Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Quan hệ Trung-Mỹ từ 2001 đến 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (900.11 KB, 99 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
___________________________



Nguyễn Phương Lan





QUAN HỆ TRUNG – MỸ TỪ 2001 ĐẾN 2005




Chuyên ngành: Lòch sử thế giới
Mã số: 60 22 50




LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS.LÊ PHỤNG HOÀNG






Thành phố Hồ Chí Minh - 2007
MỞ ĐẦU
1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI VÀ MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Thời kì chiến tranh lạnh đã chấm dứt. Cả thế giới bước vào những năm đầu của thế kỷ
XXI với xu thế hòa bình, hợp tác. Tuy nhiên, kỷ nguyên hòa bình thực sự cho toàn thể
nhân loại trên hành tinh có lẽ còn khá lâu mới có thể đạt đến. Những mâu thuẫn và
xung đột sắc tộc, tôn giáo, nạn khủng bố quốc tế, rồi nội chiến, chiến tranh cục bộ…
vẫn diễn ra gay gắt ở nhiều nơi.
Qua
n hệ giữa các nước lớn từ sau chiến tranh lạnh đến nay vẫn chứa đựng nhiều yếu tố
phức tạp khó lường, cục diện thế giới vừa mâu thuẫn, vừa hợp tác, vừa cạnh tranh sẽ
tồn tại trong một thời gian dài. Có nhiều nhân tố chủ quan và khách quan thúc đẩy sự
hợp tác, liên kết giữa các nước lớn những năm đầu t
hế kỷ XXI, nhưng trong sâu xa
quan hệ giữa họ vẫn chứa đầy mâu thuẫn, xung đột và có ảnh hưởng hết sức to lớn đến
đời sống chính trị, kinh tế, an ninh quốc phòng của thế giới. Trong đó, quan hệ Mỹ –
Trung Quốc là một trong những mối quan hệ có ý nghĩa quan trọng không chỉ ở tầm
khu vực mà còn có ý nghĩa trên toàn cầu.
Kể từ khi Chiến tranh lạnh kết thúc đến nay, Mỹ vẫn duy trì đư
ợc ưu thế vượt trội và là
cường quốc duy nhất có ảnh hưởng chi phối ở cấp độ toàn cầu. Với tư cách là siêu
cường thế giới duy nhất, trước mặt Mỹ không gặp phải thách thức quân sự –an ninh từ
bất cứ nước lớn nào. Tuy nhiên, Mỹ lại đang đứng trước những đe dọa an ninh mới. Đó
là việc không ngăn chặn được sự phổ biến vũ khí giết người hàng loạt; sự gia tăng của
chủ nghĩa khủng bố quốc tế, tội phạm có
tổ chức…Đặc biệt, sự kiện 11/9/2001 đã cho
thấy các nguy cơ, thách thức đối với an ninh Mỹ trở nên hết sức phức tạp và khó lường.

Từ thực tế đó, chiến lược của Mỹ dưới thời Goerge W.Buse đã có những điều chỉnh
lớn, “chống khủng bố trở thành ưu tiên chiến lược, an ninh quân sự trở thành trụ cột
hàng đầu, châu Á – Thái Bình Dương trở thành trọng điểm số 1”.[26, tr.297]. Với việc
chuyển trọng điểm của Mỹ từ châu Âu sang châu Á – Thái Bình Dương, đối sách của
Mỹ với Trung Quốc càng trở nê
n quan trọng hơn khi Trung Quốc vừa là đồng minh
trong cuộc chiến chống khủng bố, giải quyết vấn đề khủng hoảng hạt nhân, vừa là đối
tác cạnh tranh đáng gờm của Mỹ ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương và có thể cả
trên thế giới.
Về phía Trung Quốc, đây là quốc gia có tiềm năng to lớn về nhiều mặt (cả về diện tích,
dân số, sức mạnh kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng…). Sau nhiều năm cải cách mở
cửa thành công, Trung Quốc bước vào t
hời kì sau Chiến tranh lạnh với thế và lực ngày
càng gia tăng. Mục tiêu đối ngoại được đặt ra là : “sớm đưa Trung Quốc trở thành một
cường quốc khu vực và thế giới trong một thế giới đa cực, đa trung tâm; phải đóng vai
trò lãnh đạo ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương và trên thế giới trong tương lai
không xa. Để đạt được mục tiêu chiến lược trên, Trung Quốc phải tập trung thực hiện
hai mục tiêu cơ bản: Thứ nhất, tiếp tục tăng cường sức mạnh quốc gia tổng hợp cũng
như từng mặt kinh tế, chính trị, quâ
n sự, văn hóa. Thứ hai, tăng vị thế quốc tế và mở
rộng ảnh hưởng quốc tế của Trung Quốc. Đối với khu vực châu Á – Thái Bình Dương,
Trung Quốc muốn xâ
y dựng một khu vực hòa bình, ổn định, không để điểm nóng trở
thành xung đột vũ trang, đồng thời tăng cường ảnh hưởng chi phối của Trung Quốc ở
khu vực, trước hết ở Đông Á và sớm đưa Đài Loan thống nhất đại lục”. [26, tr.310-
311]. Và trong chính sách đối ngoại của mình, Trung Quốc coi quan hệ ổn định với Mỹ
có ý nghĩa chiến lược qua
n trọng.
Như vậy, với sự sụp đổ của Liên Xô tạo ra thực tế Mỹ là siêu cường duy nhất trên thế
giới, đồng thời tạo ra cho Trung Quốc cơ hội để vươn lên trở thành một cường quốc

toàn diện. Trong khi Nga còn gặp nhiều khó khăn ở trong nước, Nhật Bản chưa trở
thành một cường quốc chính trị trong một tương lai gần, rõ ràng Mỹ và Trung Quốc sẽ
là các nước đóng vai trò chủ yếu đối với các vấn đề của thế giới, đặc biệt ở khu vực
châu Á – Thái Bình Dương. Như Đặng Tiểu Bình nhận định:”Quan hệ Trung – Mỹ tốt
hay xấu, phát triển hay thoái trào không những có ảnh hưởng rất lớn đến quan hệ kinh
tế, thương mại, và cả các lĩnh vực khác giữa hai nước, mà còn tác động đến sự ổn định
và hòa bì
nh của khu vực và thế giới”.[25, tr.125].
Xuất phát từ mục đích tìm hiểu về hai cường quốc Mỹ và Trung Quốc, hai nước lớn
trong một trật tự thế giới đa cực đang hình thành, đặc biệt là tìm hiểu về mối quan hệ
Trung – Mỹ trong bối cảnh thế giới mới, tôi đã chọn đề tài “Quan hệ Trung – Mỹ từ
năm 2001 đến 2005” để thực hiện luận văn cao học. Đây là những năm đầu tiên của
thế kỷ mới, cả Mỹ và Trung Quốc đều có những đối sách
quan trọng để thích ứng với
tình hình thế giới trong xu thế mới.
Việc nghiên cứu đề tài không chỉ có ý nghĩa khoa học mà còn mang ý nghĩa thực tiễn.
Đây là thời điểm Việt Nam mở rộng cửa với thế giới bên ngoài, việc nghiê
n cứu hai
cường quốc lớn ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương chắc chắn sẽ giúp chúng ta rút
ra những bài học kinh nghiệm cần thiết trong quan hệ quốc tế, góp phần quan trọng
trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước hiện nay. Đề tài cũng sẽ góp phần bổ
sung những tư liệu cần thiết cho tôi để phục vụ cho việc giảng dạy Lịch sử ở Trường
phổ thông t
rong phần Quan hệ quốc tế.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
Để đảm bảo tính hệ thống và lôgic của vấn đề, trong chương 1, luận văn sẽ trình bày
khái quát những thăng trầm trong quan hệ Trung – Mỹ từ khi nước Cộng hòa nhân dân
Trung Hoa ra đời năm 1949 cho đến năm 2000.
Nội dung chương 2 trình bày vấn đề nghiên cứu chính của luận văn, đó là mối quan hệ
giữa Trung Quốc và Mỹ trên các lĩnh vực kinh tế- thương mại, chính trị- an ninh từ

năm 2001 đến 2005.
Quan hệ kinh tế – thương mại là một phần trong bài toán quan hệ Trung – Mỹ, nhưng
lại đóng vai trò vô cùng quan trọng. Ngày 11 tháng 12 năm 2001 Trung Quốc chính
thức gia nhập WTO. Việc giúp Trung Quốc gia nhập WTO là định hướng chính sách
kinh tế có tầm quan trọng hàng đầu đối với Mỹ. Mục tiêu của Mỹ là đưa Trung Quốc
vào sân chơi chung của thương mại toàn cầu và chiếm lĩnh được nhiều hơn t
hị trường
Trung Quốc. Đối với Trung Quốc thì đây là cơ hội để tăng cường vị thế chính trị của
mình cũng như tăng cường lợi ích kinh tế. Luận văn sẽ tìm hiểu Mỹ và Trung Quốc sẽ
phát huy những lợi ích đạt đư
ợc của mình như thế nào. Vấn đề thứ hai trong quan hệ
kinh tế – thương mại Trung – Mỹ mà luận văn đề cập đó là sự thâm hụt thương mại
của Mỹ với Trung Quốc ngày càng tăng (từ 29,51 tỷ USD năm 1994 lên 83,83 tỷ USD
năm 2000; 103,6 tỷ năm 2002 và 114,09 tỷ năm2003; 200 tỷ năm 2005). Việc giải
quyết bài toán thâm hụt thương mại được dự báo sẽ là vấn đề nan giải nhất trong quan
hệ Tr
ung – Mỹ năm 2006.
Quan hệ chính trị –an ninh : Cả Trung Quốc và Mỹ bước vào những năm đầu thế kỷ
XXI đều có những thay đổi về chiến lược đối ngoại, đặc biệt trong mối quan hệ Trung
– Mỹ. Cả hai đều nhận thức được tầm quan trọng của việc duy trì mối quan hệ ổn định
giữa hai nước. Đặc biệt ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương khi mà chưa có
được
một cơ chế an ninh toàn diện và hiệu quả, khi mà các nước lớn khác như Nga, Nhật
Bản, An Độ đều đang muốn tăng cường ảnh hưởng thì hợp tác Mỹ – Trung được cả hai
nhận thức là một tiền đề quan trọng để đảm bảo lợi ích chiến lược của cả hai bên. Bên
cạnh đó, trong việc giải quyết một số vấn đề toàn cầu (khủng bố quốc tế, khủng hoảng
hạt nhân…) cả hai bên đều cần đến sự phối hợp, hợp tác của nhau. Luận văn sẽ lần lượt
trình bày c
hiến lược đối ngoại của từng nước trong những năm 2001-2005 nêu bật sự
hợp tác cũng như phân tích những điểm khác biệt gây nên những mâu thuẫn trong quan

hệ Trung –Mỹ.
Và trong chương 3, luận văn đề cập đến những dự báo về chiều hướng phát triển quan
hệ Trung – Mỹ ra sao trong tương lai, đặc biệt là tác động của nó đối với khu vực châu
Á – Thái Bình Dương.

3. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Quan hệ Trung – Mỹ là vấn đề được các nhà nghiên cứu rất quan tâm, sau đây là một
số công trình nghiên cứu trong những năm gần đây:
Năm
2001, trong bản thảo “Lịch sử quan hệ quốc tế từ sau 1945 đến nay “của tác giả
Lê Vinh Quốc ( chủ biên) – Lê Phụng Hoàng, đã trình bày khái quát lịch sử quan hệ
Trung Quốc – Hoa Kỳ với những bước thăng trầm trong 3 giai đoạn: 1949-1971, 1971-
1975 và từ 1976 trở về sau. Đặc biệt là vấn đề Đài Loan được xem là trung tâm cho
mối quan hệ Trung – Mỹ.
Kết thúc Chiến tranh lạnh, Mỹ vẫn giữ vai trò số 1 thế giới, Trung Quốc nổi lên với vai
trò nước lớn, trở thành đối thủ cạnh tranh của Mỹ. Rất nhiều những bài nghiê
n cứu về
chiến lược đối ngoại của cả Mỹ và Trung Quốc.
Năm 2003, cuốn sách “Quan hệ quốc tế “của Học viện Chính trị quốc gia Thành phố
Hồ Chí Minh đã đánh giá những nhân tố chi phối chính sách đối ngoại của các nước
lớn thời kì sau Chiến t
ranh lạnh. Đối với Mỹ, dù ở vị thế siêu cường thế giới duy nhất,
trước mắt Mỹ không gặp phải thách thức quân sự từ bất kỳ nước lớn nào, nhưng Mỹ lại
đang đứng trước những đe dọa an ninh mới. Quyển sách đã cung cấp những điều chỉnh
trong chiến lược đối ngoại qua 3 đời Tổng t
hống sau Chiến tranh lạnh để đối phó với
những đe dọa mới. Đối với Trung Quốc, các tác giả trình bày những nội dung chủ yếu
trong chính sách đối ngoại của Trung Quốc nhằm thực hiện mục tiêu cụ thể là: sớm
đưa Trung Quốc trở thành một cường quốc khu vực và thế giới trong một thế giới đa
cực, đa trung tâm; phải đóng vai trò lãnh đạo ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương và

trên thế giới trong tương lai không xa.
Trong cuốn sách “Chính sách đối ngoại Hoa Kỳ: Động cơ của sự lựa chọn tr
ong thế kỷ
XXI’ của Bruce W. Jentleson, ấn hành năm 2000 đã đi sâu phân tích một số nội dung
cơ bản của quá trình hoạch định chính sách mới, cũng như những lựa chọn và thách
thức đang đặt ra cho chính sách đối ngoại Mỹ trong thế kỷ XXI; qua đó làm rõ mục
tiêu và động cơ lưạ chọn, những thay đổi và điều chỉnh trong chính sách đối ngoại Mỹ
trước diễn biến mới của tình hình. Tr
ong đó quan hệ với Trung Quốc trên nhiều lĩnh
vực được đặt ra, cân nhắc với những lựa chọn quyền lực, hòa bình, thịnh vượng hay
các nguyên tắc nhằm đạt được lợi ích quốc gia của Mỹ.
Năm 2003, với tiêu đề :”Quan hệ Mỹ – Trung: đối tác chiến lược hay đối thủ chiến
lược? “, nghiên cứu của thạc sĩ Phạm
Cao Phong đã đề cập đến việc xác định thực chất
của quan hệ Trung – Mỹ qua việc tìm hiểu vị trí của Trung Quốc và Mỹ trong chính
sách đối ngoại của mỗi nước. Hai nước xác dịnh nhau là bạn hay là thù, từ đó sẽ xác
định những nhân tố thuận và không thuận chi phối quan hệ Trung – Mỹ: lợi ích chi
phối quan hệ Trung – Mỹ, trong các lợi ích đó, lợi ích nào là lâu dài, lợi ích nào là ngắn
hạn; đặc điểm
quan hệ hai nước là gì, quan hệ hai nước có thể có những hợp tác về
chiến lược như trong thập kỷ 1970 và 1980 hay không, nếu không thì hai nước có thể
hợp tác với nhau đến mức độ nào, nếu hai nước cạnh tranh nhau thì mức độ nghiêm
trọng sẽ đến đâu.
Năm 2004, nhân dịp kỷ niệm 55 năm thành lập nước CHND Trung Hoa, kỷ yếu hội
thảo “Cộng hòa nhân dân Trung Hoa- 55 năm xây dựng và phát triển” đã tập hợp rất
nhiều bài viết về những thành tựu trong công cuộc cải cách, mở cửa, hiện đại hóa, về
quá trình vận động đầy khó khăn nhiều thăng trầm của Trung Quốc trong bối cảnh
quốc tế có nhiều biến động. Đây sẽ là những bài học kinh nghiệm lịch sử và gợi mở
những dự báo về tương lai cho chính chúng ta.
Một trong những vấn đề trong quan hệ Trung –Mỹ được các nhà nghiên cứu qua

n tâm
đó chính là cả hai quốc gia cùng bắt tay tham gia giải quyết các vấn đề an ninh ở khu
vực châu Á – Thái Bình Dương.
Năm 2004, bài viết “Chu kì hòa dịu mới trong quan hệ Mỹ – Trung sau sự kiện 11-9:
cơ sở và triển vọng” của Thạc sĩ Lê Linh Lan đăng trong tạp chí Nghiên cứu quốc tế số
55 đã bàn về sự điều chỉnh sách lược từ cả hai phía Mỹ và Trung Quốc sau sự kiện 11-
9. Điều đặt
ra là quan hệ Trung – Mỹ: cải thiện lâu dài hay nhất thời? Theo tác giả, xét
từ góc độ cạnh tranh chiến lược, khi cuộc đấu tranh chống khủng bố lắng xuống thì
Trung Quốc vẫn là đối thủ chủ yếu của Mỹ ở khu vực. Sự thỏa hiệp chiến lược giữa
Mỹ và Trung Quốc vẫn là một viễn cảnh xa vời. Hiện nay, trong khi Mỹ đang bận rộn
với chiến dịch chống khủng bố, Trung Q
uốc đang tập trung sức lực cho phát triển kinh
tế và hiện đại hóa quân đội thì quan hệ hai nước tạm thời ở trong một tình trạng ổn
định tương đối.
Cũng đồng quan điểm, trong bài “Những nét chính trong chiến lược đối ngoại của
Trung Quốc sau đại hội 16” tác giả Nguyễn Trung Hiếu – nghiên cứu viên Ban Đông
Bắc Á, Học viện Quan hệ quốc tế cũng đã nê
u về sự thay đổi các ưu tiên chiến lược đối
ngoại của Trung Quốc. Một trong những ưu tiên đó là tranh thủ sự hợp tác với bên
ngoài. Song song với thu hút đầu vào, Trung Quốc cũng tích cực đẩy mạnh “đưa vốn ra
bên ngoài, trong đó ưu tiên hợp tác với các nước phát triển, đặc biệt là với Mỹ”.
Phương châm trong việc xử lý quan hệ với Mỹ sẽ vẫn là “đối đầu nhưng không đối
kháng”, “đấu trí nhưng không đấu khẩu” nhằm tránh đẩy quan hệ Trung – Mỹ đi đến
chỗ đổ vỡ hoặc ở mức quá xấu, bất lợi cho quan hệ hợp tác kinh tế.
Vấn đề Đài Loan và việc giải quyết khủng hoảng hạt nhân ở Bắc Triều Tiên là những
tiêu đề được quan tâm nghiên cứu và giới thiệu trên các website báo điện tử, đặc biệt
trong những năm đầu thế kỷ, đặc biệt trong các bài viết:
“Chiến lược Đông Bắc Á của Trung Quốc” của tác giả Tăng P
hẩm Nguyên đăng trên



Hay “Nhìn lại quá trình thương lượng Mỹ – Bắc Triều Tiên về tên lửa và vũ khí hạt
nhân “ của Đỗ Trọng Quang đăng trên tạp chí châu Mỹ ngày nay, số 8-2005.
Đài Loan có vĩnh viễn trở thành nỗi đau trong lòng nhân dân Trung Quốc hay không?
Đó là câu hỏi được tác giả Lưu Kim Hâm đặt ra trong quyển “Trung Quốc – Những
thách thức nghiêm trọng của thế kỷ XXI” viết về quan hệ Trung- Mỹ trong việc giải
quyết vấn đề Đài Loan.
Năm
2006, cuốn sách “Các vấn đề chính trị quốc tế ở châu Á – Thái Bình Dương”, tác
giả Michael Yahuda được tái bản lần hai. Trong đó tác giả không chỉ đánh giá về
những bất ổn thách thức tình hình an ninh khu vực mà còn nghiên cứu về thời kỳ gần
đây nhất đối với các vấn đề đang phát triển lớn như là “chiến tranh chống khủng bố “
của Mỹ, mối quan hệ với Trung Quốc – hợp tác và đối đầu trong khu vực, đặc biệt là
giải quyết hai điểm
nóng ở khu vực: cuộc khủng hoảng ở bán đảo Triều Tiên và eo
biển Đài Loan.
Điểm lại để chúng ta thấy được một số vấn đề quan trọng trong quan hệ Trung – Mỹ
được nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu trên những quan điểm, trên nhiều lĩnh vực khác
nhau. Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, chắc chắn “Quan hệ Trung – Mỹ” vẫn tiếp
tục là đề tài được các nhà nghiên cứu quan tâm.
4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã vận dụng phương pháp lịch sử để tái hiện bức
tranh sinh động về mối quan hệ Trung Quốc – Hoa Kỳ trong những năm đầu tiên của
thế kỷ mới (2001-2005). Vì đây là đề tài nghiên cứu trong giai đoạn đương đại nên
chúng tôi đã kết hợp sử dụng các
phương pháp liên ngành, đặc biệt là phân tích, tổng
hợp các tư liệu từ Internet.
5. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Luận văn được trình bày trong 140 trang bao gồm phần mở đầu, 3 chương nội dung và

phần kết luận:
Chương 1: Những thăng trầm trong quan hệ Trung – Mỹ từ 1949 đến 2000
Chương 2: Quan hệ Trung – Mỹ từ 2001 đến 2005
1. Quan hệ kinh tế – thương mại
2. Quan hệ chính trị – ngoại giao - an ni
nh.
Chương 3: Những dự báo quan hệ Trung – Mỹ
Chương 1: NHỮNG THĂNG TRẦM TRONG QUAN HỆ TRUNG – MỸ
TỪ 1949 ĐẾN 2000
Ngày 1/10/1949, nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa ra đời, mở đầu những thời kì
thăng trầm trong quan hệ Trung – Mỹ. Quan hệ giữa Cộng hòa nhân dân Trung Hoa và
Hoa Kỳ là một trong những mối quan hệ quốc tế cực kỳ phức tạp. Suốt 45 năm chiến
tranh lạnh, quan hệ Trung – Mỹ luôn thay đổi và sau chiến tranh lạnh quan hệ đó vẫn
chưa thể gọi là ổn định.
1.1. Q
uan hệ Trung – Mỹ trong chiến tranh lạnh
1.1.1. Thập niên 50, 60: đối đầu – căng thẳng
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, Mỹ – Xô coi nhau là đấu thủ chính nhưng chưa bao
giờ trực tiếp đánh nhau. Trái lại Cộng hòa nhân dân Trung Hoa mới ra đời chưa được 1
năm thì đã phải tham gia vào cuộc chiến tranh với quân đội Mỹ trên bán đảo Triều
Tiên.
Ngày 25-6-1950, chiến tranh Triều Tiên bùng nổ. Ngày 15-9-1950, quân Mỹ kéo cờ
Liên hợp quốc đổ bộ l
ên Nhân Xuyên, can thiệp vào chiến tranh Triều Tiên. Quân Mỹ
còn oanh tạc một số thị trấn và làng mạc của Trung Quốc tại vùng Đông Bắc. Ngày 25-
10-1950, quân chí nguyện nhân dân Trung Quốc, dưới sự chỉ huy của tướng Bành Đức
Hoài đã vượt sông Ap Lục, tiến vào lãnh thổ Bắc Triều Tiên, chiến đấu bên cạnh quân
đội Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên.[47, tr. 34].
Chiến tranh Triều Tiên và sự can dự trực tiếp của Trung Quốc đã làm cho mục tiêu


chính của Mỹ đối với Trung Quốc là tạo sự chia rẽ giữa Bắc Kinh và Moskva khó thể
đạt được. Tuy nhiên, Chính phủ Truman vẫn cố gắng kiềm chế không để chiến tranh
Triều Tiên lan rộng thành một cuộc xung đột trực tiếp giữa Hoa Kì và Trung Quốc.
Bên cạnh đó, Hoa Kì bắt đầu thay đổi chính sách đối với vùng Đông Á theo hướng
ngăn chặn Bắc Kinh mở rộng hơn nữa ảnh hưởng tr
ong vùng.
Hai ngày sau biến cố 25-6-1950, Truman đã ra lệnh đưa Hạm đội 7 vào eo biển ngăn
cách đảo Đài Loan và Hoa lục, nhằm ngăn chặn một cuộc xung đột có thể có giữa Đài
Loan và Trung Quốc. Chính sách này được gọi là “trung lập hóa Đài Loan”. Không
đầy hai tháng sau, Truman chấp thuận lập quan hệ quân sự với Đài Loan và chuyển cho
Chính phủ Quốc dân đảng những khoản viện trợ quân sự và viện trợ kinh tế. Tháng 4-
1951, một phái bộ quân sự thường trực đư
ợc đưa đến đây.[49, tr. 333]. Những diễn
biến trên cho thấy Mỹ đã đặt Triều Tiên và Đài Loan vào tuyến phòng thủ tiền tiêu của
mình ở Viễn Đông và áp đặt lệnh cấm vận đối với Trung Quốc. Đó là giai đoạn thứ
nhất của quan hệ Trung –Mỹ. Nhưng có thể nói chính trong giai đoạn căng thẳng và
xung đột là chủ yếu này, các nhà lãnh đạo Trung Quốc đã tính tới việc thiết lập qua
n hệ
với Mỹ. Mặc dù khi ấy Mỹ không công nhận Cộng hòa nhân dân Trung Hoa là thành
viên thường trực Hội đồng bảo an Liên Hợp quốc, nhưng đoàn đại biểu Trung Quốc
theo sự chỉ đạo của Thủ tướng Chu An Lai đã gặp các đối tác Mỹ lần đầu tiên vào ngày
5/6/1954. Các cuộc đàm phán giữa Trung – Mỹ ở cấp Đại sứ đã bắt đầu từ ngà
y
1/8/1955. Kéo dài đến đầu thập niên 70, các cuộc đàm phán thoạt trông có vẻ như
không giúp gì nhiều vào việc cải thiện quan hệ giữa hai nước vì sau ngần ấy năm đàm
phán, hai bên chỉ kí được mỗi thỏa ước duy nhất liên quan đến việc hồi hương của
công dân hai nước. Nhưng thực ra chúng vẫn rất cần vì cho cả hai biết rõ hậu ý của đối
phương và do đó tránh những hiểu lầm tai hại, nhất là vào những thời điểm căng thẳng.
1.1.
2.Thập niên70: Bước ngoặt chuyển sang hòa dịu

Trong khi quan hệ Trung – Xô phát triển theo chiều hướng gay gắt ( xung đột biên giới
năm 1969), thì quan hệ Trung – Mỹ đã tiến triển theo chiều hướng hòa dịu. Nền tảng
cơ bản của quan hệ của Mỹ đối với Trung Quốc là những tính toán về một kẻ thù
chung – Liên Xô. Nixon và cố vấn an ninh của ông là Henry Kissinger đã dự định tranh
thủ Trung Quốc bằng cách vạch ra viễn ảnh của một thế giới đa cực, thay cho thế giới
lưỡng cực, m
à trong đó Trung Quốc sẽ là một cực, ngang hàng với hai siêu cường Hoa
Kì và Liên Xô. Chính phủ Nixon đã đưa ra nhiều sáng kiến đơn phương trên nhiều
lĩnh vực. Trong lĩnh vực quân sự: tháng 11-1969, việc tuần phòng của Hạm đội 7 dọc
theo eo biển Đài Loan được hủy bỏ. Ngày 15-12-1969, Hoa Kì tuyên bố ý định di
chuyển khỏi đảo Okinawa vũ khí hạt nhân, trước khi trao trả hòn đảo này cho người
Nhật. Tháng 2-1970 Nixon và Kissinger đã thay chủ thuyết “Hai cuộc chiến tranh
rưỡi” bằng chủ thuyết “Một cuộc chiến tranh rưỡi”. Nixon giải thích rằng Hoa Kì

không còn vạch kế hoạch và chuẩn bị cho những cuộc chiến tranh cùng lúc chống cả
Liên Xô lẫn Trung Quốc, cùng với nửa cuộc chiến tranh ở thế giới thứ ba. Với chủ
thuyết mới, Hoa Kì chỉ còn phải chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh với Liên Xô và nửa
cuộc chiến tranh ở thế giới thứ ba. Cuối cùng, ngày 28-7-1971, Chính phủ Mỹ loan báo
ngưng các chuyến bay thám thính có và không có người lái trên lãnh thổ Tr
ung Quốc.
Trên lĩnh vực thương mại, Hoa Kì cũng đã từng bước tháo bỏ các giới hạn trong việc
buôn bán giữa hai nước. Ngày 14-7-1971, chính sách cấm vận đã được hủy bỏ. Trong
lĩnh vực chính trị, nét đặc trưng trong lập trường của Hoa Kì là sẵn sàng có những nhân
nhượng trong vấn đề khôi phục chủ quyền của CHND Trung Hoa ở Liên hợp quốc và
thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Trong chuyện nà
y, mức độ nhân nhượng tối
đa của Nixon là từ bỏ việc công nhận Chính phủ Đài Loan đại diện cho toàn thể Trung
Quốc và chuyển sang công thức “Hai Trung Quốc” [49, tr. 339-340]. Tín hiệu của
Nixon phát ra đã được phía Trung Quốc đón nhận. Năm 1971, chủ tịch Mao Trạch
Đông đã quyết định mời đoàn vận động viên bóng bàn Mỹ sang thăm Trung Quốc. Tại

cuộc tiếp đón, Thủ tướng Chu An Lai đã có 1 câu nói nổi tiếng “Các bạn đã mở ra một
chương mới trong lịch sử qua
n hệ song phương giữa 2 dân tộc Trung, Mỹ”. Chỉ vài giờ
sau bài phát biểu chào mừng của Thủ tướng Chu An Lai, Tổng thống Mỹ Richard
Nixon đã tuyên bố các sáng kiến thương mại và du lịch giữa Mỹ và Trung Quốc.
Tháng 2/1972 nhận lời mời của Thủ tướng Chu An Lai, Tổng thống Nixon đã tới thăm
Trung Quốc. Đây là nhà lãnh đạo đầu tiên của một nước chưa thiết lập ngoại giao
chính thức với Bắc Kinh đến Trung Quốc. Kết quả chủ yếu trong chuyến thăm này là
việc ký kết Thông cáo chung đầu tiên, còn gọi là “Thông cáo chung Thượng Hải” ngày
28/2/1972.
Trong “Thông cáo chung” thượng Hải”, phía Trung Quốc nhấn mạnh:” Vấn đề Đài
Loan là vấn đề then chốt cản trở việc bình thường hóa quan hệ Trung – Mỹ,…giải
phóng Đài Loan là công việc nội bộ của Trung Quốc…, toàn bộ lực lượng vũ trang và
và thiết bị quân sự của Mỹ phải rút khỏi Đài
Loan…”. Phía Mỹ tuyên bố: Nước Mỹ đã
nhận thức rằng tất cả người Trung Quốc ở hai bên bờ eo biển Đài Loan đều cho rằng
chỉ có một nước Trung Quốc, Đài Loan là một bộ phận của Trung Quốc…Trong thời
gian này, nước Mỹ tùy thuộc vào tiến trình hòa dịu tình hình căng thẳng của khu vực
để giảm bớt dần lực lượng vũ trang và thiết bị quân sự của mình ở Đài Loan.[47,
tr.160].
Chuyến thăm
Trung Quốc của Tổng thống Mỹ Nixon và bản Thông cáo chung Thượng
Hải năm 1972 là một bước đột phá trong quan hệ Trung – Mỹ.
1.1.3.Giai đoạn thứ ba: chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao
Bắt đầu khi hai nước bình thường hóa và chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao 1978
cho đến sự kiện Thiên An Môn. Ngay sau khi lên nhậm chức năm 1977, Tổng thống
Mỹ Jimmy
Carter đã khẳng định lợi ích của Thông cáo chung Thượng Hải đối với quan
hệ Trung – Mỹ. Mối quan hệ song phương tiếp tục được duy trì trong bối cảnh Trung
Quốc bắt đầu thúc đẩy chính sách mở cửa với thế giới bên ngoài. Sau khi Thủ tướng

Chu An Lai qua đời (1978), Đặng Tiểu Bình đã kế thừa các tư tưởng của ông và tiếp
tục phát triển các quan điểm ấy.
Đầu tháng 7 năm 1978, đại diện Trung – Mỹ bắt đầu các cuộc hội đàm nhằm bình
thường hóa quan hệ. Thông cáo chung của Trung – Mỹ về việc thiết lập quan hệ ngoại
giao đã được đưa ra ngày 16/12/1978 nêu rõ :
“-Hoa Kỳ và CHND Trung Hoa đã nhất trí công nhận nhau và thiết lập mối quan hệ
ngoại giao kể từ ngày 1/1/1979
-Hoa Kỳ công nhận Chính phủ CHND Trung Hoa là Chính phủ hợp pháp duy nhất của
nước Trung Quốc. Trong khuôn khổ này, người dân Hoa Kỳ sẽ duy trì quan hệ văn
hóa, thương mại cùng các quan hệ không c
hính thức khác với người dân Đài Loan.
-Hoa Kỳ và Trung Hoa tái khẳng định những nguyên tắc đã được hai bên nhất trí trong
Thông cáo chung Thượng Hải và một lần nữa nhấn mạnh rằng :
+Hai bên đều mong muốn giảm bớt nguy cơ xung đột quân sự quốc tế
+Cả hai đều không mong muốn tìm kiếm ưu thế bá chủ tại khu vực châu Á – Thái
Bình Dương hay bất kỳ khu vực nào khác trên thế giới, cả hai đều phản đối nỗ lực của
bất kỳ nước nào hoặc nhóm
nước nào khác muốn thiết lập địa vị bá chủ ấy.
+Cả hai không sẵn sàng thương lượng đại diện cho bất kỳ bên thứ ba nào hoặc không
tham gia vào những thỏa thuận song phương nhằm vào các nước khác.
+Chính phủ Hoa Kỳ thừa nhận lập trường của Trung Quốc rằng chỉ có một Trung
Quốc và Đài Loan là một bộ phận của Trung Quốc.
+Cả hai tin rằng việc bình thường hóa qua
n hệ Trung – Mỹ không chỉ nằm trong lợi
ích của nhân dân hai nước mà còn đóng góp vào sự nghiệp hòa bình ở châu Á và trên
thế giới.[54]
Quan hệ giữa hai nước được nâng thêm một bước bằng chuyến viếng thăm Hoa Kì của
Phó Thủ tướng Đặng Tiểu Bình kéo dài từ ngày 29-1 đến này 5-2-1979.
Kết quả chính trong lĩnh vực kinh tế là một loạt hiệp ước song phương và cả hệ thống
tư vấn cấp bộ và cấp cơ quan. Cấp độ cộng tác khoa học – kĩ thuật giữa hai bên được

nâng lên hàng quốc gia ( trước 1979, quan hệ cộng tác này được thực hiện từ phía H
oa
Kì bởi các trường đại học hay tổ chức phi chính phủ). Chính phủ Hoa Kì đã kí hàng
loạt thỏa ước cộng tác với Trung Quốc trong các ngành như vật lý năng lượng cao, kĩ
thuật hàng không, thủy điện, y học…
Việc bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc bao gồm cả việc kết thúc quan hệ chính
thức với Đài Loan; Mỹ rút lực lượng quân đội còn lại ở đó và c
hấm dứt Hiệp ước an
ninh với Đài Loan. Nhưng Mỹ và Trung Quốc cũng đạt được sự hiểu biết lẫn nhau
trong việc Trung Quốc không từ bỏ sử dụng vũ lực để chiếm Đài Loan và Mỹ vẫn
muốn tiếp tục bán vũ khí cho Đài Loan. Kế tiếp, vào tháng 4 năm 1979, các nhà lập
pháp Mỹ đã thông qua một dự thảo chống lại Carter, “Nghị quyết về bang giao với Đài
Loa
n”, nghị quyết này xem bất cứ việc sử dụng vũ lực nào đối với Đài Loan cũng là đe
dọa đến an ninh của vùng Tây Thái Bình Dương và là mối quan tâm lớn đối với Mỹ.
Tiếp theo việc thiết lập ngoại giao chính thức với Mỹ là cuộc viếng thăm rất thành
công của nhà lãnh đạo Đặng Tiểu Bình. Ong đã công khai thề “dạy cho Việt Nam một
bài học” vì đã xâm lược Cam
puchia vào năm 1978 với sự trợ giúp của Liên Xô. Sau
vụ xâm nhập có hạn chế vào Việt Nam vào tháng 2 và 3 năm 1979, Trung Quốc đã liên
minh với Mỹ một cách không chính thức. Tháng 4 năm 1979, Trung Quốc chấp nhận
cho đặt ở vùng Tân Cương các thiết bị thám thính điện tử để phát hiện các tên lửa của
Liên Xô. Tháng 1 năm 1980, Bộ trưởng Quốc phòng Brown đã viếng thăm Bắc Kinh
sau hành động xâm lược Afghanistan của Liên Xô và bắt đầu chính sách xuất khẩu
sang Trung Quốc các kỹ th
uật quân sự phi hạt nhân hiện đại. Trước khi năm 1980 kết
thúc, Mỹ và Trung Quốc đã thiết lập các chính sách “song hành” ở Campuchia và
Afghanistan. (Là đồng minh riêng rẽ của Thái Lan và Pakistan, Mỹ và Trung Quốc đã
hỗ trợ và cung cấp vũ khí cho quân kháng chiến ở Campuchia và Afghanistan). Cả Mỹ
và Trung Quốc đều cùng hành động để bác bỏ quyền đại diện Campuchia ở Liên Hiệp

quốc của chính phủ Phnompenh do Việt Nam dựng lên và cô lập Việt Nam cả về kinh
tế lẫn chính trị. Nói rõ ràng hơn, vào thời gian này, trong nhiều vấn đề lập trường của
Trung Quốc luôn giống lập trường của Mỹ [67, tr.156-157).
Năm 1981, Ronald Reagan trở thành Tổng thống Hoa Kì. Là một nhà hoạt động chính
trị trưởng thành trong làn sóng chống cộng của thập niên 50, Reagan nhìn “nhâ
n tố
Trung Quốc” trong chính sách đối ngoại của Hoa Kì có phần dè dặt hơn người tiền
nhiệm. Chính Tổng thống Reagan đã làm phật lòng Bắc Kinh bằng bài phát biểu kêu
gọi Mỹ nâng cấp quan hệ với Đài Loan. Quan trọng hơn, chiến lược của Reagan về
việc tái xây dựng các lực lượng hạt nhân và vũ khí quy ước đồ sộ của Mỹ cộng với kế
sách tiếp cận Liên X
ô mạnh mẽ hơn đã biểu hiện cho thấy Washington không còn quá
coi trọng vai trò Trung Quốc trong việc kềm chế các hành động của Liên Xô nữa. Ít
quan trọng hơn đối với Mỹ, Trung Quốc càng phải vận động ngoại giao nhiều hơn để
giảm bớt nguy cơ bị Liên X
ô gây hấn. May mắn thay, do Liên Xô bị sa lầy ở
Afghanistan, Trung Quốc có thể có đủ thời gian để tự trang bị. Tại Đại hội đảng lần thứ
XII, năm 1982, Trung Quốc xác định bắt đầu thực hiện một “chính sách đối ngoại độc
lập”. Theo đó, Trung Quốc sẽ “không bao giờ gắn kết mình với một cường quốc lớn
hoặc một nhóm cường quốc nào” [68, tr. 158].
Tuy rằng kỳ vọng của cả hai nước dành cho nha
u đều giảm sút, nhưng Mỹ vẫn phát
triển tốt nhất những quan hệ với Trung Quốc trong những năm còn lại của nhiệm kỳ
Tổng thống Reagan. Quan hệ đối tác “song hành” của họ ở Campuchia và Afghanistan
vẫn tiếp tục cho đến năm 1988-1989, lúc Mỹ đạt được thỏa thuận với Liên Xô về
phương cách chấm dứt chiến tranh. Hơn nữa
, quan hệ thương mại và các quan hệ khác
với Trung Quốc vẫn phát triển tốt mặc dù có những khác biệt giữa hai xã hội. Tháng
11/1989, George Bush trúng cử, người ta tưởng rằng quan hệ Trung – Mỹ sẽ lên đến
đỉnh cao vì Bush đã từng làm việc ở Trung Quốc với tư cách là Trưởng văn phòng liên

lạc của Mỹ. Nhưng sau khi Bush nhậm chức không bao lâu thì nổ ra sự kiện Thiên An
Môn (4/6/1989) kéo theo một làn sóng Mỹ và phương Tây cấm vận trừng phạt Trung
Quốc.
1.2.Quan hệ Trung – Mỹ sau chiến tranh lạnh:
Giai đoạn t
iếp theo là thời kỳ quan hệ Trung - Mỹ trong bối cảnh kết thúc Chiến tranh
lạnh. Điều hết sức trớ trêu là trong không khí chung trên thế giới, đặc biệt là giữa các
nước lớn bắt đầu ấm dần lên thì quan hệ Trung – Mỹ lại lạnh đi vì nhiều lý do.
Với sự sụp đổ của Liên Xô, Mỹ trở thành siêu cường duy nhất trên thế giới. Từ đầu
thập kỷ 1990,
“mục tiêu chiến lược xuyên suốt, nhất quán, không thay đổi, mang tính
chất lâu dài là duy trì và củng cố vị trí bá quyền thế giới của Mỹ trên tất cả các lĩnh vực
chính trị – tư tưởng, kinh tế – thương mại, quân sự – an ninh.”[26, tr.294].
Ba diễn biến quan trọng trong thập kỷ 1990 đã làm tăng lên những bất đồng căng thẳng
trong quan hệ Trung – Mỹ, đó là:
Thứ nhất là những xung đột gay gắt về vấn đề nhâ
n quyền khởi phát từ cuộc trấn áp
sinh viên và những người biểu tình ở Trung Quốc năm 1989 tại quảng trường Thiên An
Môn. Đối với chính quyền Bush và chính quyền Clinton, cuộc trấn áp này gợi lên vấn
đề trừng phạt kinh tế và mối liên hệ giữa nhân quyền với quy chế thương mại tối huệ
quốc (MFN). Ơ tầm rộng hơn, nó cho thấy những hạn chế của sự thay đổi chính trị ở
Trung Quốc và trở thành một vấn đề lớn trong quan hệ Trung – Mỹ.
Thứ hai là, với sự kết thúc của chiến tranh lạnh và sự biến mất của kẻ thù chung Liên
Xô, Trung Quốc và Mỹ bước vào thời kì sau chiến tranh lạnh với những khác biệt về
địa chính trị mang tính toàn cầu ngày càng rõ nét hơn nhưng tương đồng giữa họ. Tính
đến sự tăng trưởng kinh tế phi thường và quá trình hiện đại hóa cùng với phong cách
ngoại giao cương quyết của Trung Quốc, nhiều nhà phân tích tin rằng Trung Quốc còn
có nhiều khả năng trở thành những thác
h thức vị thế quyền lực toàn cầu của Mỹ trong
những thập kỷ tới hơn cả Nga. Trên phạm vi toàn cầu, Trung Quốc thường đứng về

phía Iraq, Iran và những đối thủ khác của Mỹ bằng cách, ví dụ như, cung cấp cho họ
những vũ khí và công nghệ sản xuất vũ khí hủy diệt hàng loạt. Quan hệ Trung – Nga
cũng có những dấu hiệu tiến gần lại nhau hơn cho dù không thể bằng được mức liên

minh thời kì đầu chiến tranh lạnh.
Thứ ba là, sự nổi lên ngày càng mạnh của Trung Quốc thành một cường quốc ở khu
vực Đông Á đe dọa làm đảo lộn sự cân bằng quyền lực trong khu vực. Những nước
như Nhật Bản vốn luôn lo ngại về một nước Trung Quốc quá mạnh cần phải được làm
an lòng, tuy nhiên, những quan ngại riêng của Trung Quốc về a
n ninh quốc gia và về
một nước Nhật Bản quá mạnh cũng cần phải được tính đến, Mỹ và Trung Quốc còn có
những bất đồng về Bắc Triều Tiên và về cách thức xử lý tốt nhất mối đe dọa mà quốc
gia này gây ra cho sự ổn định khu vực.
Nhưng vấn đề căng thẳng nhất trong quan hệ Mỹ – Trung vẫn không thay đổi kể từ
chiến thắng của Đảng Cộng sản Trung Q
uốc năm 1949. Liệu Đài Loan có sáp nhập vào
với Trung Quốc lục địa hay không, hay vùng lãnh thổ này sẽ duy trì sự tách biệt và
thậm chí có thể trở thành một quốc gia độc lập được công nhận? Và liệu vấn đề này có
được giải quyết một cách hòa bình hay không?
Hai đối sách được lựa chọn chủ yếu trong chiến lược đối ngoại của Mỹ đối với Trung
Quốc thời kì sau c
hiến tranh lạnh đó là ngăn chặn và can dự. Sở dĩ có sự tranh luận như
vậy vì luôn có khó khăn trong việc đánh giá tầm quan trọng hiện hành của Trung Quốc
là cường quốc hay chỉ là một cường quốc tiềm tàng, đặc biệt khi Trung Quốc giữ vững
được mức tăng trưởng kinh tế cao và có ảnh hưởng kinh tế trong khu vực ngày càng
tăng.
Ngăn chặn là một kiểu chiến lược thời chiến tranh lạnh của Mỹ đối với Liên Xô, cho
dù với Trung Quốc thì ở mức độ nhẹ hơn và quy m
ô hạn chế hơn. Chiến lược ngăn
chặn đối với Trung Quốc không mang tính đối đầu song cũng kiên quyết. Mục tiêu chủ

yếu trong đối sách này là kiềm chế, nhằm ngăn chặn sự nổi lên của Trung Quốc trở
thành một thách thức đe dọa đến vai trò lãnh đạo của Mỹ.
Một số cuộc khủng hoảng và những vấn đề gây tranh cãi đã củng cố thêm quan điểm
ngăn c
hặn của Mỹ đối với Trung Quốc. Năm 1998, thông tin lan ra là Trung Quốc đã
từng sử dụng những cuộc tiếp xúc với Mỹ thông qua hợp tác quân sự, khoa học và kinh
tế nhằm đánh cắp những bí mật về chế tạo và phát triển vũ khí hạt nhân của Mỹ.
Những căng thẳng về vấn đề Đài Loan lại bùng lên giữa năm 1999 sau khi người đứng
đầu Đài Loan đưa ra những phát biểu ủng hộ độc lập và Trung Quốc phản ứng lại bằng
những lời đe doạ thẳng thừng. Những vấn đề gây tranh cãi như vậy đã làm tăng thêm

những mối quan ngại về việc tăng cường khả năng quân sự của Trung Quốc và thái độ
khiêu khích của Trung Quốc trong một số vấn đề an ninh khu vực.
Những người ủng hộ can
dự có cách nhìn khác về Trung Quốc, mặc dù không phải là
đối lập hoàn toàn. Họ thận trọng khi đánh giá lợi ích của Trung Quốc ở khu vực, nhưng
họ nhìn nhận những lợi ích đó theo hướng ít nguy cơ hơn. Trung Quốc muốn có một
vai trò ở châu Á – Thái Bình Dương mà với tầm cỡ và lịch sử của mình, nước này cảm
thấy là hoàn toàn có thể. Điều này thực tế đã gây ra căng thẳng và Mỹ phải đứng về
phía những đồng minh của mình và bảo vệ những lợi ích của Mỹ, nhưng vấn đề nà
y có
thể được giải quyết thông qua ngoại giao và đàm phán. Bên cạnh đó, về quân sự, Trung
Quốc chưa dễ theo kịp được với Mỹ, ngay cả với những tiến bộ gần đây Trung Quốc
đã đạt được. Những người ủng hộ can dự thừa nhận Đài Loan là một vấn đề gây nhiều
tranh cãi, mặc dù những nhà hoạch định chính sách cũng phải thận trọng không để Đài
Loan lợi dụng sự ủng hộ của Mỹ để khiêu khích Trung Quốc. Cũng giống như đối với
vùng Vịnh và các khu vực khác, Mỹ có
thể đạt được nhiều thông qua ngoại giao thầm
lặng hơn so với việc cứng rắn đối với Trung Quốc.
Quan điểm trên là lý lẽ để xây dựng một chiến lược trong đó nhấn mạnh hội nhập và

ngoại giao. Trung Quốc cần phải được đưa vào nhiều tổ chức đa phương hơn, cả những
tổ chức kinh tế như Tổ chức thương mại thế giới và những tổ chức chiến lược như Cơ
qua
n Kiểm soát công nghệ tên lửa. Sự hội nhập như vậy sẽ tạo ra những cơ chế hòa
bình với cơ cấu rõ ràng để xử lý những mối lo ngại về Trung Quốc và sẽ khuyến khích
Trung Quốc chấp thuận những chuẩn mực quốc tế v
à tuân thủ luật lệ quốc tế. Trên cơ
sở song phương, Mỹ cần tiếp tục những cuộc gặp gỡ cấp cao theo định kì cũng như các
hoạt động ngoại giao khác, thương mại và những hoạt động can dự trong các lĩnh vực
khác như vấn đề nhân quyền, dân chủ…
Cụ thể Tổng thống Bush (Cha) đã thực hiện sách lược can dự còn Quốc hội lại
nghiêng về sách lược ngăn c
hặn.
Cuối thập niên 1980, sau khi áp dụng các biện pháp trừng phạt đối với chính quyền
Trung Quốc do sự biến Thiên An Môn, Bush đã tìm cách cứu vãn mối quan hệ với
Trung Quốc bằng việc vài lần bí mật phái một viên chức cao cấp đến Bắc Kinh. Tuy
nhiên chẳng bao lâu sau, việc xung đột trong nội bộ nước Mỹ xảy ra, tập trung vào quy
chế tối huệ quốc. Quốc hội biểu quyết chống việc phục hồi quy chế tối huệ quốc ch
o
Trung Quốc đã hết hạn vào năm 1990, nhưng không đủ đa số phiếu để thắng quyền
phủ quyết của Tổng thống Bush. Bước tiếp theo trong tiến trình cải thiện quan hệ là
việc Tổng thống Bush gặp Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc ở Washington vào tháng
11, sau sự việc ông này không tham gia bỏ phiếu ở Hội đồng Bảo an Liên Hiệp quốc đã
tạo điều kiện thông qua nghị quyết có thể sử dụng vũ lực chống Iraq.
Dù vậy, bang giao Mỹ – Trung vẫn còn nằm trong tình trạng bấp bênh, ở Mỹ, vẫn còn
tiếp diễn việc chống đối hệ thống chính trị đàn áp và việc tiếp tục vi phạm nhân quyền
ở Trung Quốc.
Tháng 1 năm
1993, Clinton lên cầm quyền. Tổng thống cũng đã đưa ra những tiêu chí
đòi hỏi Trung Quốc phải cải thiện việc tuân thủ nhân quyền ở trong nước mới có thể

được tiếp tục xét trao quy chế tối huệ quốc.Chính quyền Trung Quốc đã liên tục bị áp
lực vì không tuân giữ các thủ tục thương mại thích hợp, vì hành động bất hợp pháp, vì
không bảo vệ bản quyền..Phía Trung Quốc nghi ngờ Mỹ có kế hoạch phá hoại chế độ
của mình và tìm cách chặn đường Trung Quốc vươn đến vị thế cường quốc mà lịch sử
cũng như tầm
vóc của nó xứng đáng được hưởng. Vì vậy, các nhà lãnh đạo Trung
Quốc có khuynh hướng phản ứng giận dữ đối với việc mà họ xem là can thiệp vào
công việc nội bộ và đối xử bất bình đẳng. Các khó khăn lại càng tăng thêm
do những
khác biệt về vấn đề thương mại. Thống kê của Mỹ cho thấy một sự thâm hụt thương
mại rất lớn khi thương mại hai nước gia tăng, đạt đến mức 23 tỉ đôla vào năm 1993 và
29,5 tỉ đô-la vào năm 1994 (chỉ đứng sau Nhật Bản). Thống kê của Trung Quốc lại cho
thấy thương mại giữa hai nước hầu như cân bằng.
Tuy nhiên, vào tháng 5 năm 1994, khi thời hạn quy c
hế tối huệ quốc kết thúc, chính
Clinton lại xuống nước mặc dù biết phía Trung Quốc không đáp ứng các điều kiện của
mình. Ap lực của giới kinh doanh thật mãnh liệt khi họ đưa ra kiến nghị về việc nhiều
người Mỹ sẽ bị mất công ăn việc làm, và chính quyền Trung Quốc biết đây là thời
điểm mà Mỹ cần có sự hợp tác
của mình để giải quyết vấn đề Triều Tiên. Hơn nữa,
các đồng minh của Mỹ ở châu Á lo lắng về các hậu quả gây bất ổn định nếu như quan
hệ Mỹ – Trung bị xuống cấp. [[67, tr. 314]
Nhưng dù vậy, bang giao Mỹ – Trung vẫn chưa cải thiện được nhiều. Về phía Mỹ vẫn
còn lo Trung Quốc không đáp ứng được vai trò đối tác thương mại và không hội đủ các
điều kiện tối thiểu để gia nhập GATT (Hiệp định chung về thuế quan và thương mại).
Phía Trung Quốc tức giận vì những yêu sách của Mỹ và tiếp tục nghi ngờ Mỹ vẫn
ngầm có kế sách làm suy yếu hệ thống Cộng sản Trung Quốc và cản đường tiến lên
cường quốc của họ. Các cuộc thương thuyết giữa hai bê
n tỏ ra gay gắt một cách công
khai và chỉ đạt được thỏa thuận ở phút cuối. Cả hai bên cũng khác nhau về vấn đề Đài

Loan; phía Mỹ bắt buộc phải bảo vệ Đài Loan do nghị quyết bang giao với Đài Loan
đã được ban hành trước đó. Năm 1992, Chính phủ Mỹ quyết định bán cho Đài Loa
n
150 máy bay F16, Trung Quốc đã lên tiếng phản đối kịch liệt. Tháng 5 –1995, Chính
phủ Mỹ lại cho phép nhà cầm quyền Đài Loan Lý Đăng Huy sang thăm Mỹ làm cho
quan hệ hai nước rung chuyển dữ dội, quan hệ song phương Trung – Mỹ bị lùi một
bước. Tiếp theo, năm 1999, NATO, đứng đầu là Mỹ đã bỏ qua Liên Hiệp quốc, lấy cớ
vấn đề Kosovo tiến hành tấn công đường không vào Liên bang Nam Tư. Ngày 7/5
dùng bom đánh phá c
hính xác vào Đại sứ quán Trung Quốc ở Nam Tư. Chính phủ
Trung Quốc cực lực kháng nghị, yêu cầu NATO, đứng đầu là Mỹ, phải công khai
chính thức xin lỗi Chính phủ và nhân dân Trung Quốc. [47, tr. 119].
Trên đây là một số những bất đồng căng thẳng Trung – Mỹ, nhưng có thể nói ngoài các
đặc điểm bất thường, đường lối bang giao của Mỹ với Trung Quốc bị điêu đứng là do
không thể dung hòa được các vấn đề văn hóa, chính trị song song của hai nước cũng
như do nỗi
nghi ngờ việc Trung Quốc nổi lên như là một cường quốc chắc chắn sẽ
thách thức các quyền lợi đã bén rễ sâu của Mỹ. Rõ ràng quan hệ Trung – Mỹ sau chiến
tranh lạnh vẫn còn đầy những mâu thuẫn gay gắt.
Tuy nhiên nhìn toàn cục thì quan hệ Trung – Mỹ từ sau chiến tranh lạnh không phải chỉ
có xung đột và đối lập, mà cả hai cũng đều luôn coi trọng quan hệ lẫn nhau. Bản thâ
n
Mỹ cũng nhận thấy thế và lực của mình trong cán cân lực lượng tòan cầu không còn
được như trước nữa, thêm vào đó xu thế toàn cầu hóa đã làm gia tăng sự phụ thuộc lẫn
nhau giữa các quốc gia. “Vì vậy, dưới chính quyền Clintơn, Mỹ chủ trương áp dụng
phương thức “tiếp cận mềm” (soft approach) nhằm tìm kiếm sự hợp tác, chia sẻ trách
nhiệm với đồng minh và các nước lớn trong việc duy trì an ninh thế giới và bảo đảm sự
phát triển ổn định nền kinh tế toàn cầu, trong đó Mỹ đóng vai trò là đầu tàu lãnh đạo,

giữ vị trí chỉ huy.”[25, tr120]. Trong hai nhiệm kỳ liên tiếp của mình, chính quyền

Clinton chủ trương kiềm chế Trung Quốc, dùng đối thoại, tiếp xúc toàn diện với Trung
Quốc, thúc đẩy sự hợp tác kinh tế, lôi kéo quốc gia này vào công việc quốc tế và định
chế toàn cầu do Mỹ lãnh đạo: ủng hộ Trung Quốc gia nhập WTO, cùng với Trung
Quốc lập ra cơ chế bốn bên bàn về tình hì
nh trên bán đảo Triều Tiên (Mỹ, Trung Quốc
và hai miền Triều Tiên) đồng thời thúc đẩy dân chủ, nhân quyền. Đỉnh cao trong chính
sách Trung Quốc của Mỹ dưới thời B. Clinton là khái niệm ‘đối tác chiến lược mang
tính xây dựng hướng vào thế kỷ XXI” được đưa ra nhân chuyến viếng thăm Mỹ của
Chủ tịch Giang Trạch Dân. Cả hai đều coi khái niệm này là khuôn khổ quan hệ song
phương. Nội dung của khái niệm này là 2 bên cam kết “xây dựng mối quan hệ đối tác
chiến lược m
ang tính xây dựng thông qua việc tăng cường hợp tác để đối phó với thách
thức của thế giới và thúc đẩy hòa bình và phát triển trên thế giới. Hai bên nhận thức
rằng mối quan hệ ổn định giữa Trung Quốc và Mỹ là quan trọng đối với việc thực hiện
trách nhiệm chung của hai nước là phấn đấu vì hòa bình và thịnh vượng của thế kỷ
XXI, hai nước có chung lợi ích đáng kể và ý c
hí sắt đá tìm kiếm mọi cơ hội và đấu
tranh với những thách thức trong mối quan hệ hợp tác, sự vô tư và lòng quyết tâm để
nhằm đạt được những tiến bộ cụ thể…Hai nước có tiềm năng hợp tác to lớn trong việc
duy trì hòa bình và ổn định trên thế giới và khu vực, thúc đẩy sự tăng trưởng của nền
kinh tế thế giới, ngăn chặn việc phổ biến vũ khí hoặc phá huỷ hà
ng loạt, thúc đẩy sự
hợp tác châu Á – Thái Bình Dương, chống lại việc buôn bán ma túy, tội ác có tổ chức
trên thế giới và nạn khủng bố, tăng cường trao đổi và hợp tác song phương trên các
lĩnh vực phát triển kinh tế – thương mại, luật pháp, bảo vệ môi trường, năng lượng,
khoa học, kỹ thuật và giáo dục và văn hóa cũng như cam kết trao đổi về các đoàn quân
sự”.[25, tr.122]
Về phía Trung Quốc vẫn luôn coi trọng quan hệ với Mỹ trên cơ sở 5 nguyên tắc chung
sống hòa bình. Chủ tịch Trung Quốc Giang Trạch Dân đã sớm chỉ rõ: Chúng tôi mong
‘tăng thêm lòng tin, giảm bớt phiền hà, phát triển hợp tác, không gây đối kháng” với

Mỹ[25, tr. 128]. Tháng 11-1996, Chủ tịch Giang Trạch Dân gặp Tổng thống Mỹ
Clinton ở Manila (Philippines). Trong cuộc gặp này C
linton nhấn mạnh:” Nước Mỹ
muốn được thấy một Trung Quốc lớn mạnh, ổn định và an ninh. Hai nước chúng ta có
lợi ích chiến lược chung trong nhiều vấn đề, nước Mỹ vui lòng lập quan hệ bạn bè hợp
tác tốt đẹp với Trung Quốc”.[66, tr. 120]
Trong không khí chính trị như vậy, quan hệ hai nước từng bước được cải thiện. Từ năm
1997 đến 1999, nguyên thủ quốc gia hai nước đã thực hiện các cuộc thăm hỏi lẫn nhau:
tháng 11-1997, C
hủ tịch Giang Trạch Dân chính thức thăm Mỹ, tháng 7-1998, Tổng
thống Clinton thăm Trung Quốc…Hai bên quyết định thông qua sự tăng cường hợp
tác, thúc đẩy hòa bình và phát triển của thế giới, cùng gắng sức thiết lập quan hệ bạn bè
chiến lược có tính xây dựng giữa Trung Quốc và Mỹ.
Trong thời gian này, lãnh đạo hai bên Trung – Mỹ đã nhiều lần gặp nhau trong các
cuộc luận bàn đa phương tại Liên Hiệp quốc và các tổ chức hợp tác kinh tế châu Á –

Thái Bình Dương, làm cho quan hệ Trung – Mỹ trên tổng thể được giữ ổn định, tạo
điều kiện phát triển và có hiệu quả cho quan hệ đôi bên.
Thế nhưng, năm 2001, Tổng thống Goerge W. Bush lên cầm quyền, đã có những điều
chỉnh nhất định theo hướng cứng rắn hơn trong chính sách đối với Trung Quốc, bắt đầu
từ tuyên bố “đối thủ cạnh tranh chiến lược” thay thế cho quan niệm “đối tác chiến lược
m
ang tính xây dựng’ trước kia. Thúc đẩy việc triển khai NMD, bán nhiều vũ khí cho

×