20/10/1966): dũng cảm, đảm đang, chống Mỹ,
cứu nước.
Phong trào “Ba đảm đang” là cống hiến lớn lao của phụ nữ Việt Nam trong
sự nghiệp đấu tranh thống nhất nước nhà, đã trở thành biểu tượng của phong trào
yêu nước của phụ nữ Việt Nam. Phong trào đã tôn vinh được 42 nữ anh hùng, 9 đơn
vị nữ anh hùng, 1.718 chị em được thưởng huy hiệu Bác Hồ, trên 5.000 chị em là
chiến sỹ thi đua toàn quốc, gần 4 triệu hội viên đạt danh hiệu phụ nữ “Ba đảm
đang”. [24, tr.36-66]
17
Đây được coi là mốc son chói lọi trong lịch sử phong trào phụ nữ Việt Nam
cũng như hoạt động của Hội LHPNVN. Qua việc tổ chức, chỉ đạo, triển khai thực
hiện phong trào, Hội LHPNVN xứng đáng là cơ quan tham mưu của Đảng về công
tác vận động phụ nữ, đồng thời Hội đã chứng tỏ năng lực chỉ đạo, thu hút, tập hợp
rộng rãi mọi tầng lớp phụ nữ, phát huy được khả năng cách mạng to lớn của chị em
vào sự nghiệp chống Mỹ cứu nước anh dũng của dân tộc.
Với việc tham gia tích cực trong phong trào Ba đảm đang, phụ nữ Việt Nam
đã thể hiện được vai trò, khả năng cách mạng to lớn, tinh thần yêu nước, lao động
sáng tạo, ý chí tự cường vươn lên, chủ nghĩa anh hùng cách mạng, sẵn sàng hy sinh
vì Tổ quốc, vì nhân dân của hàng chục triệu phụ nữ của thời đại Hồ Chí Minh .
Thắng lợi của phong trào “Ba đảm đang” đã khẳng định đường lối công tác
phụ vận của Đảng và Nhà nước XHCN là hoàn toàn đúng đắn. Hội LHPNVN đã chỉ
đạo cụ thể và đưa phong trào đạt nhiều thành tích, kết quả to lớn. Hội đã động viên
cổ vũ, hướng dẫn các tầng lớp phụ nữ phấn đấu thực hiện “ ba đảm đang”, nghiên
cứu đề xuất với Đảng và nhà nước các chế độ chính sách đối với phụ nữ để tạo điều
kiện cho chị em phấn đấu vươn lên. Thành công của phong trào “Ba đảm đang” là
tiền đề, kinh nghiệm quan trọng của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam tiếp tục phát
động, chỉ đạo, tổ chức, thực hiện các cuộc vận động, phong trào thi đua sau này đối
với phụ nữ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Cùng với phụ nữ miền Bắc, phụ nữ miền Nam tích cực tham gia các phong
trào, các hoạt động đấu tranh do Hội Phụ nữ Giải phóng tổ chức. Từ khi ra đời, song
song với phát triển tổ chức, Hội Liên hiệp phụ nữ Giải phóng đã tích cực vận động,
tuyên truyền, tổ chức đông đảo đội ngũ cán bộ, hội viên tham gia đấu tranh chính
trị, đấu tranh vũ trang, công tác binh vận, địch vận, góp phần đánh bại các chiến
lược «Chiến tranh đặc biệt», «Chiến tranh cục bộ», «Việt Nam hóa chiến tranh»,
đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Pari, bảo vệ hòa bình. Đặc biệt, trong cuộc Tổng
tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975, cùng nhân dân cả nước, phụ nữ miền Nam với
tinh thần «Tất cả để góp phần giải phóng quê hương» đã phát huy khí thế cách
mạng sôi sục, tích cực tham gia lực lượng khởi nghĩa ở các tỉnh, chăm sóc thương
18
binh, truy lùng ác ôn địch còn lẩn trốn góp phần vào thắng lợi của cuộc Tổng tiến
công và nổi dậy mùa xuân 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Nghị quyết Nghị quyết 238 – NQ/TW của Bộ Chính trị về việc tổng kết
phong trào phụ nữ Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng khẳng định, phong trào phụ
nữ Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã trưởng thành vượt bậc và đã có những
đóng góp to lớn vào sự nghiệp cách mạng, phụ nữ Việt Nam đã giành được quyền
bình đẳng nam nữ về mọi mặt và quyền ấy đã được ghi trong Hiến pháp nước Việt
Nam Dân chủ Cộng hòa. Để ghi lại những thành tích, rút ra những kinh nghiệm phát
huy hơn nữa truyền thống tốt đẹp và khả năng cách mạng của phụ nữ Việt Nam,
Trung ương Đảng chỉ đạo các cấp các ngành tô
̉
ng kết phong tra
̀
o phu
̣
nư
̃
nhằm tăng
cường công tác phụ vận của Đa
̉
ng. Thực hiện chủ trương này, Trung ương Hội Liên
hiệp phụ nữ Việt Nam đã thành lập Tiểu ban tổng kết phong trào phụ nữ Việt Nam
do bà Nguyễn Thị Thập, Ủy viên Trung ương Đảng, phụ trách. Ngoài ra còn có 15
cán bộ, nhân viên giúp Tiểu ban. Bộ phận tổng kết nằm trong biên chế của Trung
ương Hội phụ nữ, nhưng làm việc trực tiếp với Ban bí thư Trung ương Đảng.
1.2. Tổ chức và hoạt động của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong
những năm 1976 - 1982
1.2.1. Hoàn thiện và củng cố tổ chức
Hội nghị thống nhất Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam 1976
Ngày 26/1/1976, Ban Chấp hành Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt
Nam ra Nghị quyết số 03/NQ/TV về nhiệm vụ công tác phụ nữ năm 1976. Nghị
quyết nêu rõ nhiệm vụ của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam: phát huy truyền thống
“3 đảm đang”, nêu cao khẩu hiệu “Giỏi việc nước, đảm việc nhà, phấn đấu thực
hiện nam nữ bình đẳng”, nâng cao giác ngộ xã hội chủ nghĩa cho phụ nữ, vận động
tham gia phong trào thi đua lao động sản xuất, cần kiệm xây dựng chủ nghĩa xã hội,
tham gia phong trào xây dựng gia đình và nuôi dạy con cái, chăm lo đến quyền lợi
của phụ nữ và trẻ em. Đặc biệt, trong hoàn cảnh lịch sử mới – nước nhà vừa thống
nhất, nhiệm vụ cấp bách đặt ra là: ra sức củng cố và kiện toàn các cấp Hội, chuẩn bị
việc thống nhất tổ chức phụ nữ hai miền, rất chú trọng cấp cơ sở; Chuyển mạnh sự
19
hoạt động theo chức năng của Hội, cải tiến lề lối làm việc, quyết tâm đào tạo và bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ có đủ năng lực, đáp ứng yêu cầu lớn của phong trào phụ nữ
trong tình hình mới; Chú trọng và tích cực đẩy mạnh hoạt động quốc tế của Hội.
Ngày 24/5/1976, Ban Bí thư Trung ương Đảng Lao động Việt Nam ra Quyết
định số 253-NQ/TW về việc thống nhất các đoàn thể nhân dân và thống nhất mặt
trận. Theo đó, việc thống nhất đoàn thể nhân dân làm theo 2 bước, bước 1 là thống
nhất các Ban chấp hành, bước 2 là tổ chức Đại hội toàn quốc của mỗi đoàn thể,
thông qua điều lệ mới và bầu cơ quan lãnh đạo mới của mỗi đoàn thể. Các Đại hội
này sẽ mở sau Đại hội Đảng lần thứ IV.
Trước yêu cầu cấp bách thống nhất tổ chức Hội, ngày 1/6/1976, tại thành phố
Hồ Chí Minh, Thường vụ Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam và Thường
vụ Trung ương Hội Liên hiệp phụ nữ giải phóng miền Nam họp để chuẩn bị cho
Hội nghị hợp nhất.
Hội nghị thống nhất Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam và Hội Liên hiệp phụ
nữ Giải phóng miền Nam Việt Nam diễn ra trong 3 ngày 10-12/6/1976.
Hội nghị đã thống nhất tổ chức và chỉ đạo hoạt động của Hội Liên hiệp phụ
nữ trong cả nước. Theo đó, Hội nghị quyết định, tên gọi của Hội là Hội Liên hiệp
phụ nữ Việt Nam. Cơ quan lãnh đạo Hội ở Trung ương là Ban Chấp hành Trung
ương Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam trên cơ sở hợp nhất hai Ban Chấp hành Trung
ương Hội LHPN Việt Nam và Hội LHPN Giải phóng miền Nam, gồm 114 Uỷ viên.
Ban Thường vụ Trung ương Hội được bầu gồm 30 Uỷ viên. Bà Nguyễn Thị
Thập, Ủy viên Trung ương Đảng Lao động Việt Nam được bầu Chủ tịch danh dự,
bà Hà Thị Quế, Ủy viên Trung ương Đảng Lao động Việt Nam là Chủ tịch Hội
LHPN Việt Nam, bà Nguyễn Thị Định làm Phó Chủ tịch thứ nhất và 8 Phó Chủ tịch
của cả hai Ban Chấp hành hợp nhất lại.
Hội nghị đã quyết định lấy ngày 20/10/1930 là ngày thành lập Hội LHPN
Việt Nam ; Lấy cờ và huy hiệu của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam là cờ và huy
hiệu của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam thống nhất (nêu cụ thể cờ và biểu tượng).
Trong khi chờ Đại hội phụ nữ toàn quốc sẽ thông qua Điều lệ mới phù hợp với
20
nhiệm vụ chính trị trong thời kỳ cách mạng mới, trước mắt vẫn sử dụng các văn bản
hướng dẫn Điều lệ của hai miền.
Cơ quan tuyên truyền giáo dục của Hội gồm: Tuần báo Phụ nữ Việt Nam -
Cơ quan ngôn luận của Trung ương Hội LHPN Việt Nam; Nhà xuất bản Phụ nữ;
Giờ phát thanh Phụ nữ trên Đài Tiếng nói Việt Nam; Trường đào tạo cán bộ dài hạn
và Trường bồi dưỡng cán bộ ngắn hạn của Trung ương Hội. Hội nghị đã quyết định
tổ chức Đại hội phụ nữ toàn quốc vào năm 1977 để xác định phương hướng, nhiệm
vụ phong trào trong giai đoạn mới và bầu cử cơ quan lãnh đạo chính thức của phong
trào phụ nữ cả nước.
Hội nghị đã đề ra 6 nhiệm vụ công tác trước mắt của Hội gồm: “Phát huy
mạnh mẽ khí thế cách mạng của phong trào phụ nữ ba đảm đang trong kháng chiến
chống Mỹ vào nhiệm vụ xây dựng đất nước với khẩu hiệu: Giỏi việc nước, đảm việc
nhà, phấn đấu thực hiện nam nữ bình đẳng, nâng cao giác ngộ XHCN cho phụ nữ,
phát động một phong trào cách mạng sôi nổi, động viên toàn thể phụ nữ đem hết trí
tuệ và sức lực hăng hái thi đua lao động sản xuất đạt năng suất cao và thực hành tiết
kiệm với tinh thần: tất cả cho sản xuất, tất cả để xây dựng CNXH, tất cả vì Tổ quốc
giàu mạnh, vì hạnh phúc của nhân dân. Giáo dục, hướng dẫn phụ nữ xây dựng gia
đình, nuôi dạy con cái, tổ chức cuộc sống cho phù hợp với yêu cầu của nhiệm vụ cách
mạng và điều kiện thực tế của xã hội, góp phần xây dựng con người mới, xã hội mới,
thực hiện tốt hơn nữa sự nghiệp giải phóng phụ nữ. Ra sức củng cố và kiện toàn các
cấp Hội, chú trọng cấp cơ sở, chuyển mạnh sự hoạt động theo chức năng của Hội, cải
tiến lề lối làm việc, quyết tâm đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ có đủ năng lực, đáp
ứng với yêu cầu lớn lao của phong trào phụ nữ trong tình hình mới”. [19, tr.2]
Như vậy, Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam đã được thống nhất trong phạm vi
toàn quốc với mạng lưới rộng lớn từ Cao Lạng đến Minh Hải, khắp thành thị và
nông thôn, từ đồng bằng, đến miền núi, trong mọi tầng lớp, mọi dân tộc.
Hội nghị thống nhất Hội Liên hiệp phụ nữ là sự kiện chính trị quan trọng
đánh dấu bước trưởng thành mới của phụ nữ Việt Nam, “mở ra một trang sử mới
cho phong trào phụ nữ”, thống nhất phong trào phụ nữ toàn quốc, tập trung sức đẩy
21
mạnh cách mạng xã hội chủ nghĩa, và xây dựng chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở đó, đưa
sự nghiệp giải phóng phụ nữ tiến lên một bước mới. Hội nghị đáp ứng yêu cầu cách
mạng trong tình hình mới, là hình ảnh sinh động của khối đại đoàn kết nhất trí của
phụ nữ cả nước.
Tổ chức lại bộ máy Trung ương Hội
Tổ chức bộ máy cơ quan Trung ương Hội thời kỳ này có nhiều thay đổi cho
phù hợp với hoàn cảnh, tình hình mới. Một số ban, đơn vị, phòng được thành lập
riêng, một số ban bị giải thể, đổi tên.
Ban Thường vụ TW Hội (được bầu từ Đại hội phụ nữ lần thứ IV thay cho
Ban Thường trực TW Hội) chịu trách nhiệm trước Ban Chấp hành TW Hội lãnh đạo
thực hiện mọi mặt công tác của Hội giữa hai kỳ Hội nghị của Ban Chấp hành TW.
Trong tình hình cả nước tiến lên giai đoạn cách mạng mới, giai đoạn tiến lên
xây dựng chủ nghĩa xã hội trong cả nước. Hội phải gấp rút đào tạo, bồi dưỡng đội
ngũ cán bộ phụ nữ về mọi mặt, để có đủ năng lực đáp ứng yêu cầu của tình hình
mới. Ngày 3/3/1977 Ban thường vụ TW Hội ra Quyết nghị số 09/QN quyết định
thành lập Trường Cán bộ phụ nữ Trung ương Lê Thị Riêng (đặt tại Thủ Đức –
Thành phố Hồ Chí Minh, gọi tắt là Trường Cán bộ phụ nữ Trung ương II). Trường
có nhiệm vụ:
+ Mở các lớp ngắn hạn bồi dưỡng nghiệp vụ công tác Hội cho cán bộ Hội.
+ Mở các lớp bổ túc văn hoá hết cấp I cho cán bộ tỉnh, huyện Hội.
+ Thông qua các tỉnh Hội, kết hợp với Trường Đảng của tỉnh, giảng dạy
chương trình lý luận chính trị sơ cấp.
Ban Công tác nữ nông dân được thành lập theo Quyết nghị số 152-QN/TW,
ngày 20/10/1977 của Ban Thường vụ TW Hội thay cho Ban nông nghiệp (Ban
Nghiên cứu Quyền lợi đời sống phụ nữ cũng được thành lập theo Quyết nghị này
thay cho Ban công nghiệp). Ban Công tác nữ Nông dân có nhiệm vụ:
+ Thực hiện 3 mục tiêu trong Nghị quyết 2 về nông nghiệp của Ban chấp
hành TW Đảng. Theo dõi hướng dẫn các cấp Hội vận động phụ nữ tham gia phong
trào lao động sản xuất, chăn nuôi, chế biến thực phẩm trong gia đình.
22
+ Nghiên cứu, đề xuất, xây dựng các chế độ chính sách đối với phụ nữ trong
nông nghiệp và cán bộ nữ tham gia quản lý kinh tế nông nghiệp. Kiểm tra việc thực
hiện chế độ chính sách của Đảng và Nhà nước.
+ Theo dõi, sơ kết, tổng kết cuộc vận động phụ nữ tham gia cải tạo nông
nghiệp ở miền Nam; phân vùng kinh tế tổ chức lại sản xuất ở miền Bắc; rút kinh
nghiệm, bổ sung cho công tác chỉ đạo nông nghiệp của Hội.
Ban Công tác nữ nông dân tồn tại và hoạt động được 4 năm. Để phù hợp với
tình hình mới, ngày 6/5/1980 Ban Thường vụ TW Hội ra Nghị quyết số 25-QN/TV
quyết định bỏ Ban công tác nữ Nông dân, chuyển nhiệm vụ theo dõi, chỉ đạo công
tác vận động phụ nữ tham gia chăn nuôi, sản xuất nông nghiệp sang Văn phòng
thường vụ Trung ương Hội; chuyển nhiệm vụ nghiên cứu vấn đề phụ nữ trong lao
động nông nghiệp, cán bộ phụ nữ tham gia quản lý HTX nông nghiệp sang Ban
Nghiên cứu.
Ban Nghiên cứu được thành lập ngày 06/8/1979, theo Quyết nghị số
95/QN/TC của Ban Thường vụ TW Hội có nhiệm vụ:
+ Nghiên cứu đề xuất chủ trương, phương châm, nội dung, tổ chức, phương
thức công tác vận động phụ nữ của Đảng và Nhà nước trong từng thời gian.
+ Nghiên cứu những vấn đề do Đảng đoàn và thường vụ phân công.
+ Quan hệ phối hợp chặt chẽ với các Ban, theo dõi quá trình thực hiện chủ trương.
Ban Nghiên cứu quyền lợi đời sống phụ nữ thành lập theo Quyết nghị số
152-QN/TW, ngày 20/10/1977 của Ban Thường vụ TW Hội thay cho Ban công
nghiệp, có các nhiệm vụ:
+ Nghiên cứu, đề xuất với Đảng và Nhà nước xây dựng chính sách, chế độ
về quyền lợi, sức khoẻ đối với phụ nữ và trẻ em trong khu vực Nhà nước và thủ
công nghiệp.
+ Kết hợp với các ngành chức năng kiểm tra theo dõi việc thực hiện các chế
độ chính sách trên về: lao động sản xuất, nghề nghiệp, học tập, đời sống, sức khoẻ,
nhà trẻ, mẫu giáo, sinh đẻ có kế hoạch, Luật Hôn nhân gia đình, công tác hậu
phương quân đội.
23
+ Tham gia giải quyết các vấn đề tệ nạn xã hội do chiến tranh để lại cho phụ
nữ và trẻ em.
+ Chỉ đạo điểm, sơ kết, tổng kết các chuyên đề trên.
Nhiệm vụ theo dõi chỉ đạo công tác hậu phương quân đội sau được chuyển
sang Văn phòng thường vụ TW Hội theo Quyết Nghị số 26 QN/TV, ngày 6/5/1980
của Ban Thường vụ TW Hội.
Để thống nhất chỉ đạo phong trào phụ nữ miền Nam, ngày 5/6/1980, Ban
Thường vụ TW Hội ra Quyết nghị số 61/QN bỏ Ban Cải tạo Nông nghiệp, Ban cải
tạo Công thương nghiệp tư bản tư doanh TW Hội ở phía Nam; đồng thời thành lập
hai bộ phận theo dõi chỉ đạo công tác Hội các tỉnh phía Nam trực thuộc Ban thường
vụ TW Hội gồm bộ phận B2 cũ và bộ phận khu 5 cũ (gọi tắt là bộ phận B2K5).
Bộ phận B2 có nhiệm vụ:
+ Nắm tình hình hoạt động của các cấp Hội ở phía Nam về việc thực hiện
Nghị quyết của TW Hội.
+ Hướng dẫn giúp đỡ: một số tỉnh thi hành trước một bước các Nghị quyết
của TW Hội, rút kinh nghiệm cho các tỉnh khác để đưa phong trào lên đồng đều.
+ Thông qua việc theo dõi, hướng dẫn và góp ý kiến với các địa phương, đề
xuất ý kiến với TW Hội, với các Ban chuyên môn để giúp cho sự chỉ đạo phù hợp
với hoàn cảnh tình hình các tỉnh phía Nam.
+ Tham dự các cuộc Hội nghị có liên quan đến công tác Hội phụ nữ của các
ngành ở TW tổ chức tại phía Nam để nắm được chủ trương phối hợp giữa hai bên.
+ Quản lý cán bộ, nhân viên ở T60 và tài sản của TW Hội.
Bộ phận khu 5 có nhiệm vụ tương tự như bộ phận B2, nhưng ở địa bàn các
tỉnh thuộc khu 5 cũ.
Ngày 10/6/1980, Ban Thường vụ TW Hội ra Quyết nghị số 71/QN-TV thành
lập Ban chống tiêu cực của cơ quan TW Hội LHPN Việt Nam, có nhiệm vụ: giúp
Ban Thường vụ theo dõi phát hiện và đề xuất giải quyết những sự việc tiêu cực xảy
ra trong cơ quan TW Hội.
Ban Kinh tế Tài chính được thành lập theo Quyết định số 72-QĐ/TV ngày
29/9/1981 của Ban Thường vụ TW Hội có nhiệm vụ:
24
+ Giải quyết nguồn tài chính bổ sung thêm cho ngân sách do Nhà nước trợ
cấp đề đảm bảo kinh phí hoạt động của TW Hội.
+ Là một tổ chức kinh doanh sản xuất và dịch vụ hoạt động theo chế độ hạch
toán kinh tế, có quyền tư cách pháp nhân, được mở tài khoản ở Ngân hàng và có
quyền vay vốn kinh doanh với Ngân hàng, có quyền ký kết hợp đồng kinh tế với
các cơ quan kinh tế quốc doanh, hợp tác xã và tư nhân có đăng ký kinh doanh.
Củng cố bộ máy các cấp và tổ chức cơ sở hội
Sau Nghị quyết số 245-NQ/TW, ngày 20/9/1975 của Bộ Chính trị về việc bỏ
khu, hợp nhất tỉnh. Việc hợp nhất tỉnh được tiến hành đồng thời với việc bỏ khu.
Như vậy, quản lý hành chính cả nước được chia theo 4 cấp: Trung ương - Tỉnh,
thành - Huyện, Thị - xã. Tình hình này yêu cầu Trung ương Hội phải có kế hoạch,
biện pháp để bố trí nhân sự các tỉnh chỉ đạo hoạt động, phong trào phụ nữ ở các tỉnh
mới. Trung ương Hội đã phân công, bố trí cán bộ xuống các tỉnh theo dõi, giúp đỡ
các tỉnh. Đến tháng 11/1976, bộ máy ở các tỉnh hợp nhất đi vào ổn định, đáp ứng
yêu cầu công tác của cấp ủy địa phương và cấp hội cấp trên. Năm 1981, 2/3 số tỉnh,
thành đã hình thành được các ban chuyên môn giúp việc cho thường vụ chỉ đạo các
hoạt động công tác, gồm có: Văn phòng, Ban Tổ chức, Ban Tuyên huấn, Ban Đời
sống và gia đình. Trong đó, 12 tỉnh, thành xây dựng được các ban hoạt động có chất
lượng, góp phần đẩy mạnh các mặt công tác.
Trình độ văn hóa, chính trị của đội ngũ cán bộ nữ giai đoạn này được nâng
lên rõ rệt. Trường Cán bộ Phụ nữ Trung ương và Trường Lê Thị Riêng liên tục mở
các lớp đào tạo ngắn hạn và dài hạn cho đội ngũ cán bộ hội nhằm nâng cao về trình
độ văn hóa và công tác vận động phụ nữ. Theo số liệu thống kê ở 17 tỉnh, thành
miền Bắc, năm 1980 có 14/533 cán bộ tỉnh hội có trình độ văn hóa từ cấp III đến
đại học (so với năm 1976 chỉ đạt 34,5%); hơn 92% có trình độ từ cấp II trở lên; các
tỉnh, thành phía Nam, số cán bộ có trình độ từ cấp II trở lên chiếm 54%. [53, tr.4]
Mỗi cán bộ Hội phấn đấu rèn luyện, thực hiện 5 tiêu chuẩn cán bộ của Đảng và tiêu
chuẩn riêng của ngành: nhiệt tình công tác Hội, có trình độ chính trị, văn hóa và có
kiến thức một mức độ nhất định về quản lý kinh tế và khoa học kỹ thuật… Riêng
25
với cán bộ lãnh đạo Hội phải có tiêu chuẩn về trình độ chính trị văn hóa và độ tuổi:
phải qua lớp chính trị của Đảng quy định; về văn hóa, cán bộ lãnh đạo từ Trung
ương đến huyện (40 tuổi trở lên) phải phấn đấu đến 1980 có trình độ văn hóa cấp 3
trở lên. Riêng cấp huyện miền núi và Hội trưởng xã phải có trình độ văn hóa ít nhất
hết Cấp 2. Về tuổi: cán bộ tham gia các cấp lãnh đạo (chấp hành và Thường vụ) từ
Trung ương đến cơ sở trong độ tuổi từ 20 – 40, Hội trưởng huyện và xã từ 25 – 45
tuổi, Chủ tịch và Hội trưởng tỉnh, thành từ 35 – 55 tuổi.
Tổ chức cơ sở Hội có vị trí rất quan trọng, là tai mắt của Đảng, là chỗ dựa của
chính quyền và là nền tảng của Hội. Tổ chức cơ sở Hội có vững mạnh thì Hội mới
vững mạnh, phong trào của Hội mới phát triển. Nhận thức rõ tầm quan trọng của tổ
chức cơ sở hội, sau khi nghiên cứu tình hình thực tế, Ban tổ chức Trung ương Hội
hướng dẫn cụ thể, quy định về tổ chức, cơ cấu và hoạt động của các tổ chức hội cơ
sở. Theo đó, hợp tác xã thủ công nghiệp ở thành phố, thị xã có từ 20 hội viên trở lên,
ổn định sản xuất, hội viên yêu cầu thì tổ chức chi hội, bầu BCH chi hội; hợp tác xã
dưới 20 hội viên thành lập tổ phụ nữ; hợp tác xã có thành lập chi bộ Đảng trực tiếp
dưới sự lãnh đạo của Đảng ủy xã, thị trấn thì tổ chức ban phân chi trực thuộc Ban
Chấp hành phụ nữ xã, thị trấn; 1 xã có nhiều hợp tác xã thì mỗi hợp tác xã thành lập 1
phân chi; hợp tác xã chi bộ Đảng trực thuộc huyện ủy có trên 20 hội viên được bầu
Ban Chấp hành phụ nữ và trực thuộc Ban Chấp hành huyện hội; tổ nghề phụ của hợp
tác xã nông nghiệp thì coi như đội ngành nghề nếu ổn định sản xuất thì lập tổ phụ nữ
trực thuộc phân chi phụ nữ hoặc Ban Chấp hành phụ nữ xã (nơi hợp tác xã toàn xã
không có phân chi); các tổ đan len tập trung nhiều hội viên ở trong một tiểu khu thì
thành lập tổ phụ nữ trực thuộc với Ban Chấp hành phụ nữ tiểu khu, những tổ đan len
hội viên không tập trung thành tổ thì hội viên về sinh hoạt với tổ phụ nữ đường phố.
Ban Chấp hành phụ nữ trong các hợp tác xã thủ công có 3 đến 9 người bầu Ban
thường vụ 3 người; Ban phân chi có đại biểu ban quản trị hợp tác xã, đại biểu đoàn
thanh niên, đại biểu tổ chức phụ nữ, đại biểu Y tế bảo vệ bà mẹ trẻ em.
Tổ chức hội như trên phù hợp với tổ chức sản xuất ở những cơ sở hợp tác xã
đã lên quy mô toàn xã. Tại nhiều tỉnh, ban chấp hành phụ nữ xã chỉ đạo trực tiếp
thẳng xuống tổ phụ nữ (bộ phân chi).