Tải bản đầy đủ (.pdf) (171 trang)

Tai biến tự nhiên và khắc phục của nhà Nguyễn ở nửa đầu thế kỉ XIX

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.57 MB, 171 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






TRẦN THỊ HẠNH HIÊN


TAI BIẾN TỰ NHIÊN VÀ KHẮC PHỤC
CỦA NHÀ NGUYỄN Ở NỬA ĐẦU
THẾ KỶ XIX



LUẬN VĂN THẠC SỸ LỊCH SỬ







HÀ NỘI - 2009



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI


TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




TRẦN THỊ HẠNH HIÊN


TAI BIẾN TỰ NHIÊN VÀ KHẮC PHỤC
CỦA NHÀ NGUYỄN Ở NỬA ĐẦU
THẾ KỶ XIX


Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60.22.54
LUẬN VĂN THẠC SỸ LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Vũ Văn Quân







HÀ NỘI – 2009

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU 1

1. Mục đích, ý nghĩa và yêu cầu của đề tài 1
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề và các nguồn tư liệu 5
4. Phương pháp nghiên cứu 11
5. Cấu trúc của luận văn 12
Chương 1: VÀI NÉT VỀ TAI BIẾN TỰ NHIÊN
TRƯỚC THẾ KỶ XIX 13
1.1. Vài nét về tự nhiên Việt Nam 13
1.2. Vài nét về tai biến tự nhiên trước thế kỷ XIX 21
Chương 2: TAI BIẾN TỰ NHIÊN DƯỚI THỜI NHÀ NGUYỄN 34
2.1. Lũ bão 34
2.2. Hạn hán 47
2.3. Một số hiện tượng tai biến tự nhiên khác 55
Chương 3: TÁC ĐỘNG CỦA TAI BIẾN TỰ NHIÊN VÀ BIỆN PHÁP
PHÒNG CHỐNG, KHẮC PHỤC CỦA NHÀ NGUYỄN 67
3.1. Nhà Nguyễn và ý thức về tác động của tai biến tự nhiên 67
3.2. Tác động của tai biến tự nhiên 71
3.3. Biện pháp phòng chống, khắc phục tai biến tự nhiên của nhà Nguyễn 81
PHẦN KẾT LUẬN 120
TÀI LIỆU THAM KHẢO 123
PHỤ LỤC 1 128
PHỤ LỤC 2 165




- 1 -
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Mục đích, ý nghĩa và yêu cầu của đề tài

1.1. Mục đích
Tai biến tự nhiên có tác động lớn đến đời sống mọi mặt của một đất
nước. Thực tế lịch sử đã chứng minh, dù phát triển đến trình độ tiên tiến đến
đâu thì ở nhiều mặt con người vẫn phải phụ thuộc vào tự nhiên. Từ ước mơ
ngàn đời có thể đối phó, chế ngự được những thiên tai khắc nghiệt, sự hung
hãn của trời – đất để sinh tồn và phát triển, là đến ý thức phải biết tôn trọng tự
nhiên, dựa vào môi trường sống của tự nhiên.
Thuật ngữ “tai biến tự nhiên” hay “tai biến thiên nhiên” được hiểu là sự
thay đổi đột ngột và mãnh liệt của tự nhiên do các nguyên nhân khác thường,
có ảnh hưởng ghê gớm tới điều kiện tự nhiên và môi trường trên Trái Đất, gây
thảm họa cho đời sống con người. Một số tai biến tự nhiên phổ biến là hạn
hán, động đất, sóng thần, bão lụt, lở núi, dịch bệnh, v.v
Xuất phát từ ảnh hưởng, tác động sâu rộng đó, triều Nguyễn cũng như
các triều đại trước đó đều rất quan tâm tới vấn đề tai biến tự nhiên, đặc biệt là
các biện pháp phòng chống, khắc phục những hậu quả do tai biến tự nhiên
gây ra.
Tìm hiểu tai biến tự nhiên cùng các biện pháp phòng chống, khắc phục
của một nhà nước giúp ta hiểu biết đầy đủ hơn về chính sách xã hội của nhà
nước đó, cũng như những tác dụng của nó trong sự ổn định, phát triển, tiến bộ
xã hội.
Cuộc đấu tranh chống tai biến tự nhiên trước triều Nguyễn, bắt đầu từ
thời kỳ dựng nước, qua thời kỳ 1000 năm Bắc thuộc, đến thời Lý – Trần, Lê –
Trịnh từng bước được củng cố và phát triển qua thực tế, đúc rút thành những
kinh nghiệm lịch sử, biện pháp phòng chống thiên tai, dịch bệnh. Đến thời

- 2 -
nhà Nguyễn, các biện pháp phòng chống, khắc phục tai biến tự nhiên đã có
tác dụng tích cực đối với sản xuất, nhất là nông nghiệp và đời sống nông dân.
Qua đó khẳng định, mặc dù ra đời và thống trị trên bước đường suy tàn của
chế độ phong kiến, khi chủ nghĩa thực dân phương Tây đang bành trướng

mạnh mẽ, nhà Nguyễn vẫn mong muốn xây dựng một đất nước ổn định, phát
triển.
Tìm hiểu thực trạng và tác động của tai biến tự nhiên tới đời sống chính
trị, kinh tế, xã hội, sẽ mang đến những nhận thức sâu sắc về xã hội thời kỳ
này, cũng như những chính sách xã hội của nhà Nguyễn thông qua các biện
phòng phòng chống, khắc phục. Từ đó thấy được mối liên hệ mật thiết giữa
nhà nước với các tầng lớp nhân dân, đặc điểm nhà nước cũng như xã hội thời
kỳ này, góp phần nghiên cứu lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam nói chung
và nhà Nguyễn nói riêng.
Mặt khác, qua đề tài này, chúng tôi tìm hiểu và làm sáng tỏ vai trò, tác
dụng của các chính sách xã hội nhằm giải quyết tai biến tự nhiên đối với sự
thịnh suy của triều đại, sự tồn vong của bộ máy nhà nước. Đây cũng chính là
một trong nhiều bài học rút ra từ lịch sử đất nước nửa đầu thế kỷ XIX đầy
biến động.
1.2. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Thông qua tìm hiểu tai biến tự nhiên và biện pháp phòng chống, khắc
phục của nhà Nguyễn, luận văn sẽ đi sâu tìm hiểu, nhìn nhận lịch sử thời
Nguyễn từ hai phía: vị trí, vai trò của giai cấp cầm quyền trong quá trình
chăm lo đời sống nhân dân và yêu cầu bức xúc của xã hội cùng những giải
pháp và hệ quả. Từ những kết luận được rút ra trong quá trình nghiên cứu,
luận văn sẽ góp phần làm sáng tỏ quá trình vận động không bằng phẳng, đơn
giản của xã hội thời Nguyễn.
Từ những đóng góp khoa học trên, luận văn làm rõ hơn tác động to lớn

- 3 -
của tai biến tự nhiên trong hệ thống các yếu tố tác động, ảnh hưởng đến đời
sống chính trị, kinh tế, xã hội ở giai đoạn lịch sử mà luận văn nghiên cứu.
Hiện nay, đất nước ta đang trải qua quá trình vận động, đổi mới, phát
triển, tiếp thu và áp dụng nhiều thành tựu khoa học kỹ thuật tiên tiến vào sản
xuất, đời sống xã hội. Quá trình đó sẽ đem lại sắc diện mới cho đất nước,

đồng thời cũng phát sinh nhiều vấn đề xã hội như ô nhiễm môi trường, cạn
kiệt tài nguyên thiên nhiên, hệ sinh thái biến động, khí hậu thay đổi… dẫn đến
thường xuyên xảy ra nhiều tai biến tự nhiên bất thường, để lại hậu quả to lớn
đe dọa tính mạng con người, hủy hoại các thành quả kinh tế, xã hội, ví như lũ
lụt, hạn hán, sóng thần, lũ quét, động đất, dịch cúm… Đây không chỉ là vấn
đề mà Đảng và Nhà nước ta đã và đang quan tâm, tìm giải pháp có hiệu quả
thông qua chính sách xã hội, kết hợp với các chính sách khác trong hệ thống
chính sách phát triển bền vững đất nước, mà còn là vấn đề có tính thời sự toàn
cầu.
Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu các biện pháp phòng chống, khắc
phục tai biến tự nhiên của nhà Nguyễn – một thời kỳ lịch sử có nhiều ý kiến
đánh giá khác nhau, với những kinh nghiệm, những bài học lịch sử của nó sẽ
có tác dụng thiết thực phục vụ cho công cuộc xây dựng, đổi mới và phát triển
đất nước bền vững mà nhân dân ta đang ra sức thực hiện dưới sự lãnh đạo của
Đảng và Nhà nước.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Nhà nước và xã hội thời Nguyễn không phải là đối tượng nghiên cứu
trực tiếp của luận văn. Tuy nhiên, để nghiên cứu và lý giải các chính sách xã
hội nhằm phòng chống, khắc phục và giải quyết tác động của tai biến tự nhiên
xảy ra ở thời kỳ này, nhà Nguyễn với tư cách là chủ thể đặt ra các chủ trương,
chính sách, biện pháp giải quyết; đồng thời là bộ máy điều hành, thực thi các

- 4 -
chính sách, biện pháp đó cần phải được đề cập ở một mức độ cần thiết, đặc
biệt là quá trình xây dựng và tính chất của Nhà nước.
Luận văn sẽ tập hợp và hệ thống các nguồn tư liệu nhằm khôi phục diện
mạo cũng như làm rõ nét các sự kiện tai biến tự nhiên xảy ra theo trình tự thời
gian, cũng như các chính sách, biện pháp phòng chống, khắc phục tai biến tự
nhiên, không chỉ dừng lại ở các chiếu dụ, lệnh dụ của nhà vua, ở các quy định

của nhà nước, của pháp luật, mà còn qua những phương pháp giải quyết tự
thân của người dân, cũng như những hoạt động, phong trào của một bộ phận
cá nhân trong xã hội đương thời.
Vai trò và tác dụng của các biện pháp phòng chống, khắc phục tai biến
tự nhiên của nhà Nguyễn đối với công cuộc khôi phục sự phát triển, ổn định
tình hình đất nước, chăm lo đời sống nhân dân vào thời điểm đầu thế kỷ XIX
đầy thách thức, cũng như ở các thời kỳ tiếp sau đó. Đây cũng là một yêu cầu
quan trọng cần giải đáp của luận văn.
Với những yêu cầu về đối tượng cơ bản mà luận văn đặt ra nói trên
nhằm mục tiêu trả lời câu hỏi: Nguyên nhân dẫn tới xảy ra các tai biến tự
nhiên là gì? Những tai biến tự nhiên nào có tần suất, cường độ xảy ra thường
xuyên nhất? Tác động của tai biến tự nhiên? Các biện pháp phòng chống,
khắc phục của nhà Nguyễn? Vai trò và tác dụng của nó trong việc ổn định đời
sống xã hội, xây dựng và phát triển đất nước thời Nguyễn?
2.2. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian lịch sử: Luận văn tập trung nghiên cứu các tai biến tự
nhiên xảy ra vào nửa đầu thế kỷ XIX, từ năm 1802 – 1858, cùng những tác
động và biện pháp phòng chống, khắc phục của nhà Nguyễn. Tuy nhiên, để
thấy được tính kế thừa lịch sử và sự phát triển của nhà nước trong tổ chức
quản lý đời sống xã hội, luận văn cũng điểm qua một số nét lớn về tình hình
tai biến tự nhiên và giải quyết của nhà nước trước và sau đó.

- 5 -
Về nội dung: Luận văn đề cập đến các sự kiện tai biến tự nhiên, các tai
biến tự nhiên xảy ra với cường độ, tần suất thường xuyên nhất, cũng như tác
động và biện pháp phòng chống, khắc phục của nhà Nguyễn ở nửa đầu thế kỷ
XIX. Do tính chất bao quát, liên quan đến nhiều mặt đời sống xã hội của các
tác động này, nên các chính sách về chính trị, kinh tế, đời sống văn hóa, xã
hội… cũng sẽ được đề cập đến, nhưng ở dưới góc độ tác động của nó.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề và các nguồn tư liệu

3.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nhìn chung từ trước tới nay chưa có một công trình chuyên khảo nào
về vấn đề mà luận văn đặt ra, mặc dù đã có rất nhiều công trình sử học lớn
nghiên cứu về thời nhà Nguyễn. Nhưng có thể nói, tuyệt đại đa số các nghiên
cứu này đều nhằm miêu tả, phân tích, nhìn nhận và đánh giá chung về các mặt
chính trị, kinh tế, văn hóa… còn các sự kiện tai biến tự nhiên và biện pháp
phòng chống, khắc phục chưa được tập hợp, thống kê, phân tích, tìm hiểu một
cách có hệ thống. Lý giải điều này cũng có thể là do xuất phát từ quan niệm
cho rằng, hiện tượng tai biến tự nhiên và tác động của nó chưa phải là vấn đề
gây ra sự ảnh hưởng sâu rộng, nó có thể bị hòa vào các chính sách về nông
nghiệp, chính sách tô thuế, về thực trạng đời sống nông dân… Mặc dù vậy,
khi đề cập đến thời Nguyễn, các tác giả ít nhiều có nhận định chung hoặc
điểm đến một số chính sách, biện pháp cụ thể liên quan đến vấn đề được luận
văn quan tâm.
Sách Lịch sử Việt Nam (1971), Tập 1 do Ủy ban Khoa học xã hội xuất,
tuy không trực tiếp bàn đến các tai biến tự nhiên xảy ra dưới thời Nguyễn,
nhưng đã gián tiếp đề cập đến ở khía cạnh khác:
Dưới triều Nguyễn, kinh tế nông nghiệp càng ngày càng sa sút. Đó là
hậu quả của nạn chiếm đoạt ruộng đất của giai cấp địa chủ và sự bóc lột nặng
nề của nhà nước phong kiến. Mặt khác, triều Nguyễn lại bất lực trong việc

- 6 -
chăm lo, bảo vệ đê điều và các công trình thủy lợi, để cho thiên tai đe dọa
thường xuyên và nghiêm trọng nền sản xuất nông nghiệp… Trong suốt đời
Nguyễn, nạn đê vỡ, hạn hán, lụt lội xảy ra liên tiếp. Riêng đê sông Hồng ở
Khoái Châu (Hải - Hưng) thời Tự Đức bị vỡ 10 năm liền. Cả một vùng đồng
ruộng phì nhiêu, cư dân trù mật biến thành bãi lầy hoang vu, nhân dân phải bỏ
làng đi ăn xin khắp nơi … Ruộng đồng bỏ hoang, nhân dân phiêu bạt, xóm
làng xác xơ. Một màu đen ảm đảm như vậy bao phủ khắp nông thôn [36, tr.
376].

Sách Tình hình ruộng đất nông nghiệp và đời sống nông dân dưới triều
Nguyễn (1997), do Trương Hữu Quýnh, Đỗ Bang chủ biên, đã đề cập đến các
nội dung: Công tác trị thủy và thủy lợi (Tình hình bão lụt, hạn hán dưới thời
Nguyễn; Hoạt động trị thủy); Canh tác nông nghiệp và đời sống nông dân (Kỹ
thuật và kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp; Đói kém, dịch bệnh; Hoạt động
cứu tế xã hội). [48, tr. 105 - 171]
Sách Đê điều Việt Nam (Sơ thảo lịch sử) của Phan Khánh, Từ Mạo,
Nguyễn Gia Quang đã đề cập tới một loại tai biến tự nhiên có tần suất và
cường độ xảy ra nhiều nhất là lũ lụt, qua phần nội dung Đê điều, trị thủy dưới
triều Nguyễn, trong đó trình bày thực trạng trị thủy và đê điều qua các triều
vua, từ Gia Long, Minh Mệnh, Thiệu Trị đến Tự Đức với cuộc trưng cầu ý
kiến về trị thủy Bắc Kỳ [30, tr. 35 - 96].
Sách Thiên tai và dịch bệnh ở Quảng Trị, Thừa Thiên Huế (Bảy thế kỷ
nhìn lại) của Dương Phước Thu (2006), ở Chương 3 với nội dung Bão, lũ,
dịch bệnh từ năm 1801 đến 1945, đã trình bày theo cách thống kê biên niên
các sự kiện thiên tai (hạn hán, lũ bão, dịch bệnh, mất mùa, sét đánh, động đất,
sâu bọ…) xảy ra dưới thời nhà Nguyễn ở hai tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên
Huế. Tuy nhiên, cách trình bày các nội dung chỉ theo diễn tiến thời gian, mà

- 7 -
chưa có sự phân chia cụ thể, hệ thống riêng biệt của từng loại tai biến tự
nhiên.
Những năm gần đây, cũng đã xuất hiện nhiều nghiên cứu hoặc gián
tiếp, hoặc trực tiếp bàn đến một số vấn đề mà luận văn đặt ra: Vũ Văn Quân
với Chế độ ruộng đất, kinh tế nông nghiệp Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX
(1991), Luận án Phó Tiến sỹ Sử học, Đại học Tổng hợp Hà Nội và Vài nét về
chế độ tô thuế thời Nguyễn (1988), Tạp chí Khoa học, Đại học Tổng hợp;
ngoài ra còn có một số bài viết khác như Vài nét về kinh tế nông nghiệp Việt
Nam nửa đầu thế kỷ XIX (1990), Nghiên cứu kinh tế; Đỗ Đức Hùng với Nhà
Nguyễn với công tác tổ chức quản lý công trình thủy lợi ở Bắc Bộ thế kỷ XIX

(1994), Khoa học xã hội
Trong quá trình nghiên cứu, một mảng tư liệu khác tuy không nhiều
nhưng cũng được tác giả quan tâm khai thác là một số nghiên cứu về các loại
tai biến tự nhiên dưới góc độ khoa học tự nhiên, khí tượng thủy văn như Khí
tượng thủy văn và đời sống (1995), NXB. Khoa học kỹ thuật; Địa lý tự nhiên
Việt Nam (1978) của Vũ Tự Lập; Thiên nhiên Việt Nam (2005) của Lê Bá
Thảo; Hạn hán và những giải pháp giảm thiệt hại (2003) do Đào Xuân Học
chủ biên; Lũ lụt và cách phòng chống (2000) do Trần Thanh Xuân chủ biên…
đều có ít nhiều liên quan đến đề tài luận văn.
Tóm lại, xung quanh vấn đề tai biến tự nhiên và biện pháp phòng
chống, khắc phục của nhà Nguyễn (1802 – 1858) đã có một số nghiên cứu đề
cập đến một cách gián tiếp ở từng góc độ khác nhau tùy theo yêu cầu nghiên
cứu. Tuy nhiên cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu trực tiếp và
tập trung vào các tai biến tự nhiên thời nhà Nguyễn. Đây là một khó khăn lớn
đối với chúng tôi khi thực hiện đề tài luận văn. Tuy vậy, dù ở mức độ nào,
những công trình của người đi trước đã là nguồn tham khảo bổ ích, quý báu

- 8 -
giúp chúng tôi nhiều trong quá trình làm luận văn, từ những vấn đề cụ thể đến
lý luận, phương pháp luận.
3.2. Các nguồn tư liệu
Do nội dung của các tai biến tự nhiên và biện pháp phòng chống, khắc
phục dưới thời Nguyễn bao quát nhiều mặt của đời sống chính trị, kinh tế, xã
hội, nên nguồn tư liệu mà luận văn tiếp cận, khai thác và sử dụng rất phong
phú và đa dạng nhưng cũng rất tản mạn.
Nguồn tư liệu cơ bản, chủ yếu làm cơ sở cho việc nghiên cứu của luận
văn là các bộ chính sử như Đại Nam thực lục do Quốc sử quán triều Nguyễn
biên soạn, Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ do Nội các triều Nguyễn biên
soạn, đều đã được Viện Sử học dịch và xuất bản.
Sách Đại Nam nhất thống chí – bộ sách địa lý học Việt Nam đầy đủ

nhất dưới thời phong kiến, ở phần nội dung đã chia ra mục hình thế, khí hậu,
trong đó đặc biệt là mục khí hậu, đã có sự tổng kết nghiên cứu khái quát về
đặc điểm khí hậu, ảnh hưởng của thời tiết, khí hậu tới đời sống sản xuất, xã
hội của người dân ở các vùng miền trên cả nước.
Ví dụ về khí hậu phủ Thừa Thiên, sách này viết:
Bốn mùa thường ấm, đầu mùa xuân đào đã trổ hoa, tháng Giêng, tháng
Hai khí trời hòa ấm; tháng Ba khí trời nóng dần, thỉnh thoảng có gió
mạnh từ phương Nam đến, tục gọi là “bão nam”, người đi sông nước
cần phải đề phòng; tháng Tư tiết Tiểu mãn, thỉnh thoảng cũng có lụt;
tháng 5, tháng 6 và tháng 7 gió nam thổi mạnh; trước ngày 7 tháng 7 có
mưa, tục gọi là “mưa rửa xe”; tháng 8, tháng 9, khí trời mát dần,
thường có mưa lũ, thỉnh thoảng lại có gió đông vài ba ngày mới tắt, tục
gọi là “gió từ bến”; tháng 10 trong những ngày mồng 3, 13 và 23
thường bị lụt, ngạn ngữ có câu “Ông tha mà bà chẳng tha, làm cho cái
lụt ngày 3 tháng 10”. Lụt rút mà có mưa, gọi là “mưa rửa bùn”, mùa

- 9 -
đông mưa nhỏ, sắc nước tối gọi là “mưa tro”. Trong một năm, nửa mùa
thu sang mùa đông thường mưa nhiều, nửa mùa xuân về sau thường
nắng nhiều, từ tháng trọng đông (tháng 11 trở về sau) khí rét nhưng
không giá buốt, cây cối không rụng lá, cuối năm khí trời đã ấm; tháng
12 sấm bắt đầu dậy…[7, tr. 110].
Khí hậu tỉnh Quảng Nam:
Khí hậu nóng nực, nhiều tạnh ít mưa, chất đất phù bạc, nhiều khô khan
ít màu mỡ. Hết tháng Chạp thì gió đông nổi, tiết Kinh trập thì mưa xuân
nhuần; gió nam mạnh về mùa hạ; gió bấc rét về mùa đông; mùa thu gió
mát mà hay mưa lụt (các tháng 8, 9, 10 thường hay mưa lụt), mưa đông
hết lụt thì bãi sông bằng (mùa đông, sau khi mưa lụt thì bãi sông bằng
phẳng, tức là hết kỳ mưa lụt); mây đen nổi ở Trà Sơn là triệu sẽ mưa,
cầu vồng hiện ở Cu Đê là sắp có lụt (cầu vồng hiện mùa hè thì mưa,

hiện mùa thu, mùa đông thì lụt). Thỉnh thoảng cũng có gió bão. Gần núi
rừng thường nhiều lam chướng, ven sông biển thì có thủy triều lên
xuống…[8, tr. 337].
Thông qua những kiến thức về đặc điểm thời tiết, khí hậu riêng ở các
địa phương này, đã phần nào giúp cho người dân có những nhận thức rõ ràng,
để có những hoạt động sản xuất, đời sống thích hợp, nhằm phòng tránh, hạn
chế tối đa sự tác động của tai biến tự nhiên.
Sách Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, quyển 63, phần Quyết tuất
(tha thuế và cấp tuất) cũng đã có sự thống kê biên niên các nội dung: Ban ra
và cho vay thóc kho; Chuẩn tế dân bị thiên tai; Miễn thuế; Khám đồng lúa;
Giảm thuế tô; Khuyến khích việc quyên góp; Cứu giúp nạn gió bão; Cứu giúp
kẻ cô cùng; Thương xót kẻ tù tội; Cấp tuất. Thông qua các nội dung này đã
cung cấp những thông tin về tai biến tự nhiên xảy ra dưới thời nhà Nguyễn,
cùng những biện pháp phòng chống, khắc phục của triều đình.

- 10 -
- Năm Minh Mệnh thứ 9 (1828), Dụ rằng: các trấn Sơn Nam, Nam
Định, Sơn Tây, Bắc Ninh thuộc Bắc Thành, đê điều tràn vỡ… Nay cho
phép quan Bắc Thành, chiếu trong khu vực bị tai, ai bị chết đuối, bất cứ
nam, phụ, lão, ấu, đều truy cấp cho mỗi người 3 quan tiền tuất. Còn
những người nghèo đói, liệu chia ra 2 hạng: nghèo quá, nghèo vừa bất
cứ nam, phụ, lão, ấu, hạng nghèo quá, cấp mỗi người 2 quan tiền, 1
phương gạo; hạng nghèo vừa, 1 quan tiền, 1 phương gạo. [31, tr. 569].
- Năm Tự Đức thứ 2 (1849), Dụ rằng: 3 huyện Bố Trạch, Bình Chánh,
Minh Chánh hạt Quảng Bình, ruộng đất cao hạn, lúa chiêm, thu hoạch
không được mấy, thuyền buôn đi lại không đến, hiện nay giá gạo đã
cao. Cho phép quan tỉnh ấy chiếu xem dân 3 huyện, hoặc có ai nghèo
đói, thiếu thốn thời hạng nghèo quá, chẩn cho mỗi người 5, 6 bát gạo,
người nghèo vừa 3, 4 bát [31, tr. 571].
Ngoài hai bộ chính sử nói trên, các tập Đại Nam nhất thống chí do

Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn, Đại Việt sử ký toàn thư do Ngô Sỹ
Liên và các sử thần triều Lê biên soạn… là những sách cung cấp tài liệu và
nhận xét có liên quan đến các tai biến tự nhiên xảy ra dưới thời Nguyễn và
trước Nguyễn cũng là nguồn tư liệu được chúng tôi đặc biệt quan tâm khi tiến
hành nghiên cứu.
Tư liệu về các sự kiện tai biến tự nhiên và biện pháp phòng chống, khắc
phục dưới thời nhà Nguyễn qua các tài liệu kể trên khá rời rạc, tản mạn. Tuy
nhiên, các tài liệu đó cũng đã đề cập đến các vấn đề mà luận văn cần giải
quyết như các sự kiện tai biến tự nhiên xảy ra theo tiến trình thời gian (tháng,
năm); tác động của tai biến tự nhiên trong lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội;
biện pháp phòng chống và khắc phục của nhà Nguyễn.
Sau nữa là các bài viết cũng có nội dung liên quan đến tác động của tai
biến tự nhiên trên các tạp chí như Nghiên cứu Lịch sử, Nghiên cứu kinh tế,

- 11 -
Khoa học xã hội Tất cả đều là những tài liệu mà chúng tôi sẽ tham khảo
trong quá trình thực hiện luận văn.
4. Phương pháp nghiên cứu
Để đáp ứng mục đích, yêu cầu đặt ra của luận văn, trong quá trình
nghiên cứu, tác giả đã vận dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:
Phương pháp lịch sử: Với đề tài khoa học lịch sử này, luận án vận dụng
chủ yếu phương pháp lịch sử theo quan điểm duy vật biện chứng và duy vật
lịch sử của học thuyết Mác – Lênin; các hiện tượng tai biến tự nhiên xảy ra
dưới thời nhà Nguyễn được xem xét theo một trật tự thời gian cùng với những
tác động của nó đến đời sống chính trị, kinh tế và xã hội.
Tai biến tự nhiên và các biện pháp phòng chống, khắc phục của nhà
Nguyễn là một bộ phận trong hệ thống chính sách xã hội của Nhà nước, nó có
nội dung, đối tượng và tác động riêng nhưng mặt khác, nó có liên quan chặt
chẽ, tương tác với các chính sách khác và bao quát đến mọi lĩnh vực, mọi tầng
lớp xã hội. Do đó, khi khảo cứu, bên cạnh phương pháp lịch sử là chủ yếu, tác

giả sẽ kết hợp vận dụng các phương pháp phân loại, so sánh, phương pháp hệ
thống, phương pháp thống kê, bóc tách các sự kiện, hiện tượng lịch sử, nhằm
mục đích xác định diện mạo, nội dung, tác động của các hiện tượng tai biến tự
nhiên, cũng như các biện pháp phòng chống, khắc phục.
Trong quá trình nghiên cứu, tác giả còn liên hệ, so sánh giữa các thời
kỳ lịch sử trước và sau đó, để rút ra những điểm mạnh, điểm yếu cùng những
đặc điểm nổi bật của các biện pháp phòng chống, khắc phục tai biến tự nhiên
dưới thời nhà Nguyễn.
Từ những sự kiện, hiện tượng lịch sử tản mạn, đa dạng, phức tạp thuộc
các hiện tượng tai biến tự nhiên và biện pháp phòng chống, khắc phục, tác giả
đã có sự chọn lọc, sắp xếp và hệ thống lại. Từ đó, luận văn sẽ vận dụng
phương pháp lôgic nhằm phân tích, lý giải các tác động, các mối liên hệ,

- 12 -
tương tác của các biện pháp giải quyết hậu quả tai biến tự nhiên trong hệ
thống chính sách xã hội của nhà Nguyễn.
5. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung luận văn được chia làm ba chương:
Chương 1: Vài nét về tai biến tự nhiên trước thế kỷ XIX
Chương 2: Tai biến tự nhiên dưới thời Nguyễn (1802 – 1858)
Chương 3: Tác động của tai biến tự nhiên và biện pháp phòng chống,
khắc phục của nhà Nguyễn

- 13 -
Chương 1
VÀI NÉT VỀ TAI BIẾN TỰ NHIÊN TRƯỚC
THẾ KỶ XIX

1.1. Vài nét về tự nhiên Việt Nam
Các điều kiện tự nhiên bao gồm vị trí địa lý, địa hình, khí hậu, thủy

văn, thổ nhưỡng, sinh vật và những mối quan hệ tác động qua lại, chi phối lẫn
nhau giữa chúng. Chính mối quan hệ này là cơ sở tạo ra những điều kiện
thuận lợi cũng như đưa đến những vấn đề tai biến tự nhiên.
1.1.1 Vị trí địa lý
Vị trí địa lý của một lãnh thổ là một yếu tố có ý nghĩa rất quan trọng
chi phối các đặc điểm tự nhiên của lãnh thổ đó.
Trên bản đồ thế giới, Việt Nam nằm ở rìa Đông của bán đảo Đông
Dương, gần trung tâm khu vực Đông Nam Á, phía Bắc giáp với Trung Quốc,
phía Tây giáp với Lào, Campuchia, phía Đông và phía Nam giáp với Biển
Đông.
Lãnh thổ Việt Nam nối liền một dải từ điểm cực Bắc trên cao nguyên
Đồng Văn ở vĩ độ 23°23’B thuộc Lũng Cú, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang
tới điểm cực Nam trên bán đảo Cà Mau ở vĩ độ 8°34’B thuộc xã Đất Mũi,
huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau; điểm cực Tây ở kinh độ 102°10’Đ thuộc xã
Sín Thầu, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên; điểm cực Đông nằm trên bán
đảo Hòn Gốm ở kinh độ 109°24’Đ thuộc xã Vạn Hạnh, huyện Vạn Ninh, tỉnh
Khánh Hòa. Ngoài ra, nước ta còn có vùng biển rộng nằm trên Biển Đông với
trên 3000 đảo lớn, nhỏ nằm ở gần bờ và xa bờ. Vì thế, hệ tọa độ địa lý của
Việt Nam còn kéo dài tới khoảng vĩ độ hơn 6°50’B và từ khoảng kinh độ
101°Đ đến hơn 117°20’Đ trên Biển Đông.

- 14 -
Với hệ tọa độ địa lý trên, Việt Nam nằm hoàn toàn trong vành đai nóng
nội chí tuyến ở nửa cầu Bắc và gần sát với chí tuyến Bắc nên có sắc thái
chung của tự nhiên vùng nhiệt đới.
Việt Nam nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á, là một trong ba hệ
thống của khu vực châu Á gió mùa điển hình, với hai mùa rõ rệt, mùa đông là
thời kỳ hoạt động của gió mùa Đông Bắc, mùa hạ là thời kỳ hoạt động của gió
mùa Tây Nam, tạo nên đặc điểm gió mùa của khí hậu Việt Nam và sắc thái
nhiệt đới ẩm.

Việt Nam nằm ở vị trí tiếp giáp nối liền lục địa với đại dương, có quan
hệ với vành đai sinh khoáng và núi lửa Thái Bình Dương nên có tài nguyên
khoáng sản phong phú và đa dạng, đồng thời cũng xảy ra các hoạt động núi
lửa, động đất.
Do nằm ở khu vực biển nhiệt đới Tây Thái Bình Dương, một trong
những trung tâm phát sinh bão lớn trên thế giới, nên hàng năm Việt Nam phải
đối phó với hàng chục cơn bão, trong đó có nhiều cơn bão có sức tàn phá rất
lớn, gây thiệt hại nặng nề trên diện rộng.
1.1.2. Địa hình
Đặc điểm chung của địa hình Việt Nam là có cấu trúc theo hướng Tây
Bắc – Đông Nam, hướng vòng cung là chủ yếu và thấp dần ra biển.
Đặc điểm cấu trúc địa chất – kiến tạo trong lịch sử hình thành và phát
triển của tự nhiên đã khiến cho Việt Nam có nhiều đồi núi và có hướng cấu
trúc chủ yếu theo hướng Tây Bắc – Đông Nam. Đây cũng là hướng chính của
các thung lũng và các đứt gãy như đứt gãy sông Hồng, sông Đà, sông Mã,
sông Cả ở miền Bắc, rãnh Nam Bộ ở miền Nam.
Ngoài hướng cấu trúc chính Tây Bắc – Đông Nam, địa hình Việt Nam
còn có một hướng cấu trúc nữa rất độc đáo là hướng vòng cung. Hướng vòng

- 15 -
cung thể hiện rõ nét nhất và trở thành một đặc điểm nổi bật của vùng núi phía
đông Bắc Bộ, đó là các dãy núi Tam Đảo như hình nan quạt.
Chính các dãy núi cánh cung có hướng Bắc – Nam và Đông Bắc – Tây
Nam này đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho gió mùa Đông Bắc xâm nhập
nhanh chóng vào đồng bằng Bắc Bộ, làm cho vùng Đông Bắc Bắc Bộ chịu
ảnh hưởng sâu sắc nhất của gió mùa Đông Bắc và trở thành vùng có khí hậu
lạnh nhất Việt Nam về mùa đông.
Địa hình Việt Nam có xu thế thấp dần ra biển theo hướng cấu trúc của
địa hình và theo các dòng chảy. Hầu hết các sông ngòi trên lãnh thổ Việt Nam
đều trực tiếp đổ ra Biển Đông. Địa hình thấp dần ra biển đã tạo điều kiện

thuận lợi cho ảnh hưởng của biển thâm nhập vào sâu trong đất liền, trước hết
là các luồng gió thổi từ biển vào, gió đất – biển và sự xâm nhập của thủy
triều, tạo nên vùng nước lợ, nhiễm mặn và ngập mặn ở vùng ven biển.
Phần lớn địa hình Việt Nam là đồi núi, tuy vậy tính chất phân bậc của
địa hình thể hiện khá rõ rệt ở miền núi với nhiều bậc địa hình mà hiện tại là
các đỉnh núi, các sơn nguyên tại mỗi bậc có độ cao xấp xỉ như nhau. Các kiểu
địa hình chính ở Việt Nam là: địa hình núi, địa hình cao nguyên, địa hình đồi,
địa hình đồng bằng và một số kiểu địa hình đặc biệt là cacxtơ, địa hình bờ
biển.
Địa hình Việt Nam rất tiêu biểu cho địa hình của vùng nhiệt đới ẩm, đó
là hiện tượng địa hình bị xâm thực, xói mòn mạnh mẽ do dòng chảy gây lên
khiến cho lượng phù sa trên các sông suối tăng lên rất nhanh, nhất là vào thời
kỳ mùa mưa. Do đó, những trận lũ ống, lũ quét có sức tàn phá rất lớn thực sự
là các tai họa đối với các vùng núi. Ngoài ra còn phải kể đến hiện tượng đất
trượt, sụt lở đất đá, làm biến đổi nhanh chóng bề mặt địa hình.
1.1.3. Khí hậu
Khí hậu là một trong những nhân tố quyết định bộ mặt của cảnh quan

- 16 -
tự nhiên Việt Nam. Cùng với địa hình, khí hậu có tác động đến sự hình thành
lớp phủ thổ nhưỡng, thực vật, động vật và chế độ thủy văn, hải văn.
Đặc điểm chung của khí hậu Việt Nam là khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa,
có sự phân hóa đa dạng, có diễn biến bất thường.
Khí hậu Việt Nam mang tính chất nhiệt đới ẩm gió mùa. Tính chất
nhiệt đới của khí hậu thể hiện rõ nét qua yếu tố bức xạ. Lượng bức xạ tổng
cộng trung bình năm từ 110 - 130kcal/cm² ở Việt Nam là rất lớn. Nhiệt độ
trung bình hằng năm ở hầu hết các vùng trong cả nước là 22 - 25°C, ở Hà Nội
là 23,5°C, thành phố Hồ Chí Minh tới 27,1°C.
Tính chất gió mùa là sự biến thiên theo mùa của khí hậu Việt Nam, mà
nguyên nhân hình thành chính là do sự luân phiên hoạt động của gió mùa

Đông Bắc và gió mùa Tây Nam. Trên lãnh thổ Việt Nam, nơi nào cũng có hai
mùa, mùa mưa và mùa khô xen kẽ với các mức độ khác nhau, kể cả sự lệch
pha của mùa mưa và mùa khô của một số địa phương so với cả nước.
Khí hậu Việt Nam có sự phân hóa đa dạng. Trên nền tảng nhiệt đới ẩm
gió mùa, sự diễn biến của khí hậu Việt Nam rất phong phú với sự phân hóa
không gian đa dạng mà nguyên nhân chính là do đặc điểm của bề mặt đệm.
Khí hậu Việt Nam có sự phân hóa từ Bắc vào Nam, từ Đông sang Tây và từ
thấp lên cao do lãnh thổ trải dài trên nhiều vĩ độ, kết hợp với tác động của chế
độ gió mùa sự phân hóa này được thể hiện rất rõ nét trong chế độ mưa.
Việt Nam có lượng mưa trung bình hằng năm khá lớn. Lượng mưa
trung bình năm ở đồng bằng là trên 1500 mm, ở các khu vực núi cao tới 2000
– 3000 mm. Tuy nhiên, ở những nơi có địa hình khuất gió, lượng mưa chỉ trên
dưới 700 mm. Những nơi mưa nhiều nhất là các vùng núi cao có địa hình
chắn gió. Ở miền Bắc là vùng núi thượng nguồn sông Chảy (Bắc Quang 4802
mm), vùng núi Hoàng Liên Sơn (SaPa 2833 mm). Ở Trung Bộ, trên các đỉnh
núi cao của dãy Trường Sơn, lượng mưa còn lớn hơn (Hòn Ba 3751 mm).

- 17 -
Những nơi có lượng mưa trung bình là đồng bằng Bắc Bộ và dải đồng bằng
miền Trung từ Quảng Ngãi đến Phú Yên (Hà Nội 1676 mm, Quy Nhơn 1692
mm). Những nơi mưa ít nhất là đồng bằng cực Nam Trung Bộ (Phan Rang
653 mm, Mũi Dinh 757 mm) và các thung lũng ở miền núi như Mường Xén
(Nghệ An) lượng mưa hằng năm chỉ có 643 mm. Việt Nam là nước có số
ngày mưa trung bình hằng năm khá lớn, từ 100 - 150 ngày.
Nét nổi bật trong chế độ mưa là mưa theo mùa. Mùa khô ít mưa, có
tháng không có mưa. Còn mùa mưa thì lượng mưa chiếm tới 80 - 85% lượng
mưa cả năm và tháng mưa ít nhất cũng phải từ 100 mm trở lên, tháng mưa
nhiều nhất có thể 300 - 600 mm. Và mùa mưa ở Việt Nam diễn ra tại các khu
vực có sự khác nhau.
Khí hậu Việt Nam có diễn biến rất thất thường. Nguyên nhân chủ yếu

của tính chất này là do ảnh hưởng mạnh mẽ của chế độ gió mùa. Tùy thuộc
vào diễn biến từng năm của gió mùa Đông Bắc hay gió mùa Tây Nam mà khí
hậu Việt Nam có những biến động khá phức tạp. Tính chất thất thường thể
hiện trước hết qua diễn biến và đặc trưng của mùa khí hậu. Có năm gió mùa
Đông Bắc hoạt động mạnh, đem đến một mùa đông rét và kéo dài, song có
năm gió mùa Đông Bắc hoạt động yếu, gây nên thời tiết nóng đến sớm bất
thường. Gió mùa Tây Nam cũng có năm gây mưa nhiều và lũ lớn, có năm lại
hoạt động yếu thậm chí gây ra cả hạn hán trong mùa hạ.
Sự biến động trong chế độ mưa luôn xảy ra trên phạm vi toàn lãnh thổ,
có những biểu hiện rõ nét và gây nhiều tác hại lớn hơn. Sự bất thường này thể
hiện ở sự biến động của lượng mưa hàng năm, lượng mưa từng mùa và lượng
mưa trong từng tháng. Sự biến động lượng mưa hằng năm thường được biểu
thị bằng tỉ số lượng mưa của năm mưa nhiều nhất với lượng mưa của năm
mưa ít nhất. Do tính chất thất thường của chế độ mưa mà việc chống hạn,

- 18 -
chống úng ngập thường xuyên phải đặt ra ở mọi nơi và việc tưới tiêu phải
được đưa lên thành các biện pháp kỹ thuật nông nghiệp hàng đầu.
Sự diễn biến thất thường của khí hậu Việt Nam còn được biểu hiện rõ
rệt trong hoạt động của bão. Bão ở Việt Nam thường được phát sinh từ khu
vực Biển Đông (chiếm 40% tổng số cơn bão) và vùng biển phía tây Thái Bình
Dương (chiếm 60% tổng số cơn bão). Đây cũng là một trong những trung tâm
lớn phát sinh và hoạt động mạnh của bão trên thế giới. Các cơn bão nhiệt đới
được hình thành trên vùng biển nóng, có độ ẩm cao và tình trạng rất bất ổn
định của khí quyển, nên thường xảy ra vào thời kỳ mùa hạ và đã trở thành quy
luật mùa.
Mùa bão ở Việt Nam thường kéo dài từ tháng 5 đến tháng 12 và xuất
hiện sớm ở khu vực phía Bắc, chậm dần đối với khu vực phía Nam. Bão ở
Việt Nam có phạm vi ảnh hưởng khá rộng. Mỗi khi có bão thường gây ảnh
hưởng tới nhiều địa phương. Khi bão đổ bộ vào đất liền, tốc độ gió đã giảm đi

rõ rệt và ảnh hưởng trong phạm vi 50 – 100 km rồi tan. Bão có sức tàn phá
mạnh và gây mưa to nên hay gây ra những thiệt hại lớn, đặc biệt trong mùa
mưa lũ. Thông thường, mưa do bão có thể chiếm 30 – 45% lượng mưa của
mùa mưa. Vì thế, những năm không có bão hoặc ít bão, lượng mưa cả năm
giảm đi rõ rệt.
1.1.4. Thủy văn
Sông ngòi Việt Nam có mạng lưới dày đặc, nguồn nước phong phú,
nhiều phù sa. Nhờ có nguồn cung cấp nước dồi dào nên Việt Nam có tới 2360
sông lớn nhỏ, có chiều dài từ 10 km trở lên. Sông suối đã tạo nên một mạng
lưới dày đặc trên khắp mọi miền đất nước, với mật độ trung bình khoảng
0,66km/1km² diện tích lãnh thổ. Nơi có mật độ mạng lưới sông thấp là các
vùng núi đá (chủ yếu ở miền Bắc) và vùng có khí hậu khô cạn (ở cực Nam
Trung Bộ), nơi có mật độ sông suối lớn, trên 1,5 km/km² là ở các khu vực

- 19 -
miền núi cao có sườn đón gió. Các vùng đồng bằng châu thổ có mật độ mạng
lưới sông đạt giá trị cao nhất, do ngoài sông suối tự nhiên, nơi đây còn có hệ
thống mương máng, kênh rạch chằng chịt.
Đại bộ phận sông ngòi Việt Nam chảy theo hướng Tây Bắc – Đông
Nam và tất cả các sông đều đổ ra Biển Đông, tiêu biểu là các sông Chảy, sông
Hồng, sông Đà, sông Thái Bình, sông Mã, sông Cả, sông Gianh, sông Đà
Rằng, sông Tiền, sông Hậu. Điều đáng chú ý là trên một số hệ thống sông lớn
ở Việt Nam, mạng lưới sông có dạng nan quạt nên có khả năng tập trung nước
rất nhanh. Vào mùa mưa lũ, khi có mưa lớn trên một diện rộng, nước sông
dâng lên nhanh chóng nên rất dễ gây ra lũ lụt.
Do ảnh hưởng của chế độ khí hậu nhiệt đới gió mùa nên sông ngòi Việt
Nam có chế độ nước đơn giản, trong năm chỉ có một mùa lũ và một mùa cạn.
Tuy nhiên, các sông ngòi ở miền Trung lại có thêm một đỉnh lũ tiểu mãn, chủ
yếu xảy ra vào các tháng 5, 6 do các trận mưa dông nhiệt đầu mùa hạ mang lại
trong khi ở đây vẫn còn đang là các tháng mùa khô. Như vậy, lũ tiểu mãn

cùng với chế độ mưa khác biệt với miền Bắc và miền Nam đã tạo ra một kiểu
thủy chế riêng cho khu vực này.
Mùa lũ của sông ngòi kéo dài từ 3 - 6 tháng, trung bình là 4 - 5 tháng.
Trung bình lượng nước trong mùa lũ chiếm tới 70 - 80% tổng lượng nước cả
năm.
Mùa cạn trên các triền sông ở Việt Nam thường kéo dài hơn mùa lũ.
Thời kỳ mùa cạn kéo dài trung bình là 7 - 8 tháng, với lượng nước nhỏ, chỉ
chiếm từ 20 - 30% tổng lượng nước cả năm.
Chế độ nước của sông ngòi Việt Nam thường hay có những biến động
thất thường, lệ thuộc vào diễn biến bất thường của thời tiết. Có những năm ở
một số nơi đã có xuất hiện lũ cao trong thời kỳ mùa cạn do có lượng mưa khá
lớn. Ở những vùng hạ lưu và cửa sông những năm có lượng nước cạn kiệt, sẽ

- 20 -
tạo điều kiện cho thủy triều xâm nhập sâu hơn vào đất liền và gây nên tình
trạng nhiễm mặn (điển hình là ở đồng bằng sông Cửu Long). Tuy vậy, sự biến
động thất thường trong chế độ dòng chảy thường được biểu hiện rõ nét nhất
vào thời kỳ mùa lũ. Trên tất cả các triền sông thường diễn ra sự biến động về
lượng nước và thời gian xảy ra lũ lớn. Và sự biến động rất lớn so với chỉ số
trung bình nhiều năm cũng diễn ra không theo quy luật thời gian. Có những
năm lũ về rất sớm, nhưng cũng có năm lũ xảy ra muộn. Điều này gây rất
nhiều trở ngại cho các vùng không có hệ thống đê điều ngăn lũ.
1.1.5. Biển Đông
Việt Nam có vùng bờ biển rộng trên 1 triệu km² và đường bờ biển dài
hơn 3260 km. Trên vùng biển Việt Nam có 2773 đảo lớn nhỏ ven bờ và 2
quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Biển Đông là biển lớn thứ hai trong số các biển ở Thái Bình Dương và
thứ ba trên thế giới. Biển Đông có vùng thềm lục địa vào loại rộng nhất thế
giới, khoảng 1,5 triệu km² trong đó tập trung nhiều nhất ở khu vực vịnh Bắc
Bộ, vịnh Thái Lan và thềm lục địa từ Cà Mau đến Xingapo. Biển Đông ở

trung tâm khu vực Đông Nam Á, lại nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa nên
có khí hậu nóng và có sự thay đổi theo mùa. Khu vực Nam Biển Đông, từ
quần đảo Hoàng Sa trở xuống quanh năm nóng. Càng lên phía bắc, do ảnh
hưởng của không khí cực đới và dòng biển lạnh ven bờ, nhiệt độ không khí và
nước biển càng thấp. Ở khu vực vịnh Bắc Bộ cho đến eo biển Đài Loan vào
thời kỳ hoạt động mạnh của gió mùa Đông Bắc nhiệt độ nước biển có thể
xuống tới 15ºC.
Biển Đông cũng như khu vực nhiệt đới Tây Thái Bình Dương là một
trong những trung tâm bão lớn trên thế giới, hằng năm gây nên những thiệt
hại đáng kể cho các quốc gia trong khu vực và các hoạt động trên biển.
Thực tế lịch sử đã chứng minh giữa tự nhiên và sự phát triển có mối

- 21 -
quan hệ hết sức chặt chẽ, tự nhiên là địa bàn và đối tượng của sự phát triển,
còn phát triển là nguyên nhân tạo nên các biến đổi của tự nhiên. Tác động của
quá trình phát triển đến tự nhiên góp phần cải tạo môi trường tự nhiên hoặc
tạo ra kinh phí cần thiết cho sự cải tạo đó, nhưng cũng có thể gây ra ô nhiễm
môi trường tự nhiên hoặc nhân tạo. Mặt khác, môi trường tự nhiên đồng thời
cũng tác động đến sự phát triển kinh tế - xã hội thông qua việc làm suy thoái
nguồn tài nguyên đang là đối tượng của hoạt động phát triển hoặc gây ra thảm
hoạ, thiên tai đối với các hoạt động kinh tế xã hội của mỗi quốc gia. Trong
mối quan hệ đó, địa lý tự nhiên Việt Nam tạo nên những thuận lợi nhưng
cũng gây không ít khó khăn như bão lụt, hạn hán, mưa đá, động đất có ảnh
hưởng tới mọi hoạt động và đời sống của con người.
1.2. Vài nét về tai biến tự nhiên trước thế kỷ XIX
1.2.1. Thời kỳ dựng nước
Trong buổi đầu dựng nước dưới thời Hùng Vương, nền nông nghiệp
định cư đã có những tiến bộ vượt bậc, với thành tựu trong việc nắm giữ quy
luật sinh trưởng và phát triển của lúa nước và đã thuần hóa được rất nhiều
giống lúa khác nhau. Tuy nhiên, trong điều kiện thiên nhiên nhiệt đới, cư trú

trên lưu vực và châu thổ những con sông lũ lụt hung dữ, với khí hậu, thời tiết
khắc nghiệt, có thể hình dung rằng trong buổi ban đầu hạn hán, lũ lụt cùng các
hiện tượng tai biến tự nhiên khác gây cho con người rất nhiều khó khăn.
Đến thời đại Văn Lang, con người bắt đầu nhận thức ra rằng “ thiên
nhiên Việt Nam chứa đựng nhiều của cải. Song cái thiên nhiên nhiệt đới gió
mùa ẩm ướt này cũng rất khắc nghiệt đối với con người thuở xa xưa. Một
thiên nhiên còn nhiều phần hoang dại. Rừng rậm. Hổ voi. Đầm lầy. Cá sấu.
Bão tố và lụt lội. Nắng cháy và hạn hán. Con người Việt Nam thời cổ trước
hết phải đùm bọc nhau, đồng cam cộng khổ, sáng tạo kỹ thuật, mài đồ đá, đúc
đồ đồng, tiến công vào thiên nhiên. Họ chống thú dữ. Họ tìm hiểu cỏ cây có

- 22 -
ích. Họ phá rừng lập ấp, gác gỗ dựng nhà sàn. Họ đẽo thuyền, kết mảng,
dựng cột buồm…” [36, tr. 22]. Tiếp sau đó, khi đã thiết lập được một nền
nông nghiệp định cư, con người ngày càng ý thức rõ được rằng thiên tai vô
cùng khắc nghiệt và gắn liền với nền nông nghiệp trồng lúa, từ đó tìm cách
đối phó, ngăn chặn, khắc phục hoặc ít nhất cũng có khát vọng, ước mơ chế
ngự được để sinh tồn và phát triển.
Biện pháp phòng chống và khắc phục sơ khai mà cư dân Lạc Việt lựa
chọn là “ Ruộng Lạc theo nước triều lên xuống mà làm” [36, tr. 46]. Và có
thể ban đầu họ chỉ trồng cấy ở vùng đất tương đối cao, lũ ngập không sâu, họ
tìm cách be bờ để ngăn nước lụt tràn vào. Đến nay chưa thể khẳng định được
lịch sử ra đời của những bờ thửa, bờ vùng sơ khai ấy. Việc làm đơn giản đầu
tiên ấy có thể là của một vài gia đình. Nhưng bờ thấp thì lũ hay tràn vào, hàng
năm họ lại phải đắp cao lên. Nhưng đến một mức nào đó thì lũ lại không tràn
qua bờ mà theo những nẻo đất khác tuy cao hơn ruộng của họ nhưng lại thấp
thua bờ vùng, bờ thủa. Sự kiện ấy diễn đi diễn lại nhiều lần cho đến khi nhận
thức ra rằng phải đắp những bờ vùng vừa cao, vừa dài, bao quanh che chở cả
một vùng rộng lớn. Công việc này đòi hỏi phải có nhiều lao động, phải biết tổ
chức nhau lại và cùng nhằm bảo vệ lợi ích chung của từng vùng. Điều kiện

này phù hợp với giai đoạn cuối Văn Lang, đầu Âu Lạc.
Truyền thuyết Sơn Tinh – Thủy Tinh nói về đời vua Hùng Vương thứ
18 cũng là điều hợp lẽ. Lúc này có thể tổ chức xã hội tiến bộ đã cho phép họ
tổ chức nhau lại để đắp lên những con đê khoanh vùng. Những con đê khoanh
vùng này nằm rải rác đó đây, ban đầu có thể là ngăn những bờ sông, bờ suối
nhỏ, dần dần nhu cầu trị thủy càng lớn và tổ chức xã hội cho phép họ đã đắp
nên những con đê khoanh vùng lớn như các thư tịch cổ từ buổi đầu công
nguyên đã mô tả. Tác giả Giao Châu kí đã chép: “Huyện Phong Khê đã có đê
để phòng nước sông Long Môn” [36, tr. 48]. Long Môn là tên cổ của sông

×