Tải bản đầy đủ (.pdf) (326 trang)

Thiết chế chính trị Việt Nam thế kỷ XV - XVIII

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.3 MB, 326 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
o0o






PHẠM ĐỨC ANH


THIẾT CHẾ CHÍNH TRỊ VIỆT NAM
THẾ KỶ XV - XVIII







LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ








HÀ NỘI - 2007


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
o0o




PHẠM ĐỨC ANH


THIẾT CHẾ CHÍNH TRỊ VIỆT NAM
THẾ KỶ XV - XVIII


CHUYÊN NGÀNH: LỊCH SỬ VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60.22.54



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ


HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TSKH VŨ MINH GIANG








HÀ NỘI - 2007

1

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
4
1.
Lý do chọn đề tài
4
2.
Lịch sử nghiên cứu vấn đề
5
3.
Mục đích nghiên cứu
8
4.
Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
9
5.
Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
10
6.
Đóng góp của luận văn
11
7.
Bố cục luận văn
12
Chƣơng 1

MÔ HÌNH “TẬP QUYỀN QUAN LIÊU” THỜI LÊ SƠ (1428 - 1527)
13
1.1
Quá trình thiết lập mô hình nhà nƣớc Lê Sơ
13
1.2
Tổ chức và hoạt động của chính quyền trung ƣơng thời Lê Sơ
20
1.2.1
Hoàng đế và quyền hạn của Hoàng đế
20
1.2.2
Tổ chức bộ máy hành chính
22
1.2.2.1
Các cơ quan giúp việc Hoàng đế
22
1.2.2.2
Lục bộ và Lục tự
26
1.2.2.3
Các cơ quan chuyên môn
32
1.2.3
Tổ chức quân đội
34
1.2.3.1
1.2.3.2
1.2.4
Về cơ cấu tổ chức

Về cơ cấu chuyên môn
Các cơ quan giám sát và tư pháp
34
40
41
1.2.4.1
Hệ thống thanh tra, giám sát
41
1.2.4.2
Các cơ quan xử án và việc tƣ pháp
47
1.2.5
Chế độ quan chức
51
1.2.5.1
Chế độ tuyển chọn quan lại
51
1.2.5.2
Chế độ bổ dụng quan lại
56
1.2.5.3
Chế độ đãi ngộ quan lại
63
1.2.5.4
Những quy định xử phạt quan lại phạm pháp
66
1.3
Sự suy yếu và sụp đổ của mô hình Lê Sơ
67


Tiểu kết
71

2
Chƣơng 2
CHẾ ĐỘ CHÍNH TRỊ THỜI MẠC (1527 - 1592)
73
2.1
Quá trình hình thành và kiện toàn tổ chức chính quyền Mạc
73
2.2
Hoạt động của chính quyền trung ƣơng
75
2.2.1
Các vua Mạc và chế độ Thượng hoàng
75
2.2.2
Các cơ quan hành chính và đội ngũ quan chức ở trung ương
77
2.2.2.1
Phụ chính và các văn phòng giúp việc Hoàng đế
77
2.2.2.2
Lục bộ và Lục tự
85
2.2.2.3
Các cơ quan chuyên môn
89
2.2.3
Tổ chức quân đội

89
2.2.4
Hệ thống các cơ quan giám sát và tư pháp
92
2.2.4.1
Các cơ quan giám sát
92
2.2.4.2
Các cơ quan và việc tƣ pháp
95
2.2.5
Chế độ quan chức
96
2.3
Sự sụp đổ của chế độ chính trị thời Mạc
105

Tiểu kết
108
Chƣơng 3
THIẾT CHẾ “LƢỠNG ĐẦU” THỜI LÊ - TRỊNH (1599 - 1786)
111
3.1
Sự xuất hiện của thiết chế “Lƣỡng đầu”
111
3.2
Chính quyền trung ƣơng thời vua Lê chúa Trịnh
112
3.2.1
Vua Lê và chúa Trịnh

112
3.2.1.1
Vai trò của vua Lê
112
3.2.1.2
Quyền của chúa Trịnh
113
3.2.2
Chức năng và hoạt động của các cơ quan hành chính
115
3.2.2.1
Triều đình và Phủ đƣờng
115
3.2.2.2
Các văn thƣ phòng
119
3.2.2.3
Lục Bộ và Lục Phiên
122
3.2.2.4
Các cơ quan chuyên môn
133
3.2.3
Quân đội thời Lê - Trịnh
133
3.2.4
Hệ thống các cơ quan giám sát và tư pháp
141
3.2.4.1
Các cơ quan giám sát

141
3.2.4.2
Các cơ quan tƣ pháp
144
3.2.4.3
Quá trình cải biến, hoàn thiện hệ thống luật pháp và các cơ quan tƣ pháp
145

3
3.2.5
3.2.5.1
3.2.5.2
3.2.5.3
3.2.5.4
Chế độ quan chức
Các chức quan thời Lê - Trịnh
Chế độ tuyển chọn
Chế độ bổ dụng
Chế độ đãi ngộ
151
151
152
158
163
3.3
Sự sụp đổ của thiết chế “Lƣỡng đầu”
165

Tiểu kết
168

KẾT LUẬN
171
TÀI LIỆU THAM KHẢO
176
PHỤ LỤC
Phụ lục 1: Sơ đồ Tổ chức bộ máy hành chính các triều Lê Sơ, Mạc, Lê - Trịnh
187
188
Phụ lục 2: Danh sách các chức quan ở triều đình trung ƣơng thế kỷ XV-XVIII
191
Phụ lục 3: Biên niên về tổ chức và hoạt động của Lục bộ thế kỷ XV-XVIII
269
Phụ lục 4: Quá trình thăng giáng của một số quan chức thế kỷ XV-XVIII
293















4

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Chính quyền - Nhà nƣớc là bộ phận cốt yếu nhất của thƣợng tầng kiến trúc,
luôn giữ vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự vận động và phát triển của xã hội.
Lịch sử đã chứng thực rằng, sự hƣng thịnh hay suy vong của một quốc gia, một dân
tộc đƣợc tri phối mạnh mẽ bởi thiết chế chính trị, quyền lực nhà nƣớc. Chính vì thế,
các vấn đề về nhà nƣớc và pháp luật từ lâu đã là đối tƣợng nghiên cứu của nhiều
ngành khoa học khác nhau nhƣ Sử học, Chính trị học, Luật học, Triết học…
Qua gần năm trăm năm hình thành và phát triển, thể chế quân chủ tập quyền
đạt bƣớc cực thịnh dƣới thời Lê Sơ thế kỷ XV, đƣa Đại Việt trở thành quốc gia
hùng mạnh nhất khu vực Đông Nam Á. Trong số những nguyên nhân tạo nên thành
công đó, sức mạnh của thiết chế chính trị đƣợc tạo bởi sự hoạt động có hiệu quả của
bộ máy quản lý nhà nƣớc và một hệ thống pháp luật hoàn bị là nhân tố quan trọng
hàng đầu. Bƣớc sang thế kỷ XVI, thời đại hoàng kim qua đi, song dấu ấn và tầm
ảnh hƣởng của nó vẫn thể hiện đậm nét dƣới triều Mạc và Lê Trung hƣng, đến tận
thế kỷ XVIII. Nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống về thiết chế chính trị Việt
Nam giai đoạn này sẽ giúp lý giải nhiều vấn đề về lịch sử, kinh tế, văn hoá, xã hội
đất nƣớc.
Cho đến nay, những nghiên cứu của giới học giả trong và ngoài nƣớc về các
vấn đề nhà nƣớc, pháp luật, tổ chức chính quyền, thiết chế chính trị Việt Nam trong
lịch sử nói chung, giai đoạn XV-XVIII nói riêng đã đạt đƣợc nhiều thành tựu đáng
ghi nhận. Song tuy nhiên, nhiều vấn đề vẫn chƣa đƣợc quan tâm nghiên cứu đúng
mức, nhiều câu hỏi chƣa có lời giải thoả đáng, và nhất là những nghiên cứu theo
hƣớng tiếp cận toàn diện, hệ thống chƣa mấy đƣợc thực hiện.
Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nƣớc đang đặt ra yêu cầu bức
thiết về việc đổi mới hệ thống chính trị, cải cách bộ máy hành chính. Làm thế nào
để đổi mới và hoàn thiện thể chế xuất phát từ đặc điểm dân tộc là một vấn đề khoa
học có tính thực tiễn cao. Bởi lẽ ấy, những nghiên cứu, đánh giá một cách đúng đắn,
khách quan khoa học về các thiết chế chính trị trong lịch sử để thấy rõ đặc trƣng,

khuynh hƣớng phát triển và rút ra những bài học kinh nghiệm cho hiện tại là việc
làm vô cùng cần thiết.
Với những ý nghĩa trên đây, tác giả quyết định chọn “Thiết chế chính trị
Việt Nam thế kỷ XV-XVIII” làm đề tài luận văn của mình.

5
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Từ lâu, thiết chế chính trị Việt Nam trong lịch sử nói chung, giai đoạn XV-
XVIII nói riêng đã thu hút đƣợc sự quan tâm nghiên cứu của đông đảo giới học giả
trong, ngoài nƣớc với những phạm vi, mức độ và hƣớng tiếp cận khác nhau.
Ngay thời trung đại, một số các công trình khảo cứu về mặt này hay mặt
khác của thiết chế chính trị Việt Nam trong lịch sử đã xuất hiện. Đáng lƣu ý nhất
trong số đó phải kể đến ba tác phẩm: Kiến văn tiểu lục, Lịch triều hiến chương loại
chí và Sử học bị khảo.
Kiến văn tiểu lục đƣợc Lê Quý Đôn biên soạn và hoàn thành vào nửa sau thế
kỷ XVIII. Trong phần lớn quyển 2 (Thể lệ thƣợng) và quyển 3 (Thể lệ hạ) tác giả đã
tập trung trình bày về diễn biến của tổ chức bộ máy nhà nƣớc và chế độ quan lại ở
nƣớc ta từ thế kỷ XI đến thời ông đang sống. Điểm nổi bật trong nghiên cứu này là
tác giả không chỉ dừng lại ở việc khảo tả cấu trúc bộ máy quan lại mà đã kê cứu
tƣờng tận, đối chiếu với hệ thống quan chức Trung Hoa, qua đó chỉ rõ nguồn gốc
ban đầu của các chức cũng nhƣ những khác biệt về tên gọi, chức năng của một số
chức danh giữa quan chế hai nƣớc.
Lịch triều hiến chương loại chí đƣợc coi là bộ bách khoa thƣ đồ sộ do Phan
Huy Chú biên soạn vào đầu thế kỷ XIX. Trong số 10 loại chí, chỉ trừ Dƣ địa chí và
Văn tịch chí, còn lại đều liên quan trực tiếp đến lịch sử thiết chế chính trị Việt Nam
từ khởi nguồn đến trƣớc khi triều Nguyễn thành lập. Đây là một công trình nghiên
cứu công phu, kê cứu tƣờng tận và đƣợc sắp xếp khoa học, hệ thống.
Sử học bị khảo đƣợc Đặng Xuân Bảng biên soạn vào nửa cuối thế kỷ XIX.
Phần cuối của công trình này (quyển 4 - Quan chế khảo) đƣợc tác giả dành để khảo
cứu về sự thay đổi quan chế các triều, từ thời Hùng Vƣơng đến Nguyễn. Nội dung

tác phẩm đƣợc trình bày một cách sơ lƣợc, ngắn gọn và súc tích.
Dƣới thời Pháp thuộc, các công trình nghiên cứu về lịch sử thiết chế chính trị
Việt Nam, nhất là trong giai đoạn XV-XVIII xuất hiện không nhiều và chủ yếu là
của các học giả ngƣời Pháp. Đáng kể nhất trong số này phải kể đến La Justice dans
l’ancien Annam của P.Deloustan. Trong tác phẩm, tác giả đã đi sâu nghiên cứu hệ
thống pháp luật Việt Nam thời trung đại và qua đó ông là ngƣời đầu tiên chỉ ra
những tính chất độc đáo của luật pháp thời Lê.

6
Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, nhƣng những nghiên cứu của giới
sử học Việt Nam hiện đại về thiết chế chính trị Việt Nam nói chung, giai đoạn XV-
XVIII nói riêng chỉ thực sự xuất hiện sau khi hoà bình đƣợc lập lại năm 1954.
Trong số những nghiên cứu nổi tiếng của các học giả miền Nam trƣớc 1975
có thể kể đến nhƣ: Tổ chức chính quyền trung ương dưới thời Lê Thánh Tông (1460
- 1497) [1963] và Văn hoá chính trị Việt Nam - Chế độ chính trị Việt Nam thế kỷ
XVII-XVIII [1974] của Lê Kim Ngân; Les Institutions du Vietnam au XVIIIè siècle
(Những thể chế của Việt Nam thế kỷ XVIII) [Paris, 1969] của Đặng Phƣơng Nghi;
Pháp chế sử Việt Nam [1974] của Vũ Quốc Thông; Cổ luật Việt Nam thông khảo
[1972]; Cổ luật Việt Nam và tư pháp sử [1973], Pháp luật thông khảo [1974] của
Vũ Văn Mẫu…
Cùng giai đoạn này, ở miền Bắc đáng kể nhất có Sơ thảo lịch sử Nhà nước và
pháp quyền Việt Nam [1968] của tác giả Đinh Gia Trinh.
Sau khi hai miền thống nhất, trƣớc yêu cầu của công cuộc xây dựng chủ nghĩa
xã hội và đổi mới toàn diện đất nƣớc, những nghiên cứu về lịch sử nhà nƣớc và
pháp luật Việt Nam nói chung ngày càng thu hút đƣợc sự quan tâm của giới sử học
trong nƣớc, đặc biệt là từ đầu những năm 1990 lại đây. Những vấn đề lịch sử cụ thể,
thiết chế chính trị qua từng giai đoạn hoặc xuyên suốt các thời kỳ đều đƣợc tập
trung nghiên cứu ở những mức độ khác nhau. Đối với giai đoạn XV-XVIII, có thể
chia những nghiên cứu trên theo các khoảng thời gian mà chúng đề cập:
Về thiết chế chính trị thời Lê Sơ có thể kể đến Trƣơng Hữu Quýnh: Công

cuộc cải tổ và xây dựng Nhà nước pháp quyền thời Lê Thánh Tông [1992] và Suy
nghĩ về cuộc cải cách hành chính của Lê Thánh Tông [1997]; Trần Thị Tuyết
[1994]: Tổ chức bộ máy nhà nước ở trung ương thời kỳ Lê Sơ (thế kỷ XV) qua các
văn bản pháp luật; Đặng Kim Ngọc [1998]: Vấn đề tuyển dụng quan chức thời Lê
sơ (1428-1527); Nguyễn Danh Phiệt [2003]: Thời Lê sơ vào buổi suy tàn - Bi kịch
và hệ quả…
Xuất phát từ nhiều lý do khác nhau, trong đó chủ yếu là khan hiếm nguồn tài
liệu nên những nghiên cứu về lịch sử nhà Mạc nói chung có phần khiêm tốn hơn so
với các triều đại khác. Những vấn đề về thiết chế thời Mạc chủ yếu đƣợc đề cập
trong các tác phẩm: Vương triều Mạc (1527-1592) [1996] của Viện Sử học; Thiết
chế Nhà nước thời Mạc [1991], Thể chế chính trị ở Việt Nam cuối thế kỷ XV đầu thế
kỷ XVI và những hoạt động chính trị của Mạc Đăng Dung tiến tới thành lập vương

7
triều Mạc [1995]; Chế độ quân chủ thời Mạc (1527-1592) và thể chế chính trị
đương thời [1995] của tác giả Trần Thị Vinh; Lịch sử triều Mạc qua thư tịch và văn
bia [2001] của Đinh Khắc Thuân; Việt Nam thời Mạc - Cuộc chiến không khoan
nhượng giữa hai tập đoàn phong kiến Lê - Trịnh và Mạc [2004] của Nguyễn Danh
Phiệt.
Về thời Lê Trung hƣng, các nghiên cứu gồm: Nguyễn Văn Động [1994]: Tổ
chức bộ máy nhà nước ở trung ương thời vua Lê chúa Trịnh (1599-1788); Trần Thị
Vinh: Thể chế chính quyền Nhà nước Lê - Trịnh: Sản phẩm đặc biệt của lịch sử Việt
Nam thế kỷ XVII-XVIII [2004] và Phương thức tuyển dụng quan lại cho bộ máy
chính quyền nhà nước ở thế kỷ XVII-XVIII [2006]; Nguyễn Đức Nhuệ: Tìm hiểu tổ
chức Phiên trong bộ máy nhà nước thời Lê Trung hưng [1997] và Một số nét về
khoa cử và thể lệ bổ dụng quan lại thời Lê Trung Hưng [2006]; Nguyễn Văn Kim
[2003]: Về cơ chế hai chính quyền cùng song song tồn tại trong lịch sử Việt Nam và
Nhật Bản…
Xuyên suốt các giai đoạn lịch sử trên là những nguyên cứu của các tác giả
Vũ Minh Giang: Lịch sử và hiện trạng hệ thống chính trị nước ta - một số vấn đề

khoa học đang đặt ra [1993], Những hệ luận rút ra từ những đặc trưng của lịch sử
hệ thống chính trị Việt Nam [1993], Pháp luật với xã hội Việt Nam từ thế kỷ XV đến
thế kỷ XVIII [1994], Tình hình kinh tế - xã hội Việt Nam thế kỷ XV-XVII [1999]; Đặc
điểm của các hoạt động lập pháp, hành pháp và tư pháp trong lịch sử trung đại Việt
Nam [2000]…; Trƣơng Hữu Quýnh [1995]: Lịch sử nhà nước và pháp quyền Việt
Nam. Ngoài ra còn phải kể đến hai cuốn giáo trình về Lịch sử nhà nước và pháp
luật Việt Nam của Vũ Thị Phụng [1990] và của Khoa Luật, Trƣờng Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội [1998].
Do tầm quan trọng của vấn đề, lịch sử và những đặc trƣng của thiết chế
chính trị thời kỳ trung đại luôn đƣợc quan tâm nghiên cứu trong các chƣơng trình
Nhà nƣớc phục vụ cho nhiệm vụ đổi mới hệ thống chính trị. Có thể kể đến đề tài
Lịch sử và hiện trạng hệ thống chính trị Việt Nam thuộc Chƣơng trình KX.05
(1993-1995) và Những đặc trưng cơ bản của bộ máy quản lý đất nước và hệ thống
chính trị trước thời kỳ Đổi mới thuộc Chƣơng trình KX.10 (2005-2006) đều do Giáo
sƣ Vũ Minh Giang chủ trì.
Trong số những ngƣời nƣớc ngoài nghiên cứu về thiết chế chính trị, xã hội
Việt Nam giai đoạn XV-XVIII đáng lƣu ý hơn cả là hai vị học giả J.K.Whitmore

8
(ngƣời Mỹ) và Insun Yu (ngƣời Hàn Quốc). Năm 1968, J.K.Whitmore công bố The
Development of Le Government in Fifteenth Century Vietnam (Sự phát triển của
Chính quyền Lê ở Việt Nam thế kỷ XV) tại Đại học Cornell, Mỹ. Năm 1990, Insun
Yu cho xuất bản Law and Society in Seventeenth and Eighteenth Century Vietnam
(Luật và xã hội Việt Nam thế kỷ XVII-XVIII) bằng tiếng Anh tại Seoul. Bốn năm sau
(1994), tác phẩm này đƣợc dịch ra tiếng Việt và xuất bản tại Việt Nam. Bên cạnh
đó, đầu năm 2006 tác giả Insun Yu còn công bố Sự thành lập triều Lê và sự xác lập
lý luận Nho giáo từ ý niệm Phật giáo đến ý niệm Nho giáo trên Tạp chí Nghiên cứu
lịch sử.
Ngoài ra, với những mức độ và phạm vi khác nhau, các nội dung liên quan
đến thiết chế chính trị Việt Nam trong giai đoạn từ thế kỷ XV đến XVIII còn đƣợc

đề cập trong nhiều công trình nghiên cứu khác, gồm các sách chuyên khảo, kỷ yếu
hội thảo, bài đăng trên các tạp chí chuyên ngành (Nghiên cứu lịch sử, Tổ chức nhà
nước, Tạp chí khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Xưa và Nay…) của các tác giả:
Phan Huy Lê, Phan Đại Doãn, Nguyễn Quang Ngọc, Nguyễn Hải Kế…
Lƣợc qua những nghiên cứu trên đây để thấy rằng các nội dung liên quan đến
tổ chức bộ máy nhà nƣớc, hệ thống pháp luật, thể chế chính trị - xã hội Việt Nam
trong giai đoạn XV-XVIII không còn là vấn đề mới mẻ. Những thành tựu đạt đƣợc
đến nay là hết sức đáng ghi nhận. Tuy nhiên, cho đến giờ chƣa có công trình nào
nghiên cứu một cách hệ thống thiết chế chính trị Việt Nam từ thế kỷ XV đến thế kỷ
XVIII theo hƣớng vừa nghiên cứu sâu từng mô hình, vừa tìm ra mối liên hệ giữa
các giai đoạn phát triển của cả thời kỳ. Luận văn này hi vọng sẽ góp phần lấp
khoảng trống trong nhận thức khoa học với mục đích chỉ rõ những đặc trƣng ở mỗi
giai đoạn nhất định, đồng thời phát hiện các đặc trƣng xuyên suốt, những xu hƣớng
vận động, biến đổi và nguyên nhân dẫn tới sự biến đổi của thiết chế chính trị thời kỳ
này.
3. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở các nguồn tƣ liệu lịch sử, các kết quả nghiên cứu có trƣớc, luận
văn tái hiện một cách khách quan, chân thực quá trình hình thành, phát triển và suy
vong của các mô hình thiết chế chính trị ở Việt Nam từ thế kỷ XV-XVIII.
Ở mỗi giai đoạn nhất định, tác giả sẽ tập trung làm rõ những nguyên nhân,
điều kiện dẫn đến sự xuất hiện và sự hoàn thiện của mô hình; đặc tả về cấu trúc

9
chính trị, tổ chức và hoạt động của bộ máy chính quyền, hệ thống pháp luật; cũng
nhƣ chỉ ra những nguyên nhân dẫn đến sự suy yếu và sụp đổ của mô hình.
Những nội dung trên luôn đƣợc phân tích trong các mối quan hệ tƣơng tác
đồng đại và lịch đại, trong sự nhìn nhận tổng hợp các vấn đề. Qua đó tìm ra những
đặc trƣng nổi trội, những mặt tích cực và cả những hạn chế của từng thiết chế chính
trị - xã hội, góp phần chỉ ra những đặc trƣng xuyên suốt, những khuynh hƣớng vận
động của thiết chế chính trị trong thời kỳ đƣợc nghiên cứu.

Từ những bài học, kinh nghiệm lịch sử tác giả luận văn hi vọng đề xuất một
số giải pháp, khuyến nghị góp phần vào công cuộc cải cách toàn diện hệ thống
chính trị của đất nƣớc hiện nay.
4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
Từ góc độ của khoa học lịch sử, luận văn lấy thiết chế chính trị Việt Nam
trong giai đoạn từ thế kỷ XV đến XVIII làm đối tƣợng nghiên cứu. Xuất phát từ
quan điểm coi quyền lực nhà nƣớc luôn giữ vai trò quan trọng nhất trong thiết chế
chính trị, phần lớn nội dung luận văn đƣợc dành để phân tích cơ cấu tổ chức và hoạt
động của bộ máy chính quyền nhà nƣớc. Tuy nhiên, tổ chức nhà nƣớc ở đây không
phải là một cấu trúc cứng nhắc mà luôn hoạt động trong một hệ thống với tổng hoà
các quan hệ. Nghĩa là, nó đƣợc nghiên cứu trong các mối quan hệ nội tại và với các
yếu tố có tác động quan lại với nó. Chính quyền nhà nƣớc, cùng với bệ đỡ tƣ tƣởng,
nền tảng kinh tế - xã hội, các chuẩn mực chính trị và ứng xử chính trị là những nội
dung không thể tách rời.
Do khuôn khổ hạn chế của một luận văn thạc sĩ, nghiên cứu của chúng tôi
tập trung chủ yếu vào giai đoạn lịch sử gần bốn thế kỷ, từ năm 1428 đến 1786,
tƣơng ứng với ba triều đại, ba mô hình tổ chức nhà nƣớc: Lê Sơ (1428-1527), Mạc
(1527-1592) và Lê - Trịnh (1592-1786). Nhƣ vậy, về phạm vi không gian nó tƣơng
ứng với quốc gia Đại Việt thời Lê Sơ, lãnh thổ Bắc triều thời Mạc và Đàng Ngoài
thời Trịnh - Nguyễn. Ở mỗi tổ chức nhà nƣớc, chúng tôi tập trung nghiên cứu vào
bộ máy chính quyền và đội ngũ quan lại ở trung ƣơng, các cấp địa phƣơng đƣợc đề
cập trong mức độ cần thiết. Trong thời kỳ này, trên lãnh thổ nƣớc ta còn tồn tại thiết
chế chính trị của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Đây là một nội dung lớn và rất
phức tạp nên tác giả chƣa thể đề cập tới trong luận văn này.

10
5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Các nguồn tài liệu
Có thể chia tƣ liệu đƣợc sử dụng trong luận văn thành các nhóm sau:
- Các bộ sử biên niên là những tƣ liệu ghi chép về các sự kiện, nhân vật lịch

sử theo diễn trình thời gian. Hầu hết những bộ chính sử lớn nhƣ: Đại Việt sử ký toàn
thư, Đại Việt sử ký tục biên, Đại Việt thông sử, Khâm định Việt sử thông giám
cương mục, Lịch triều tạp kỷ, Việt sử cương mục tiết yếu, Lê quý kỷ sự, Lê quý dật
sử… đều đƣợc khai thác phục vụ cho luận văn. Đây là nguồn tƣ liệu quý vì thời gian
ghi chép gần với thời gian diễn ra các sự kiện.
- Các bộ hội điển, điển chế, văn bản pháp luật cổ là những tƣ liệu hết sức
quan trọng cung cấp những thông tin trực tiếp cho nội dung nghiên cứu. Các sách
thuộc loại này gồm: Quốc triều hình luật, Thiên Nam dư hạ tập, Hồng Đức thiện
chính thư, Lê triều chiếu lệnh thiện chính, Lê triều quan chế, Lê triều cựu điển, Lê
triều hội điển…
- Các sách chuyên khảo và sách thể “chí” là những công trình kê cứu hết sức
công phu, tỷ mỷ của các tác giả thời xƣa. Trực tiếp liên quan đến nội dung nghiên
cứu có các sách: Kiến văn tiểu lục, Lịch triều hiến chương loại chí, Sử học bị khảo.
- Các tác phẩm văn học sử đƣợc viết theo lối tùy bút, ký nhƣ: Vũ trung tuỳ
bút của Phạm Đình Hổ, Thượng kinh ký sự của Lê Hữu Trác, Hoàng Lê nhất thống
chí của Ngô gia văn phái là những tƣ liệu quý giá, bổ sung cần thiết cho nguồn tƣ
liệu chính thống.
- Luận văn cũng khai thác và sử dụng nguồn tƣ liệu văn bia (chủ yếu đƣợc
công bố bởi Đinh Khắc Thuân), tra cứu các sách từ điển về quan chức của Việt
Nam và Trung Quốc nhƣ: Từ điển chức quan Việt Nam của Bùi Thiết, Trung Quốc
lịch đại quan chế (bản chữ Hán), Từ điển Lịch sử chế độ chính trị Trung Quốc (bản
dịch Nxb. Trẻ, 2006)…, các sách tra cứu về khoa cử và các chức quan (Các nhà
khoa bảng Việt Nam 1070-1919 của Ngô Đức Thọ)…
- Bên cạnh thƣ tịch cổ trong nƣớc, nguồn tƣ liệu đƣơng thời còn bao gồm các
tập du ký của ngƣời nƣớc ngoài, nhất là của các tác giả Tây phƣơng từng đến Đại
Việt trong các thế kỷ XVII, XVIII. Có thể kể đến nhƣ: A.Rhodes với Lịch sử Vương
quốc Đàng Ngoài, Hành trình và truyền giáo, J.B.Tavernier: Tập du ký mới và kỳ
thú về vương quốc Đàng Ngoài, W.Dampier: Một chuyến du hành đến Đàng Ngoài

11

năm 1688, C.B.Maybon: Thương điếm Anh ở Đông Kinh thế kỷ XVII (1672-1697)
và Người châu Âu ở An Nam Đây là những ghi chép khách quan, khoa học và hết
sức sinh động của các giáo sĩ và thƣơng nhân phƣơng Tây về lịch sử, văn hoá, xã
hội Đàng Ngoài nói chung, trong đó có các vấn đề về tổ chức chính quyền, đội ngũ
quan lại, quân đội, pháp luật…
- Ngoài ra, luận văn còn kế thừa những kết quả nghiên cứu từ trƣớc đến nay
của các tác giả trong và ngoài nƣớc, đƣợc công dƣới dạng các sách chuyên khảo, kỷ
yếu hội thảo, các bài đăng tạp chí khoa học chuyên ngành và các luận án, luận văn,
khoá luận tốt nghiệp.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Với nội dung, mục đích, yêu cầu đặt ra, luận văn chủ yếu sử dụng các
phƣơng pháp truyền thống của khoa học lịch sử. Thu thập, phân tích và tổng hợp tài
liệu là những bƣớc tiến hành quan trọng nhất, qua đó, các nguồn tài liệu đƣợc tập
hợp, phân loại, kiểm chứng, so sánh, phân tích và nghiên cứu tổng hợp. Từ tƣ liệu,
lịch sử đƣợc tái tạo, song nghiên cứu không chỉ dừng lại ở việc mô tả đơn thuần, mà
nó đƣợc khái quát hoá trong phƣơng pháp hệ thống, phƣơng pháp tổng hợp và
nghiên cứu so sánh nhằm làm nổi bật những đặc trƣng cần chỉ rõ. Phƣơng pháp lịch
sử, phƣơng pháp lôgic cũng đƣợc sử dụng nhằm nhìn nhận, kiến giải, đánh giá các
sự kiện, hiện tƣợng trong chiều sâu lịch sử và mang tính thuyết phục cao.
Ngoài ra, luận văn còn sử dụng phƣơng pháp phân tích định lƣợng đối với số
liệu đám đông nhằm chỉ ra khuynh hƣớng vận động của các hiện tƣợng hoặc sự
kiện.
6. Đóng góp của luận văn
Đóng góp của luận văn sẽ bao gồm các nội dung chủ yếu sau đây: Thứ nhất,
hệ thống hoá các tƣ liệu và những kết quả nghiên cứu từ trƣớc đến nay. Thứ hai, chỉ
ra quá trình vận động và biến đổi của thiết chế chính trị Việt Nam từ thế kỷ XV đến
XVIII. Thứ ba, lý giải các nguyên nhân của sự biến đổi ấy. Ngoài ra, thông qua tập
hợp từ các nguồn sử liệu, luận văn đã kê cứu các chức quan cùng danh sách cụ thể
của hơn 2.500 nhân vật từng giữ các chức ấy qua các triều Lê Sơ, Mạc và Lê Trung
hƣng. Trên cơ đó, luận văn mong muốn góp phần đƣa ra một cái nhìn toàn cảnh và

hệ thống về thiết chế chính trị ở Việt Nam trong thời kỳ thịnh đạt nhất, song cũng
không ít những biến động về chính trị, xã hội.

12
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục nội dung chính của luận văn đƣợc
trình bày trong ba chƣơng, tƣơng ứng với ba thời kỳ lịch sử, ba mô hình tổ chức nhà
nƣớc:
Chƣơng 1:
Mô hình “Tập quyền quan liêu” thời Lê Sơ (1428-1527)
Chƣơng 2:
Chế độ chính trị thời Mạc (1527-1592)
Chƣơng 3:
Thiết chế “lƣỡng đầu” thời Lê - Trịnh (1599-1786)
*
* *
Để hoàn thành bản luận văn này, tôi đã nhận đƣợc sự chỉ bảo, giúp đỡ hết
sức tận tình và quý báu của các thầy trong Bộ môn Lịch sử Việt Nam cổ trung đại,
Khoa Lịch sử, mà trƣớc hết là từ thầy giáo hƣớng dẫn. Nhân đây em xin đƣợc bày
tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc tới các thầy, đặc biệt là GS.TSKH Vũ Minh
Giang.
Tôi cũng xin trân trọng cảm ơn các thầy cô giáo, bạn bè đồng nghiệp Khoa
Lịch sử, Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
đã luôn tạo mọi điều kiện giúp đỡ, động viên, khích lệ tôi.
Dù đã rất cố gắng, song chắc chắn bản luận văn sẽ không trách khỏi những
hạn chế, thiếu sót. Rất mong sự chỉ bảo, đóng góp của quý thầy cô cùng bạn bè
đồng nghiệp.


Hà Nội, tháng 5 năm 2007

Tác giả
Phạm Đức Anh





13
CHƢƠNG 1
MÔ HÌNH “TẬP QUYỀN QUAN LIÊU” THỜI LÊ SƠ (1428 - 1527)

Thiết chế chính trị thời Lê Sơ là một thiết chế tập quyền dựa trên một bộ máy
quyền lực (các cơ quan và chức quan) hoàn bị với một hệ thống giúp việc (liêu
thuộc) chuyên nghiệp. Để phân biệt với các thiết chế trƣớc và sau đó, chúng tôi sử
dụng khái niệm “Tập quyền quan liêu”
1
để nói về mô hình này.
1.1. Quá trình thiết lập mô hình nhà nƣớc Lê Sơ
Đại Việt nửa cuối thế kỷ XIV lâm vào cuộc khủng hoảng trên mọi phƣơng
diện kinh tế, chính trị, xã hội, kết thúc bằng sự sụp đổ của thiết chế “Tập quyền thân
dân” thời Lý - Trần. Trong chính sử về giai đoạn này có không ít những sự kiện cụ
thể phản ánh cuộc khủng hoảng này. Nông dân mất mùa, đói kém, giặc giã nổi lên
khắp nơi. Bên ngoài, quan hệ với nhà Minh xấu đi nhanh chóng. Những nƣớc vốn
thần phục Đại Việt nhƣ Ai Lao, Chiêm Thành liên tiếp đem quân quấy phá. Nhiều
lần quân Chiêm tấn công vào tận Thăng Long mà các vua Trần chỉ biết rút chạy.
Trong triều chính sự rối loạn, chỉ trong vòng hơn nửa thế kỷ có tới bảy lần thay vua.
Thậm chí, một kẻ ngoại tộc nhƣ Dƣơng Nhật Lễ cũng đƣợc đƣa lên ngôi… Triều
Trần hầu nhƣ bất lực trong việc kiểm soát tình hình đất nƣớc. Sử gia Phan Phu Tiên
từng nhận xét: “Nhà Trần từ sau khi Dụ Tông hoang dâm phóng túng, lại thêm
Chiêm Thành xâm lƣợc, quấy rối, thì giặc cƣớp rất nhiều , pháp luật không thể

ngăn cấm đƣợc” [23,184].
Tình trạng suy thoái kinh tế, những biến loạn chính trị - xã hội cuối thời Trần
có căn nguyên trong chính mô hình của nhà nƣớc đó.
Mô hình tổ chức nhà nƣớc thời Trần đƣợc dựng đặt từ thời Lý, là một thiết
chế tập quyền dựa trên sự liên kết giữa triều đình trung ƣơng do vua đứng đầu cùng
với tầng lớp quý tộc có điền trang, thái ấp riêng. Trong thiết chế này, những chức vụ
chủ chốt ở triều đình trung ƣơng cũng nhƣ ngoài các địa phƣơng đều do quý tộc
nắm giữ [91,4].
Yếu tố cốt lõi tạo nên sự gắn kết và duy trì nền thống nhất quốc gia giúp cho
mô hình đó tồn tại là mối quan hệ hoà đồng giữa làng và nƣớc, mà ruộng đất công
làng xã chính là bệ đỡ kinh tế cho các quan hệ đó. Mô hình này có chỗ dựa tinh thần

1
Cách gọi các mô hình “Tập quyền quan liêu”, “Tập quyền thân dân” và “Tập quyền chuyên chế”
đƣợc GS Vũ Minh Giang lần đầu tiên đƣa ra trong Đề tài khoa học cấp Nhà nƣớc “Lịch sử và hiện
trạng hệ thống chính trị nƣớc ta” (1993-1995), Mã số KX.05.03.

14
là ý thức tự tôn, lòng tự hào dân tộc của cả cộng đồng Việt sau hơn nghìn năm
chống Bắc thuộc, lại tiếp tục đƣợc củng cố và phát triển qua những cuộc kháng
chiến chống ngoại xâm suốt các thế kỷ XI-XIII. Bầu không khí hoà đồng còn đƣợc
tƣ tƣởng Phật giáo tôn thêm vẻ linh thiêng, hoá thân trong chính sách cai trị “thân
dân” của các vị vua triều Lý và đầu nhà Trần.
Trong quá trình phát triển, những tác động qua lại giữa các yếu tố của mô
hình và sự xuất hiện của những nhân tố mới dần dần làm biến đổi toàn hệ thống. Sự
phát triển của ruộng đất tƣ hữu là một quá trình tự nhiên. Chính sách ruộng đất của
nhà Trần trong giai đoạn đầu đã giúp cho sở hữu tƣ có điều kiện vƣơn lên phát triển
mạnh mẽ. Điều đáng nói là, sự phát triển của ruộng đất tƣ hữu không chỉ là phần
mở rộng trên những vùng đất mới khai phá mà còn bao gồm cả quá trình tƣ hữu hoá
công điền, khiến cho bộ phận ruộng đất này ngày càng bị thu hẹp. Cùng với quá

trình đó, sở hữu phong kiến ngày càng đóng vai trò quan trọng trong quan hệ ruộng
đất, trong khi sở hữu làng xã ngày càng mất dần vai trò làm bệ đỡ kinh tế cho chính
quyền trung ƣơng và chịu sự chi phối của các thế lực phong kiến địa phƣơng [57,3-
5]. Vào nửa sau thế kỷ XIV, tình hình này đã dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng.
Lúc này, vai trò kinh tế cũng nhƣ thế lực chính trị của tầng lớp đại quý tộc đã
thực sự lớn mạnh. Những vƣơng hầu, quý tộc nhà Trần là chủ những thái ấp, điền
trang rộng lớn, có phủ đệ riêng của mình, “chỉ khi chầu hầu mới đến kinh sƣ, xong
việc lại về”. Điền trang, thái ấp trở thành nơi sử dụng rất nhiều gia nô, thậm chí có
cả quân đội riêng. Khi kinh tế điền trang phát triển thì các quý tộc có xu hƣớng
củng cố và mở rộng các cơ sở kinh tế tƣ nhân của mình. Xu hƣớng ly tâm, cát cứ
trỗi dậy. Lợi ích của các phong kiến tƣ nhân và chính quyền trung ƣơng bắt đầu
xung đột. Rõ ràng, đây không chỉ là một cuộc khủng hoảng triều đại mang tính nhất
thời, mà đó là cuộc khủng hoảng của cả mô hình kinh tế - xã hội và một thiết chế
chính trị tƣơng ứng trong sự phát triển của chế độ quân chủ Việt Nam.
Nhận thấy dấu hiệu của cuộc khủng hoảng, chính quyền trung ƣơng đã thi
hành một số biện pháp nhất định song không cứu vãn nổi tình hình. Từ cuối thế kỷ
XIII, chính quyền nhà Trần đã từng bƣớc tăng cƣờng bộ máy quan liêu, đề cao Nho
học và dần đƣa Nho sĩ nắm giữ các chức vị chủ chốt trong bộ máy chính quyền.
Năm 1267, triều đình có lệnh “chọn dùng Nho sinh hay chữ sung vào quán, các,
sảnh, viện”, mở đầu cho thời kỳ giới Nho sĩ tham giữ quyền bính [23,36]. Từ đó
cho đến hết thế kỷ XIV, trong đội ngũ quan lại đã có sự thay đổi đáng kể về nhân
sự. Những quý tộc, nhất là quý tộc tôn thất thƣa vắng dần trong bộ máy chính
quyền, thay vào đó là tầng lớp quan liêu Nho sĩ… Tuy nhiên, biện pháp trên đây chỉ

15
mang tính chất nhất thời và không giải quyết đƣợc triệt để các mâu thuẫn đang ngày
càng trở nên sâu sắc. Dù những thay đổi này chƣa làm biến đổi căn bản tính chất
của thiết chế tổ chức nhà nƣớc, nhƣng dù sao đó cũng là bƣớc chuẩn bị cần thiết cho
việc xây dựng thiết chế tập quyền ở Việt Nam trong những giai đoạn sau.
Khi Hồ Quý Ly nổi lên nhƣ một nhân vật có quyền lực cao nhất trên chính

trƣờng thì nhu cầu cần phải có một cuộc cải cách toàn diện đã trở nên vô cùng bức
thiết. Lịch sử đã đặt lên vai Hồ Quý Ly và sau đó là vƣơng triều Hồ hai nhiệm vụ
cần tiến hành cùng lúc: củng cố, tăng cƣờng chế độ quân chủ tập quyền và giải
quyết các mâu thuẫn kinh tế - xã hội do cuộc khủng hoảng đặt ra. Để khắc phục tình
trạng rối loạn chính trị, Hồ Quý Ly thiết lập một vƣơng triều mới. Triều Hồ thành
lập cũng đồng thời loại bỏ vị trí chính trị của tầng lớp quý tộc Trần và chuyển dần
sang mô hình nhà nƣớc mới. Nhà Hồ đẩy mạnh giáo dục, khoa cử Nho học, tăng
cƣờng công tác tuyển chọn và sử dụng đội ngũ quan liêu mới. Ngay khi lên ngôi,
Hồ Quý Ly đã tổ chức thi Thái học sinh, lấy đỗ 20 ngƣời bổ dụng các chức khác
nhau. Năm 1404, nhà Hồ định lại thể lệ thi Hƣơng, thi Hội, quy định ba năm mở
một khoa thi, năm trƣớc thi Hƣơng năm sau thi Hội. Việc học ở các lộ, phủ, châu
cũng đƣợc chấn chỉnh, cùng với việc ban hành chế độ học quan và học điền. Một
đội ngũ đông đảo những ngƣời thuộc tầng lớp quan liêu mới đƣợc bổ sung cho bộ
máy chính quyền từ trung ƣơng đến các địa phƣơng. Pháp luật nhà nƣớc đƣợc kiện
toàn, đƣờng lối pháp trị ngày càng đƣợc đẩy mạnh.
Về các mặt kinh tế - xã hội, những chính sách cải cách cụ thể của nhà Hồ chủ
yếu nhằm hạn chế vai trò của tầng lớp quý tộc, duy trì sự tồn tại của chế độ tƣ hữu
ruộng đất trong giới hạn cho phép, đồng thời không ngừng tăng cƣờng vai trò kinh
tế nhà nƣớc. Chính sách hạn danh điền (năm 1397), hạn nô (1401) một mặt chấp
nhận về mặt pháp lý đối với sự tồn tại của những chủ tƣ hữu với mức dƣới 10 mẫu
ruộng, đồng thời góp phần củng cố tiềm lực kinh tế nhà nƣớc thông qua việc sung
công một số lƣợng không nhỏ ruộng đất và nô tỳ vốn thuộc các địa chủ, nhƣng đồng
thời cũng đánh mạnh vào tầng lớp đại quý tộc điền trang. Thêm vào đó, chính sách
phát hành tiền giấy (1396), đánh thuế thuyền buôn (1400), thuế ruộng đất (1402),
thuế đinh nam (1402), thống nhất các đơn vị đo lƣờng (1403)… đã tăng nguồn thu
nhập cho ngân sách quốc gia, phần nào đấy thể hiện sự quan tâm của nhà nƣớc đối
với lợi ích của một bộ phận dân nghèo không có hoặc có ít ruộng đất.
Dù còn chƣa hoàn toàn thống nhất khi đánh giá về các chính sách của Hồ
Quý Ly, nhƣng các nhà nghiên cứu đều thừa nhận rằng Hồ Quý Ly là một nhà cải
cách táo bạo và kiên quyết hiếm có trong lịch sử trung đại Việt Nam. Cải cách của


16
ông đã kết thúc giai đoạn tồn tại của mô hình kinh tế - xã hội cũ, với phƣơng thức
cai trị theo lối “thân dân”, chuyển sang hình thức cai trị mang dáng dấp của mô hình
“Tập quyền quan liêu”. Trong bối cảnh Đại Việt lúc bấy giờ, việc xây dựng mô hình
mới là một đòi hỏi khách quan, đáp ứng những yêu cầu phát triển nội tại của đất
nƣớc. Tiếc rằng, mô hình nhà nƣớc do Hồ Quý Ly xây dựng chƣa thể xác lập đƣợc
một cơ sở tồn tại vững chắc và do đó chƣa thể phát huy vai trò của mình thì bị gián
đoạn bởi cuộc xâm lƣợc của nhà Minh. Tuy vậy, những tƣ tƣởng cải cách của Hồ
Quý Ly cũng nhƣ khuynh hƣớng tập quyền và quan liêu của ông đã đƣợc triều Lê
Sơ hiện thực hoá.
Giành thắng lợi trong cuộc kháng chiến chống Minh, thiết lập vƣơng triều
mới trong ánh hào quang của cuộc chiến tranh giải phóng vĩ đại, triều Lê Sơ có mọi
điều kiện thuận lợi để tiếp tục phát triển mô hình nhà nƣớc theo hƣớng tập quyền
quan liêu.
Năm 1428, Lê Lợi lên ngôi Hoàng đế, lập ra triều Lê. Bên cạnh những chính
sách kinh tế, xã hội nhằm khôi phục đất nƣớc sau những năm tháng chiến tranh, Lê
Thái Tổ nhanh chóng bắt tay vào thiết lập một bộ máy chính quyền mới. Về cơ bản,
tổ chức nhà nƣớc đầu thời Lê Sơ không khác mấy so với giai đoạn cuối Trần và thời
Hồ, nhƣng đội ngũ quan lại giữ những cƣơng vị chủ chốt không còn là những quý
tộc vƣơng thất mà thay vào đó là những tƣớng lĩnh có công trong sự nghiệp bình
Ngô, một bộ phận những trí thức Nho học và một số quan lại đã từng phục vụ triều
Hồ. Để bổ sung cho đội ngũ quan lại, các vị vua đầu triều Lê chủ yếu sử dụng
phƣơng thức tập ấm, tiến cử và phần nào là khoa cử. Nho giáo đƣợc đề cao và dần
trở thành hệ tƣ tƣởng chính thống của nhà nƣớc.
Sau khi vua Thái Tổ qua đời năm 1433 có nhiều dấu hiệu cho thấy tình hình
chính trị, xã hội nhà Lê ngày càng bất ổn. Những vị vua kế nhiệm nhƣ Thái Tông,
Nhân Tông lên ngôi khi còn nhỏ tuổi (Thái Tông 10 tuổi, Nhân Tông 2 tuổi). Quyền
lực thực tế nằm trong tay các đại thần xuất thân võ tƣớng mà có nhà sử học nƣớc
ngoài gọi là nhóm “thiểu số chính trị gốc Thanh Hoá” [80]. Sự biến cung đình diễn

ra liên tiếp. Hàng loạt những “đại thần khai quốc” nhƣ Nguyễn Trãi, Lƣu Nhân
Chú, Lê Sát, Lê Ngân, Trịnh Khả… bị sát hại. Số những quan lại thanh liêm và có
trình độ không nhiều. Tình trạng quan lại đục khoét tài sản nhà nƣớc, sách nhiễu
nhân dân ngày càng phổ biến. Để mô tả khái quát tình hình triều chính rối ren và sự
bê bối của đội ngũ quan lại trong những thập niên 30 đến 50 của thế kỷ XV các sử
gia thời Lê dẫn bài Quang Thuận Trung hưng ký bình luận rằng: “Nhân Tông mới
lên hai tuổi đã sớm nối ngôi vua, Thái hậu Nguyễn Thị là gà mái gáy sớm, Đô đốc

17
Lê Khuyển nhƣ thỏ khôn giữ mệnh. Vua đàn bà mắt quáng buông rèm ngồi chốn
thâm khuê, bọn họ ngoại lòng tham, khoác lác hoành hành khắp cõi, kẻ thân yêu
nắm quyền vị, nạn hối lộ đƣợc công khai. Việc văn giáo lặng lẽ nhƣ băng hàn,
ngƣời hiền từ phải bó cánh. Bậc túc nho nhƣ Lý Tử Tấn, Trình Thuấn Du thì đẩy
vào chỗ nhàn, phƣờng dốt đặc ồn ào nhƣ ong đàn nổi dậy, nhƣ chó chuột nhe răng.
Tể thần nhƣ Lê Sủng, Lê Sát thì ngu si không phân biệt sáu loại súc vật, Chƣởng
binh Lê Điên, Lê Luyện, thì mù tịt, chẳng sao hiểu đƣợc bốn mùa một năm. Bậc
lƣơng thần nhƣ Trịnh Khả, Khắc Phục thì kèn cựa mà giết đi, ngƣời tài sĩ nhƣ
Nguyễn Mộng Tuân thì đẩy vào vòng tai hoạ. Oan uổng không chỉ kêu xin, mọi
việc thảy đều đổ nát. Văn giai nhƣ Công Soạn tuổi gần tám mƣơi, tể thần nhƣ Lê Ê
không biết một chữ. Bọn trẻ không biết nghĩ, làm bậy ngông cuồng, ngƣời già
chẳng chết đi, trở thành mối hoạ. Bán quan mua kiện, ƣa giàu ghét nghèo. Hiền tài
là rƣờng cột của triều đình mà sạch không nhƣ quét đất. Văn chƣơng là khí vận của
nhà nƣớc mà im ắng tựa cỏ khô. Bọn xiểm nịnh đƣợc tin dùng, kẻ đao bút đƣợc tiến
cử…”[23,384-85].
Đã không ít lần, nhà vua ban chiếu răn các quan lại phải giữ khuôn phép,
chấn chỉnh lề lối làm việc, song hiệu quả mang lại không đáng kể. Liên tiếp trong
các năm 1443, 1445, 1449…, những lần xảy ra thiên tai, hạn hán, mất mùa, nhà
vua
1
chỉ còn biết than trách tự hỏi: “Có phải do trẫm không biết dốc lòng thành kính

để đƣợc hƣởng lộc trời…, không biết ban ân huệ cho khắp muôn dân…, không biết
sử dụng nhân tài, những loại đƣợc dùng đều là loại hèn kém mà đến nỗi thể chăng?
Có phải do nạn hối lộ công khai, tệ phi tần lộng hành…, các đại thần giúp việc chƣa
trọn đạo, tƣớng soái phiên thần không biết yêu thƣơng quân dân, quen thói đục
khoét…, hay là quan hình ngục không giữ công bằng, chỉ lo xử nặng, kẻ nào đút lót
thì tha, để oán khí bốc lên mà đến nỗi thế chăng? …” [23,370].
Thực tế trên đây trở thành gánh nặng đặt lên vai ngƣời kế nhiệm và triều đại
của ông - vua Lê Thánh Tông. Hơn lúc nào hết, việc củng cố quyền lực của ngƣời
đứng đầu nhà nƣớc, tăng cƣờng sức mạnh và sự trong sạch của đội ngũ quan lại,
xây dựng và hoàn thiện thống pháp luật trở thành một yêu cầu bức thiết. Đó cũng
chính là mục tiêu và nội dung của công cuộc cải tổ chính trị thời Lê Thánh Tông.
Nhƣ vậy, có thể nói mô hình nhà nƣớc “Tập quyền quan liêu” đã đƣợc manh
nha vào cuối thời Trần - Hồ, bắt đầu có hình hài rõ nét ngay từ thời các vua Lê đầu
tiên, nhƣng phải đến Lê Thánh Tông mới thực sự hoàn thiện. Có thể coi lệnh “Hiệu

1
Thực tế vua Nhân Tông lúc này còn nhỏ tuổi. Quyền nhiếp chính thuộc về Thái hậu Nguyễn Thị
Anh và Thái uý Trịnh Khả.

18
định quan chế” ban hành năm 1471 nhƣ một cái mốc đánh dấu sự hoàn thiện của
mô hình nhà nƣớc Lê Sơ. Đến lúc này, cơ sở kinh tế - xã hội, nền tảng cho sự tồn tại
của mô hình ấy cũng đã đƣợc xác lập vững chắc trên cơ sở sự cân bằng giữa sở hữu
ruộng đất công, nông dân làng xã với sở hữu tƣ nhân của tầng lớp địa chủ. Cũng
vào thời điểm này, nhà nƣớc đã hoàn toàn khẳng định quyền sở hữu tối cao của
mình đối với toàn bộ ruộng đất trong cả nƣớc.
Với chế độ lộc điền, nhà nƣớc một mặt vẫn thể hiện đƣợc chính sách trọng
đãi công thần, nhƣng mặt khác với cơ chế ban cấp của nó đã hạn chế đến mức tối đa
sự phát triển của chế độ sở hữu lớn về ruộng đất và sự xuất hiện của những quý tộc
đại địa chủ, làm triệt tiêu nguy cơ cát cứ, phân quyền.

Với chế độ quân điền, lần đầu tiên nhà nƣớc đã có thể can thiệp trực tiếp vào
bộ phận ruộng đất công làng xã, song tuy nhiên nhà nƣớc vẫn tôn trọng tính tự trị và
tự quản của làng xã trong một số nguyên tắc nhất định. Xét ở góc độ này, khi nhà
nƣớc tìm ra phƣơng thức xử lý tối ƣu trong việc giải quyết mối quan hệ giữa yêu
cầu tập trung quyền lực với phát triển kinh tế chính đã tạo nên nhân tố thành công
của mô hình.
Khi nghiên cứu về tổ chức bộ máy nhà nƣớc Lê Sơ, đã từng có nhiều ý kiến
cho rằng đó là sự mô phỏng từ quan chế triều Minh.
Đặng Xuân Bảng trong Sử học bị khảo khi xét về quan chế triều Lê đã khẳng
định chắc chắn rằng: “Quan chế đời Lê hoàn toàn mô phỏng nhà Minh” [1,535].
Các tác giả sách Việt sử thông giám cương mục có chung quan điểm, nhƣng đặc biệt
nhấn mạnh ở cấu trúc nhà nƣớc thời Lê Thánh Tông. Khi chép về sự kiện vua Lê
Thái Tông ban chiếu năm 1435 yêu cầu các quan đại thần cử ngƣời giữ chức
Chuyển vận và Trấn thủ các lộ, trấn các sử gia triều Nguyễn đã dẫn theo sách Lê sử
lược đàm mà chua rằng: “(Lê) Thái Tổ cắt đặt quan chức phần nhiều noi theo phép
cũ của nhà Trần và nhà Hồ, lại dùng xen kẽ cả điển lệ nhà Minh” [25,840]. Còn về
quan chế triều Lê Thánh Tông phần nào đã đƣợc phản ánh qua câu chuyện xảy ra
năm 1485, sau khi giết Thái tử Thiếu bảo Trần Phong, vua Lê Thánh Tông đã dụ
quan Lại bộ Thƣợng thƣ Nguyễn Nhƣ Đổ rằng: “Trần Phong lúc trƣớc làm bầy tôi
cũ Lệ Đức Hầu (tức Nghi Dân), nay hắn thờ trẫm, nhƣng vẫn chứa đựng cái lòng
không hết đạo làm tôi, hắn thƣờng phỉ báng trẫm là sắp xếp quan hiệu theo chế độ
nhà Minh, mà không theo thông chế của quốc triều, hắn thật là một bầy tôi bạn
nghịch” [25,1170-71].
Quan điểm trên sau này đã đƣợc sự đồng tình của một số sử gia hiện đại. Tác
giả Trƣơng Hữu Quýnh trong bài Công cuộc cải tổ và xây dựng nhà nước pháp

19
quyền thời kỳ Lê Thánh Tông đăng trên tạp chí Nghiên cứu lịch sử số 6/1992 đã nêu
quan điểm: “Chúng ta thƣờng phê phán việc mô phỏng cách tổ chức chính quyền
của nhà Minh mà Lê Thánh Tông đã làm. Điều đó đúng. Nhƣng điều đó lại là không

tránh khỏi. Các triều đại Lý, Trần, Hồ cũng đã làm nhƣ vậy, tuy có châm trƣớc, thay
đổi ít nhiều để làm rõ tính độc lập của mình…” [130,3].
Tuy nhiên, theo chúng tôi, những ý kiến trên đây cần đƣợc xem xét lại. Ngay
từ thế kỷ XVIII, trong Kiến văn tiểu lục Lê Quý Đôn đã đƣa ra một quan điểm hoàn
toàn khác. Theo ông, “bản triều (triều Lê - TG) xếp đặt quan chức, đại lƣợc phỏng
theo nhà Tống và dùng lẫn cả chế độ nƣớc ta, thay đổi không nhất định” [6,110].
J.K.Whitmore khi nghiên cứu về sự thay đổi và phát triển của các cấu trúc
chính quyền thời Lê Sơ đã chỉ ra rằng ở giai đoạn đầu, khi Lê Lợi thiết lập vƣơng
triều ông đã dựa theo khuôn mẫu của chính phủ thời Đƣờng và các chức tƣớc mà
những vị cố vấn cao cấp của triều đình chiếm giữ là những chức “vay mƣợn một
cách ngẫu nhiên từ chế độ cũ nhà Đƣờng” [80,16]. So với mô hình của nhà Minh
đƣơng thời thì rõ ràng đã có sự “tƣơng phản giữa hai kiểu chính phủ” này [80,102].
Tuy nhiên, đến Lê Thánh Tông, “khuôn mẫu đó đã không còn phù hợp lắm”, ông
“nhận thấy một sự cần thiết rõ ràng về một đƣờng đi nào đó có thể đƣa nhà nƣớc
Đại Việt vào kiểu mẫu Khổng giáo tiêu chuẩn” [80,107]. Cách thức mà Lê Thánh
Tông sử dụng nhằm củng cố ngai vàng cũng giống nhƣ cách mà Minh Thái Tổ
(Ming Tai Zu) đã làm; một số cơ quan mà Lê Thánh Tông đã áp dụng cho tổ chức
nhà nƣớc của mình (điển hình là Thông Chính ty) là sự “rập khuôn theo nhà Minh”;
và xét đại cục thì “chính phủ nhà nƣớc Đại Việt chấp nhận hình thức chung của
chính phủ Minh” [80,165,169]. Tuy nhiên, ngay cả khi khẳng định sự mô phỏng
hay vay mƣợn mẫu hình Trung Hoa của cả cấu trúc nhà nƣớc thời Lê Thái Tổ và Lê
Thánh Tông thì nhà sử học ngƣời Mỹ này cũng không quên nhấn mạnh đến nét
khác biệt và tính sáng tạo của chúng. Nhƣ ông khẳng định: “Nói chung các tổ chức
vay mƣợn từ khuôn mẫu nhà Đƣờng nhƣng bản thân khuôn mẫu không bao giờ
đƣợc lắp kín, và các tổ chức phải dồn lại với nhau một cách ngẫu nhiên tƣơng tự và
theo kiểu không chắc chắn nhƣ trong thời kỳ trƣớc đó” [80,19]. Khi nghiên cứu về
sự thiết lập sáu Tự thời Lê Thánh Tông, Whitmore cho rằng chúng là để thay thế
cho các Viện và nhằm thực hiện những phƣơng diện có tính chất kỷ luật hơn cho
các quyết định của Hoàng đế, sáu Tự theo ông “đƣợc gom góp từ các phần khác
nhau của kiểu mẫu nhà Minh [80,169]. Còn khi so sánh cách thức để củng cố quyền

lực ngai vàng giữa Lê Thánh Tông và Minh Thái Tổ, ông đã lƣu ý rằng: “Chúng ta
sẽ không phạm sai lầm khi giả thiết ngƣời trƣớc chỉ là một ngƣời để bắt trƣớc, một
bóng mờ của ngƣời sau… Chúng ta phải tƣởng tƣợng Hoàng đế Việt Nam đã đƣợc

20
dạy dỗ theo phƣơng pháp mà qua đó Minh Thái Tổ đạt đƣợc mục đích của mình.
Tuy nhiên, chúng ta có thể thấy sự áp dụng một cách giàu tƣởng tƣợng phƣơng
pháp Minh Thái Tổ vào điều kiện đặc biệt ở Việt Nam” [80,227].
Theo quan điểm của chúng tôi, sự ảnh hƣởng của mẫu hình Trung Hoa đến
các thiết chế chính trị Việt Nam thời trung đại nói chung, giai đoạn Lê Sơ nói riêng
là điều không thể phủ nhận, song sẽ là thiếu chính xác nếu nhận định đó chỉ là sự
mô phỏng hoàn toàn hay sao chép nguyên xi. Vào đầu thời Lê Sơ, thiết chế tập
quyền quan liêu vẫn đang trong quá trình hoàn thiện. Mô hình đó có tham khảo thể
chế thời Đƣờng, Tống của Trung Hoa, nhƣng có nhiều điểm kế thừa mô hình cuối
Trần và Hồ. Đến khi hoàn thiện, cấu trúc của nó đã có những biến đổi căn bản. Ảnh
hƣởng của mẫu hình triều Minh đƣợc biểu hiện rõ nét trong cách thức tổ chức chính
quyền dƣới thời Lê Thánh Tông. Việc tìm đến kinh nghiệm tổ chức thiết chế chính
trị của triều Minh trong quá trình giải quyết tình hình chính trị - xã hội bất ổn đƣơng
thời, nhằm xây dựng Đại Việt thành một quốc gia hùng mạnh trong khu vực có thể
coi là một sự lựa chọn khôn ngoan và hợp lý. Tuy nhiên, đó hoàn toàn không phải là
sự rập khuôn theo một mẫu hình có sẵn. Ngoài các nguyên tắc chung trong việc xây
dựng cấu trúc và những kinh nghiệm trị nƣớc học tập từ triều Minh, thiết chế chính
trị thời Lê Thánh Tông còn là sự kế thừa những di sản dân tộc từ quá khứ, đồng thời
có sự bổ sung cần thiết và những nét sáng tạo độc đáo. Tất cả tạo nên một sắc thái
riêng của thời đại Lê Thánh Tông. Qua những phân tích dƣới đây về cơ cấu tổ chức
và hoạt động của bộ máy chính quyền triều Lê Sơ, chủ yếu là từ thời Lê Thánh
Tông, nhận định trên sẽ dần đƣợc làm sáng tỏ.
1.2. Tổ chức và hoạt động của chính quyền trung ƣơng thời Lê Sơ
1.2.1. Hoàng đế và quyền hạn của Hoàng đế
Trong thể chế quân chủ tập quyền Việt Nam mà đỉnh cao là giai đoạn Lê Sơ,

Hoàng đế có quyền lực khá rộng lớn. Quyền lực của Hoàng đế bao trùm thiên hạ,
nắm trong tay cả nền lập pháp, hành pháp và tƣ pháp. Vua là nguồn gốc của luật
pháp. Mọi mệnh lệnh của của vua dƣới dạng các sắc lệnh, chiếu dụ đều có giá trị
pháp lý tối cao. Pháp luật đƣợc soạn và ban bố phần nhiều cũng xuất phát từ ý
nguyện của Hoàng đế và trƣớc hết là nhằm bảo vệ quyền lợi của Hoàng đế. Duy
nhất Hoàng đế mới có quyền sửa đổi hoặc bãi bỏ luật pháp. Vì thế, “phép vua”
chính là “phép nƣớc”. Hoàng đế còn là ngƣời đứng đầu nền hành chính quốc gia,
trực tiếp điều hành hệ thống hành pháp. Vua là ngƣời có quyền lực tối cao trong
việc bổ nhiệm, thăng giáng hay trừng phạt tất cả các chức quan lại trong bộ máy
chính quyền. Về phƣơng diện tƣ pháp, vua đƣợc coi là vị thẩm phán tối cao trong

21
nƣớc, ngƣời định đoạt việc xét xử tất cả các loại án, duy nhất có quyền sửa đổi các
bản án (dù đã tuyên) hoặc ân xá cho phạm nhân.
Ngoài những quyền lực hiện hữu đó, Hoàng đế còn có nhiều đặc quyền mang
tính linh thiêng khác. Hoàng đế và tất cả những gì liên quan đến Hoàng đế đều là
điều cấm kỵ và bất khả xâm phạm. Luật pháp triều Lê nghiêm trị mọi tƣ tƣởng,
hành động có ý xâm hại đến uy tín, địa vị Hoàng đế. Tất cả những tội khi quân,
phạm thƣợng hay chống đối, phản nghịch đều bị trừng trị thích đáng.
Đối với một quốc gia phƣơng Đông thời cổ trung đại, trong đó có Việt Nam,
quyền lực của Hoàng đế gắn chặt và là biểu hiện của quyền lực nhà nƣớc. Vì thế, sự
hƣng vong của đất nƣớc trƣớc hết phụ thuộc vào phẩm chất, trí tuệ và tài năng của
vị vua.
Tuy nhiên, trong thực tế lịch sử Việt Nam cho thấy quyền lực của Hoàng đế
cũng chịu sự tác động và bị hạn chế bởi một số nhân tố nhất định.
Nhân tố đầu tiên có thể tác động và hạn chế quyền lực của Hoàng đế là
những áp lực đƣợc tạo ra từ phía nhân dân. Lòng dân đƣợc tƣ tƣởng Khổng Mạnh
coi là cội nguồn sức mạnh dân tộc. Bài học đó càng có ý nghĩa hơn đối với triều Lê
Sơ, một vƣơng triều đƣợc kiến lập trên cơ sở của sự ủng hộ nhiệt thành và sự tín
nhiệm tuyệt đối của dân chúng. Chính vì thế, mọi chính sách trƣớc khi ban hành đều

đƣợc các vua triều Lê xét tính kỹ và nó chỉ thực sự có hiệu quả khi ít nhiều đáp ứng
đƣợc nguyện vọng của nhân dân. Mọi sự phản ứng từ phía dân chúng đều đƣợc coi
là cơ sở cho những điều chỉnh trong chính sách nhà nƣớc.
Quan hệ làng xã là một nhân tố khác tác động và tri phối tới chính thể quân
chủ và quyền lực của Hoàng đế. Làng xã là nền tảng xã hội, nơi quyền lực và pháp
luật nhà nƣớc đƣợc thực thi. Tuy nhiên, do tính độc lập của nó mà quan hệ giữa
làng xã và nhà nƣớc không phải lúc nào cũng đồng nhất. Giữa luật pháp nhà nƣớc
và việc thực thi nó trong đời sống làng xã nhiều khi còn là một khoảng cách. Chính
vì thế, các vua triều Lê mặc dù luôn cố gắng tìm cách can thiệp và kiểm soát làng xã
nhƣng những chính sách đó nhìn chung không mang tính chất cƣỡng bức cực đoan
và ở một mức độ nào đó “lệ làng” vẫn đƣợc tôn trọng.
Đội ngũ quan lại, bộ phận thừa hành những mệnh lệnh của vua cũng là một
trong những nhân tố có khả năng làm giảm thiểu quyền lực tối cao của Hoàng đế.
Dƣới thời Lê Sơ, khoa cử trở thành phƣơng thức tuyển dụng chủ đạo, kết quả là
hình thành một bộ máy quan lại mà những trí thức Nho học nắm phần chủ yếu. Họ
là những ngƣời không chỉ biết tuyệt đối phục tùng mệnh lệnh, là tay chân đắc lực

22
của Hoàng đế, mà còn có thể can thiệp và làm giảm thiểu rất nhiều tính chủ quan,
độc đoán trong các quyết định của Hoàng đế. Dấu ấn của đội ngũ quan lại, nhất là
những quan lại xuất thân khoa bảng trong các mệnh lệnh của Hoàng đế, các quyết
sách của nhà nƣớc là điều có thể nhận thấy.
Một nhân tố khác có chức năng điều tiết hanh vi, hạn chế quyền lực của
Hoàng đế nằm trong chính những quy định và tổ chức bộ máy nhà nƣớc do Hoàng
đế đặt ra. Trong chính thể tập quyền, xuất phát từ sự cần thiết của việc tự giới hạn
quyền lực, nhằm hạn chế sai lầm trong những quyết định do quyền lực quá lớn gây
nên, các Hoàng đế đã đặt ra những cơ chế tự điều tiết hành vi của mình. Các quy
định về việc vua không đƣợc đọc thực lục, không đƣợc xem trƣớc hồ sơ các vụ án
do Ngự sử đài xây dựng khi xét xử… là nhằm mục đích đó. Đặc biệt, dƣới triều Lê
Sơ hệ thống thanh tra, giám sát đƣợc kiện toàn và có quyền lực rất lớn. Những lời

can gián, khuyên ngăn của ngôn quan luôn đƣợc Hoàng đế coi trọng.
Nhƣ vậy, ngay cả trong chính thể tập quyền cao độ nhƣ thời Lê Sơ thì quyền
lực tƣởng trừng nhƣ vô hạn của Hoàng đế vẫn luôn có sự giám sát và điều chỉnh
nhất định. Đây đƣợc coi là một trong những đặc trƣng nổi trội của chính thể quân
chủ Việt Nam thời trung đại.
1.2.2. Tổ chức bộ máy hành chính
1.2.2.1. Các cơ quan giúp việc Hoàng đế
Để giúp vua soạn thảo các công văn, trông coi việc giấy tờ, triều Lê Sơ từ Lê
Thánh Tông chủ yếu chỉ còn duy trì hoạt động của năm cơ quan văn phòng là: Hàn
lâm viện, Đông các, Trung thƣ giám, Bí thƣ giám và Hoàng môn sảnh.
Hàn lâm viện đƣợc đặt ra ở Trung Quốc từ đầu thời Đƣờng
1
với nhiệm vụ
phụng mệnh vua khởi thảo các bài chế, cáo, thơ, ca, văn thƣ [104,45]. Ở nƣớc ta,

1
Thời Đƣờng Thái Tông (626-649), những danh nho và học sĩ thƣờng đƣợc triệu vào kinh để giúp
vua soạn sửa chiếu chỉ, nhƣng họ chƣa có chức danh chuyên biệt. Đến thời Càn Phong (666-667),
những ngƣời này đƣợc đặt làm Bắc môn học sĩ, sau đổi làm Hàn lâm viện Đãi chiếu, rồi Hàn lâm
Cung phụng vào đời vua Huyền Tông (712-756). Năm Khai Nguyên thứ 26 (738) Học sĩ viện
chính thức đƣợc thành lập, trở thành cơ quan văn phòng độc lập giúp việc Hoàng đế. Theo chế độ
nhà Đƣờng, triều Tống tiếp tục lập Hàn lâm học sĩ viện. Triều Nguyên đổi làm Hàn lâm quốc sử
viện, đồng thời phân định rõ sáu bậc quan lại trong viện, đặt Hàn lâm viện Thừa chỉ (hàm 1b) đứng
đầu. Đến năm thứ 2 niên hiệu Hồng Vũ (1369), nhà Minh lập Hàn lâm viện với các chức quan:
Thừa chỉ (hàm 3a), Học sĩ (hàm 3b), Thị giảng học sĩ (hàm 4a), Thị độc học sĩ (hàm 4b), Trực học
sĩ, Đãi chế, Tu soạn, Ứng phụng, Biên tu và Điển bạ. Theo quan chế triều Minh, quan Hàn lâm bắt
buộc phải là Thƣợng thƣ, Tả hữu Thị lang của bộ Lễ và một trong hai Thị lang của bộ Lại. Trong
đó, Thƣợng thƣ phải là quan Học sĩ, còn Thị lang là Thị độc hoặc Thị giảng của Hàn lâm viện.
Xem Robert Des Rotours, Traité des Fonctionnaires et Traité de L’armée, San Francisco, Chinese
Materials Center, Inc, 1974, Vo.1, p.15; Guan Wenfa và Yan Guangwen, Mindai zhengzhi zhidu


23
Hàn lâm viện ra đời vào năm Quảng Hựu thứ 3 thời vua Lý Nhân Tông (1087), do
viên Học sĩ đứng đầu. Quan chế thời Trần tiếp tục noi theo, đặt Hàn lâm Phụng chỉ
đứng đầu Hàn lâm viện. Vì chức ấy rất trọng nên thƣờng dùng Thái sƣ, Nội mật
viện kiêm giữ [3,528].
Dƣới thời Lê Sơ, Hàn lâm viện vẫn là cơ quan văn phòng giúp việc quan
trọng của Hoàng đế. Phan Huy Chú cho biết: “Nhà Lê lúc mới dựng nƣớc vẫn đặt
các quan Hàn lâm viện, có những chức Phụng chỉ học sĩ (bấy giờ Nguyễn Trãi làm
Hàn lâm Phụng chỉ, giữ việc soạn các bài chế, cáo), Thị độc, Thị giảng, Trực học sĩ,
Tri chế cáo, Đãi chế, Hiệu kiểm. Sau lại đặt Đại học sĩ làm quan viện trƣởng. Thánh
Tông định lại quan chế, bãi chức Đại học sĩ mà đặt các chức Thừa chỉ, Thị độc, Thị
giảng, Thị thƣ, Đãi chế, Hiệu lý, Tu soạn, Kiểm thảo, phẩm trật ở hàng chánh tứ
phẩm trở xuống” [3,557]. Đặng Xuân Bảng cho biết thêm, Hàn lâm viện thời Lê Sơ
mô phỏng theo quan chế nhà Minh, bao gồm các chức: Hàn lâm viện Học sĩ 1, giữ
việc chế chiếu sử sách văn hàm làm cố vấn, Thị độc học sĩ, Thị giảng học sĩ mỗi
chức 2 ngƣời và Thị độc, Thị giảng đều 2, giữ việc giảng đọc kinh sử cho vua nghe
[1,542].
Khảo cứu trong chính sử cho thấy, từ thời Lê Thái Tổ đến niên hiệu Quang
Thuận (1460-1469) thời Thánh Tông, chức trƣởng quan Hàn lâm viện tồn tại dƣới
nhiều tên gọi khác nhau nhƣ: Thừa chỉ Học sĩ, Hàn lâm viện Học sĩ, Hàn lâm viện
Đại học sĩ, Thừa chỉ. Chức danh Thừa chỉ Học sĩ thời Lê Sơ xuất hiện đầu tiên năm
1427 do Nguyễn Trãi đảm nhậm. Sau đó, Nguyễn Nhƣ Đổ, Nguyễn Vĩnh Tích cùng
giữ chức này năm 1463. Chức Hàn lâm viện Học sĩ xuất hiện năm 1461, do Nguyễn
Đình Mỹ giữ. Sau đó, vào năm 1466, cả Vũ Vĩnh Trinh và Nguyễn Cƣ Đạo đều làm
chức này. Riêng Hàn lâm viện Đại học sĩ chỉ thấy duy nhất thuộc về Trần Bàn năm
1465 (Xin xem bảng 1, phần phụ lục).
Nếu tất cả các chức trên đều là trƣởng quan của Hàn lâm viện, thì đứng đầu
cơ quan này không phải một mà có thể là nhiều ngƣời. Toàn thư cho biết, vào tháng
3 năm 1466, khi vua ngự điện Kính Thiên hỏi thi đình đã sai Hàn lâm viện Đại học

sĩ quyền Ngự sử đài Đô ngự sử đại phu Trần Bàn làm giám thí; Hàn lâm viện Thừa
chỉ Nguyễn Trực, Hàn lâm viện Thừa chỉ quyền Hộ bộ Hữu thị lang kiêm Cẩn Đức
điện Đại học sĩ Nhập thị kinh diên Tả xuân phƣờng Thái tử tả dụ đức Nguyễn Cƣ
Đạo, Hàn lâm viện Học sĩ hành Hải Tây đạo Tuyên chính sứ ty tham tri kiêm Bí thƣ
giám Học sĩ Vũ Vĩnh Trinh làm độc quyển [23,409]. Trƣờng hợp này, nếu chức

yanjiu, Bắc Kinh, Trung Quốc Khoa học xã hội xuất bản xã, 1995, tr.100; Zhang Yanyu, Ming Shi
(Zhiguan zhi), q.6, 1974, tr.1787, dẫn theo Đinh Khắc Thuân [159,106-107].

×