Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Quan hệ Trung Quốc- Campuchia từ năm 1991 đến năm 2011

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.66 MB, 120 trang )





ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




NGUYỄN THỊ HỒNG




QUAN HỆ TRUNG QUỐC - CAMPUCHIA
TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2011






LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ






HÀ NỘI – 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



NGUYỄN THỊ HỒNG



QUAN HỆ TRUNG QUỐC - CAMPUCHIA
TỪ NĂM 1991 ĐẾN NĂM 2011


Chuyên ngành: Lịch sử Thế giới
Mã số : 60 22 50



LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: TS. DƢƠNG VĂN HUY



HÀ NỘI – 2014
LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn “Quan hệ Trung Quốc – Campuchia từ năm 1991 đến

năm 2011” là công trình nghiên cứu của riêng tôi và chưa từng được công bố, tôi xin chịu
trách nhiệm về mặt nội dung và thông tin dữ liệu đưa ra trong luận văn của mình.

Học viên


Nguyễn Thị Hồng
LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, tôi muốn gửi lời biết ơn sâu sắc tới thầy giáo hướng dẫn của tôi - TS.
Dương Văn Huy đã chỉ dẫn tận tình, giúp đỡ nguồn tư liệu và động viên tinh thần trong
suốt quá trình tôi thực hiện luận văn này.
Tôi cũng xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Văn Kim, Phó
Hiệu trưởng Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Chủ nhiệm Bộ môn Lịch sử
Thế giới và các Thầy Cô giáo trong Bộ môn, Khoa Lịch sử với tất cả sự giúp đỡ và chỉ dẫn
quý báu.
Nhân đây, tôi xin gửi lời cảm ơn tới Ban Giám hiệu Trường Trung học phổ thông
Bắc Kiến Xương đã tạo điều kiện về mặt thời gian, động viên tinh thần và giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình thực hiện luận văn.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn tới gia đình và tất cả những người thân, người
bạn đã động viên, cùng chia sẻ những khó khăn và thuận lợi để tôi có thể hoàn thành khoá
luận một cách tốt nhất!
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1

Chương 1: NHỮNG NHÂN TỐ CHỦ YẾU TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ TRUNG
QUỐC - CAMPUCHIA 9
1.1 Bối cảnh quốc tế và khu vực 9
1.1.1 Thế giới sau chiến tranh lạnh 9

1.1.2. Tình hình khu vực 12
1.1.2.1. Những nét chính của tình hình khu vực Đông Nam Á 12
1.1.2.2. Quan hệ Trung Quốc – ASEAN có những tiến triển mạnh mẽ 15
1.1.2.3. Gia tăng tranh chấp Biển Đông tác động đến hoà bình và ổn định khu vực 22
1.1.2.4. Những tiến triển mới trong Hợp tác Tiểu vùng Sông Mê Công 23
2.1.2.5. Sự điều chỉnh chính sách của Mỹ đối với khu vực Đông Nam Á và sự gia
tăng can dự của các nước lớn khác 26
1.2. Tình hình Trung Quốc và Campuchia 32
1.2.1. Tình hình Trung Quốc 32
1.2.2. Tình hình Campuchia 40
1. 3. Vị trí của Campuchia trong chiến lược phát triển của Trung Quốc 45
1.4. Tiểu kết chương 1 50

Chương 2: NHỮNG TIẾN TRIỂN TRONG QUAN HỆ CHÍNH TRỊ, KINH TẾ VÀ
AN NINH – QUỐC PHÒNG GIỮA HAI NƯỚC GIAI ĐOẠN 1991-
2011 51
2.1. Chính sách của Campuchia và Trung Quốc trong quan hệ song phương giữa hai
nước 51
2.1.1. Chính sách của Trung Quốc với Campuchia 51
2.1.2. Chính sách của Campuchia với Trung Quốc 54
2.2. Những tiến triển trong quan hệ chính trị ngoại giao giữa hai nước 57
2.2.1. Khái quát về quan hệ chính trị ngoại giao hai nước trước năm 1991 57
2.2.2. Thực trạng quan hệ chính trị ngoại giao giữa hai nước 1991-2011 59
2.3. Trung Quốc gia tăng quan hệ kinh tế thương mại, đầu tư và viện trợ đối với
Campuchia (1991-2011) 62
2.3.1. Khái quát quan hệ kinh tế hai nước trước năm 1991 62
2.3.2. Thực trạng quan hệ kinh tế hai nước từ năm 1991-2011 65
2.4. Quan hệ An ninh – Quốc phòng giữa hai nước 72
2.5. Tác động của mối quan hệ này đối với hai nước và khu vực 75
2.6. Tiểu kết chương 2 77


Chương 3: TRUNG QUỐC GIA TĂNG ẢNH HƯỞNG SỨC MẠNH MỀM Ở
CAMPUCHIA 79
3.1. Trung Quốc gia tăng các hoạt động giao lưu văn hóa – xã hội hai nước 79
3.2. Vai trò của cộng đồng người Hoa trong mối quan hệ Trung Quốc-Campuchia 83
3.3. Tiểu kết chương 3 91

KẾT LUẬN 92

TÀI LIỆU THAM KHẢO 96

PHỤ LỤC 103








DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ACFTA
Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN – Trung Quốc
ASEAN- China Free Trade Area
ADB
Ngân hàng Phát triển Á châu
Asia Development Bank
AFTA
Khu vực thương mại tự do ASEAN

ASEAN Free trade Area
AMM
Hội nghị Bộ trưởng ngoại giao ASEAN
ASEAN Ministerial Meeting
APEC
Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á- Thái Bình Dương
Asian – Pacific Economic Cooperation
ARF
Diễn đàn an ninh khu vực ASEAN
ASEAN Regional forum
ASEAN
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
Association of Southeast Asian Nations
ASEM
Diễn đàn hợp tác Á – Âu
Asia-Europe Meeting
CDC
Ủy ban phát triển Campuchia
The Council for the Development of Cambodia
CA - TBD
Châu Á – Thái Bình Dương
Asia - Pacific
CHND Trung Hoa
Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa (Trung Quốc)
People’s Republic of China
CIB
Ủy ban Đầu tư Campuchia
Cambodian Investment Board
COC
Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông

A South China Sea Code of Conduct
DOC
Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông

Declaration on Conduct of the Parties in the South China
Sea
FDI
Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Foreign Direct Investment
GDP

Tổng sản phẩm quốc nội
Gross Domistic Product
GMS
Tiểu vùng Sông Mê Công Mở rộng
Greater Mekong Subregion
IMF
Qũy tiền tệ quốc tế
International Monetary Fund
MGC
Hợp tác sông Mê Công – sông Hằng
Mekong–Ganga Cooperation
NICs
Các nước công nghiệp mới
New Industrial Countries
ODA
Viện trợ phát triển chính thức
Official Development Assistance
OECD
Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế

Organization for Economic Co-operation and Development
TPP
Hiệp định thương mại xuyên Thái Bình Dương
Trans-Pacific Strategic Economic Partnership Agreement
TTXVN
Thông tấn xã Việt Nam
USD
Đô la Mỹ
US Dollar
WB
Ngân hàng Thế giới
World Bank
WTO
Tổ chức Thương mại Thế giới
World Trade Organization
1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Hội nghị ASEAN – 45 kết thúc ở Campuchia ngày 04/04/2012 mà không có
tuyên bố chung, một điều chưa từng có trong tiền lệ của khối này, nhiều ý kiến cho
rằng năm 2012, Campuchia với tư cách là Chủ tịch luân phiên của ASEAN đã “bị
tác động bởi Trung Quốc” trong vấn đề nghị sự của Hội nghị ASEAN lần này, đặc
biệt là vấn đề liên quan đến tranh chấp Biển Đông ngày càng gia tăng giữa Trung
Quốc và một số nước Đông Nam Á. Trước khi Campuchia đứng ra tổ chức Hội
nghị thượng đỉnh ASEAN 20, Trung Quốc đã có hàng loạt chuyến thăm cấp cao tới
Campuchia với những cam kết gia tăng trong đầu tư, thương mại cũng như viện trợ
phát triển giữa hai bên. Những hành động mang tính “lấy lòng” Trung Quốc của
Campuchia trong hội nghị ASEAN lần này không thể chỉ lý giải bằng những sự

kiện trong năm 2012, mà phải nhìn nhận sự kiện này trong cả một tiến trình lịch sử
dài trong quan hệ hai nước, đặc biệt là từ năm 1991 tới nay.
Bên cạnh đó, Campuchia và Trung Quốc là hai nước láng giềng có những mối
quan hệ lịch sử hết sức chặt chẽ với Việt Nam. Việc nghiên cứu về hai quốc gia này
nói chung và quan hệ hai nước Trung Quốc – Campuchia nói riêng nhằm lý giải được
nhiều vấn đề học thuật quan trọng. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, trong quan hệ
giữa Việt Nam với Trung Quốc xung quanh vấn đề tranh chấp Biển Đông, cũng như
quan hệ Việt Nam với Campuchia có những biến số khó lường trước được. Cho nên,
việc nghiên cứu về cặp quan hệ Trung Quốc – Campuchia có tính cấp thiết cao.
Nghiên cứu về quan hệ Trung Quốc và Campuchia cũng đã được một số học
giả trong và ngoài nước quan tâm, song để có những nghiên cứu mang tính hệ thống
và toàn diện về mối quan hệ này, cũng như tác động của nó đến Việt Nam nói riêng
còn chưa nhiều. Trong khi đó nhu cầu tìm hiểu và nghiên cứu về các quốc gia láng
giềng cũng như mối quan hệ giữa các thực thể này với nhau ngày càng cao, nhất là
việc nghiên cứu cơ bản nhằm cung cấp những bằng chứng khoa học có tính hệ
thống cho các nhà hoạch định chính sách đối ngoại với các nước láng giềng.
2

Chính vì nghiên cứu mối quan hệ Trung Quốc – Campuchia vừa có giá trị
khoa học, thực tiễn và có tính cấp thiết, cho nên tôi đã lựa chọn đề tài cho luận văn
thạc sỹ của mình là: Quan hệ Trung Quốc – Campuchia từ năm 1991 đến năm 2011.

2. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung vào phân tích thực trạng mối
quan hệ Trung Quốc – Campuchia trong thời gian 20 năm (từ năm 1991 đến năm
2011), nhằm lý giải về bản chất và quá trình vận động của mối quan hệ hai nước
đến thời điểm trước khi Campuchia đảm nhiệm vai trò là Chủ tịch luân phiên
ASEAN năm 2012. Tuy nhiên, luận văn nhìn nhận mối quan hệ này chủ yếu đứng
từ góc độ phía Trung Quốc.
2.2. Phạm vi nghiên cứu:

- Thời gian nghiên cứu: Luận văn tập trung phân tích quan hệ hai nước từ
năm 1991, tức là thời gian ký kết Hiệp định Paris lập lại hoà bình cho Campuchia,
và thời điểm kết thúc là năm 2011, tức là thời gian trước khi Campuchia đảm nhiệm
vai trò Chủ tịch luân phiên ASEAN năm 2012, và cũng là thời gian đánh dấu bước
chuyển trong quan hệ hai nước với sự kiện, hai nước Campuchia – Trung Quốc
chính thức thiết lập Quan hệ Đối tác Hợp tác Chiến lược Toàn diện (ngày
13/12/2010), và ngay sau đó Campuchia với tư cách là Chủ tịch luân phiên ASEAN
2012 thể hiện ủng hộ Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông trong Hội nghị ASEAN
45 đã tác động đến vai trò trung tâm của ASEAN trong hợp tác quốc tế ở khu vực.
- Phạm vi không gian nghiên cứu: Luận văn tập trung chủ yếu và hai chủ thể
chính là Trung Quốc và Campuchia. Tuy nhiên, luận văn cũng luận giải những vấn
đề khác tác động đến quan hệ giữa hai chủ thể chính này, cũng như chịu tác động từ
những diễn biến quan hệ hai chủ thể này trong thời gian từ 1991-2011.
- Phạm vi vấn đề nghiên cứu: Đây là một đề tài rộng và phức tạp, luận văn
không có tham vọng đi sâu phân tích làm rõ được ngọn ngành của tất cả mọi vấn đề,
thay vào đó chủ yếu tập trung phân tích một số vấn đề cơ bản như: (i) Những nhân
tố tác động từ bối cảnh quốc tế, khu vực và tình hình mỗi nước, tới mối quan hệ
song phương Trung Quốc – Campchia; (ii) Phân tích khái quát cách nhìn nhận giữa
3

hai nước trong mối quan hệ song phương (iii) Đồng thời, làm rõ bức tranh quan hệ
giữa Trung Quốc với Campuchia trên các lĩnh vực chính trị - ngoại giao, kinh tế
thương mại, đầu tư và viện trợ, an ninh – quốc phòng, và sự gia tăng ảnh hưởng
mềm của Trung Quốc tới Campuchia.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu
- Làm rõ những tiến triển trong quan hệ hai nước trên các phương diện như
chính trị - ngoại giao; kinh tế thương mại, đầu tư và viện trợ; an ninh quốc phòng;
giao lưu văn hoá xã hội, v.v.;

- Luận giải bản chất mối quan hệ “bất đối xứng” có tính chất “đồng minh”
trong thời gian 20 năm (1991-2011) để có thể hiểu được những diễn biến mới trong
quan hệ hai nước trong giai đoạn hiện nay, thậm chí là đặt cơ sở cho đánh giá được
xu thế vận động trong tương lai.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận văn đi vào phân tích làm rõ yếu tố quốc tế, khu vực, cũng như hai
nước Campuchia và Trung Quốc có tác động đến mối quan hệ song phương này,
nhất là tìm hiểu xem lợi ích chiến lược của hai nước như thế nào để hai nước quyết
định ngày càng thắt chặt quan hệ.
- Đồng thời, luận văn khái quát mối quan hệ song phương giữa hai nước
trong thời gian trước năm 1991.
- Bên cạnh đó, luận văn đi vào phân tích thực trạng trong quan hệ song
phương hai nước trên các lĩnh vực cụ thể như: chính trị ngoại giao, kinh tế thương
mại đầu tư và du lịch, hợp tác quân sự;
- Mặt khác, luận văn cũng đi vào phân tích quá trình Trung Quốc gia tăng
các lĩnh vực trong sức mạnh mềm khác đối với Campuchia;
- Luận văn rút ra những đặc điểm, tính chất của mối quan hệ Trung Quốc –
Campuchia, cũng như phân tích để có cơ sở khoa học cho việc đánh giá tác động
mối quan hệ này đối với sự phát triển mỗi nước cũng như với sự phát triền, hoà bình
4

và ổn định ở khu vực. Qua đó, nhìn nhận, đánh giá về xu hướng vận động của mối
quan hệ này trong giai đoạn sau.

4. Tình hình nghiên cứu
4.1. Trong nước: Những nghiên cứu trong nước liên quan đến quan hệ Trung
Quốc và Campuchia cũng đạt được một số thành tựu nhất định, trong đó phải kể
đến một số công trình tiêu biểu như:
Trước hết, công trình nghiên cứu “Những tiến triển trong quan hệ của Trung
Quốc-Campuchia từ năm 1991 đến nay” của tác giả Dương Văn Huy đăng tải trên

Tạp chí Nghiên cứu Quốc tế, số 3 năm 2013. Đây là công trình nghiên liên quan
trực tiếp đến luận văn, và nghiên cứu này cũng đã đánh giá và khái quát được những
nét cơ bản của mối quan hệ giữa hai nước từ năm 1991 cho đến nay. Trong công
trình này, tác giả đã chỉ ra rằng Trung Quốc ngày càng gia tăng ảnh hưởng mạnh mẽ
đối với Campuchia với chiến lược “ngoại giao kinh tế và quà tặng” nhằm đổi lấy sự
ủng hộ của Campuchia về mặt chính trị - ngoại giao.
Bên cạnh đó, tác giả Dương Văn Huy cũng công bố một nghiên cứu quan
trọng khác mang tên “Sự thay đổi vị thế người Hoa ở Campuchia từ sau năm 1991”
đăng tải trên Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á (số 1/2013). Đây là nghiên cứu quan
trọng và tương đối toàn diện về bức tranh người Hoa ở Campuchia với tư cách là
một lực lượng kinh tế quan trọng ở quốc gia Đông Nam Á này, cũng như vai trò của
họ trong việc tạo ra “cầu nối” giúp Trung Quốc thúc đẩy việc gia tăng ảnh hưởng
mềm đối với Campuchia.
Đồng thời, tác giả Dương Văn Huy còn công bố một nghiên cứu khác liên
quan đến đề tài luận văn đó là công trình “Một số vấn đề trong cạnh tranh chiến
lược Trung – Mỹ ở Campuchia” trên Tạp chí Sự kiện & Nhân vật, Tổng cục V- Bộ
Công an, trong đó có phân tích về tương tác quyền lực giữa Trung Quốc và Mỹ
trong việc cạnh tranh ảnh hưởng đổi với Campuchia.
Ngoài ra, tác giả Nguyễn Văn Hà cũng công bố công trình, “Quan hệ
Campuchia – Trung Quốc trong tương quan với các nước lớn”, Tạp chí Đông Nam
5

Á, số 10/2010. Tác giả Both Sreng với luận văn thạc sỹ của mình có tiêu đề: “Quan
hệ Campuchia- Trung Quốc từ 1993 đến nay”, Học viện Ngoại giao năm 2011 cũng
đã khái quát được mối quan hệ Campuchia với Trung Quốc từ góc nhìn của
Campuchia.
4.2. Ngoài nước: Các học giả quốc tế cũng đã đạt được một số thành tựu nhất
định trong nghiên cứu về chiến lược Trung Quốc đối với Đông Nam Á nói chung và
nhất là quan hệ Trung Quốc – Campuchia. Trước hết chúng ta nên kể đến công trình
Tam giác Trung Quốc- Campuchia- Việt Nam của tác giả Uyn-phrết Bớc- sét

1
, được
nhà xuất bản Thông tin Lý luận phát hành bằng tiếng Việt năm 1986. Công trình
này của Uyn-phrết Bớc- sét cung cấp được nhiều tư liệu có thể giúp ta vẽ nên một
bức tranh khá đầy đủ vê cuộc sống của nhân dân Campuchia dưới thời Pol Pot -
Ieng Xary. Đồng thời cuốn sách cũng làm rõ phần nào thái độ của Việt Nam đối lập
hẳn với thái độ của Trung Quốc đối với sự sống còn của nhân dân Campuchia.
Tác giả Lim Sovanara cũng đã có bài phân tích về quan hệ giữa Trung Quốc
và Campuchia: China-Cambodia: Unique Development Partnership? Current and
Future Prospects, trong ASEAN-China Trade Relations: 15 Years of Development
and Prospects, Center for ASEAN and China Studies, Vietnam Academy of Cocial
Aciences (2007), bài viết cũng đã phân tích những thành tựu quan hệ kinh tế giữa
hai nước cũng như triển vọng hai bên.
Tác giả Sigfrido Burgos và Sophal Ear cũng đã cho công bố công trình
nghiên cứu của mình China’s Strategic Interests in Cambodia: Influence and
Resources trên Asian Survey, số 3 (50), tháng 5 và 6 năm 2010. Công trình này đã
phân tích những lợi ích chiến lược của Trung Quốc và sự gia tăng ảnh hưởng của
mình tại Campuchia qua các giai đoạn. Đồng thời, Marks Paul cũng đã phân tích
thêm chiến lược của Trung Quốc ở Campuchia qua công trình của mình: China's
Cambodia Strategy (Parameters: U.S. Army War College; Autumn2000, Vol. 30
Issue 3).

1
Cuốn sách này với tên tiếng Anh đầy đủ là: Wilfred G. Burchett (1981), The China-Cambodia-Vietnam
Triangle, Vanguard Books.
6

Có thể nói rằng, các học giả trong và ngoài nước rất quan tâm đến mối quan
hệ Trung Quốc – Campuchia và đã đạt được một số thành tựu nghiên cứu về mối
quan hệ này. Tuy nhiên, vẫn thiếu vắng những nghiên cứu mang tính hệ thống và

toàn diện trong mối quan hệ này nhìn từ góc độ Trung Quốc – quốc gia đang gia
tăng ảnh hưởng một cách mạnh mẽ đối với Campuchia trong giai đoạn hiện nay.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận: Trên cơ sở nền tảng hướng tiếp cận từ phương pháp lịch
sử, nhiều phương pháp nghiên cứu liên ngành và đa ngành cũng được vận dụng một
cách linh hoạt. Đồng thời, luận văn dựa trên phương pháp luận sử học Mác-xít, tư
tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc nghiên
cứu về lịch sử quan hệ quốc tế, nhất là về sự tương tác quyền lực giữa các nước
trong lịch sử.
5.2. Phương pháp nghiên cứu cụ thể:
- Phương pháp tư liệu: Luận văn thực hiện phương pháp thu thập, tổng hợp,
phân tích đánh giá hệ thống hoá tư liệu. Công tác phê phán sử liệu được áp dụng
một cách triệt để và linh hoạt.
- Phương pháp chuyên gia: Tác giả luận văn sử dụng các phương pháp trao
đổi, phỏng vấn khai thác thông tin từ những chuyên gia nghiên cứu về lịch sử quan
hệ quốc tế khu vực Đông Á, đặc biệt là nghiên cứu về Trung Quốc và Campuchia.
- Hình thành khung phân tích cho luận văn.

6. Nguồn tài liệu sử dụng
- Ngoài việc nghiên cứu các tài liệu đã xuất bản bằng sách, tạp chí, báo viết
thông thường trong và ngoài nước, chúng tôi còn tiếp cận, khảo sát, cập nhật thông
tin, bài nghiên cứu được xuất bản dưới dạng sách và tạp chí, các bài viết trên các
hãng thông tin trong và ngoài nước, trong đó có bản tin Thông tấn xã Việt Nam, v.v.
- Chúng tôi cố gắng khai thác những tư liệu từ tiếng Trung Quốc đặc biệt là
qua Phòng Tham tán kinh tế Trung Quốc tại Campuchia. Những công trình nghiên
7

cứu của các học giả Trung Quốc, cùng với những website khác chính thức của
Trung Quốc, cũng như của cộng đồng người Hoa ở Campuchia, v.v.


7. Ý nghĩa khoa học và những đóng góp của luận văn
7.1. Ý nghĩa khoa học của luận văn:
- Mặc dù chỉ giới hạn trong phạm vi của một luận văn thạc sỹ khoa học,
nhưng luận văn cũng đã trình bày tương đối hệ thống về bức tranh quan hệ Trung
Quốc và Campuchia trong vòng 20 năm (từ 1991 đến 2011) nhằm cung cấp cái nhìn
toàn diện về mối quan hệ của mối quan hệ của hai quốc gia láng giềng của Việt
Nam. Từ đó chúng ta có thể hiểu rõ hơn về bản chất của những mối quan hệ quốc tế
xung quanh mà có tác động trực tiếp đến Việt Nam. Nhất trong lịch sử nhiều lần
Trung Quốc và Campuchia có những cái “bắt tay” tạo ra nhiều thách thức đối với
Việt Nam, và nhằm lý giải lý do tại sao năm 2012 với tư cách là Chủ tịch luân phiên
của ASEAN, Campuchia lại công khai ủng hộ Trung Quốc trong vấn đề Biển Đông.
Chúng tôi đã cố gắng lý giải bằng cái nhìn biện chứng của mối quan hệ giữa hai
nước này được xây đắp, củng cố trong cả một quá trình dài (20 năm cho một hành
động). Từ đó, chúng ta cũng có thể nhìn nhận được xu thế vận động của mối quan
hệ này trong tương lai.
- Luận văn làm rõ thực chất của mối quan hệ giữa Trung Quốc và
Campuchia trên các phương diện, từ đó nhằm nhận diện chiến lược của Trung Quốc
đối với khu vực nói chung và Việt Nam nói riêng thông qua nhân tố Campuchia.
Qua việc phân tích các nội dung nêu trên, luận văn mong muốn làm rõ hệ luỵ mối
quan hệ này đối với bản thân mỗi nước Trung Quốc, Campuchia và những tác động
đối với Việt Nam và khu vực.
7.2. Những đóng góp của luận văn:
- Luận văn cung cấp nguồn tư liệu có tính hệ thống cho công tác giảng dạy
và nghiên cứu về quan hệ quốc tế khu vực nói chung và Trung Quốc và Campuchia
nói riêng.
- Luận văn cung cấp một số luận điểm khoa học cho những nhà hoạch định
chính sách có thêm cơ sở trong việc ứng xử với việc gia tăng quan hệ của hai nước
láng giềng của Việt Nam.
8


8. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn được chia làm ba chương như sau:
Chương 1: Những nhân tố chủ yếu tác động đến quan hệ Trung Quốc -
Campuchia
Chương 2: Những tiến triển trong quan hệ kinh tế và chính trị hai nước,
1991-2011
Chương 3: Trung Quốc gia tăng ảnh hưởng sức mạnh mềm ở Campuchia.
9

Chƣơng 1:
NHỮNG NHÂN TỐ CHỦ YẾU TÁC ĐỘNG ĐẾN QUAN HỆ TRUNG QUỐC
- CAMPUCHIA

1.1. Bối cảnh quốc tế và khu vực
1.1.1. Thế giới sau Chiến tranh Lạnh
Chiến tranh lạnh kết thúc, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu
sụp đổ, trật tự thế giới hai cực đối đầu tồn tại ngót nửa thế kỷ kết thúc nhường chỗ
cho sự hình thành trật tự thế giới mới. Quan hệ giữa các quốc gia- dân tộc không
còn bị chi phối nặng nề bởi ý thức hệ, thay vào đó là lợi ích dân tộc được đặt lên
hàng đầu. Hiện tượng “nhất siêu, đa cường” đang trở thành xu thế tất yếu trong sự
phát triển của thế giới đương đại. Sự vươn lên mạnh mẽ của Mỹ, Nga, Trung Quốc,
Ấn Độ, Nhật Bản, EU, v.v. trong đó, Mỹ nổi lên là siêu cường duy nhất với ưu thế
vượt trội về sức mạnh trên mọi lĩnh vực đang cố gắng chi phối mọi hoạt động của
thế giới. Mục tiêu đó của Mỹ lại vấp phải sự cản trở to lớn khi các cường quốc trên
thế giới đang không ngừng gia tăng về sức mạnh, đó là sự trỗi dậy của Trung Quốc,
sự vươn lên của Nhật Bản, Nga hay Ấn Độ, v.v.
Trên thế giới, nền hòa bình và an ninh được củng cố. Hòa bình, ổn định, hợp
tác cùng phát triển trở thành xu thế chính trong quan hệ quốc tế nhưng môi trường
an ninh quốc tế vẫn không tránh khỏi những bấp bênh. Những cuộc chiến tranh

“nóng” với quy mô lớn khó xảy ra, nhưng những xung đột, tranh chấp giữa các
quốc gia, dân tộc, sắc tộc, tôn giáo mang tính khu vực cũng không hề lắng xuống.
Vấn đề Ban-căng, Triều Tiên, vấn đề tranh chấp trên Biển Đông, v.v. đang là những
điểm nóng gây rạn nứt và căng thẳng trong quan hệ quốc tế.
Nếu như trong Chiến tranh lạnh, các cuộc chạy đua vũ trang đã làm cho cả
Liên Xô và Mỹ đều suy giảm về sức mạnh thì lấy trọng tâm là phát triển kinh tế -
thúc đẩy nội lực đã đem lại sức mạnh bền vững cho nhiều quốc gia khác trên thế
giới, trường hợp của Nhật Bản, EU, NICs, v.v. là những điển hình. Ngày nay, sự
hưng thịnh hay suy vong của một quốc gia được quyết định bởi sức mạnh tổng hợp
10

của quốc gia đó, mà chủ yếu là thực lực kinh tế và khoa học – kỹ thuật. Cho nên, ra
sức điều chỉnh chiến lược phát triển và tập trung các nguồn lực phát triển kinh tế là
ưu tiên hàng đầu của tất cả các nước sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc.
Trong thế kỷ mới, phát triển kinh tế không những là mối quan tâm hàng đầu
của mỗi quốc gia mà nó còn trở thành trọng điểm trong quan hệ quốc tế. Nó là nhân
tố quyết định sự cạnh tranh sức mạnh tổng hợp của các quốc gia thay cho các cuộc
chạy đua vũ trang thời kỳ trước Chiến tranh lạnh. Những suy tính trong quan hệ đối
ngoại đã chuyển dần từ ưu tiên địa – chính trị sang ưu tiên về địa - kinh tế. Các
nước ngày càng nhận thức sâu sắc rằng, sức mạnh của mỗi quốc gia là một nền sản
xuất phồn vinh, một nền tài chính ổn định và lành mạnh bên cạnh một nền công
nghệ có trình độ cao – đó mới là cơ sở để xây dựng một sức mạnh thực sự bền vững.
Cuộc chạy đua phát triển kinh tế khiến các nước, nhất là các nước đang phát triển
thấy cần hơn hết phải đổi mới tư duy đối ngoại, thực hiện chính sách đa phương hóa,
đa dạng hóa quan hệ quốc tế; mở rộng và tăng cường liên kết, hợp tác với các nước
phát triển nhằm tranh thủ, tận dụng nguồn vốn, khoa học kĩ thuật, kinh nghiệm tổ
chức và mở rộng thị trường.
Bước sang thế kỷ XXI, toàn cầu hóa đang trở thành xu thế phát triển tất yếu
của nhân loại. Sự phát triển mạnh mẽ của quá trình này đã tác động sâu sắc đến mọi
lĩnh vực của đời sống quốc tế. Nó là lực lượng tiên phong phá tan các rào cản biên

giới quốc gia, khu vực, đưa các dân tộc xích lại gần nhau hơn. Toàn cầu hóa làm
cho thị trường được mở rộng, hàng hóa phong phú, cán cân thương mại tăng nhanh,
các nước đều có cơ hội tận hưởng thành quả của cuộc cách mạng khoa học – công
nghệ,v.v. Từ đó, nâng cao hiểu biết giữa các quốc gia tiến tới xây dựng một thế giới
hòa bình cùng phát triển. Tuy nhiên, toàn cầu hóa cũng mang lại không ít những tác
động tiêu cực khi mà các nước phát triển dựa vào tiềm lực kinh tế đang cố gắng
thực hiện việc thao túng nền kinh tế thế giới, đồng thời tạo nên sự bất bình đẳng
trong quan hệ quốc tế, hay tạo cho hố sâu ngăn cách giàu nghèo giữa các nước càng
thêm rõ rệt.
11

Toàn cầu hóa diễn ra càng nhanh thì nhu cầu sử dụng tài nguyên của con
người ngày càng lớn làm cho việc khai thác tài nguyên cũng trở nên bừa bãi đã dẫn
tới sự hủy hoại môi trường sống và sự mất cân bằng sinh thái ở khắp nơi trên thế giới,
nhất là ở các nước đang phát triển. Kết quả là các dịch bệnh mới, các thảm họa thiên
nhiên xuất hiện ngày càng nhiều. Những thảm họa đó không chỉ tác động vào một vài
quốc gia đơn lẻ mà đôi khi nó còn ảnh hưởng tới nhiều quốc gia, nhiều khu vực.
Như vậy, có thể thấy rằng: xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển đang trở
thành xu thế chủ đạo trong quan hệ quốc tế khi mà toàn cầu hóa đang đi vào từng
ngõ ngách của đời sống. Nguy cơ của cuộc chiến tranh thế giới bị đẩy lùi nhưng ở
nhiều khu vực hòa bình vẫn luôn bị đe dọa, tranh chấp, xung đột vẫn diễn ra triền
miên. Những tranh chấp mang tính khu vực cũng làm cho nhiều người lo ngại về
những cuộc chiến tranh trên một qui mô mới như: vấn đề Trung Đông, Đài Loan,
Triều Tiên hay vấn đề Biển Đông. Các vấn đề quốc tế cũng không ngừng gia tăng:
tệ nạn, dịch bệnh hay sự đe dọa của chủ nghĩa khủng bố cũng đang làm cho đời
sống của con người kém an toàn hơn. Sự kiện ngày 11/09/2001 như lời tuyên chiến
của chủ nghĩa khủng bố với nền hòa bình thế giới. Ngọn cờ chống khủng bố như
một công cụ được nhiều nước sử dụng với các mục đích khác nhau. Nếu để liên kết
nhau lại thì chí ít nó cũng là một trong các nhân tố làm cho quan hệ giữa một số
nước lớn vốn căng thẳng trở nên hòa dịu hơn, nhưng ngược lại, nó lại là “cái cớ”

cho các cuộc “thôn tính” lẫn nhau trở nên gay gắt và quyết liệt hơn, cuộc chiến ở
Iraq, Afghanistan là những điển hình. Có người còn tỏ ra bi quan cho rằng đây là
“thời kỳ hỗn loạn”, “thế giới ngày nay bạo loạn bùng nổ, cắt không đứt, dẹp vẫn
loạn”. Bởi: xiềng xích của cuộc xung đột Đông – Tây đã mất đi, chỉ còn lại những
lợi ích dân tộc đấu tranh với nhau. Có một nhà ngoại giao của thế kỷ trước đã nói:
không có đồng minh vĩnh viễn, không có kẻ thù vĩnh viễn mà chi có lợi ích dân tộc
là vĩnh viễn.
Vì vậy, trước những diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế, các nước phải
ra sức điều chỉnh chính sách phát triển khoa học, hiện đại phù hợp với tình hình mới.
Trong đó, sự điều chỉnh quan hệ đối ngoại theo chiều hướng xây dựng quan hệ bạn
12

bè là chiến lược ổn định và cân bằng về lâu dài trở thành những ưu tiên hàng đầu.
Sự điều chỉnh ấy to lớn và sâu sắc, xuất phát từ lợi ích chiến lược căn bản của mỗi
quốc gia, đặc biệt, sự kìm chế, tìm kiếm các xu hướng giải quyết hòa bình, đối thoại,
thỏa hiệp và tránh những xung đột vũ trang là nhân tố quan trọng tạo nên xu thế hòa
bình – ổn định - hợp tác cùng phát triển của thế giới ngày nay.

1.1.2. Tình hình khu vực
1.1.2.1. Những nét chính của tình hình khu vực Đông Nam Á
Khu vực Đông Nam Á - một bộ phận không thể tách rời của Châu Á - Thái
Bình Dương đã từ lâu trở thành địa bàn chiến lược trọng yếu, nơi tranh chấp ảnh
hưởng của các nền văn hóa - văn minh, các cực quyền và nước lớn trên thế giới.
Khoảng một thập niên trở lại đây, cùng với sự kết thúc chiến tranh lạnh, sự gia tăng
của toàn cầu hóa kinh tế và bùng nổ của công nghệ thông tin đã tác động sâu sắc
đến cục diện thế giới nói chung, đến môi trường địa - chính trị Đông Nam Á nói
riêng, làm cho tổ chức ASEAN và các nước thành viên trong khu vực này trở nên
nhạy cảm hơn và dễ bị tổn thương bởi tác động của các quá trình quốc tế. Đây là
những vấn đề hết sức hệ trọng, cần được nghiên cứu, bàn bạc kỹ lưỡng và có hệ
thống. Bài viết này chỉ dừng lại mức độ đặt vấn đề và đưa ra một vài bình luận và

nhận xét ban đầu về vị thế địa - chính trị Đông Nam Á nói chung, vai trò của tổ
chức ASEAN và các nước thành viên nói riêng trong bàn cờ địa - chính trị thế giới
thập niên đầu thế kỷ XXI.
Khu vực Đông Nam Á hiện nay bao gồm tất cả lãnh thổ của 10 nước thành
viên ASEAN với diện tích gần 4,5 triệu km
2
, dân số gần 600 triệu người và trên 700
tỉ USD tổng thu nhập quốc dân. Xét về nguồn tài nguyên thiên nhiên, thì Đông Nam
Á rất giàu có và đa dạng. Sản phẩm cao su tự nhiên, dầu cọ, dầu dừa, gạo là một
trong những mặt hàng nông nghiệp được ưa chuộng trên thế giới. Xuất khẩu cao su
của ba nước Đông Nam Á là Thái Lan, Indonesia và Malaysia hiện nay chiếm
khoảng 50% sản lượng cao su tự nhiên của thế giới. Trong số 3 nước xuất khẩu gạo
lớn nhất thế giới trong thập niên gần đây, thì Đông Nam Á có 2 nước là Thái Lan và
Việt Nam (Mỹ đứng thứ nhất). Đông Nam Á còn là nơi giàu có về khoáng sản.
13

Indonesia và Brunei có sản lượng khai thác dầu mỏ, khí đốt vào hàng lớn trên thế
giới. Việt Nam những năm gần đây cũng đang vươn lên giành quy chế nước xuất
khẩu dầu quan trọng của khu vực. Malaysia và Thái Lan là những nước đứng đầu
thế giới về khai thác thiếc. Chính sự giàu có và đa dạng về tài nguyên thiên nhiên
này làm cho Đông Nam Á từ thời thượng cổ, đặc biệt là trong lịch sử cận hiện đại
trở thành đối tượng hấp dẫn của các nhà buôn người Ả Rập, Ấn Độ, Trung Quốc và
sau này của phương Tây và Nhật Bản trong việc mở rộng các mối quan hệ thương
mại của mình.
Đứng trên góc độ địa-chiến lược thì Đông Nam Á nằm ở khu vực thuận lợi
trên con đường thông thương và phòng thủ quốc tế. Nằm ở ngã ba châu Á, án ngữ
trên con đường hàng hải thuận tiện nhất từ Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương,
giữa Đông Bắc Á và Nam Thái Bình Dương. Khoảng hai thập niên trở lại đây,
Đông Nam Á trở thành cầu hàng không nối các chuyến bay từ Đông Bắc Á, Bắc Mỹ
sang nhiều nước Tây Nam Á, Trung Đông-Bắc Phi và Trung-Đông Âu.

Bởi nằm ở vị trí địa lý chiến lược trọng yếu, nơi nối liền các mạch máu giao
thông giữa các châu lục và đại dương và nơi giàu có về tài nguyên thiên nhiên, nên
từ thời Trung cổ, Đông Nam Á đã trở thành nơi tranh giành ảnh hưởng giữa nền văn
hóa Ấn Độ và Trung Hoa (từ đầu công nguyên) và sau đó là nền văn hóa Ả Rập -
Ba Tư (từ thế kỷ XIV). Các tôn giáo chính của thế giới lúc đó là Hinđu giáo, Khổng
giáo và Hồi giáo đã xâm nhập sâu rộng, thiết lập được vị trí vững bền và dần dần trở
thành một phần của lối sống văn hóa của các dân tộc Đông Nam Á.
Trong Chiến tranh lạnh, Đông Nam Á là nơi tập trung cao độ các mâu thuẫn
của trục tam giác chiến lược Mỹ-Xô-Trung và là điểm nóng gay gắt nhất trong cuộc
đối đầu giữa hai cực Liên Xô và Mỹ. Kết quả là làm cho Đông Nam Á chia thành
hai chiến tuyến đối lập, thù địch nhau, một bên là ba nước Đông Dương (gồm Việt
Nam, Lào và Campuchia) theo xu hướng xã hội chủ nghĩa và bên kia là các nước
ASEAN cũ (Thái Lan, Malaysia, Singapore, Indonesia, Philippines và Brunei) phát
triển theo con đường tư bản chủ nghĩa, tiền đồn ngăn chặn chủ nghĩa xã hội lan tràn
xuống phương Nam. Nhờ có “chất kết dính của Chiến tranh Lạnh” mà các nước
14

ASEAN ban đầu đã nhận được sự hỗ trợ đắc lực từ phía các nước tư bản phát triển,
đặc biệt là Mỹ và Nhật Bản. Để thi đua với xã hội chủ nghĩa, các nước tư bản công
nghiệp đã đầu tư một lượng tư bản lớn và chuyển giao công nghệ mới cho các nước
ASEAN. Kết quả là nền kinh tế các nước này trong thập niên 70-80 phát triển
nhanh và hội nhập tương đối có hiệu quả vào hệ thống kinh tế tư bản chủ nghĩa. Sự
gắn kết của các nước ASEAN với hệ thống tư bản chủ nghĩa đã góp phần quan
trọng tạo nên tiền đề vật chất cũng như cơ sở pháp lý thúc đẩy hợp tác nội bộ
ASEAN đi vào nấc thang mới là liên kết kinh tế, làm cho tổ chức này từ đầu thập
niên 90 trở thành một thực thể kinh tế-chính trị tương đối thống nhất, có uy tín
trong hệ thống quan hệ quốc tế.
Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, Đông Nam Á trở thành nơi hội tụ của
những nỗ lực hợp tác giữa các nước trong và ngoài khu vực. ASEAN đã đưa ra
hàng loạt sáng kiến mới nhằm thích ứng với sự gia tăng của toàn cầu hóa và thay

đổi quyền lực trên thế giới. Sự phát triển năng động và có hiệu quả của các nước
ASEAN ở cuối những năm 80, nửa đầu những năm 90 cùng với sự ra đời các cơ chế
hợp tác mới như thành lập Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và Diễn đàn
An ninh Khu vực ASEAN (ARF) vào năm 1994 cũng như bước đột phá kết nạp
Việt Nam vào tổ chức này vào năm 1995 đã biến ASEAN tiến tới gần như “một
trung tâm quyền lực mới” ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Nếu như trong
chiến tranh lạnh ở khu vực này (CA-TBD) có 4 cực là Mỹ-Xô-Nhật-Trung chi phối,
thì sang thập niên 90 có 5 cực là Mỹ-Trung-Nhật-Nga và ASEAN. Sự xuất hiện cực
mới ASEAN là một trong những nhân tố tích cực thúc đẩy xu hướng đa cực hóa,
góp phần củng cố an ninh và thúc đẩy hợp tác kinh tế khu vực và quốc tế.
Bước vào thập niên đầu của thế kỷ XXI thì khu vực Đông Nam Á nói chung,
ASEAN nói riêng đang đứng trước những vận hội và thách thức đan xen trên con
đường tiếp tục khẳng định mình. Cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ 1997-1998 đã
gây ảnh hưởng kép về kinh tế và chính trị đối với tổ chức và các nước ASEAN nói
chung. Cuộc khủng hoảng đã làm yếu đi sức mạnh kinh tế, gây ra sự bất ổn chính trị
nội bộ và làm chậm trễ các chương trình liên kết của ASEAN. Sự yếu kém trong
15

việc giải quyết các vấn đề kinh tế của mình cũng với sự gia tăng xung đột sắc tộc -
tôn giáo, chủ nghĩa ly khai, chủ nghĩa khủng bố và khủng hoảng thế hệ lãnh đạo, hệ
thống chính trị - quyền lực ở nhiều nước ASEAN đã làm suy giảm phần nào uy tín
và sức mạnh của Hiệp hội trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương và trên trường
quốc tế nói chung. Mặc dầu vậy, vị trí địa chiến lược của Đông Nam Á nói chung,
vai trò của tổ chức ASEAN nói riêng trong cán cân ảnh hưởng và quyền lực của các
nước lớn, của các phe phái, cực quyền và khu vực không hề suy giảm.
Với việc kết nạp Campuchia, nước cuối cùng của Đông Nam Á vào ASEAN
năm 1999 làm cho tổ chức này bước vào thế kỷ XXI với sức mạnh tổng hợp của
hơn 500 triệu dân và trên 700 tỉ USD thu nhập quốc dân. Với thị trường đầy tiềm
năng (tài nguyên thiên nhiên giàu có và đa dạng, nhân công dồi dào và cần cù lao
động, chính phủ và dân chúng khát khao vươn lên cải tạo đói nghèo và cùng chia sẻ

chung về những giá trị văn hóa truyền thống, thân phận lịch sử, quyền lợi và trách
nhiệm v.v ), những bài học thành công cũng như thất bại trong quá khứ cùng với
những cơ chế mới đã và đang được tạo ra trong từng nước và cả tổ chức (như đổi
mới chính sách kinh tế vĩ mô, thúc đẩy dân chủ hóa xã hội, thiết lập các cơ chế, thể
chế hợp tác mới song phương, đa phương v.v ) thì có thể tin tưởng rằng nền kinh
tế các nước ASEAN sẽ lấy lại được đà tăng trưởng cao trong những năm sắp tới.
Khi kinh tế tăng trưởng trở lại thì các nỗ lực hợp tác và liên kết nội khối, mà điển
hình là thực hiện AFTA sẽ diễn ra suôn sẻ, và môi trường chính trị - xã hội và đoàn
kết của Hiệp hội nói chung, không chỉ bình ổn trở lại, mà còn được củng cố hơn lên.
Và như vậy, ASEAN và các nước thành viên của nó sẽ có tiếng nói quan trọng hơn
và đóng góp nhiều hơn trong việc thúc đẩy hợp tác kinh tế và gìn giữ an ninh ở khu
vực châu Á - Thái Bình Dương và trên thế giới.

1.1.2.2. Quan hệ Trung Quốc – ASEAN có những tiến triển mạnh mẽ
Trong lĩnh vực chính trị - ngoại giao: Thập niên 1990, Trung Quốc đã thiết
lập quan hệ ngoại giao chính thức với ASEAN, một tổ chức có uy tín trong khu vực
với 10 nước thành viên. Sau đó, quan hệ song phương của Trung Quốc với các nước
thành viên ASEAN cũng dần được hâm nóng. Trung Quốc vô cùng coi trọng việc
16

phát triển mối quan hệ hợp tác, hữu nghị với các nước Đông Nam Á. Nhiều nhà
lãnh đạo của Trung Quốc đã đến thăm 10 nước thành viên ASEAN
2
, khẳng định sự
coi trọng của Trung Quốc đối với ASEAN. Hơn nữa, trong các cuộc viếng thăm,
lãnh đạo Trung Quốc đều đưa ra các đề nghị làm sâu sắc, mở rộng hơn nữa hợp tác
song phương.
Một thời gian dài trước đây, Trung Quốc chỉ chú trọng đến phát triển mối
quan hệ song phương với từng quốc gia riêng biệt tại Đông Nam Á. Thời gian gần
đây, sự phát triển của nền kinh tế cũng như sức mạnh quốc gia của Trung Quốc đã

giúp nước này có thêm sự tự tin trên các diễn đàn khu vực và thế giới. Với những
nỗ lực không mệt mỏi của chính mình trong việc hợp tác với khối ASEAN, quan hệ
hợp tác giữa Trung Quốc và ASEAN ngày càng rộng mở và sâu sắc. Từ thập niên
1990, Trung Quốc xác định việc phát triển mối quan hệ hữu nghị với ASEAN là
một chiến lược mang tính tổng hợp. Năm 1991, Trung Quốc trở thành đối tác
thương lượng của ASEAN, năm 1996, Trung Quốc được nâng cấp trở thành đối tác
đối thoại toàn diện của ASEAN. Hội nghị cấp cao lần thứ nhất giữa Trung Quốc và
ASEAN được tổ chức vào năm 1997, thể hiện sự coi trọng của lãnh đạo các bên
trong việc phát triển mối quan hệ hợp tác này. Tháng 12/1997, Chủ tịch Trung Quốc
Giang Trạch Dân tham gia vào hội nghị cấp cao không chính thức giữa ASEAN với
ba nước Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc, đồng thời hội đàm với lãnh đạo các
nước thành viên khác của ASEAN. Sau đó, hai bên đã ra “Tuyên bố chung hội nghị
cấp cao Trung Quốc - ASEAN”, xác định nguyên tắc, phương hướng, đường lối chỉ
đạo trong việc Trung Quốc và ASEAN xây dựng mối quan hệ đối tác tin cậy lẫn
nhau, hợp tác hữu nghị trong thế kỷ XXI. Năm 2003, lãnh đạo ASEAN và Trung
Quốc cùng ra tuyên bố chung về việc thiết lập mối quan hệ đối tác chiến lược, nâng
quan hệ Trung Quốc – ASEAN lên một tầm cao mới. Hiện nay, phạm vi hợp tác
giữa Trung Quốc và ASEAN có liên quan đến 27 lĩnh vực, trong đó có sáu lĩnh vực
được Hội nghị Bộ trưởng các nước ASEAN trực tiếp chỉ đạo. Trung Quốc đã trở

2
Chủ tịch Hồ Cẩm Đào đến thăm Thái Lan, Brunei, Indonesia, Philippines; Chủ tịch Quốc hội Ngô Bang
Quốc đến thăm Singapore, Malaysia; Thủ tướng Ôn Gia Bảo đến thăm Việt Nam, Lào; Phó Thủ tướng Ngô
Nghi đến thăm Campuchia, Myanmar.
17

thành một lực lượng chủ yếu trong việc thúc đẩy sự phát triển của mối quan hệ giữa
Trung Quốc và ASEAN
3
, mọi đề nghị của Trung Quốc trên các lĩnh vực đều được

ASEAN chấp nhận. Tuy nhiên, riêng trên lĩnh vực an ninh chính trị, các quốc gia
ASEAN vẫn giừ thái độ cẩn trọng (như đối thoại chiến lược cấp ngoại trưởng giữa
Trung Quốc và ASEAN) với quốc gia đang trỗi dậy mạnh mẽ này.
Hiểu rõ thại độ cẩn trọng của ASEAN nên các nhà lãnh đạo Trung Quốc
không ngừng tìm kiếm và khơi thông những kênh phát triển mối quan hệ với tổ
chức này. Năm 2003, Trung Quốc đã trở thành quốc gia đầu tiên ở ngoài Đông Nam
Á ký kết Hiệp ước Hợp tác hữu nghị (TAC) với ASEAN. Công ước này yêu cầu các
bên tham gia từ bỏ ý định đe dọa vũ lực, nỗ lực giải quyết các tranh chấp bằng con
đường hòa bình. Những động thái của Trung Quốc đã tạo cơ sở chính trị và pháp
luật cho việc tăng cường hơn nữa sự tin cậy lẫn nhau giữa hai bên và phát triển mối
quan hệ song phương. Thủ tướng Ôn Gia Bảo trong cuộc họp cấp cao giữa Trung
Quốc và ASEAN năm 2004, đã đề xuất thành lập nhóm nhân vật nổi tiếng (EPG) để
bình luận, đánh giá về tình hình hợp tác, đưa ra những kiến nghị chính sách cũng
như các biện pháp hợp tác cụ thể để hướng tới tương lai. Ngoài ra, Trung Quốc đã
cử ông Tiền Kỳ Tham, nguyên Phó Thủ tướng Trung Quốc làm đại diện của phía
Trung Quốc, thể hiện sự trọng thị của Trung Quốc đối với EPG.
Trong lĩnh vực kinh tế: Là một quốc gia thương mại lớn trên thế giới, ngoại
giao kinh tế đương nhiên trở thành một nội dung, công cụ quan trọng trong chiến
lược ngoại giao đối ngoại của Trung Quốc. Mặc dù, trong thập niên 1990, các quốc
gia Đông Nam Á vô cùng lo ngại về những “thách thức” kinh tế mà Trung Quốc
đem lại, nhưng hợp tác kinh tế thương mại của Trung Quốc với ASEAN vẫn có tốc
độ phát triển nhanh chóng. Từ năm 1990, kim ngạch thương mại của Trung Quốc và
ASEAN trung bình mỗi năm tăng 20%. Đến năm 2005, kim ngạch thương mại hai
chiều đạt 130,3 tỷ USD, tăng 23% so với năm 2004. Trong đó tổng kim ngạch xuất

3
Trong “Dự thảo luật giữa Trung Quốc và ASEAN” hiện nay tổng cộng có 33 đề án (bao gồm các đề án hợp
tác trên các lĩnh vực như chính trị, an ninh và các lĩnh vực khác), trong đó có 24 đề án sẽ được đưa vào hoạt
động trong năm 2005. Trong 24 đề án, có 127 hạng mục hoạt động, trong đó có 73 hạng mục do Trung Quốc
đề xuất, 27 hạng mục do ASEAN đề xuất, 27 hạng mục còn lại do cả hai bên Trung Quốc và ASEAN đề

xuất.

×