Tải bản đầy đủ (.pdf) (122 trang)

Quan hệ Malaysia - Singapore từ 1965 đến 2010 Đ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 122 trang )



1

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






TRẦN THỊ THẢO








QUAN HỆ MALAYSIA - SINGAPORE
TỪ 1965 ĐẾN 2010






LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ










Hµ Néi, th¸ng 5/2013


2

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





TRẦN THỊ THẢO






QUAN HỆ MALAYSIA – SINGAPORE
TỪ 1965 ĐẾN 2010




Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lịch sử thế giới
Mã số: 60 22 50







Người hướng dẫn khoa học: TS. Trần Thiện Thanh









Hà Nội, tháng 5/2013


3
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Theo quy luật phát triển của lịch sử nhân loại, bất kỳ quốc gia nào cũng
có nhu cầu phát triển quan hệ với bên ngoài. Đó không chỉ là điều kiện để con
người tồn tại và phát triển mà còn là cơ sở để quốc gia hình thành và vận

động. Trong bối cảnh ngày nay, quan hệ đối ngoại là hoạt động mang tính
sống còn, tác động đến sự tồn vong và phát triển của từng quốc gia. Chính vì
vậy, các nước luôn chú trọng, điều chỉnh linh hoạt chính sách đối ngoại phù
hợp với thực tiễn đất nước và xu hướng vận động của bối cảnh quốc tế, khu
vực. Malaysia, Singapore - hai nước có nền kinh tế phát triển so với các nước
khác trong khu vực Đông Nam Á không nằm ngoài quy luật phát triển đó của
lịch sử nhân loại.
Malaysia, Singapore không chỉ chung biên giới mà còn có mối quan hệ
đặc thù giữa hai nước láng giềng. Điều đó được thể hiện trong tiến trình phát
triển lịch sử của hai nước. Mối quan hệ tác động qua lại diễn ra trong tất cả
các lĩnh vực: sắc tộc, ngôn ngữ, tôn giáo, xã hội , song vốn trước đây là
một, hai nước có quá nhiều điểm chung và nhiều vấn đề tồn tại dai dẳng.
Khi trở thành thành viên của ASEAN, quan hệ Malaysia – Singapore
vừa mang tính chất song phương giữa hai quốc gia, vừa mang tính chất đa
phương trong quan hệ với các thành viên khác. Do vậy, mối quan hệ Malaysia
– Singapore cũng là một trong những động lực góp phần thúc đẩy sự phát triển
chung của khu vực. Xu thế hòa dịu trong đối thoại, nhu cầu hòa bình và ổn
định của các quốc gia ASEAN cùng sự điều chỉnh chính sách đối ngoại, các
mối quan hệ giữa hai nước đã góp phần mở một hướng đi mới trong khu vực.
Nghiên cứu “Quan hệ Malaysia-Singapore từ năm 1965 đến năm 2010”
là đề tài vừa có ý nghĩa khoa học vừa có ý nghĩa thực tiễn. Thông qua việc tái
hiện diễn trình của mối quan hệ Malaysia – Singapore, luận văn sẽ giúp vạch
ra những cơ sở cũng như đặc điểm của mối quan hệ này. Trong bối cảnh Việt
Nam đang thực hiện chính sách đổi mới đất nước và thiết lập quan hệ đa dạng


4
hóa, đa phương hóa với tất cả các quốc gia trong khu vực và trên thế giới,
việc nghiên cứu về quan hệ Malaysia - Singapore sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn
về hai đối tác quan trọng của Việt Nam trong khối ASEAN, từ đó có thể rút ra

những kinh nghiệm tham khảo trong việc đánh giá diễn trình của một trong
những mối quan hệ quan trọng trong quan hệ khu vực Đông Nam Á hiện nay.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Ở trong nước:
Khi xu hướng mở rộng trong quan hệ đối ngoại giữa các nước trong
khu vực ngày càng tăng, cũng là thời điểm các học giả trong nước quan tâm
nhiều hơn đến lịch sử, quan hệ đối ngoại của các nước trong tổ chức ASEAN.
Malaysia, Singapore đều là những nước có nền kinh tế phát triển, có tác động
quan trọng đến tình hình kinh tế trong khu vực, vì vậy việc nghiên cứu về đất
nước, lịch sử, văn hóa chính trị và xã hội của hai nước Malaysia, Singapore
luôn được quan tâm. Tuy nhiên, trên thực tế, việc nghiên cứu về Malaysia,
Singapore chỉ được đẩy mạnh hơn ở nước ta vào cuối những năm 90 của thế
kỷ XX.
Các tác phẩm nghiên cứu về Malaysia:
Nghiên cứu về Malaysia, Singapore ở trong nước chủ yếu trong lĩnh
vực kinh tế, văn hóa và tôn giáo. Trong lĩnh vực kinh tế có các công trình như
“Kinh tế Malaixia” của Trần Lan Hương xuất bản năm 2001. Cuốn sách nêu
một cách khái quát về đất nước, con người, lịch sử Malaysia; tập trung vào
phân tích chiến lược và 3 giai đoạn phát triển kinh tế của Malaysia. Các lĩnh
vực kinh tế nông nghiệp, công nghiệp, tài chính – ngân hàng, thương mại –
đầu tư, giao thông – bưu điện được phân tích cụ thể. Bên cạnh đó là thông tin
về khủng hoảng đồng Ringgit và các giải pháp phục hồi nền kinh tế trong
những năm cuối thế kỷ XX đầu thế kỷ XXI
Cuốn “Malaixia trên đường phát triển” của Phạm Đức Thành xuất bản
năm 1993 cũng nêu khái quát về đất nước và con người Malaysia trong lịch
sử. Tình hình phát triển kinh tế - xã hội của Malaysia trong những năm 1957 –


5
1990 và chính sách mở cửa mềm dẻo linh hoạt của Malaysia và những thành

tựu của đất nước này được tác giả thể hiện chi tiết.
Cuốn “Malaixia kế hoạch triển vọng lần thứ hai 1991- 2000” của Nhà
xuất bản Chính trị Quốc gia xuất bản năm 1997. Nội dung chính của cuốn
sách là đánh giá kết quả thực hiện kế hoạch triển vọng lần thứ nhất 1971-
1990, chính sách kinh tế mới, nội dung cơ bản của kế hoạch triển vọng lần thứ
hai 1991-2000, đẩy mạnh quá trình xóa đói giảm nghèo, chuyển dịch cơ cấu
kinh tế - xã hội, điều chỉnh cân đối thu nhập và mức sống giữa các vùng và
các nhóm sắc tộc… của Malaysia. Các tác phẩm này tập trung nêu bật những
thay đổi trong nền kinh tế Malaysia và những tác động xung quanh sự biến
đổi nền kinh tế.
Về lĩnh vực văn hóa, tôn giáo có tác phẩm “Hồi giáo trong đời sống
chính trị, văn hóa – xã hội của Malaysia” của Phạm Thị Vinh xuất bản năm
2001. Tác phẩm đề cập đến vị trí và ảnh hưởng của Hồi giáo đối với đời sống
chính trị và văn hoá xã hội của Malaysia. Tác động của Hồi giáo đối với các
chính sách đối nội, đối ngoại của nước này, đặc biệt là trong việc phát triển
văn hoá dân tộc.
Tác phẩm “Liên bang Malaysia: Lịch sử văn hóa và những vấn đề hiện
đại” của Nguyễn Huy Hồng xuất bản năm 1998. Cuốn sách đã cung cấp một
số kiến thức cơ bản về lịch sử, đất nước, con người, ngôn ngữ, văn hóa, nghệ
thuật, tôn giáo, phong tục tập quán, giáo dục, kinh tế xã hội, đối ngoại của
Malaysia. Đặc biệt là vai trò của Hồi giáo trong nền chính trị và tác động của
Hồi giáo đến đời sống xã hội Malaysia.
Các tác phẩm nghiên cứu về Singapore:
Cuốn “Xingapo đặc thù và giải pháp” của tác giả Dương Văn Quảng
xuất bản năm 2002, là tác phẩm nghiên cứu mang tính tổng quan về đời sống
xã hội, chính trị, văn hóa… về Singapore. Cuốn sách giới thiệu chung về
thương cảng Singapore, về hệ thống chính trị, chiến lược phát triển, chiến
lược đối ngoại của Singapore. Cuốn sách cũng đề cập đến mối quan hệ giữa



6
Singapore với hai nước láng giềng là Malaysia và Indonesia, mối quan hệ với
các nước Mỹ, Trung Quốc và Việt Nam. Tuy nhiên, trong phần viết về quan
hệ song phương với Malaysia, tác giả chỉ nêu khái quát quan hệ giữa hai nước
theo từng lĩnh vực, từng vấn đề còn tồn tại giữa hai nước mà chưa hệ thống
những biến đổi trong quan hệ song phương giữa Malaysia và Singapore trong
các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa – xã hội.
Công trình “Thành công của Singapore trong phát triển kinh tế” xuất
bản năm 1996 và “Cộng hòa Xingapo 30 năm xây dựng và phát triển” xuất
bản năm 1995 của Trần Khánh, chủ yếu đề cập đến sự phát triển kinh tế của
Singapore, những đột phá trong việc phát triển và xây dựng quốc gia dân tộc.
Bên cạnh đó, hai cuốn sách phác họa đôi nét về đất nước, con người, lịch sử
của Singapore, tiếp đó tập trung đề cập đến những thành tựu về kinh tế vươt
bậc mà Singapore đã đạt được.
Như vậy, việc nghiên cứu Malaysia và Singapore của các tác giả trong
nước chủ yếu là về lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội. Đến thời điểm hiện tại,
trong nước chưa có công trình nào tập trung nghiên cứu một cách hệ thống,
toàn diện về quan hệ Malaysia – Singapore từ 1965 đến 2010, nếu có thì chủ
yếu nghiên cứu về một khía cạnh nào đó trong mối quan hệ Malaysia –
Singapore tại một thời điểm nhất định, hoặc một giai đoạn ngắn.
Ở ngoài nước:
Có thể kể đến các tác phẩm đã được biên dịch sang tiếng Việt như “Hồi
ký Lý Quang Diệu” xuất bản năm 2001. Cuốn sách đề cập đến tình hình kinh
tế, chính trị, văn hóa xã hội… và những biện pháp lãnh đạo đất nước của
chính phủ Singapore và những đóng góp quan trọng của Lý Quang Diệu cho
sự phát triển ở Singapore những năm 1965 – 2000.
“Bí quyết hóa rồng: Lịch sử Singapore 1965-2000” của Lý Quang
Diệu xuất bản năm 2001. Tác phẩm đề cập những sự kiện quan trọng trong
lịch sử Singapore từ khi độc lập đến năm 2000. Cuốn sách giới thiệu tình hình
chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa… và chính sách ổn định xây dựng đất nước



7
ở Singapore. Tác phẩm cũng nói về việc chuyển giao quyền lực của chính phủ
Singapore và đôi nét về gia đình của Lý Quang Diệu. Các quan hệ khu vực và
quốc tế của Singapore, Lý Quang Diệu cũng “mô tả” những thăng trầm trong
mối quan hệ giữa Malaysia và Singapore qua các sự kiện cụ thể. Tuy nhiên,
đó chỉ là quan điểm riêng, mang tính chất khái quát của ông xung quanh mối
quan hệ về chính trị giữa hai nước.
Bên cạnh đó, có khá nhiều tác phẩm nghiên cứu về mối quan hệ của
Malaysia và Singapore trong lịch sử, có thể kể đến các tác phẩm như
“Singapore – Malaysia relation: under Adbullah Badawi” của Saw Swee
Hock, “Malaysia – Singapore Relations” của Abdullah bin Haji Ahmad
Badawi, hay “Across the Causway” của Takashi Shiraishi…
“Across the Causway” của Takashi Shiraishi xuất bản năm 2009, là tác
phẩm tổng hợp các bài viết nghiên cứu về lịch sử, chính trị, an ninh khu vực,
pháp luật và nền kinh tế giữa Malaysia và Singapore. Tuy nhiên, mỗi khía
cạnh được tác giả nghiên cứu riêng và không theo trình tự thời gian, không
bao quát mối quan hệ giữa Malaysia – Singapore trong giai đoạn 1965 đến
2010.
“Singapore – Malaysia relation: under Adbullah Badawi” của Saw
Swee Hock xuất bản năm 2006, bao gồm 8 chương chính, đề cập đến nhiều
vấn đề như giải quyết các vấn đề song phương, tăng cường các chuyến thăm
chính thức giữa hai bên, phát triển mối liên hệ nhân thân giữa hai nước, liên
kết trong kinh tế, mở rộng khu vực liên kết tư nhân, các vấn đề trong giáo dục
và thể thao, tinh thần cải thiện trong quan hệ tương lai giữa hai nước và các
bài phát biểu của Thủ tướng Malaysia – Singapore trong giai đoạn cầm quyền
của Thủ tướng Malaysia Badawi. Cuốn sách cung cấp thông tin quan trọng về
sự phát triển trong quan hệ song phương giữa Malaysia và Singapore từ 2003
đến năm 2006.

Cuốn “Malaysia’s foreign policy the first fifty years: Alignment,
Neutralism, Islamism” của Jayaratnam Saravanamuttu xuất bản năm 2010.


8
Nội dung chính của cuốn sách nói về chính sách đối ngoại của Malaysia từ
năm 1963 đến năm 2009, bên cạnh đó cuốn sách phân tích tình hình khu vực
và thế giới đã có ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại của Malaysia.
Cuốn “Malaysia: Recent trends and challenges” của Saw Swee Hock
xuất bản năm 2006, với nội dung chủ yếu là ghi lại các xu hướng và thách thức
đang diễn ra trong các lĩnh vực quan trọng của Malaysia. Các chương trong
cuốn sách bao gồm các chủ đề chính như dân số, hồi giáo, chính trị, cuộc tổng
tuyển cử năm 2004, tác động của toàn cầu hóa về kinh tế, quan hệ với
Singapore. Dự báo những tác động của khu vực ảnh hưởng sâu sắc đến mối
quan hệ của Malaysia với các nước láng giềng trong tương lai. Cuốn sách cung
cấp cho độc giả cái nhìn sâu sắc hơn về Malaysia đang trong quá trình thay đổi.
Cuốn “Malaysian foreign policy in the Mahathir Era, 1981-
2003: Dilemmas of development” của tác giả Karminder Singh Dhillon xuất
bản năm 2009. Nội dung chính là chính sách đối ngoại của Malaysia từ 1981-
2003, dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng Mahathir. Cuốn sách đi sâu vào nghiên
cứu và nhận xét các chính sách đối ngoại của Malaysia, tác động của khu vực
và quốc tế đến các chính sách. Tác giả giải thích tầm quan trọng của các chính
sách đối với sự phát triển của Malaysia.
Ngoài ra còn một số tác phẩm nghiên cứu về lịch sử Malaysia và
Singapore như “A history of Malaysia” của Barbara Watson Andaya xuất bản
năm 2001, “Crossroads: A popular History of Malaysia, Singapore” của Jim
Baker xuất bản năm 2010.
Tuy nhiên, các tác phẩm này chỉ nghiên cứu mối quan hệ của Malaysia
– Singapore trong một giai đoạn nhất định. Hiện chưa có tác phẩm sách nào
nghiên cứu về mối quan hệ giữa hai nước trong giai đoạn 1965 – 2010.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quá trình vận động mối quan hệ
Malaysia – Singapore. Phạm vi nghiên cứu về mặt thời gian là từ năm 1965
đến năm 2010.


9
Năm 1965 là mốc quan trọng, đánh dấu việc Singapore từ một nước
nằm trong liên bang Malaysia, có quan hệ phụ thuộc về kinh tế, chính trị, văn
hóa xã hội trở thành một quốc gia độc lập với Malaysia, có hướng đi riêng để
xây dựng và phát triển đất nước.
Năm 2010, đánh dấu nhiều sự kiện trong mối quan hệ song phương giữa
Malaysia và Singapore. Dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng Singapore Lý Hiển Long
và Thủ tướng Malaysia Dato Naijb Abdul Razak mối quan hệ song phương được
cải thiện rõ rệt, quan hệ hợp tác giữa hai nước được tăng cường trên nhiều lĩnh
vực. Đặc biệt, những mâu thuẫn, xung đột kéo dài hàng chục năm đã được giải
quyết trong hòa bình, thiện chí. Vì vậy, tôi chọn mốc năm 2010 là năm kết thúc
nghiên cứu về quan hệ Malaysia – Singapore trong luận văn của mình.
4. Đóng góp của luận văn
Trên cơ sở hệ thống hóa tư liệu, luận văn đề cập khái quát tiền đề của
quan hệ Malaysia – Singapore và phân tích mối quan hệ Malaysia –
Singapore trong các giai đoạn 1965-1981, 1981-2003, 2003-2010, thể hiện
trên các lĩnh vực chính như chính trị, xã hội, kinh tế và những vấn đề nổi trội
trong quan hệ giữa hai nước. Trong mỗi giai đoạn cụ thể, luận văn nêu và
phân tích những nhân tố tác động tới quan hệ Malaysia - Singapore, rút ra
đặc điểm của mối quan hệ trong mỗi giai đoạn. Từ mối quan hệ nghi kị, tồn
tại nhiều bất đồng trong giai đoạn 1965 – 1981, sang giai đoạn 1981 – 2003
mối quan hệ trở nên căng thẳng và bế tắc kéo dài. Nhưng đến giai đoạn 2003
– 2010, trước sự tác động của nhiều yếu tố, mối quan hệ Malaysia –
Singapore được cải thiện và xác lập quan hệ hữu nghị song phương.

Trên cơ sở nhận thức những thuận lợi, khó khăn và các vấn đề đang tồn
tại trong mối quan hệ hai nước, luận văn sẽ đề xuất một số giải pháp nhằm
thúc đẩy sự phát triển mối quan hệ giữa hai nước Malaysia – Singapore.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
“Quan hệ Malaysia – Singapore từ năm 1965 đến năm 2010” là một đề
tài lịch sử. Vì vậy, các phương pháp nghiên cứu lịch sử được sử dụng chủ yếu


10
trong luận văn. Phương pháp nghiên cứu lịch sử: nghiên cứu mối quan hệ lịch
sử giữa hai nước trong bối cảnh quốc tế - khu vực, và trong bối cảnh phát
triển kinh tế xã hội giữa hai nước.
Phương pháp logic: khái quát, đánh giá và rút ra bài học kinh nghiệm
về quan hệ giữa hai nước.
Phương pháp duy vật biện chứng: nghiên cứu quan hệ giữa hai nước
một cách hệ thống, theo tiến trình lịch sử, từ đó rút ra những nhận xét đặc
điểm quan hệ giữa hai nước.
Phương pháp duy vật lịch sử: phân tích quá trình phát triển quan hệ
giữa hai nước, những diễn biến chính trị xã hội xung quanh, các mối quan hệ
đặc trưng và những tác động của khu vực, thế giới đến mối quan hệ đó.
Quan hệ Malaysia – Singapore cũng là một hiện tượng quan hệ quốc tế.
Vì vây, việc nghiên cứu được kết hợp với các phương pháp nghiên cứu quốc
tế. Ví dụ như lý thuyết về hợp tác và hội nhập, nguyên nhân xung đột quốc tế,
quan điểm về hệ thống quốc tế và lợi ích trong quan hệ hợp tác quốc tế…
Bên cạnh đó, luận văn cũng sử dụng các phương pháp như phương
pháp thống kê, phương pháp tổng hợp. Phương pháp thống kê: tiến hành tập
hợp và phân tích các tài liệu trong và ngoài nước về mối quan hệ Malaysia –
Singapore. Phương pháp tổng hợp: tổng hợp các dữ liệu về các sự kiện lịch
sử, chính sách đối ngoại, các vấn đề song phương nổi bật trong quan hệ giữa
hai nước.

6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Quan hệ Malaysia – Singapore 1965-1981: quan hệ nghi kỵ
tồn tại nhiều bất đồng
Chương 2: Quan hệ Malaysia 1981-2003: quan hệ căng thẳng và bế tắc
Chương 3: Quan hệ Malaysia – Singapore 2003-2010: sự cải thiện và
xác lập quan hệ hữu nghị song phương


11
Chương 1
QUAN HỆ MALAYSIA – SINGAPORE 1965 – 1981:
QUAN HỆ NGHI KỴ TỒN TẠI NHIỀU BẤT ĐỒNG

1.1. Tiền đề của quan hệ Malaysia - Singapore
1.1.1. Vị trí địa lý
Malaysia nằm ở vị trí trung tâm của Đông Nam Á, gần xích đạo, giữa
1
0
và 7
0
vĩ bắc, 100
0
và 119
0
kinh đông, với diện tích hơn 330.000 km
2
.
Malaysia có phần lãnh thổ tách biệt: Bán đảo Malaysia còn gọi là Tây
Malaysia kéo dài từ eo đất Kra tới eo biển Johor, chiếm gần 4% diện tích đât

nước và bắc Borneo – Đông Malaysia với hơn 60% tổng diện tích, cách nhau
750 km đường biển Đông. Tây Malaysia gồm 11 bang trong đó 4 bang phía
bắc có đường biên giới với Thái Lan, còn phía Nam được nối với Singapore
bằng một chiếc cầu nhân tạo bắc qua eo biển. Đông Malaysia gồm bang
Sarawak và Sabah, giáp với Indonesia về phía nam và với Brunei ở phía bắc.
Nằm trên tuyến đường buôn bán Đông – Tây, bán đảo Malaysia đã từ
lâu chiếm vị trí vô cùng quan trọng: là nơi trung chuyển hàng hóa từ Ả rập tới
và từ Trung Quốc sang (với vị trí quan trọng này bán đảo là một trong những
nơi bị các đế quốc nhòm ngó và tranh chấp sớm nhất ở Đông Nam Á).
Malaysia là cầu nối giữa Đông Nam Á lục địa và Đông Nam Á hải đảo nên
không chỉ nằm trên đường giao lưu Đông Tây mà còn nằm trên đường giao
lưu Nam Bắc ( từ nam Thái Bình Dương lên bắc Thái Bình Dương). Vị trí
trung tâm này cho phép Malaysia có thể tham gia vào hầu hết các tam giác, tứ
giác phát triển của khu vực mà trước hết là tam giác Singapore – Johor –
Riau; tam giác Indonesia – Malaysia và Singapore (tại đảo Bantam và Bitam
của Indonesia); tam giác phía bắc bao gồm đảo Penang (Malaysia), Sumatra
(Indonesia) và các tỉnh phía Nam Thái Lan
Eo Malacca, nằm giữa Sumatra và bán đảo Malaysia, được cho là tuyến
đường hàng hải quan trọng nhất thế giới. Tanjung Piai, nằm ở bang phía nam
Johor, là mũi cực nam của lục địa Châu Á.


12
Singapore là hải đảo gồm 54 đảo, nằm ở cuối cực nam của bán đảo
Malacca, cách xích đạo về phía Bắc khoảng 137 km. Đất nước này bao gồm
nhiều đảo khác nhau. Đảo Singapore là đảo chính, với chiều dài 42km, rộng
23km với diện tích khoảng 583 km
2
. Tổng diện tích các đảo là 642 km
2

.
Singapore nằm ở cực Nam bán đảo Malacca, nối liền đảo Singapore với
bán đảo Malacca là một đập bê tông lớn dài hơn 1km, được xây dựng từ thời
thuộc địa Anh có đường sắt và đường bộ chạy qua eo biển Johor. Singapore
nằm án ngữ trên những tuyến đường biển quan trọng giữa Ấn Độ Dương và
Thái Bình Dương, giữa Đông – Nam Á hải dảo và Đông Nam Á lục địa. Điều
này đem đến cho Singapore một vị trí địa lý có ý nghĩa chiến lược to lớn.
1.1.2. Điều kiện tự nhiên
Malaysia là đất nước với ¾ diện tích là đồi núi. Dọc theo bán đảo
Malaysia là các dãy núi xếp thành hình bậc thang chạy từ tây sang đông và
thấp dần từ bắc xuống nam. Bờ biển phía tây rộng lớn, thấp và bằng phẳng,
được chia cắt bởi nhiều cửa sông với các rừng sú vẹt bên bờ, là nơi tập trung
phần lớn dân cư và kinh tế của bán đảo. Bờ biển phía đông đa dạng hơn: ở
phía bắc, từ biên giới Thái Lan đến Kuanta là một dãy liên tiếp các đồng bằng
châu thổ nhỏ (Kenlantan, Tarengaru, Pahang) bị chia cách bởi các đồng bằng
hẹp ven biển trải dài khoảng 4-6 km, kế thừa từ những dải đụn cát bao quanh
những vùng trũng nước ngọt hoặc nước lợ.
Malaysia hải đảo, gồm hai bang Sabah và Sarawak ở phía bắc đảo
Borneo, giáp Brunei và Indonesia. Hai phần này chia tách nhau bởi Biển
Đông và có nhiều đặc điểm địa hình tương tự ở cả Tây và Đông Malaysia với
những đồng bằng ven biển xen giữa những đồi rừng dày đặc và núi non.
Đất là một trong những nguồn tài nguyên lớn của Malaysia, phân hóa
chủ yếu theo địa hình. Ở Malaysia chủ yếu là đất đỏ và đất laterit rất thích
hợp cho nhiều loại cây trồng giá trị như cao su, cọ, dừa… Tại các đồng bằng
thấp ven biển, do các phá lắng đọng, đất thường có sunfat chua không trồng
trọt được nếu không được cải tạo đặc biệt. Đất than bùn chua có rất nhiều ở
bờ biển phía đông bán đảo.


13

Nằm gần xích đạo nên khí hậu ở Malaysia nóng quanh năm và độ ẩm
không khí khá lớn. Nhiệt độ trung bình từ 25
0
đến 28
0C
, mức giao động trung
binh hàng tháng khoảng 1.4
0
C, độ ẩm trung bình là 80%. Lượng mưa hằng
năm ở vùng duyên hải bán đảo Malacca: 2000-2500mm, còn ở vùng núi
3500-4000mm, ở vùng bắc Kalimantan lượng mưa trung bình hằng năm là
2500-5000mm. Ở Malaysia có hai mùa rõ rệt: mùa khô và mùa mưa, mỗi mùa
được đánh dấu bằng các loại gió mùa.
Do các hoạt động kiến tạo và quá trình bồi tụ lâu dài mà Malaysia có
rất nhiều khoáng sản quý với trữ lượng cao như: thiếc – tập trung nhiều ở các
bang bờ biển phía Tây như Perak, Selango; dầu hỏa, khí đốt là nguồn tài
nguyên quan trọng hàng đầu của Malaysia, tập trung ở Đông Malaysia và bờ
biển phía Đông bán đảo (bang Terengganu). Ngoài ra còn có sắt (Perak,
Terengganu, Johor), đồng, bô xít, than đá, vàng, cao lanh
Rừng chiếm tới 70% diện tích cả nước với nhiều lâm sản quý như gỗ,
cọ, dầu và cao su, đây là nguồn xuất khẩu thu ngoại tệ quan trọng thứ 3 của
Malaysia. Biển nhiều cá, trong lòng đất có nhiều khoáng sản với trữ lượng
cao, đặc biệt là thiếc, dầu mỏ, khí đốt, đồng, chì Rừng Malaysia thuộc thế hệ
nhiệt đới gồm rừng miền núi, rừng đầm lầy và rừng ven biển ngập mặn. Cây
gỗ chiếm tỷ lệ cao, nhiều loại lâm sản như mây, keo, cánh kiến trắng có giá trị
xuất khẩu cao.
Sông ngòi ở Malaysia có hệ thống chi lưu khá dày đặc với lượng dòng
chảy lớn do mưa nhiều và lượng bốc hơi ít. Những con sông chính là Rejang,
Kinatabangan, Mengiri với độ dài khoảng gần 600 km. Các sông ở Malaysia
đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống đất nước – là các mạch máu giao

thông, buôn bán chính của các vương quốc trước kia.
Ngoài ra, Malaysia còn có vùng biển rộng lớn với nhiều tài nguyên
biển phong phú, nhiều bãi tắm với tiềm năng du lịch và nghỉ ngơi, đặc biệt có
nhiều cảng kín và thuận lợi cho giao thông.


14
Singapore quanh năm đều có mưa. Lượng mưa khá lớn, bình quân năm
là 2350mm. Do ảnh hưởng của gió mùa Đông Bắc, từ tháng 12 đến tháng 3 có
lượng mưa rất lớn, có khi kéo dài cả ngày. Từ tháng 6 đến tháng 8 khi có gió
mùa Đông Nam thổi về, khí hậu trở nên khô nóng, ít mưa, nhưng lại hay có
những đợt mưa rào bất chợt. Vào các tháng 4-5, 10-11 thường có những giông
lớn, có sấm chớp. Tháng có nhiều ánh sáng mặt trời nhất trong năm là tháng
2, tháng ít ánh sáng mặt trời nhất là tháng 12.
Tài nguyên thiên nhiên của Singapore có thể gọi là nghèo, chỉ có trữ
lượng nhỏ than chì, nham thạch pha lẫn đất sét, đất đai ít màu mỡ. Trước đây,
ở những thung lũng sườn đồi và những khu đất bằng phẳng là những cánh
rừng nhiệt đới nhiều tầng thực vật, nhiều động vật hoang dã như hổ, báo, trăn,
cá sấu Từ những năm 60 của thế kỷ XX trở lại đây những cánh rừng nhiệt
đới ngày càng thu nhỏ lại, chỉ còn một vài nơi giữ lại làm vườn thú quốc gia.
Vườn thiên nhiên lớn nhất đó là vườn Bukit Batang ( bảo tồn khá nhiều động
thực vật quý hiếm).
Nguồn tài nguyên thiên nhiên chủ yếu hiện nay là nguồn cá biển và
nước biển. Nhưng nguồn biển bạc này cũng đang bị cạn kiệt dần.
1.1.3. Dân cư
Một trong những đặc điểm nổi bật của Malaysia là quốc gia đa dân tộc. Tính
“đa dạng” này được tăng thêm chủ yếu từ thế kỷ XIX khi thực dân Anh khuyến
khích lao động từ các nước di cư tới, đặc biệt là từ Trung Quốc và Ấn Độ.
Thành phần dân cư của Malaysia tương đối phức tạp. Các cư dân lâu
đời ở đây như các tộc người Semang, Senoi, Jakun (ở bán đảo Malacca),

Dusune, Bajan, Murut, Iban, Klemantan, Melamam, Kelabit, Katasan…(ở bắc
Kalimantan) cùng với người Melayu được coi là người bản xứ và có tên gọi
theo tiếng Melayu là Bumiputra. Do đặc điểm phát triển của lịch sử dần dần
trong thành phần cư dân của Malaysia hình thành ba cộng đồng dân tộc chính:
cộng đồng người Melayu (gồm bản thân người Melayu và các tộc người bản
địa khác), cộng đồng người Trung Quốc và cộng đồng người Ấn Độ.


15
Người bản địa, dân cư cổ nhất của Malaysia, được gọi là các bộ tộc thổ
dân - Orangasli là những người có mặt ở đây sớm nhất, song chỉ một số lượng
rất ít còn sống sót, hiện chủ yếu phân bố ở những vùng sâu phía trong bán
đảo. Người bản địa chủ yếu săn bắn, đánh cá, hái lượm hoa quả, đại bộ phận
họ vẫn giữ những đặc điểm của phương thức sản xuất bộ tộc và công xã cổ,
phụ thuộc vào tự nhiên và sống xa xã hội văn minh.
Người Mã Lai còn gọi là Oeutro- Malaysia, di cư từ Vân Nam- Trung
Quốc tới từ 2500 đến 1500 TCN, vốn là cư dân săn bắn, hái lượm và trồng
trọt, ở nhà sàn. Ngôn ngữ của họ thuộc hệ Nam Đảo và là nhóm cư dân tiếp
nhận ảnh hưởng sớm của văn hóa Ấn Độ. Ở đầu thiên niên kỷ thứ II TCN,
dân tộc Mã Lai cổ đại đã hình thành do có sự di cư ở vùng Đông Nam Á,
đông Sumatra đến bán đảo Malacca. Quá trình di cư này phát triển mạnh hơn
vào thời kỳ cả hai vùng trên lập thành Đế chế Srivitgiai (thế kỷ VII-XIII).
Người Trung Quốc xuất hiện ở bán đảo Malacca thành các cộng đồng tương
đối lớn từ thế kỷ XIV-XV. Người Hoa di cư đến đầu tiên gọi là “Ba ba” không theo
đạo Hồi, sống rải rác ở Peenang. Nửa cuối thế kỷ XIX, người Hoa bắt đầu di cư từ
bắc Kalimantan sang khu vực miền tây và ven biển bán đảo Malacca.
Người Mã Lai cũng như người Bumiputra khác tuy là những chủ nhân
thực sự của đất nước song thường nghèo và chủ yếu sống ở các vùng nông
thôn, gắn liền với nông-lâm-ngư nghiệp. Người Hoa tuy ít hơn song tập trung
ở các thành phố (năm 1970) người Hoa chiếm 58% số dân đô thị trên bán đảo,

đặc biệt ở các thành phố lớn ven biển phía Tây như Kualalumper – 55%;
Giocgie Taon – 72%; Ipo – 72%; Malacca – 75% ) [36, pg.31] với mức sống
cao và giữ một vai trò kinh tế lớn: đứng đầu ngành thương mại lớn nhỏ, vận
tải trong thành phố cũng như đường dài, chiếm vị trí quan trọng trong hoạt
động ngân hàng. Đây là một trong những nguyên nhân gây bất ổn định về
chính trị xã hội ở Malaysia, buộc chính phủ phải đưa ra các chính sách công
bằng xã hội trong chính sách phát triển kinh tế đất nước.


16
Người Ấn Độ xuất hiện ở Malaysia từ đầu thế kỷ XX, dưới ảnh hưởng
của chế độ thực dân Anh họ sống chủ yếu ở các vùng ven biển phía tây
Malacca, ở các thành phố và các khu vực đồn điền. Người Ấn chủ yếu là
người Tamil, có cuộc sống mang tính chất cộng đồng riêng biệt và họ đều cố
gắng giữ gìn ngôn ngữ, phong tục và văn hóa dân tộc mình.
Người Indonesia, Anh, Ả Rập, Bồ Đào Nha sống chủ yếu ở bán đảo
Malacca, dân số rất ít. Họ sống theo tập quán riêng, ngôn ngữ riêng, tôn giáo riêng.
Trừ người Indonesia sống chủ yếu ở Sabah và các đồn điền thuộc miền tây
Malaysia, các dân tộc khác chủ yếu sống ở vùng đô thị và có cuộc sống khá giả.
Năm 1957, dân số Malaysia là 6,2 triệu người trong đó người Mã Lai
chiếm 50% dân số, người Hoa chiếm 37%, người Ấn Độ chiếm 11%, và các
tộc người khác gồm người Anh, người Indonesia, người Ả Rập, người
Philippines, người Pakistan… chiếm 1,8% [50, pg.13].
Bảng 1.1: Thành phần tộc người ở Malaysia năm 1957.
Thành phần tộc người
Năm 1957
Người (nghìn)
Tỉ lệ (%)
Mã Lai
Trung Quốc

Ấn Độ
Tộc người khác
3,125
2,334
707
112
49,8
37,2
11,3
1,8
Tổng
6,279
100
Nguồn: www.cicred.org, The population of Malaysia: Community composition of
the population of peninsula Malaysia, 1921-1970, by R. Chandei, 1974, p13.
Cơ cấu dân tộc ở miền tây và miền đông Malaysia có sự khác biệt rõ
rệt. Ở miền tây (bán đảo Malaysia) nơi tập trung tới 81% dân số cả nước,
người Mã Lai chiếm 57,3%, người Hoa chiếm 32,1%, người Ấn Độ chiếm
10% và các tộc người khác chiếm 0,6%. Còn ở miền đông Malaysia, người
bản địa Bumiputra chiếm tuyệt đại đa số: 78% ở Sabah và 50% ở Sarawak,
trong khi người Mã Lai chỉ chiếm 5% ở Sabah và 19,7% ở Sarawak và người


17
Hoa chiếm 16,2% và 29,5% tương ứng [50, pg.52]. Sự phân bố dân cư không
đồng đều này là kết quả của sự khác biệt các điều kiện tự nhiên cũng như của
quá trình lịch sử phát triển đất nước, đặc biệt trong thời kỳ thuộc địa, khi đế
quốc Anh tập trung lao động khai thác các nguồn tài nguyên giàu có ở bờ biển
phía Tây bán đảo.
Bảng 1.2: Dân số Malaysia ở các bang từ 1947- 1970

Năm
Bán đảo Malaysia
Sabah
Sarawak
Penang và Malacca
6 bang khác
Toàn bán đảo
1947
1951
1957
1960
1970
658,677
-
863,311
-
1,180,492
2,868,249
-
3,775,268
-
5,354,887
4,908,086
-
6,278,758
-
8,809,557
-
334,141
-

454,412
650,450
546,385
-
-
744,529
976,269
Nguồn: www.cicred.org, The population of Malaysia: Population of Malaysia 1817
– 1970, by R. Chandei, 1974, p9.
Thành phần dân tộc đa dạng của Malaysia và sự khác nhau về tôn giáo
và văn hóa giữa các tộc người đã cản trở quá trình hợp nhất dân tộc cả nước
thành một cộng đồng dân tộc thống nhất, cũng như việc lựa chọn một ngôn
ngữ chính thức cho toàn quốc. Các tộc người khác nhau có trình độ phát triển
kinh tế, xã hội không đồng đều. Chính vì vậy, chính phủ Malaysia rất khó
khăn trong việc thực hiện chính sách dân tộc trong phát triển kinh tế.
Dân số Singapore vào năm 1819 với một làng bé nhỏ gồm khoảng 100
người (đa số là người Mã Lai) đến năm 1852 đã lên đến 52.000 người, đến
năm 1901 tăng tới 230.000 và năm 1947 là 940.000 [37, pg.9], bất chấp
những thăng trầm của Đại chiến Thế giới II và sự chiếm đóng của Nhật Bản.
Số lượng và thành phần dân số của Singapore chịu ảnh hưởng bởi sự di cư và
gia tăng dân số tự nhiên. Trong suốt thế kỷ XIX, di cư là yếu tố chính trong
tăng trưởng dân số. Trong thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, dân số Singapore bao


18
gồm phần lớn là nam giới, số lượng này tăng chủ yếu qua nguồn nhập cư.
Những năm 1920, tỷ lệ gia tăng dân số tự nhiên và tỷ lệ nữ giới đều tăng.
Cuộc điều tra dân số năm 1947, 56% dân số được sinh ra tại Singapore, và tỷ
lệ nam giới là 1.217 người trên 1.000 nữ [23].
Số lượng người di cư đến Singapore bị thu nhỏ lại sau cuộc khủng

hoảng kinh tế những năm 1930, trong thời gian diễn ra Chiến tranh Thế giới
thứ II thì gần như chấm dứt hoàn toàn, đến giai đoạn 1945-1955 số lượng
người di cư đến Singapore chỉ trên quy mô nhỏ.
Trong thập kỷ tiếp theo (1947-1957), tỷ lệ tử vong giảm, đẩy mạnh tăng
dân số tự nhiên (từ 3% lên 4,3% năm) và tỷ lệ nhập cư 1%, hậu quả là tăng số
người thất nghiệp và hình thành nhiều khu nhà ổ chuột chung quanh một thành
phố có trên 1,5 triệu người. Kể từ giữa những năm 1960, chính phủ Singapore đã
cố gắng kiểm soát tỷ lệ tăng trưởng của dân số với một loạt các biện pháp
khuyến khích công khai. Chính phủ Singapore nhận định rằng gia tăng dân số
quá nhanh chóng sẽ là mối đe dọa đối với đời sống và ổn định chính trị.
Bên cạnh sự tăng trưởng dân số tự nhiên, Singapore cũng là một đất nước
có sức hút với dân nhập cư. Từ năm 1945 đến 1965, người nhập cư chủ yếu từ
bán đảo Malaysia. Sau khi độc lập vào năm 1965, chính phủ Singapore đã áp đặt
chế độ kiểm soát chặt chẽ về xuất nhập cảnh, chỉ cấp giấy phép cư trú tạm thời
cho những người lao động, kỹ sư được cho là cần thiết đối với nền kinh tế.
Theo cuộc điều tra dân số năm 1965, ở Singapore có ba cộng đồng
người chính là Trung Quốc, Mã Lai và Ấn Độ. Trong đó cộng đồng người
Trung Quốc chiếm 74,9% phần lớn trong số họ là những người gốc Phúc
Kiến và Triều Châu, người Mã Lai 14,3%, người Ấn Độ 8,2% và các nhóm
người khác chiếm 2,6% tổng dân số.


19
Bảng 1.3: Thành phần tộc người tại Singapore theo cuộc điều tra
dân số 1965
Tộc ngƣời
Số ngƣời
Tỷ lệ %
Trung Quốc
Mã Lai

Ấn Độ
Tộc người khác
1,396,500
266,600
153,700
48,100
74,9
14,3
8,2
2,6
Nguồn: A review of burn in Singapore, by R. Sundarason,
Singapore medical journal, 2 June 1969.
1.1.4. Văn hóa
Sự đa dạng về dân tộc dẫn tới sự đa dạng về tôn giáo. Ở Malaysia đạo
Hồi được coi là quốc giáo và đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống chính
trị và văn hóa của đất nước. 9 trong 13 bang của Malaysia do các vua Hồi
giáo Sultan đứng đầu, các vua thay nhau làm quốc trưởng và quốc trưởng lại
chỉ định thủ lĩnh của 4 bang còn lại. Trong khi các ông vua đồng thời là người
đứng đầu Hồi giáo ở các bang thì quốc trưởng là người trực tiếp đứng đầu Hồi
giáo ở 4 bang còn lại.
Ngoài đạo Hồi mà chủ yếu tín đồ là người Mã Lai, một số ít người Ấn
Độ và người Hoa, đa số người Hoa theo đạo Phật, đạo Khổng, đạo Giáo, hay
thờ cúng tổ tiên. Người Ấn Độ phần lớn theo đạo Hindu và một phần theo đạo
Sikh. Một số người Hoa, người Ấn, người Âu – Á và dân bản xứ theo đạo Cơ
đốc. Như vậy, hầu hết các tôn giáo chính trên thế giới đều có mặt tại
Malaysia. Tính đa tôn giáo phần nào bị chi phối bởi tính đa dân tộc của đất
nước này. Tôn trọng và tự do tôn giáo, tín ngưỡng là đường lối cơ bản của
Malaysia nhằm thúc đẩy quá trình hòa hợp dân tộc trong điều kiện Hồi giáo là
quốc giáo. Luật pháp Malaysia không cho phép tuyên truyền các tôn giáo
khác trong những người theo đạo Hồi. Song vì chính quyền Malaysia có chính

sách tôn giáo đúng đắn và cư dân Malaysia không kỳ thị tôn giáo nên so với
các nước Ả rập thì Hồi giáo ở Malaysia có tính khoan dung cao hơn.


20
Người Malay, là cộng đồng lớn nhất, được xác định là những tín đồ Hồi
giáo trong Hiến pháp Malaysia. Người Malay đóng vai trò thống trị trong chính
trị và được tính gộp trong một nhóm gọi là Bumiputra. Tiếng mẹ đẻ của họ là
tiếng Malay (Bahasa Melayu). Tiếng Malay là ngôn ngữ chính thức quốc gia
1
.
Nhóm bản xứ lớn nhất là người Iban tại Sarawak với số lượng khoảng
237,741 người năm 1960 và lên đến 303,461 người năm 1970 [51]. Người
Bidayuh, số lượng khoảng 170.000 người, sống tập trung ở vùng phía tây nam
Sarawak. Bộ tộc bản xứ lớn nhất tại Sabah là Kadazan. Họ chủ yếu là những
nông dân theo Thiên chúa giáo.
Bán đảo Malaysia bắt đầu chịu ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ từ những
thế kỷ đầu sau công nguyên thông qua Ấn Độ giáo, sau đó là ảnh hưởng của
Phật giáo thời kỳ trị vì của đế quốc Srivijaya (thế kỷ VII-XIII) ở Sumatra và Mã
Lai. Người Ấn Độ đã mang đến cho người Melayu các tập tục, truyền thống, lễ
nghi cùng các yếu tố văn hóa khác của mình. Các tập tục, truyền thống văn hóa
Ấn Độ đặc biệt là văn học anh hùng ca đã lan tỏa rộng rãi khắp trong dân gian,
tác động trực tiếp đến đời sống tinh thần và xã hội của người Melayu.
Người Âu - Á, Campuchia, Việt Nam, và các bộ tộc bản xứ khác chiếm
phần dân số còn lại. Một số lượng nhỏ người Âu Á, hậu duệ người lai Bồ Đào
Nha và Malay, nói một thứ thổ ngữ dựa trên tiếng Bồ Đào Nha được gọi là
Papia Kristang. Người Campuchia và người Việt Nam chủ yếu theo Phật giáo
(người Campuchia theo Tiểu Thừa, người Việt Nam theo Đại Thừa).
Âm nhạc truyền thống Malaysia bị ảnh hưởng nhiều từ phong cách
Trung Quốc và Hồi giáo. Âm nhạc chủ yếu dựa quanh gendang (trống),

nhưng gồm cả các nhạc cụ gõ khác (một số làm bằng các loại vỏ và mai);
rebab, một nhạc cụ dây hình cung; serunai, nhạc khí hai lưỡi như sáo, và
trumpet. Nước này có truyền thống múa và kịch múa lâu đời, một số có nguồn
gốc Thái, Ấn Độ, Bồ Đào Nha. Các hình thức nghệ thuật khác gồm wayang


1
Trong quá khứ, tiếng Malay thường được viết bằng ký tự Jawi, một ký tụ dựa trên ngôn ngữ Ả Rập. Cùng
với thời gian, ký tự Latinh hóa dần chiếm vị trí của Jawi trở thành ký tự phổ biến.


21
kulit (rối bóng), silat (một kiểu võ thuật cách điệu hoá) và đồ thủ công như
dệt, bạc và đồ đúc đồng.
Là một quốc gia đa dân tộc nên ở Malaysia vấn đề ngôn ngữ cũng là
một vấn đề gay gắt trong quá trình củng cố khối đoàn kết dân tộc cũng như
phát triển quốc gia nói chung. Về khía cạnh ngôn ngữ, cư dân Malaysia có thể
phân định theo hai nhóm lớn: nhóm cộng đồng bản địa nói các ngôn ngữ cùng
ngữ hệ Mã Lai – Poninedi, nhóm các cộng đồng dân nhập cư có tiếng mẹ đẻ
là ngôn ngữ thuộc các ngữ hệ khác.
Singapore có 5 tôn giáo lớn là: Tin Lành và Công giáo 14,6%, Phật
giáo 42,5%, đạo Lão 8,5%, Hồi giáo 14,9%, Ấn Độ giáo 4%, còn lại 0,6%
dân số theo các tôn giáo khác và 14,8% dân số không theo tôn giáo, ngoài ra
còn có các loại hình tín ngưỡng dân gian [23]. Như vậy, 85,2% dân số
Singapore theo tôn giáo, các tôn giáo sống trong đoàn kết và hòa hợp.
Các nhóm tộc người sinh sống ở Singapore hiện nay vẫn giữ được
những nét đặc trưng về nền văn hóa và tiếng mẹ đẻ của mình. Đại đa số người
Hoa theo đạo Phật, thờ cúng tổ tiên và thuộc thành viên của từng dòng họ, nói
tiếng Hoa phổ thông (tiếng Bắc Kinh) và tiếng địa phương. Người Mã Lai
theo đạo Hồi, nói tiếng mẹ đẻ (Mã Lai – Poninedi), người Ấn Độ theo đạo

Hinđu nói tiếng Tamil
Một trong những đặc điểm nổi bật của Singapore là sự đa dạng về
nguồn gốc tộc người. Việc thông qua tín ngưỡng, tôn giáo từ nước gốc đem
đến để duy trì một sợi dây liên kết văn hoá là điều rất tự nhiên. Do vậy, quan
hệ giữa tôn giáo và sắc tộc ở Singapore khá mật thiết. Ở Singapore phần lớn
tín đồ Ấn Độ giáo và Phật giáo đều là nông dân hay ngư dân nghèo khổ ven
biển Đông Nam vì mưu sinh mà trôi dạt đến đất khách quê người. Họ không
quan tâm tôn giáo mà mình tin theo trước đây đại biểu của lợi ích giai cấp
nào, cũng không quan tâm tới lý luận tôn giáo sâu xa, mà tin theo tôn giáo
hiện ở thực tiễn. Bởi vậy, họ đều mong sự che chở của Chúa, Phạm Thiên
Siva, Sakta là thần; Phật Đà, Bồ Tát cũng được coi là thần.


22
Cũng như Malaysia, di sản lịch sử để lại là sự hình thành tính đa tộc
người và đa văn hóa của xã hội Singapore. Các nhóm cộng đồng tộc người
sinh sống ở Singapore vẫn còn giữ được những nét đặc trưng trong văn hóa
truyền thống của cha ông họ. Đại đa số người Hoa theo Phật giáo, thờ cúng tổ
tiên, sinh hoạt và ứng xử trong gia đình còn mang dấu ấn Khổng giáo. Người
Mã Lai thì hầu như 100% theo Hồi giáo, nói tiếng mẹ đẻ. Người Ấn Độ theo
Hindu giáo và nói tiếng Tamil. Người châu Âu theo Thiên Chúa giáo có bộ
phận theo Tin Lành, nói tiếng Anh. Từ trước đến nay chưa có chính quyền
nào thừa nhận tôn giáo nào là quốc giáo.
Văn hóa Mã lai được thể hiện trong tư tưởng tôn giáo, phong tục tập
quán của họ cũng có quan hệ với tôn giáo. Luật của đạo Islam và chế độ
Sultan đã duy trì quan hệ đoàn kết và thái độ an phận trong cuộc sống của
người dân Singapore.
Singapore từ trước đến nay không có một tôn giáo, tín ngưỡng nào
được công nhận là quốc giáo. Từ sau ngày tuyên bố độc lập, tiếng Mã Lai
tiếng Hoa phổ thông, tiếng Tamil và tiếng Anh được nhà nước công nhận là

ngôn ngữ chính bình đẳng như nhau và sử dụng rộng rãi trên các phương tiện
thông tin đại chúng. Tuy thế, trên thực tế tiếng Anh được nhà nước công nhận
là ngôn ngữ phổ thông ở Singapore và được sử dụng là ngôn ngữ chính trong
thương mại, hành chính và giáo dục. Đại bộ phận nhân dân Singapore ngày
nay thông thạo hai thứ tiếng (tiếng mẹ đẻ và tiếng Anh). Chính sách hòa nhập
và liên kết dân tộc mà chính phủ Singapore theo đuổi trong gần 30 năm qua
đã đưa đến sự hình thành một quốc gia – dân tộc mới – dân tộc Singapore với
bản sắc riêng của mình.
1.1.5. Những mối liên hệ trong lịch sử
Bán đảo Malaysia đã từng phát triển thịnh vượng nhờ vị trí trung tâm
trên những con đường thương mại trên biển giữa Trung Quốc, Ấn Độ và
Trung Đông. Ngay từ sớm, bán đảo Malaysia đã được thể hiện trên tấm bản
đồ với tên gọi Bán đảo vàng, Eo Malacca được gọi là Sinus Sabaricus. Từ


23
giữa tới cuối thiên niên kỷ thứ nhất, đa số bán đảo cũng như quần đảo
Malaysia nằm dưới tầm ảnh hưởng của Đế chế Srivijaya.
Năm 1511, Melaka (tên gọi bán đảo Malaysia thời bấy giờ) rơi vào tay
người Bồ Đào Nha. Năm 1795, một lực lượng của quân Anh đã vào lấy
Melaka từ tay chính quyền Hà Lan.
Tới năm 1824, hiệp ước Anh - Hà Lan cũng đã đưa thêm Malacca cùng
với Singapore vào sự kiểm soát của người Anh, lấy eo biển Malacca làm ranh
giới, người Anh đã nắm trọn bán đảo Malaysia. Năm 1826, Công ty Đông Ấn
Anh (EIC) nhập Singapore, Penang và Melaka vào thành khu định cư Eo Biển
(Straits Settlements), trung tâm hành chính đóng ở Singapore. Năm 1832,
Singapore trở thành chính quyền trung ương của những thuộc địa ở các eo
biển Penang, Malacca và Singapore. Sự kiện khánh thành Kênh đào Suez vào
năm 1869 cùng với sự xuất hiện của máy điện báo và tàu hơi nước đã nâng
tầm quan trọng của Singapore như là một trung tâm thương mại giữa các quốc

gia phương Đông và phương Tây.
Từ năm 1874 đến năm 1888, bốn tiểu bang Perak, Selangor, Negri
Sembilan và Pahang lần lượt lọt vào tay người Anh dưới hình thức đất bảo
hộ.Năm 1889, chính quyền khu định cư Eo Biển thành lập liên bang gồm
Perak, Selangor, Negeri Sembilan và Pahang. Những nhà cai trị Malay và dân
chúng cũng chấp nhận ý kiến này và năm 1896 bốn nước Malay dưới sự bảo
hộ của chính quyền Anh trở thành Liên bang các nước Malay.
Năm 1909, Kelantan, Terengganu, Kedah và Perlis được đặt dưới sự
bảo hộ của chính quyền Anh. Những nước này hình thành một nhóm riêng,
được gọi là các nước Malay không liên bang. Năm 1914, Johor ký với Anh
một thỏa ước, chấp nhận công sứ của Anh đến nước này và cũng trở thành
một nước không liên bang.
Như vậy, sau năm 1914, Mã Lai được chia thành 3 đơn vị chính trị: khu
định cư Eo Biển là thuộc địa của Anh, bao gồm Singapore (có cả đảo Christmas
và đảo Cocos), Penang và tỉnh Wellesley, Melaka và Labuan; các nước Liên bang


24
Malay bao gồm Perak, Selangor, Negeri Sembilan và Pahang; các nước không
Liên bang Malay bao gồm Kelantan, Terengganu, Kedah, Perlis và Johor.
Trong Chiến tranh thế giới lần thứ II, Singapore bị quân đội Nhật
chiếm đóng vào năm 1942. Tháng 9/1945, Nhật đầu hàng quân đội Đồng
minh, Anh trở lại và thiết lập chế độ quân quản ở Singapore. Khi chế độ quân
quản chấm dứt vào 3/1946, Singapore tách khỏi thuộc địa Eo biển và trở
thành thuộc địa riêng, trong khi Penang, Malacca sát nhập vào Liên hiệp Mã
Lai 1946 rồi Liên bang Malaysia năm 1948.
Vào tháng 10/1945, người Anh đã công bố một quyết định chấm dứt sự
cai trị gián tiếp của họ ở các nước Malaysia bằng cách hợp nhất tất cả các
nước này thành Liên minh Malaysia dưới một chính quyền, Singapore sẽ trở
thành một thuộc địa riêng. Liên minh Malaysia và Singapore sẽ có chính

quyền riêng. Các nước Malaysia chưa bao giờ là lãnh thổ của Anh mà chỉ là
những nước do Anh bảo hộ.
Ngày 1/3/1946, đại biểu của 41 hội đoàn và tổ chức ở Malaysia thành
lập Tổ chức Thống nhất Quốc gia Malaysia (UMNO). UMNO đã ra nghị
quyết công bố hiệp ước do các vị vua ký với người Anh là vô hiệu lực. Ngày
1/4/1946, Liên minh Malaysia ra đời. Tuy nhiên, UMNO yêu cầu hủy bỏ Liên
minh Malaysia và thay vào đó là Liên bang Malaysia. Liên bang Malaysia
được đề nghị gồm có chín nước Malaysia và hai vùng định cư của người Anh.
Tháng 6/1948, với chủ trương giành chính quyền bằng bạo lực của
Đảng Cộng sản Malaysia, chính phủ Anh ban bố tình trạng khẩn cấp tại
Malaysia và Singapore. Cuộc đấu tranh vũ trang do Đảng Cộng sản Malaysia
tiến hành dù không thành công nhưng cũng có tác động mạnh mẽ đến phong
trào đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Malaysia, góp phần không nhỏ
vào việc làm suy yếu hệ thống thuộc địa của thực dân Anh nói chung và ách
thống trị thực dân ở Malaysia nói riêng. Đứng trước xu thế hướng tới độc lập
ngày càng mạnh mẽ của nhân dân Malaysia, thực dân Anh không còn cách
nào khác là trao trả độc lập cho đất nước này.


25
Ngày 27/5/1951, Thủ tướng Malaysia Tunku Abdul Rahman đưa ra một
đề nghị hợp tác chặt chẽ về chính trị và kinh tế trong một liên hiệp bao gồm
Liên bang Malaysia, Singapore, Sarawak, Bắc Borneo và Brunei. Những
nguyên tắc Liên hiệp đã được Rahman và Lý Quang Diệu chấp thuận, theo đó
quốc phòng, ngoại giao và an ninh thuộc chính phủ trung ương còn giáo dục và
công ăn việc làm thuộc chính quyền địa phương. Một cuộc trưng cầu dân ý đã
được thực hiện tại Singapore và cử tri hoàn toàn ủng hộ kế hoạch liên hiệp này.
Thỏa thuận về việc trao độc lập cho Malaysia đã đạt được trong cuộc đàm
phán kéo dài từ 18/1 đến 18/2/1956 tại London giữa chính phủ Anh và đoàn đại
biểu của chính phủ Malaysia (gồm 4 đại diện của Liên minh và 4 đại diện của

các quốc vương) do Thủ tướng Abdul Rahman dẫn đầu. Ngày 27/6/1957, Hội
nghị các Quốc vương thông qua dự thảo hiến pháp. Ngày 5/8/1957, tại Kuala
Lungur, Cao ủy Anh và thủ lĩnh các vương quốc Malaysia ký hiệp ước về việc
trao trả độc lập cho Liên bang Malaysia. Ngày 15/8/1957, Hội đồng lập pháp
Liên bang Malaysia thông qua Hiến pháp. Lễ tuyên bố chính thức độc lập của
Malaysia được tiến hành ngày 31/8/1957 tại Kuala Lumper.
Mặc dầu Liên bang Malaysia đã độc lập, nhưng thương cảng Singapore
vẫn tiếp tục thuộc Anh. Song Anh cũng chỉ còn kiểm soát về mặt đối ngoại và
quốc phòng còn việc nội bộ do chính phủ tiểu bang thân Anh tự quản.
Singapore vẫn là thuộc địa riêng của vương quốc Anh, nhưng các cuộc đình
công và kêu gọi tự chủ không ngừng ở Singapore khiến Anh phải đồng ý tăng
dần sự tự trị của Singapore.
Tháng 6/1961, đại diện của Liên bang Malaysia, Singapore, Sarawak,
Sabah và Brunei họp hội nghị đề bàn về vấn đề thành lập liên bang mới. Sau
đó, Thủ tướng Liên bang Malaysia và Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu
đã đạt được thỏa thuận về nguyên tắc việc sát nhập giữa Liên bang Malaysia
và Singapore. Theo thỏa thuận, sau khi sát nhập, chính phủ Trung ương sẽ
đảm nhận các vấn đề đối ngoại, quốc phòng và an ninh nội bộ. Các vấn đề
thuộc thẩm quyền của Singapore là tài chính, nhân lực và giáo dục. Singapore

×