Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

Quan hệ kinh tế Trung Quốc - Asean từ năm 1991 đến năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (371.39 KB, 40 trang )

LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình triển khai khóa luận với đề tài "Quan hệ kinh tế Trung Quốc - ASEAN
từ năm 1991 đến năm 2010”, tôi đã nhận được sự giúp đỡ, tạo điều kiện của trường Đại học
sư phạm Hà nội 2; của các thầy cô trong khoa Giáo dục chính ừị; Thư viện quốc gia;
Viện nghiên cứu Trung Quốc Đặc biệt là sự tận tình của cô giáo: Nguyễn Thị Nga
Nhân khóa luận được hoàn thành, tôi xin chân thành cảm ơn đến nhà trường, tới
khoa, các cán bộ trong Thư viện Quốc gia và đặc biệt là cô giáo hướng dẫn Nguyễn Thị
Nga.
Do tính mới mẻ của đề tài cũng như những hạn chế về thời gian, kiến thức và tài
liệu nghiên cứu, khoá luận không thể tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong nhận
được ý kiến đóng góp của của các thầy cô và các bạn để làm cho khoa luận hoàn thiện
hơn.
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan khóa luận được hoàn thành là kết quả nghiên cứu của riêng tôi.
Khóa luận với đề tài “Quan hệ kinh tế Trung Quốc - ASEAN từ năm
1991 đến năm 2010”, chưa từng công bố ở bất kì công trình nghiên cứu
khoa học nào.
MUC LUC • •
LỜI CẢM ƠN LỜI CAM ĐOAN MỤC LỤC
• ■
MỞ ĐÀU
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Page 1 of 101
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
5. Đóng góp của khóa luận
6. Bố cục khóa luận NỘI
DUNG
»
Chương 1: Quan hệ kinh tế Trung Quốc - ASEAN trước năm 1991


1.1. Cơ sở hình thành mối quan hệ hợp tác kinh tế Trung Quốc - ASEAN
1.1.1. Cơ sở chủ quan
1.1.1.1 .Điều kiện tự nhiện, văn hóa và xã hội
1.1.1.2. Nhu cầu hợp tác hai bên
1.1.2. Cơ sở khách quan
1.1.2.1. Xu thế hòa bĩnh sau chiến tranh Lanh
1.1.2.2. Xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa
1.2. Quan hệ hợp tác kinh tế Trung Quốc - ASEAN trước năm 1991
Chương 2: Quan hệ kinh tế Trung Quốc - ASEAN từ năm 1991đến năm 2010
2.1. Quan hệ kinh tế Trung Quốc - ASEAN giai đoạn 1991-2000
2.1.1. Bối cảnh lịch sử
2.1.2. Quan hệ kinh tế Trung Quốc - ASEAN giai đoạn 1991 - 2000
2.1.2.1. Trên lĩnh vực thương mại
2.1.2.2. Trên lĩnh vực đầu tư - viện trợ
2.2. Quan hệ kinh tế Trung Quốc - ASEAN giai đoạn 2000-2010
2.2.1. Bổi cảnh lịch sử
2.2.2. Quan hệ kinh tế Trung Quốc - ASEAN giai đoạn 2000-
2010 2.2.2.1. Trên lĩnh vực thương mại
2.22.2. Trên lĩnh vực đầu tư
Chưong 3: Đánh giá chung về mối quan hệ kinh tế Trung Quốc - ASEAN
3.1. Kết quả và hạn chế trong quan hệ kinh tế Trung Quốc -ASEAN
3.1.1. Kết quả
3.1.2. Những hạn chế
3.2. Cơ hội và thách thức của mối quan hệ hợp tác kinh tế Trung Quốc - ASEAN
Page 2 of 101
3.2.1. Cơ hội
3.2.2. Thách thức
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm 90 của thế kỉ XX, tình hình thế giới có nhiều biến chuyển sâu
sắc. Việc chấm dứt chiến tranh Lạnh cùng với sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô
và Đông Âu làm cho cục diện chính trị thay đổi, một trật tự thế giới mới đang hình
thành. Quan hệ quốc tế lúc này chuyển từ đối đàu sang đối thoại, hòa bình họp tác và
phát triển trở thành xu thế chủ đạo trên phạm vi toàn thế giới. Nhân tố kinh tế đang ngày
càng đóng vai trò quan trọng trong quan hệ giữa các nước trong khu vực. Cùng với đó,
xu hướng toàn cầu hóa và khu vực hóa đã trở thành xu thế chung của các quốc gia, dân
tộc và các tổ chức kinh tế. Trước hoàn cảnh đó, để nâng cao năng lực cạnh tranh, củng
cố vị trí trên thị trường quốc tế, hội nhập và họp tác đã trở thành xu thế chủ yếu của toàn
thế giới.
Là một nước lớn trong khu vực châu Á - Thái Bĩnh Dương, với những thành tựu
đạt được trong quá trình cải cách mở của kinh tế. Sau chiến tranh Lạnh, Trung Quốc đã
điều chỉnh chính sách đối ngoại của mình cho phù hợp với xu thế chung của thời đại.
Với chính sách “láng giềng hữu nghị ”, ASEAN trở thành một đối tác quan trọng của
Trung Quốc trong bối cảnh thế giới mới. Quan hệ ASEAN - Trung Quốc từng bước đạt
được nhiều kết quả khả quan và thu hút được sự quan tâm của cộng đồng thế giới.
Page 3 of 101
Việt Nam là một thành viên của ASEAN, đồng thời cũng là láng giềng của Trung
Quốc. Vì vậy, sự phát triển tốt đẹp mối quan hệ Trung Quốc - ASEAN sẽ tác động sâu
sắc đến sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong quá trình cải cách kinh tế và xây
dựng đất nước. Việc nghiên cứu mối quan hệ Trung Quốc - ASEAN đặc biệt trên lĩnh
vực kinh tế có ý nghĩa về cả lí luận lẫn thực tiễn giúp cho Đảng và Nhà nước ta có thể rút
ra những bài học kinh nghiệm để có chính sách phù hợp hơn trong việc hoạt định chính
sách đối ngoại với Trung Quốc và ASEAN.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Sự phát triển quan hệ kinh tế Trung Quốc - ASEAN từ năm 1991 đến năm 2010
là một đề tài mang tính thời sự thu hút nhiều sự quan tâm của giới nghiên cứu lịch sử,
kinh tế, ngoại giao. Trên thực tế, đã có rất nhiều sách vở, báo chí, hội thảo .nghiên cứu
về quan hệ Trung Quốc - ASEAN.

Trước tiên phải kể đến cuốn sách: "Quan hệ Trung Quốc - ASEAN - Nhật Bản trong bối
cảnh mới và tác động của nỏ đến Việt Nam ” của Vũ Văn Hà do Nhà xuất bản Khoa học xã
hội và nhân văn xuất bản năm 2007. Trong tác phẩm của mình tác giả đã đi phân tích rõ
đặc điểm, xu hướng phát triển của ba thực thể Trung Quốc - ASEAN - Nhật Bản. Trong
đó, quan hệ Trung Quốc - ASEAN cũng được phát triển rõ trên các lĩnh vực kinh tế,
chính trị, văn hóa, an ninh và tác động của nó đến Việt Nam.
Hay trong cuốn sách: “Khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc - ASEAN. Quá trình hình
thành và friển vọng” của Hồ Châu, Hoàng Giáp, Hoàng Thị Quế được nhà xuất bản Lí
luận chính trị xuất bản năm 2006. Các tác giả đã phân tích nhu cầu càn thiết của việc
hình thành khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc - ASEAN cũng như phân tích của các
bên khi tham gia khu vực này. Quá trình hình thành và những thành tựu đạt được cũng
như triển vọng của nó.
Hay trong bài viết: “Khu vực mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc: Cơ hội, thách thức
và tác động đổi với các nước thành viên mới của ASEÂN” Tham luận của Thitapha
Wattanapruttipaisan, Chuyên viên cao cấp, Bộ phận dịch vụ công nghiệp, Ban thư ký
ASEAN tại Hội thảo khu vực về “Những thuận lợi và thách thức của Khu vực mậu dịch tự do
ASEAN - Trung Quốc ” do Vụ hợp tác kinh tế đa phương, Bộ ngoại giao Việt Nam và Quỹ
Hanns Siedel, Cộng hòa Liên bang Đức tổ chức tại thành phố Hồ Chí Minh, ngày
Page 4 of 101
21/6/2002, đã phân tích những thành quả của khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc -
ASEAN, từ đó đánh giá những cơ hội, thách thức đối với từng nước ASEAN tham gia
khu vực mậu dịch tự do Trung Quốc - ASEAN.
Bên cạnh những tài liệu ừên, là số lượng lớn các bài viết trên các tạp chí chuyên
ngành như tạp chí nghiên cứu Trung Quốc, tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, tạp chí
Kinh tế và phát triển, tạp chí Lí luận .cũng đề cập rất nhiều đến quan hệ Trung Quốc -
ASEAN, nhất là trên lĩnh vực kinh tế. Có thể kể đến một số tác phẩm tiêu biểu như:
"Quan hệ thương mại Trung Quốc - ASEAN, Cơ hội và thách thức đến thương mại Việt Nam ” của
GS,TS.Đặng Đình Hào, Ths.Đặng Thị Hồng đăng ừên tạp chí Kinh tế và phát triển, số
100 tháng 10 năm 2005. Tác giả đã khái quát lại quan hệ thương mại của Trung Quốc -
ASEAN, quan hệ của Việt Nam - Trung Quốc, Việt Nam - ASEAN. Từ đó đưa ra những

dự báo về cơ hội và thách thức đối với nền thương mại của Việt Nam.
Trong bài viết: “Trung Quốc với sự phát friển kinh tế của các nước ẨSEAN, tác động tích
cực và những nhân tổ không ổn định” của tác giả Nguyễn Minh Hằng đăng trên tạp chí
Nghiên cứu Trung Quốc, số 1(23) năm 1999. Tác giả phân tích vai trò của Trung Quốc
đối với sự phát triển kinh tế của các nước ASEAN được thể hiện trong bối cảnh cuộc
khủng hoảng kinh tế Đông Nam Á (1997-1998). Trên cơ sở đó phân tích những nhân tố
ảnh hưởng đến quan hệ Trung Quốc - ASEAN. Hay trong bài viết: “Quá trình phát triển
mối quan hệ Trung Quốc - ẨSEẨN” của Nguyễn Thu Mỹ nghiên cứu quá ừình phát triển của
quan hệ này trên những mốc đạt được, thành tựu mà hai bên đạt được trong quá trình
hợp tác.
Nhìn chung, hàu hết các bài viết, nghiên cứu của các tác giả chưa trình bày cụ thể
mối quan hệ của Trung Quốc và ASEAN cũng như những nhân tố tác động và ảnh
hưởng đến mối quan hệ này. Vĩ vậy, việc tổng hợp một cách đầy đủ, chi tiết cụ thể về
quan hệ Trung Quốc - ASEAN từ năm 1991 đến năm 2010 là điều có ý nghĩa thực tiễn.
Trên cơ sở tài liệu của người đi trước để lại, tác giả xin tập hợp, phân tích, lí giải, xây
dựng lại bức tranh toàn cảnh và hoàn chỉnh về quan hệ Trung Quốc - ASEAN
3. Mục đích và nhiệm vụ phương pháp nghiên cứu vấn đề
Muc đích:
Page 5 of 101
Luận văn tái hiện lại bức tranh toàn diện phản ánh mối quan hệ Trung Quốc -
ASEAN giai đoạn 1991-2010 trên lĩnh vực kinh tế. Từ đó, đưa ra một số nhận xét và dự
báo về mối quan hệ kinh tế Trung Quốc - ASEAN.
Nhiệm vụ
Để đạt được kết quả ừên, đề tài tập trung vào giải quyết các nhiệm vụ sau:
+ Khái quát lại quan hệ của Trung Quốc - ASEAN trước 1991.
+ Tập hợp, phân tích những kết quả đạt được ừong tiến trình phát triển mối quan
hệ kinh tế Trung Quốc - ASEAN từ năm 1991 đến năm 2010.
+ Phân tích những điều kiện thuận lợi và khó khăn của mối quan hệ Trung Quốc -
ASEAN, từ đó dự báo triển vọng của nó.
Phương pháp nghiên cứu

Để hoàn thành đề tài nghiên cứu này, tôi đã sử dụng phương pháp lịch sử, phương
pháp lôgíc, phương pháp biện chứng kết họp với các phương pháp liên ngành khác như
đối chiếu, phương pháp tập họp; phương pháp chứng minh, phân tích, liệt kê để hệ
thống hóa, dựng lại hoàn chính bức tranh quan hệ Trung Quốc - ASEAN từ năm 1991
đến năm 2010 với những đặc trưng và triển vọng của nó.
4. Đổi tượng và phạm vỉ nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu:
Nghiên cứu quan hệ Trung Quốc - ASEAN từ năm 1991-2010 trên lĩnh vực kinh
tế.
-Phạm vi nghiên cứu:
về không gian: Đe tài tập trung nghiên cứu mối quan hệ Trung Quốc - ASEAN trên
lĩnh vực kinh tế.
về thời gian: Đề tài tập trung nghiên cứu trong khoảng thời gian từ năm 1991 đến
2010.
5. Đóng góp của đề tài
Hiện nay, Trung Quốc và các nước trong khối ASEAN đang ở những giai đoạn
phát triển kinh tế khác nhau song cùng đang phải đối mặt với những cơ hội và thách
thức trong một thế giới đang thay đổi nhanh chóng. Việc tăng cường quan hệ kinh tế
thương mại song phương là một quyết định sáng suốt của hai bên trong quá trình theo
Page 6 of 101
đuổi những cơ hội phát triển mới, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế toàn cầu tăng trưởng
chậm lại và nhiều năm suy thoái của cường quốc kinh tế khu vực Nhật Bản, Mĩ Hơn
nữa, điều này sẽ tạo ra một cơ chế quan trọng nhằm bảo đảm sự ổn định kinh tế ở khu
vực và cho phép ASEAN và Trung Quốc có tiếng nói lớn hơn trong các vấn đề thương
mại quốc tế.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu quan hệ kinh tế Trung Quốc - ASEAN có ý nghĩa về
mặt lí luận quan trọng. Nó làm rõ, bổ sung và làm phong phú hơn về các quy luật khách
quan của nền kinh tế thị trường, quy luật cung cầu, cái nhìn cụ thể hơn về nền kinh tế
toàn cầu. Trên cơ sở phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra là cơ sở để hoạch định
chiến lược phát triển, đường lối ngoại giao trong thời kì mới của các nước trên thế giới,

đặc biệt là Vệt Nam.
Việc nghiên cứu quan hệ kinh tế ASEAN - Trung Quốc còn mang ý nhĩa thực tiễn
quan trọng làm sáng tỏ nội dung cơ bản của quan hệ kinh tế Trung Quốc và ASEAN,
làm tài tiệu tham khảo cho các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước đưa ra những mục tiêu
và phương hướng phát triển kinh tế phù họp, chuẩn bị đầy đủ để tham gia có hiệu quả
hội nhập kinh tế ừong khu vực và thế giới.
Mặt khác, đề tài còn góp phàn làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu, giảng dạy
cho học sinh, sinh viên, giáo viên
6. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầuvà kết luận, khóa luận được chia làm 3 chương:
Chương 1: Quan hệ Trung Quốc - ASEAN trước năm 1991.
Chương 2: quan hệ kinh tế Trung Quốc - ASEAN từ năm 1991 đến năm
2010.
Chương 3: Đánh giá chung về mối quan hệ Trung Quốc - ASEAN
NÔI DUNG
Chương 1
QUAN HỆ KINH TẾ TRUNG QUỐC - ASEAN TRƯỚC NĂM 1991
1.1. Ctf sở hình thành mối quan hệ kỉnh tế TQ - ASEAN
1.1.1. Ctf sở chủ quan
Page 7 of 101
1.1.1.1. Điều kiên tư nhiên, văn hóa, xã hôi
( • ' y m
Trung Quốc và các nước ASEAN là những nước láng giềng có hoàn cảnh địa lí
gần gũi, có truyền thống văn hóa lâu đời gắn bó với nhau. Trải qua hàng nghìn năm lịch
sử, các nước ASEAN và Trung Quốc đã chia sẻ những giá trị chung của nền văn minh
phương Đông.
Nhân dân ASEAN và Trung Quốc có mối quan hệ hữu nghị tốt đẹp truyền thống
và lâu dài đã trải qua thử thách của thời gian. Do Trung Quốc và ASEAN có những điểm
tương đồng, bổ sung lẫn nhau, tạo cơ sở cho mối quan hệ lâu dài Trung Quốc - ASEAN.
Thứ nhất, sự gần gũi về mặt địa lí là cơ sở để hĩnh thành nên mối quan hệ khu vực.

Xét về mặt địa lí, một khu vực thường được xác định như một nhóm quốc gia nằm trong
một vùng đặc thù về địa lí. Có thể coi ASEAN và Trung Quốc nằm trong khu vực Đông
Á, nên có ý thức về địa bàn chung và môi trường chung. Sự gàn gũi là cơ sở quan trọng
để hình thành lên mối quan hệ địa lí - nhân văn giữa các quốc gia trong vùng.
Các nước ASEAN và Trung Quốc núi liền núi, sông liền sông. Có đường biên
giới dài hàng nghìn km, có điều kiện địa lí rất thuận lợi. Trung Quốc giáp với nhiều
nước như Việt Nam, Lào, Mianma, và gần những nước ASEAN còn lại như Brunây,
Singapo, Philippin. Ví dụ: Tỉnh Quảng Tây là tỉnh nối liền Trung
Quốc với các nước ASEAN chiếm 4061km đường biên giới trong tổng số 20.000 km
đường biên giới. Tỉnh Quảng Tây là cửa ngõ của Trung Quốc với nhiều nước ASEAN
như: Philipin, Singapo, Malaixia. Vị trí địa lí gàn kề là ưu thế thuận lợi cho việc giao
thông, liên lạc, xúc tiến các hoạt động mậu dịch, xuất nhập khẩu hàng hóa cho hai bên.
Thứ hai, về mặt lịch sử, hàu hết các cộng đồng ở đây đều có mối quan hệ lịch sử
khá lâu dài. Có những quan hệ được hình thành cách đây hàng nghìn năm. Mối quan hệ
này tồn tại trên cả hai kênh nhân dân và nhân dân, nhà nước và nhà nước. Sự liên hệ
giữa các nước này đều diễn ra trên nhiều lĩnh vực của cuộc sống, từ kinh tế, chính trị đến
xã hội văn hóa [10; tr. 108-109]. Có vô số chứng minh lịch sử cũng như dấu vết thực
tiễn chứng minh điều này. Ví dụ như trường hợp Việt nam có quan hệ hàng nghìn năm
lịch sử với Trung Quốc. Quá trình này vẫn được tiếp tục trong quá trình chống lại sự
xâm lấn của chủ nghĩa thực dân. Hàng thế kỉ nô dịch của chủ nghĩa thực dân phương
Tây đã làm tăng ý thức đoàn kết khu vực trước sự can thiệp của bên ngoài. Việc cùng là
Page 8 of 101
nạn nhân của chủ nghĩa thực dân và can thiệp cường quyền khiến các nước trong khu
vực có ý thức hơn về số phận lịch sử chung.
Hoàn cảnh lịch sử đó đã góp phàn dẫn đến nhu càu liên kết với nhau để hạn chế
bớt tác động tiêu cực từ bên ngoài, là cơ sở để tạo tính đồng nhất của khu vực.
Xét về góc độ xã hội, thì sự di dân lâu đời giữa các cộng đồng trong khu vực đã
tạo lên hĩnh thế phân bố đan xen và những liên hệ cộng đồng ừải khắp khu vực. Trong
thời kì chủ nghĩa thực dân sự di dân vẫn tiếp tục. Quá trình này tạo điều kiện cho sự thúc
đẩy trao đổi văn hóa tinh thần lẫn văn hóa vật chất càng trở nên sâu sắc. Ví như: Do sự

di dân ừong thời gian dài mà có một số lượng lớn Hoa kiều sống trong khu vực Đông
Nam Á. Như ở Inđônixia là 7.2 triệu người chiếm 3.5% dân số; Thái Lan là 5.8 triệu
người chiến 10% dân số; Malaixia là 5.4 triệu người [40; tr.66] tạo điều kiện thúc đẩy
các hoạt động họp tác giao lưu về văn hóa, xã hội, kinh tế giữa những nước này.
Thứ ba, về văn hóa, sự giao thoa giữa hai nền văn minh lớn Trung Quốc và Ấn Độ
diễn ra trong nhiều quốc gia trong khu vực. Quá trình giao thoa này diễn ra lâu đời và có
ảnh hưởng mạnh mẽ đến các quốc gia đó. Sự giao thoa này tạo điều kiện hình thành
những giá trị chung của các quốc gia ừong khu vực, giúp thúc đẩy hiểu biết lẫn nhau và
tăng cường giao lưu của các cộng đồng dân tộc. Mặt khác, ảnh hưởng của văn hóa Trung
Quốc với các nước Đông Nam Á là tương đối lớn. Anh hưởng đó không chỉ diễn ra
trong quá khứ mà còn tiếp tục trong hiện tại thông qua lực lượng Hoa kiều đang có mặt
ở hầu hết các nước trong khu vực cũng như do vị thế của Trung Quốc hiện đại. Ảnh
hưởng này tuy đậm nhạt ở nhiều quốc gia khác nhau, song cũng có tác dụng nhất định
trong việc hĩnh thành những nét riêng của khu vực Đông Nam Á. Có thể nói sự tương
đồng về văn hóa và sự gần gũi về phong tục tập quán được nảy sinh trên nền văn minh
lúa nước là nhân tố hết sức quan trọng tạo nên truyền thống láng giềng hòa hảo, gàn gũi
và dễ thông cảm lẫn nhau. Sự gàn gũi về mặt văn hóa là yếu tố vô cùng thuận lợi trong
việc truyền bá các giá trị văn hóa Trung Quốc.
về tôn giáo, khu vực Đông Á có những tôn giáo xuyên biên giới trên nhiều vùng
rộng lớn như đạo Phật hay Hồi giáo đem lại sự tương đồng nhất định giữa các cộng
đồng cùng tôn giáo. Nhiều giá trị tôn giáo đã trở thành giá trị dân tộc và từ đó là điểm
Page 9 of 101
chung liên quốc gia. Tôn giáo không chỉ đem lại sự tương đồng trong giá trị và niềm tin
mà còn làm nảy sinh những tình cảm xuyên biên giới giữa các cộng đồng cùng tôn giáo.
Như vậy, trên cơ sở những nét tương đồng về điều kiện tự nhiên, văn hóa, xã hội
của Trung Quốc và ASEAN. Quan hệ chính trị hai bên dần dần được hình thành. Hai bên
thiết lập quan hệ bình đẳng hợp tác tin tưởng lẫn nhau tương đối tốt. Đó là điều kiện
thuận lợi hơn nữa cơ sở chính trị về hợp tác kinh tế, tạo cơ sở vững chắc cho hợp tác
kinh tế hai bên.
1.1.1.2. Nhu cầu hợp tác hai bên.

• Đối với ASEAN
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, đa số các nước ASEAN và Trung Quốc đều là
những nước đã và đang xây dựng nền kinh tế thị trường. Không ngừng nâng cao vị thế
của mình trên trường quốc tế.
Với mục tiêu của ASEAN hiện nay là duy trì ổn định, tập trung phát triển kinh tế,
tăng cường liên kết trong ASEAN. Đa dạng hóa và đa phương hóa hoạt động đối ngoại,
cân bằng quan hệ với các nước lớn, nâng cao vai ừò vị thế của ASEAN trong khu vực và
trên thế giới.
Trong khi đó, Trung Quốc là một nước lớn trong khu vực và trên thế giới. Nước
láng giềng gần gũi có nhiều nét tương đồng về văn hóa, có chung biên giới với các quốc
gia ASEAN. Có vai ừò quan trọng trong an ninh và phát triển của ASEAN. Vì vậy từ
những năm 1990, các nước ASEAN đã thay đổi cách nhìn nhận đối với Trung Quốc theo
hướng linh hoạt và mềm dẻo hơn. “Mặc dù vẫn e ngại về hệ quả lớn mạnh của Trung Quốc đổi
với khu vực. Song các nước ASEAN thừa nhận sự trỗi dậy của Trung Quốc, thấy được mặt tích cực
của Trung Quốc đổi với hòa bình, ổn định và phát triển của khu vực” [16; tr.4]. Do vậy,
ASEAN đã điều chỉnh chính sách đẩy mạnh tiếp xúc, hợp tác với Trung Quốc trên tất cả
các lĩnh vực nhằm tranh thủ những yếu tố thuận lợi, hạn chế bất lợi và thông qua phát
triển quan hệ với Trung Quốc thúc đẩy quan hệ với các nước khác trên thế giới.
về khía cạnh an ninh, là những nước bên cạnh nước lớn đang hiện đại hóa về quân
sự, lại có tranh chấp chủ quyền lãnh thổ với một số nước thành viên của ASEAN. Các
nước ASEAN ít nhiều lo ngại về sự lớn mạnh của Trung Quốc. Cho nên, qua tiếp xúc
Page 10 of
hợp tác kinh tế hai bên, kéo Trung Quốc vào cơ chế đa phương khu vực để ràng buộc và
hạn chế hoạt động của Trung Quốc.
Mặt khác, tiến hành quan hệ kinh tế với Trung Quốc, ASEAN sẽ có những cơ hội
to lớn. Trung Quốc với dân số 1.3 tỉ dân, đây thật sự là một thị trường vô cùng lớn đầy
tiềm năng và sức hấp dẫn đối với ASEAN. Hơn nữa thị trường Trung Quốc không quá
khó tính như thị trường EU, Nhật Bản, Mĩ, Nga Sự gần gũi về mặt địa lý làm cho chi
phí vận chuyển thấp và sự tương đồng về văn hóa là ưu thế của thị trường Trung Quốc
với các thị trường khác. Ngoài ra về mặt văn hóa, tăng cường quan hệ với Trung Quốc,

các nước ASEAN còn có điều kiện tiếp thu những tinh hóa văn hóa của một nền văn
minh lớn trên thế giới - văn minh Trung Hoa, làm phong phú thêm nền văn hóa của dân
tộc mình.
• Đổi với Trung Quốc
Việc quan hệ với các nước ASEAN thỏa mãn những nhu cầu cho công cuộc xây
dựng nền kinh tế mở cửa của Trung Quốc cũng như phù hợp với xu thế toàn cầu hóa của
thời đại.
Với vị ừí nằm trên ngã tư nối từ Thái Bình Dương sang Ấn Độ Dương, từ châu Á
sang châu Đại Dương. Nhiều con đường vận tải biển quan trọng đi qua khu vực này.
Nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú cùng với nguồn dầu mỏ rất lớn tạo điều kiện
cho Đông Nam Á có vị trị địa kinh tế, địa chiến lược rất quan trọng. Chính vì vậy, từ
xưa đến nay ASEAN luôn là địa bàn tranh chấp của nhiều cường quốc trên thế giới.
Trong lịch sử của mình, các triều đại Trung Quốc đều hết sức coi trọng Đông
Nam Á. Sau chiến tranh Lạnh, mục tiêu của Trung Quốc là tập trung phát triển kinh tế,
nhằm nâng cao sức mạnh tổng hợp của quốc gia. Đưa Trung Quốc trở thành một cường
quốc trong khu vực và trên thế giới. Để đạt được mục tiêu trên, Trung Quốc rất coi trọng
việc tạo môi trường ổn định. Trong đó có khu vực ASEAN - vành đai an ninh phía Nam,
là thị trường tiêu thụ hoàng hóa, nguồn cung cấp nguyên vật liệu; là con đường để Trung
Quốc mở rộng ảnh hưởng ra thế giới. Như nhà lãnh đạo Đặng Tiểu Bĩnh đã nhấn mạnh:
“Ồn định biên giới xung quanh, đứng chân ở châu Á - Thái Bình Dương, tiến ra thế giới. Đó là
điệu nhảy ba bước mà Trung Quốc tìm kiếm để giữ gìn hòa bình thế giới, phát triển đất nước” [28;
tr.584].
Page 11 of
về góc độ an ninh, Đông Nam Á là khu đệm bên ngoài liên quan đến an ninh phía
Đông Nam của Trung Quốc. Đông Nam Á là nơi Trung Quốc có tranh chấp chủ quyền
biển đảo với nhiều quốc gia ASEAN, dễ xảy ra xung đột. Đây cũng là các khu liên quan
tới đặc khu Hồng Kông, Ma Cao các tỉnh phía Nam ven biển Đông Nam - động lực kinh
tế Trung Quốc, đến sự ổn định đoàn kết của các dân tộc phía Tây Nam, đến sự nghiệp
thống nhất Đài Loan.
về kinh tế, ASEAN với số dân 500 triệu người, GDP là 737 tỉ USD tổng số giá trị

thương mại 720 tỉ USD [54], đặc biệt đang phấn đấu trở thành thị trường vô cùng lớn
cho tiêu thụ hàng hóa loại rẻ và loại trung của Trung Quốc. Đồng thời, ASEAN cũng là
nguồn cung cấp nguyên vật liệu, nhiên liệu phong phú đặc biệt là dầu mỏ cho nền kinh
tế phát ừiển nhanh với tốc độ cao của Trung Quốc. Trong các hoạt động kinh tế với
Trung Quốc, sự có mặt của một lực lượng lớn thương nhân Hoa kiều có mặt trên khu
vực Đông Nam Á là một thuận lợi vô cùng quan trọng đối với Trung Quốc. Theo tờ
Nguyệt san Sapio của Nhật Bản, ngày 27/9/2000 số Hoa kiều ở Inđônixia là 7.2 triệu
người chiếm 3.5% dân số và 73% GDP của cả nước, Thái Lan là 5.8 triệu người chiếm
10% dân số và 81%GDP, Malaixia là 5.4 triệu người chiếm 69%GDP. Đến năm 1990,
Hoa kiều ở Đông Nam Á nắm 1/3 tổng số vốn trong nền kinh tế của các nước ASEAN.
Hoa kiều có 10 ngân hàng lớn ở trong khu vực [40; tr.66]. Chính vì vậy, họp tác với
ASEAN là chiến lược vươn ra bên ngoài của Trung Quốc. Họp tác với ASEAN còn thể
hiện sự tranh giành ảnh hưởng của các nước lớn trong khu vực như Mĩ, Nhật Bản, EU,
Nga Trung Quốc mong muốn lấp đi khoảng trống quyền lực của Mĩ và Nga để lại sau
chiến ừanh Lạnh.
Một điều đáng chú ý nữa là Trung Quốc tuy là một quốc gia rộng lớn với nguồn
tài nguyên thiên nhiên phong phú. Song, do số dân đông nên bình quân tài nguyên trên
đầu người của Trung Quốc không đáp ứng đủ cho quá trình công nghiệp hóa đất nước.
Trong khi đó, ASEAN là là một khu vực có nguồn tài nguồn phong phú chưa khai thác
nhiều, khai thác lại xuất khẩu tài nguyên ở dạng sơ chế giá rẻ, nguồn nhân nhân lực to
lớn. Vì vậy, hợp tác kinh tế với ASEAN sẽ đảm bảo nguồn cung ứng nguyên vật liệu dồi
dào cho Trung Quốc.
Page 12 of
Như vậy, hợp tác và phát triển là nhu càu thết yếu của Trung Quốc và ASEAN. Nó
phù hợp với chiến lược hội nhập kinh tế của cả ASEAN và Trung Quốc, để khẳng định vị
thế của mình ừên trường quốc tế và phù hợp với nguyện vọng của Trung Quốc và
ASEAN.
1.1.2. Cơ sở khách quan
1.1.2.1. Xu thế hòa bình sau chiến tranh Lanh
m

Chiến tranh Lạnh kết thúc vào những năm đầu thập kỉ 90 đã chấm dứt sự đối đầu
quân sự Đông và Tây, giữa hai siêu cường quốc Xô - Mĩ, thế giới chuyển từ đối đấu sang
đối thoại, từ biệt lập sang hợp tác. Sau khi kết thúc chiến tranh Lạnh, hòa bình và họp
tác trở thành chủ đề chính của thế giới ngày nay, phát triển kinh tế ừở thành trọng điểm,
tăng cường hợp tác kinh tế thương mại ừở thành một xu thế mới. Các quốc gia ngày càng
ưu tiên cho phát triển kinh tế, sự dung hòa lợi ích, vận dụng các biện pháp kinh tế để giải
quyết tranh chấp, hợp tác với nhau để có lợi hơn là phương châm phổ biến ừong giải
quyết các vấn đề quốc tế.
Điều kiện hòa bình là một trong những điều kiện tiền đề thúc đẩy quá trình toàn
cầu hóa diễn ra nhanh hơn. Môi trường quốc tế chuyển sang một giai đoạn ổn định, hòa
bình tạo môi trường thuận lợi cho kinh tế quốc tế nói chung và kinh tế của mọi nước trên
thế giới nói riêng phát triển nhanh chóng, thúc đẩy quan hệ kinh tế các nước diễn ra
mạnh mẽ hơn.
Mặt khác, trật tự thế giới mới cũng đang được thay đổi sau chiến tranh Lạnh. Thế
giới không còn là thế giới hai cực như trước nữa mà đã hình thành một thế giới đa cực
với các siêu cường quốc như Mĩ và nhiều cường quốc khác như các nước Tây Âu; các
nước Đông Á như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc và rất nhiều các nước mới nổi lên
nhờ sự phát triển kinh tế nhanh chóng ở châu Á hoặc khu vực Mĩ La Tinh. Các nước
đang phát ừiển như Trung Quốc và các nước ASEAN đang tạo thế và lực mạnh mẽ hơn
bao giờ hết.
về phía Trung Quốc, sau khi chiến tranh Lạnh kết thúc, vai ừò kinh tế chính ừị của
nước này càng được tăng cường. Trung Quốc đã trở thành một cường quốc có vị trí quan
trọng trong việc chi phối, quyết định các vấn đề quốc tế và không một quốc gia nào có
thể coi nhẹ sự họp tác với quốc gia này. về phía các nước ASEAN, một mặt sự kết thúc
chiến tranh Lạnh tạo môi trường thuận lợi cho sự mở rộng hợp tác kinh tế của khối này
Page 13 of
ra ngoài khu vực. Hơn thế, các thách thức nảy sinh thời kì hậu chiến tranh Lanh như khả
năng canh tranh kinh tế giảm sút; nguy cơ vốn đầu tư nước ngoài đòi hỏi các nước
ASEAN phải có biện pháp linh hoạt và mở rộng thích ứng không chỉ tăng cường họp tác
khu vực mà còn mở rộng họp tác với các đối tác bên ngoài, đặc biệt là các đối tác đối

thoại ở Đông Á ừong đó có Trung Quốc.
Do vậy, có thể nói chiến tranh Lạnh kết thúc, vừa mang lại những điều kiện thuận
lợi vừa mang những thách thức kể cả kinh tế và chính trị. Điều đó đòi hỏi các quốc gia
trên thế giới trong đó có Trung Quốc và các nước ASEAN tăng cường quan hệ họp tác
lâu dài.
1.1.2.2. Xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa
Mặc dù làn sóng toàn cầu hóa thứ ba diễn ra bắt đầu từ những năm 80 của thế kỉ
XXI, song ảnh hưởng và tác động của nó cũng như nói đến nó là từ sau chiến tranh Lạnh
đến nay. Định nghĩa toàn cầu hóa đã được đưa ra rất nhiều từ phía các tổ chức quốc tế
cho đến các tổ chức trong khu vực cũng như những quan điểm cá nhân của các học giả.
Song, nhìn chung khái niệm toàn cầu hóa được hiểu theo nghĩa khá thống nhất, đó là:
“Sự mở rộng tự do hóa thương mại, đầu tư, dịch vụ, chuyển giao công nghệ, lao động trên phạm vi
toàn cầu thúc đẩy quan hệ giao dịch song phương, đa phương tăng cường liên kết giữa các quốc
gia ” [9; tr.22].
Toàn càu hóa đang là một trong những xu thế phát triển chủ yếu của quan hệ quốc
tế hiện đại. Những tiến bộ của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin đã
đưa các quốc gia xích lại gàn nhau. Xu thế toàn càu hóa kinh tế ngày nay không còn là
vấn đề mới mẻ nhưng tính cơ động toàn càu hiện nay là chưa từng có về mặt tốc độ,
phạm vi, mật độ Toàn càu hóa kinh tế là những mối quan hệ vượt qua biên giới quốc
gia, khu vực để vươn tới quy mô toàn thế giới. Hiện nay, quá trình toàn cầu hóa bị chi
phối bởi các nhân tố: sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ;
các tập đoàn tư bản độc quyền đang ráo riết thực hiện ý đồ chiến lược biến quá trình
toàn càu hóa thành quá trình tư do hóa dựa vào ưu thế về chính trị; sự hình thành các tổ
chức liên minh kinh tế, chính trị trên toàn thế giới Trong đó khoa học công nghệ là
nhân tố chi phối mang ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất
Page 14 of
thế giới hiện nay và mạng lưới hoạt động của chúng đóng vai trò chủ chốt thúc đẩy quá
trình toàn cầu hóa kinh tế.
Toàn càu hóa kinh tế và khu vực hóa diễn ra song hành với nhau. Có ý kiến cho
rằng: “Trong các quan hệ toàn cầu hỏa thì xu thế khu vực hỏa được xem là bước chuẩn bị để tiến

tới toàn cầu hóa. Mặt khác, xu thế khu vực hỏa lại phản ánh thực trạng co cụm nhằm bảo vệ
những lợi ích tương đồng giữa một sổ nước ừteớc nguy cơ, những tác động tiêu cực của toàn cầu
hỏa đặt ra” [13; tr.127]. Do đó, xét về ngắn hạn khu vực hóa đối ngịch với toàn càu hóa
nhưng về dài hạn thì khu vực hóa là bước chuẩn bị để thực hiện toàn càu hóa. Nội dung
chủ yếu của khu vực hóa là thành lập các khu vực kinh tế mới, mở rộng hơn nữa các
khu vực đang tồn tại, tăng cường hơn nữa quyền tự chủ, quyền tự trị cho các khu vực.
Động lực gia tăng xu thế khu vực hóa hiện nay xuất phát từ mục đích phát huy
những lợi thế so sánh, những nét tương đồng của các quốc gia trong nhóm khu vực.
Chẳng hạn như Châu Phi là nơi có làn sóng toàn cầu hóa diễn ra muộn hơn các nước
khác, song cũng phải đến năm 2002 thì các nước trong khu vực này mới thành lập được
Liên minh châu Phi (AU). Mục tiêu của AU là đưa châu Phi vượt qua đói nghèo, xung
đột và bệnh tật, tiến tới ổn định và phát triển. Rõ ràng là các vấn đề phổ biến của hầu hết
các nước châu Phi hiện nay là đói nghèo, xung đột, bệnh tật đã làm cho họ xích gần
nhau hơn trong một khối thống nhất, cùng hành động, cùng chia sẻ, hỗ trợ nhau để đạt
được mục tiêu chung của mình. Ở Đông Nam Á, các nước ASEAN thiết lập Khu vực
mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), nhằm hỗ trợ nhau trong phát triển kinh tế. Như vậy,
tác động của quá trình toàn càu hóa kinh tế, xu thế hợp tác, liên kết kinh tế phát triển
mạnh mẽ trên nhiều cấp độ, tạo điều kiện cho các nước nhất là các quốc gia đang phát
triển có cơ hội để tiếp cận các dòng vốn, công nghệ, kĩ năng và kinh nghiệm quản lí, mở
rộng thị trường.
Dưới tác động mạnh mẽ của xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa kinh tế quan hệ
Trung Quốc - ASEAN ngày càng được tăng cường trên tất cả các lĩnh vực đặc biệt là
kinh tế. Hiện nay, cả Trung Quốc và ASEAN đều là những quốc gia đang phát triển và
xây dựng nền kinh tế thị trường. Đều có mục tiêu cao nhất là tận dụng cao nhất nguồn
ngoại lực để phát triển kinh tế - xã hội, phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Tăng cường họp tác Trung Quốc - ASEAN đáp ứng những lợi ích thiết thực của cả
Page 15 of
hai bên. Xuất phát từ mục tiêu này cả Trung Quốc cả ASEAN đều điều chỉnh chính sách
của mình với các nước lánh giềng, với khu vực theo hướng “cầu đồng, tồn dị”, tằng
những điểm tương đồng và nỗ lực từng bước tháo gỡ những điểm khác biệt trong quan

hệ hai bên.
Như vậy, cùng với với kết thúc của chiến tranh Lạnh, là sự mở rộng mạnh mẽ liên
kết khu vực, rất nhiều các liên minh, tổ chức kinh tế thế giới ra đời. Sự đa dạng về cấp
độ phát triển, sự khác biệt về mặt đặc điểm kinh tế, địa - chính trị cùng với những ảnh
hưởng về đặc điểm lịch sử, đã và đang làm cho các hình thức liên kết kinh tế trở lên
phong phú đa dạng. Tuy nhiên, về bản chất chúng là hiện thân của tự do hóa về mặt
thương mại và đầu tư quốc tế.
1.2. Quan hệ họp tác kinh tế Trung Quốc - ASEAN trước năm 1991
Các nước ASEAN và Trung Quốc có nhiều tiềm năng lớn trong lĩnh vực họp tác
kinh tế, mậu dịch và đàu từ vì lợi ích chung và lợi ích riêng của các bên. Trung Quốc là
một thị trường lớn đầy tiềm năng với 1.3 tỉ người đang trên đà phát triển với tốc độ cao.
về các nước ASEAN, với số dân 500 triệu người, đây là một thị trường vô cùng rộng lớn
để tiêu thụ hàng hóa giá rẻ của Trung Quốc. Mặt khác, với vị trí vô cùng thuận nằm trên
ngã tư nối Thái Bĩnh Dương sang Ấn Độ Dương, từ châu Á sang châu Đại Dương có
nhiều con đường vận tải biển quan trọng đi qua khu vực này cùng nguồn tài nguyên
thiên nhiên phong phú và nguồn lao động dồi dào. Là cơ sở để Trung Quốc hoạch định
chiến lược và sách lược đầu tư khai thác, tiến hành những hoạt động xuất nhập khẩu để
phục vụ cho nền kinh tế phát triển với tốc độ cao của nước mình.
Mặc dù là quốc gia làng giềng gàn gũi về mặt địa lí, lịch sử văn hóa song quan hệ
Trung Quốc - ASEAN vẫn chưa được chú trọng đúng mức do vẫn nghi ngại về một số
vấn đề mang tính chất thời đại. Trong những năm 50, do đứng về phe Liên Xô và chủ
nghĩa xã hội, mức buôn bán của Trung Quốc với các nước xã hội chủ nghĩa chiếm đến
69%, trong khi đó các nước Đông Nam Á chỉ chiếm đến 6%. Trong những năm đàu thập
niên 60, mức buôn bán Trung Quốc và Đông Nam Á là 206.9 triệu USD (1961), trong
đó Mianma và Inđônêxia chiếm 62.5% tổng số mức buôn bán của hai bên [10; tr.153].
Năm 1967, quan hệ ngoại giao của Trung Quốc và Inđônêxia bị cắt đứt trong khi đó
Page 16 of
Inđônixia lại đang là thành viên của ASEAN. Cho nên, khoảng bảy năm từ 1967 đến
năm 1974, Trung Quốc không có bất cứ quan hệ nào với các nước thành viên ASEAN.
Bước sang những năm 70, tình hình trên thế giới và khu vực có nhiều thay đổi.

Các cặp quan hệ Xô - Trung căng thẳng, Trung Quốc - Mĩ hòa dịu. Trung Quốc đã thay
Đài Loan về quyền đại diện những người Trung Hoa ở Liên Hợp Quốc, kéo theo đó là
hàng loạt những thay đổi về quan hệ quốc tế của Trung Quốc với hàng loạt các nước
thân Mĩ đã làm cho quan hệ của Trung Quốc - ASEAN trở nên gần gũi hơn. Chính vì
vậy, buôn bán Trung Quốc và ASEAN vào năm 1977 lên tới 1 tỉ USD tăng gấp 4 lần
năm 1970 và chiếm 6.6% tổng số buôn bán đối ngoại của Trung Quốc [10; ừ. 154].
Từ năm 1978, Trung Quốc đã quyết định tập trung vào các nhiệm vụ kinh tế mở
đầu cho công cuộc cải cách mở cửa. Để phục vụ cho công cuộc cải cách của mình, trong
lĩnh vực đối ngoại Trung Quốc đã tiến hành những điều chỉnh trong quan hệ với các
nước lớn trên thế giới như Mĩ, Nhật Bản, Nga, EU Trung Quốc đã tiến hành bình
thường hóa và thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước láng giềng và chủ trương tăng
cường quan hệ với các nước Đông Nam Á. Quy mô thương mại của Trung Quốc đạt 859
tỉ USD với các nước Đông Nam Á, trong đó chiếm 7.6% xuất khẩu và 2.0% nhập khẩu
của buôn bán Trung Quốc với tất cả các nước trên thế giới [31; tr.38]. Đến năm 1980
quy mô thương mại Trung Quốc - ASEAN lên tới 2.2 tỉ USD.
Nhìn chung, từ những năm 70 đến những năm 80 của thế kỉ XX, các nước
ASEAN coi Trung Quốc là bạn hàng không thể thiếu của mình. Hợp tác kinh tế hai bên
đã mở rộng sang lĩnh vực hợp tác đầu tư nhưng buôn bán thương mại vẫn là lĩnh vực chủ
yếu trong hợp tác kinh tế hai bên. Đến năm 1991, quan hệ thương mại giữa Trung Quốc
và ASEAN đã đạt tới 7.96 tỉ USD tăng 8 làn so với năm 1978 [31; tr.38]. Tỉ trọng buôn
bán năm sau cao hơn năm trước.
Đầu thế kỉ XXI, Trung Quốc đã triển khai toàn diện chính sách láng giềng với
Đông Nam Á theo tinh thần: “Thân thiện với láng giếng, ổn định với láng giềng, làm giàu với
láng giềng” [16; tr.5] được Thủ tướng Ôn Gia Bảo công bố ngày 7/6/2003 tại Hội nghị
hiệp Định thương mại Đầu tư Trung Quốc tại Bali, Inđônixia.
Như vậy, trong thời kì chiến tranh Lạnh, quan hệ buôn bán đa phương giữa Trung
Quốc và ASEAN, song phương giữa Trung Quốc và các nước thành viên ừong khối
Page 17 of
ASEAN đã đạt được những kết quả đáng chú ý. Nó là tiền đề cho sự phát triển họp tác
kinh tế, thương mại của Trung Quốc - ASEAN trong giai đoạn sau.

Chương 2
QUAN HỆ KINH TÉ QUỐC TÉ TRUNG QUỐC - ASEAN TỪ NĂM 1991
ĐẾN NĂM 2010
2.1. Quan hệ kinh tế Trung Quốc - ASEAN giai đoạn 1991 - 2000
2.2.1. Bối cảnh lỉch sử
Bước vào thập kỉ 90, tình hình thế giới có nhiều biến chuyển quan ừọng làm ảnh
hưởng hớn đến nền kinh tế toàn cầu. Đó là:
Chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Ầu và Liên Xô sụp đổ, trật tự thế giới hai cực bị
phá vỡ. Trong điều kiện đó, Mĩ do ưu thế về nhiều mặt nên tham vọng làm bá chủ thế
giới, nhưng trên thực tế lại đang hĩnh thành một trật tự thế giới theo đa cực. Đồng thời,
các nước đang phát triển cố gắng vươn lên để có cơ hội cất cánh hiện đại hóa.
Cách mạng khoa học công nghệ ngày càng phát triển. Khoa học công nghệ dàn trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Những thành tựu khoa học mới phát minh và ứng
dụng làm cho sức sản xuất phát triển mạnh mẽ. Làm xuất hiện thêm những công nghệ
mới như công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu , nhiều ngành kinh tế mới ra đời.
Kinh tế thị trường phát triển với nhiều hình thức dẫn tới sự tăng cường tự do hóa
kinh tế và xu thế và hợp tác vừa cạnh tranh, đấu tranh cho một nền kinh tế thế giới đang
chuyển dần sang một nền kinh tế tri thức.
Quan hệ kinh tế không chỉ giới hạn lĩnh vực thương mại, xuất khẩu mà còn mở
rộng trên tất cả các lĩnh vực khác như văn hóa, xã hội, anh ninh
Như vậy, cùng với sự kết thúc chiến ừanh Lạnh và những biến chuyển của tình
hình thế giới đã đòi hỏi sự càn thiết hợp tác giữa các quốc gia với nhau. Trong đó, họp
tác kinh tế đã trở thành nhân tố chủ yếu chi phối các cặp quan hệ quốc tế. Các quốc gia
khẳng định sức mạnh quốc gia mình không chỉ bằng sức mạnh quân sự mà còn bằng sức
mạnh kinh tế
Trong bối cảnh chung ấy, quan hệ Trung Quốc - ASEAN cũng được nâng lên một
tàng cao mới
Page 18 of
Trung Quốc và các nước ASEAN là láng giềng gàn gũi của nhau, hai bên có lịch
sử giao lưu lâu đời. Từ khi ASEAN thành lập tháng 8/1967, đến năm 1991, Trung Quốc

và ASEAN chính thức thiết lập quan hệ. Quan hệ song phương đã ừải qua chặng đường
phát triển từ đối lập, hoài nghi đến quan hệ đối tác chiến lược đối thoại và hợp tác lấy
bình đẳng, láng giềng hữu nghị, tin cậy lẫn nhau làm nền tảng.
Tháng 7/1991, Bộ trưởng Ngoại giao Trung Quốc Tiền Kỳ Tham đã dự lễ khai
mạc Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao ASEAN lần thứ 24, và có cuộc gặp không chính
thức lần đầu tiên với ngoại trưởng các nước ASEAN. Nhận lời mời của Thứ trưởng
Ngoại giao Trung Quốc Đường Gia Triền, Tổng thư ký ASEAN Dato Ajit Singh đã dẫn
đoàn đại biểu ASEAN thăm Bắc Kinh tháng 9/1993. Hai bên đã thảo luận về tăng cường
quan hệ kinh tế - thương mại và hợp tác khoa học - kỹ thuật, đạt được nhận thức chung
rộng rãi. Trung Quốc năm 1993 đã trở thành đối tác đối thoại của ASEAN.
Tháng 7/1994, Trung Quốc và ASEAN đồng ý tổ chức Hội nghị thương lượng
chính trị quan chức cấp cao. Cuộc thương lượng chính trị quan chức cấp cao Trung
Quốc - ASEAN lần thứ nhất diễn ra tại Hàng Châu, Trung Quốc tháng 4/1995. Ngày
25/7/1994, Trung Quốc tham gia Diễn đàn khu vực ASEAN làn thứ nhất với tư cách là
đối tác thương lượng của ASEAN.
Năm 1996, Trung Quốc lần đầu tiên tham gia Hội nghị ngoại trưởng ASEAN lần
thứ 29 và Hội nghị ASEAN với các nước đối thoại diễn ra tại Gia- các-ta. Với tư cách là
đối tác đối thoại đầy đủ của ASEAN, Trung Quốc và ASEAN đã thành lập ủy ban hợp
tác liên họp Trung Quốc - ASEAN, hỗ trợ quản lý quan hệ đối thoại, và tháng 2/1997
thành lập cơ chế hội nghị tại Bắc Kinh. Ngoài ra, hai bên còn thành lập Quỹ họp tác
Trung Quốc - ASEAN để ủng hộ hai bên phát triển họp tác.
Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ Châu Á năm 1997 là bước ngoặt quan trọng
ừong quan hệ đối tác Trung Quốc - ASEAN. Trung Quốc đã khắc phục khó khăn, không
phá giá đồng Nhân dân tệ và viện trợ cho các nước ASEAN bị tác động của cuộc khủng
hoảng. ASEAN bắt đầu ghi nhận và tin tưởng rằng: nền kinh tế Trung Quốc ngày càng
lớn mạnh là cực kỳ quan trọng đối với Đông Nam Á, Trung Quốc sẵn sàng viện trợ cho
ASEAN trong giờ phút then chốt.
Page 19 of
Tháng 12/1997, ASEAN đưa ra sáng kiến tổ chức Hội nghị các nhà lãnh đạo
ASEAN với ba nước Trung Quốc, Nhật và Hàn Quốc "10+3" và cuộc gặp không chính

thức giữa lãnh đạo Trung Quốc và ASEAN. Từ đó, lãnh đạo Trung Quốc và ASEAN đã
xây dựng cơ chế hội nghị cấp cao thường niên. Lãnh đạo hai bên đã ra tuyên bố chung,
tuyên bố xây dựng quan hệ đối tác láng giềng hữu nghị, tin cậy hướng tới thế kỷ XXI,
đã chỉ rõ phương hướng phát triển của quan hệ song phương. Dưới sự chỉ đạo của Tuyên
bố chung, quan hệ chính trị song phương được nâng cấp nhanh chóng. Từ năm 1998 đến
năm 2000, Trung Quốc và 10 nước ASEAN đã làn lượt ký các văn kiện khung cho quan
hệ song phương và chương trình họp tác.
Như vậy, từ khi thiết lập quan hệ chính thức, trong bối cảnh toàn càu hóa và khu
vực hóa, quan hệ Trung Quốc - ASEAN đã đạt được nhiều thành tựu khả quan. Hai bên
cùng nhau giải quyết các vấn đề như khủng hoảng kinh tế, hay những vấn đề an ninh -
chính trị, kinh tế để tiến tới thiết lập một mối quan hệ lâu dài trong tương lai.
2.1.2. Quan hệ kinh tế Trung Quốc - ASEAN trên lĩnh vực thương mại
Trên lĩnh vực thương mại, việc buôn bán giữa Trung Quốc và ASEAN ngày càng
được chính phủ hai bên quan tâm và mở rộng thông qua các hiệp định thương mại.
Từ năm 1991 đến năm 1996, Trung Quốc đã phát triển quan hệ thương mại và
kinh tế với 6 nước thành viên và 4 quốc gia chưa gia nhập ASEAN vào thời điểm đó là
Việt Nam, Campuchia, Mianma, Lào. Nhưng đây là giai đoạn đặt nền móng cho sự thiết
lập vững chắc về phát triển quan hệ Trung Quốc và ASEAN trong tương lai.
Từ năm 1997 đến nay, Trung Quốc và ASEAN đã mở rộng quan hệ hợp tác để
cùng đối phó với cuộc khủng hoảng tài chính châu Á. Trong năm 1997, Trung Quốc và
ASEAN đã đưa ra Tuyên bố chung về họp tác Trung Quốc - ASEAN hướng tới thế kỉ
XXI. Trong hai năm 1999 - 2000, Trung Quốc đã làn lượt kí Hiệp định khung về tuyên
bố chung với 10 thành viên của ASEAN về quan hệ hợp tác song phương trong tương
lai. Xác định sự phát triển vững chắc và lâu dài của hai bên trên cơ sở hợp tác láng
giềng, tin tưởng lẫn nhau và cùng có lợi. Mười một nước ừong Tuyên bố chung nói trên
đã giành sự quan tâm đặc biệt về hợp tác kinh tế và thương mại. Đến năm 2000, Trung
Quốc và mười nước thành viên ASEAN đã kí Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư
Page 20 of
song phương, nâng sự hợp tác thương mại của Trung Quốc và ASEAN lên một tàng cao
mới.

Trên thực tế, từ năm 1991 trở đi quan hệ thương mại hai bên đã đạt được những
thành tựu vô cùng to lớn. Kim ngạch song phương giữa Trung Quốc và ASEAN không
ngừng tăng nhanh qua các năm.
Biểu đồ 1:
Kim ngạch ngoại thương Trung Quốc và ASEAN 1991 - 2000 [54]
Đơn vị: Tỉ USD
CÓ thế thấy kim ngạch buôn bán hai bên tăng trưởng nhanh chóng. Năm 1991, là
7.96 tỉ USD nhưng đến năm 2000 con số này là 39.5 tỷ USD, tăng gàn 5 lần. Từ năm
1991 trở đi (ngoại trừ năm 1998 kim ngạch có giảm chút ít so với năm 1997), do cuộc
khủng khoảng tài chính trong khu vực, còn lại hai bên thương mại đều tăng. Đặc biệt là
đến năm 2000, tình hình kinh tế thế giới bắt đầu giảm sút nhưng thương mại hai bên vẫn
duy trì mức tăng trưởng. Đây là một thành quả đáng khích lệ. Nguyên nhân là do lúc này
kinh tế Trung Quốc phát triển khá mạnh và vững chắc. Khi cuộc khủng hoảng kinh tế ở
châu Á xảy ra (1997), Trung Quốc đã khắc phục khó khăn, không phá giá đồng Nhân
dân tệ và viện trợ cho các nước ASEAN bị tác động của cuộc khủng hoảng. ASEAN bắt
đầu ghi nhận và tin tưởng rằng: nền kinh tế Trung Quốc ngày càng lớn mạnh là cực kỳ
quan trọng đối với Đông Nam Á, Trung Quốc sẵn sàng viện trợ cho ASEAN trong giờ
phút then chốt. Chính vì vậy quam hệ Trung Quốc và ASEAN ngày càng được tăng
cường. Cùng với sự giúp đỡ của Trung Quốc và sự nỗ lực của bản thân, các nước
ASEAN đã vượt qua được giai đoạn khó khăn và tiếp tục phát triển.
Page 21 of
1991 1994 1996 1997 1998 2000
Bảng: Kim ngạch ngoại thưong Trung Quốc yói từng nước ASEAN
Có thể nói Singapo luôn là bạn hàng lớn nhất trong khối của Trung Quốc. Năm
2000, trong tổng số 5 tỉ USD kim ngạch buôn bán giữa Trung Quốc và ASEAN thì riêng
kim ngạch buôn bán của Trung Quốc và Singapo đã đạt tới
10.8 tỉ USD. Bạn hàng lớn thứ hai của Trung Quốc là Malaixia với kim ngạch song
phương đạt 8 tỉ USD. Tiếp đó là Inđônêxia là 7.4 tỉ USD và Thái Lan là 6.6 tỉ USD. Đối
với các nước ASEAN còn lại, kim ngạch thương mại là rất nhỏ, chỉ đạt dưới 4 tỉ USD.
Trong cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu của Trung Quốc và ASEAN có nhưng

bước tiến đáng kể. Trước đây (trừ Singapo), các nước ASEAN vốn là nhưng nước có
nền kinh tế phụ thuộc vào xuất khẩu tài nguyên và hàng hóa sơ cấp. Đầu nhưng năm 90,
mặt hàng xuất khẩu hàng đầu của ASEAN-6 là chất đốt và gỗ. Hai mặt hàng này chiếm
hơn 50% tổng số hàng xuất khẩu của các nước ASEAN-6 vào Trung Quốc. Đến nay, cơ
cấu hàng xuất khẩu đã có những bước tiến đáng kể. Trong các sản phẩm chủ yếu của các
nước ASEAN sang Trung Quốc là máy móc, thiết bị điện tử, khoáng sản, nhựa, giấy, bột
Page 22 of
năm 1999 - 2001
Nước 1999 2000 2001
XNK XK NK XNK XK NK XNK XK NK
ASEAN 27.202 12.275 14.927 39.522 17.341 22.181 41.615 18.385 23.229
Sỉngapo 8.563 4.502 4.061 10.821 5.761 5.060 10.934 5.792 5.143
Malayxỉa 5.279 1.674 3.605 8.045 2.565 5.480 9.425 3.220 6.205
Inđônêxỉa 4.830 1.779 3.051 7.464 3.062 4.402 6.725 2.837 3.888
Thái Lan 4.216 1.436 2.780 6.624 2.243 4.381 7.050 2.337 4.713
Phỉlỉpỉn 2.287 1.379 908 3.142 1.464 1.678 3.566 1.620 1.945
Viêt Nam • 1.318 964 354 2.466 1.537 929 2.815 1.804 1.011
Myanma 508 407 101 621 496 125 632 497 135
Campuchỉa 160 104 56 224 164 60 240 206 34
Brunei 8 8 0 74 13 61 165 17 148
Lào 32 22 10 41 34 7 62 54 7
[10; tr.157
giấy chiếm tới 48% tổng số hàng xuất khẩu trong tổng giá trị của ASEAN-6 sang Trung
Quốc.
Đối với 4 nước ASEAN còn lại thì hàng hóa xuất khẩu sang Trung Quốc chủ yếu
là nguyên liệu và những mặt hàng sơ chế đặc biệt là mặt hàng nông sản và tài nguyên
thiên nhiên. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu của các nước này với Trung Quốc còn thấp
không làm ảnh hưởng nhiều đến cơ cấu xuất nhập khẩu chung của hai khối.
Các mặt hàng Trung Quốc xuất khẩu sang các nước ASEAN chủ yếu là máy móc,
thiết bị điện tử, hàng dệt may, kim loại, dày dép, máy móc. Trong đó, thiết bị điện tử là

lớn nhất và ngày càng gia tăng.
Như vậy, từ năm 1991 đến năm 2000, quan hệ thương mại Trung Quốc và
ASEAN phát ừiển với tốc độ nhanh, quan hệ buôn bán diễn ra ở hai phương thức chính
ngạch và tiểu ngạch. Trong đó Singapo nổi lên là một đối tác đáng tin cậy của Trung
Quốc trong khối ASEAN. Sự phát triển của quan hệ thương mại Trung Quốc - ASEAN
trong giai đoạn này là cơ sở thuận lợi cho sự phát triển của mối quan hệ thương mại hai
bên khi bước vào thế kỉ XXI.
2.1.3. Quan hệ kinh tế Trung Quốc - ASEAN trên lĩnh yực đầu tư - viện trợ
Mặc dù là những quốc gia láng giềng của nhau, nhưng do những nguyên nhân
khác nhau, nhất là một số nước Đông Nam Á vẫn còn chịu ảnh hưởng của thuyết mối đe
dọa của Trung Quốc nên trong một thời gian dài quan hệ hai bên vẫn chưa có tiến triển
đúng mức tương xứng với mỗi tiềm năng của mỗi nước. Sau chiến tranh Lạnh cùng với
những biến đổi của bối cảnh quốc tế, khu vực cũng như bản thân mỗi quốc gia mà quan
hệ Trung Quốc và ASEAN đã cải thiện và đạt được nhiều thành quả.
Đầu tư của ASEANvào Trung Quốc
Trong quan hệ Trung Quốc - ASEAN, nhìn chung trong thập niên cuối thế kỉ XIX,
mặc dù hai bên đã bắt đầu chú trọng đầu tư - viện trợ qua lại nhưng kết quả đạt được vẫn
khiêm tốn.
Đối với Trung Quốc, ASEAN là một trong những nhà đầu tư quan trọng đồng thời
cũng là địa bàn đầu tiên của các nhà đầu tư Trung Quốc tiến hành lựa chọn khi đàu tư ra
bên ngoài. ASEAN là một trong những khu vực cung cấp nguồn vốn quan trọng của
Trung Quốc. Trong khoảng thời gian từ năm 1991 đến năm 1998, vốn FDI thực hiện của
Page 23 of
ASEAN vào Trung Quốc vẫn luôn tăng từ 90 triệu USD (1991) đến 4.22 tỉ USD (1998).
vốn FDI thực hiện năm 1999, 2000 có giảm chút ít do cuộc khủng hoảng kinh tế tiền tệ
năm 1997-1999 nổ ra. Năm
1999, vốn FDI vào Trung Quốc là 3.28 tỉ USD và năm 2000 là 2.84 tỉ USD [ 14; tr.51].
Nhờ vào sự phục hồi kinh tế, đầu tư của ASEAN vào Trung Quốc ngày một tăng.
Theo số liệu của Bộ Ngoại thương và Họp tác kinh tế Trung Quốc (MOFTEC), vào
cuối năm 2001, tổng số đầu tư của ASEAN vào Trung Quốc bao gồm 17.972 dự án với

vố vốn cam kết là 53 tỉ USD (chiếm 7.2% tổng số FDI vào Trung Quốc), và giá trị thực
hiện là 26.175 tỉ USD (chiếm 6.1% tổng số FDI Trung Quốc).
Page 24 of
Bảng: Đầu tư của các nước ASEAN vào Trung Quốc hết năm 2001
Nước Sô hạng mục Sô vôn cam kêt
Đv: Tỷ USD
Sô vôn thưc hiên •

Đv: Tỷ USD
Sỉgapore 9122 35.381 16.992
Malayxỉa 2031 4.936 2.203
Indonesỉ 760 1.591 0.831
Thái lan 2880 4.971 1.994
Philỉppine 1369 2.564 1.029
Viêt Nam • 373 0.379 0.034
Myanma 146 0.194 0.034
Campuchia 24 0.036 0.007
Brunây 14 0.036 0.0004
Lào 14 0.025 0.005
Asean đên hêt năm
2000
16733 50.095 23.191
[51;tr.20].
Như vậy, trong các nước ASEAN ứiì Singapo là nước có số vốn đầu tư nhiều
nhất vào Trung Quốc chiếm 65% tổng số vốn FDI của cả ASEAN vào Trung Quốc, với
số vốn FDI đạt 16.9 tỉ USD hết năm 2000. Tiếp đó là Malaixia và Thái Lan, những số
vốn của hai nước này vào Trung Quốc vẫn kém Singapo. Các nước ASEAN còn lại có
kim ngạch đầu tư nhỏ, đặc biệt là đầu tư của Campuchia, Mianma, Lào, Việt Nam,
Brunây là hầu như không đáng kể.
Các lĩnh vực đầu tư của các nước ASEAN vào Trung Quốc là khai thác bất động

sản, tài chính dịch vụ, địa chất, khoáng sản. Đầu tư của các nước ASEAN vào Trung
Quốc hầu như chỉ tập trung vào các đặc khu kinh tế như Giang Tô, Phúc Kiến, Thượng
Hải, Quảng Đông. Các doanh nghiệp đầu tư vào Trung Quốc phần lớn là những người
Hoa kiều, với số lượng đầu tư lớn, nắm giữ một phần lớn tài chính của các nước. Hầu
hết đầu tư của ASEAN vào Trung Quốc giai đoạn này là năm nước thành viên ban đầu.
Đầu tư của Trung Quốc vào các nước ASEAN
Trong những năm 90, Trung Quốc tăng cường đầu tư vào các nước ASEAN. Mặc
dù đầu tư của Trung Quốc vẫn chiếm tỉ lệ thấp, chỉ đạt 135.7 tỉ USD năm 1999, chiếm
1% tổng FDI của ASEAN. Nhưng đầu tư của Trung Quốc vào ASEAN trong những
năm gần đây đạt 60%/ năm [47; tr.8].
Page 25 of
Asean đên hêt năm
2002
17372 53.468 26.175
Tổng ĐTNN vào
Trung Quốc đến hết
năm 2001
390025 754.39 395.223

×