Tải bản đầy đủ (.pdf) (180 trang)

Hoạt động của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài ở Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.08 MB, 180 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
***


CHỬ THỊ THU HÀ




HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC PHI CHÍNH PHỦ
NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM
(1996 - 2006)




LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ














HÀ NỘI - 2007


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
***


CHỬ THỊ THU HÀ



HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TỔ CHỨC PHI CHÍNH PHỦ
NƯỚC NGOÀI Ở VIỆT NAM
(1996 - 2006)




Chuyên ngành: LỊCH SỬ VIỆT NAM
Mã số: 602254







LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ


HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS. TRƯƠNG THỊ TIẾN




HÀ NỘI - 2007

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 4
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 6
Mục đích nghiên cứu 6
Nhiệm vụ nghiên cứu 6
4. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu 6
Phạm vi nghiên cứu 6
Đối tƣợng nghiên cứu 7
5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu 7
Nguồn tƣ liệu 7
Phƣơng pháp nghiên cứu 8
6. Đóng góp của luận văn 8
7. Bố cục của luận văn 8
PHẦN NỘI DUNG 9
CHƢƠNG 1. TỔNG QUAN VỀ TCPCP VÀ LỊCH SỬ HOẠT ĐỘNG
CỦA CÁC TCPCPNN Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TRƢỚC NĂM 1996 9
1.1. Tổng quan về TCPCP và viện trợ PCP 9
1.1.1. Tổng quan về TCPCP 9
1.1.1.1. Về tên gọi và bản chất của TCPCP 9
1.1.1.2. Nguyên nhân ra đời TCPCP 11

1.1.1.3. Sự phát triển của TCPCP 13
1.1.1.4. Các loại hình TCPCP 16
1.1.1.5. Nguồn tài chính của TCPCP 17
1.1.1.6. Mục đích và nội dung hoạt động của các TCPCP 19
1.1.1.7. Sự nhìn nhận về vai trò của các TCPCP 20
1.1.2. Tổng quan về viện trợ PCP 24
1.1.2.1. Sự ra đời của viện trợ 24
1.1.2.2. Hình thức của viện trợ PCP 25
1.1.2.3. Bản chất của viện trợ PCP 26
1.1.2.4. Đánh giá về vai trò của viện trợ PCP 27
1.1.3. Tổng quan về các TCPCPNN ở Việt Nam 29
1.1.3.1. Cách hiểu về TCPCPNN ở Việt Nam 29
1.1.3.2. Các loại hình TCPCPNN ở Việt Nam 30
1.1.4. Tổng quan về viện trợ PCPNN ở Việt Nam 31
1.1.4.1. Cách hiểu về viện trợ PCPNN 31
1.1.4.2. Các hình thức viện trợ PCPNN 31
1.2. Tổng quan về hoạt động của các TCPCPNN ở Việt Nam giai
đoạn trƣớc năm 1996 32
1.2.1. Giai đoạn trƣớc năm 1975 32
1.2.2. Giai đoạn từ năm 1975 đến 1986 40
1.2.3. Giai đoạn từ năm 1986 đến 1996 42
1.2.3.1. Việt Nam hình thành môi trường pháp lý cho hoạt động của
các TCPCPNN 42
1.2.3.2. Số lượng tổ chức và giá trị viện trợ 46
CHƢƠNG 2. TCPCPNN VỚI HOẠT ĐỘNG VÌ GIẢM NGHÈO VÀ
PHÁT TRIỂN………………………………………………………… 51
2.1. Những điều kiện thuận lợi mới 51
2.1.1. Việt Nam mở rộng quan hệ đối ngoại, phá thế bao vây, tham
gia tích cực vào các hoạt động quốc tế 51
2.1.2. Việt Nam ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tiếp tục đổi

mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nƣớc 52
2.1.3. Việt Nam củng cố môi trƣờng pháp lý đối với hoạt động của
các TCPCPNN 54
2.2. Sự gia tăng về số lƣợng các TCPCPNN ở Việt Nam 58
2.3. Hoạt động vì giảm nghèo và phát triển bền vững ở Việt Nam 59
2.3.1. Tích cực vận động tài trợ cho Việt Nam và sự thay đổi về hình
thức, tính chất viện trợ. 60
2.3.1.1. Tích cực vận động tài trợ cho Việt Nam 60
2.3.1.2. Sự thay đổi về hình thức, tính chất viện trợ 64
2.3.2. Chọn lựa phƣơng pháp mới trong tiếp cận với giảm nghèo 74
2.3.2.1. Phương pháp giảm nghèo có sự tham gia của người dân 74
2.3.2.2. Xây dựng năng lực cho các đối tác 77
2.3.3. Hỗ trợ các nguồn lực để giảm nghèo 79
2.3.3.1. Tìm hiểu nguyên nhân của sự nghèo đói 79
2.3.3.2. Hỗ trợ các nguồn lực 81
2.4. Những đóng góp đối với công tác đối ngoại nhân dân 106
CHƢƠNG 3. MỘT SỐ NHẬN XÉT, KIẾN NGHỊ 113
3.1. Ngày càng nhiều TCPCPNN đến Việt Nam và đã có những hoạt
động tích cực góp phần thực hiện mục tiêu giảm nghèo và phát triển
bền vững ở Việt Nam 113
3.2. Việt Nam đã tạo đƣợc môi trƣờng pháp lý tƣơng đối thuận lợi
cho hoạt động của các TCPCPNN và tích cực thực hiện phƣơng
châm “chủ động vận động, quản lý tốt hoạt động, sử dụng hiệu quả
viện trợ PCPNN” 121
3.3. Những hạn chế trong công tác quản lý, vận động, sử dụng viện
trợ PCPNN và kiến nghị một số giải pháp nhằm khắc phục 125
KẾT LUẬN 143
TÀILIỆUTHAM KHẢO…………………………………………….148
PHỤ LỤC……………………………………………………………162



DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


NXB:
Nhà xuất bản
TCN:
Trước công nguyên
TCPCPNN:
Tổ chức phi chính phủ nước ngoài
PCPNN:
Phi chính phủ nước ngoài
PCP:
Phi chính phủ
PACCOM:
Ban Điều phối viện trợ nhân dân
ODA:
Viện trợ phát triển chính thức
USD:
Đô la Mỹ


DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU TRONG LUẬN VĂN
*****



Bảng 1.1. Danh sách các TCPCPNN vào miền Nam trước năm 1975
Bảng 2.1. Giá trị viện trợ của các TCPCPNN theo khu vực địa lý(1996 - 2006)
Bảng 2.2.Số lượng dự án của các TCPCPNN thực hiện ở Việt Nam(1996 -

2006)
Bảng 2.3. Dự án của các TCPCPNN thực hiện ở Việt Nam theo khu vực địa lý
(1996 - 2006)
Bảng 2.4. Dự án của các TCPCPNN theo lĩnh vực hoạt động (1996 - 2006)
Bảng 2.5. Giá trị dự án của các TCPCPNN theo lĩnh vực hoạt động (1996 -
2006)
Bảng 3.1. Quy mô trung bình một dự án của các TCPCPNN (1996 - 2006)
Bảng 3.2. Giá trị viện trợ PCPNN trung bình theo đầu người ở Việt Nam
(1996 - 2006)
Bảng 3.3. Giá trị viện trợ PCPNN cam kết nhưng chưa được giải ngân (1996 -
2006)
Biểu đồ 1.1. Số lượng các TCPCPNN hoạt động ở Việt Nam từ 1989 -1995
Biểu đồ 1.2. Giá trị viện trợ PCPNN cho Việt Nam từ 1989 - 1995
Biểu đồ 2.1. Số lượng các TCPCPNN hoạt động ở Việt Nam (1996 - 2006)
Biểu đồ 2.2. Giá trị viện trợ PCPNN cho Việt Nam (1996 - 2006)


1
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Phát triển là nhu cầu tất yếu của mọi quốc gia và việc lựa chọn con đường
nào để tiến tới phát triển bền vững là mục tiêu mà mọi quốc gia, đặc biệt là các
nước đang phát triển đều hướng đến. Phát triển bền vững được hiểu là sự phát triển
đáp ứng được những yêu cầu của hiện tại nhưng không gây trở ngại cho việc đáp
ứng nhu cầu của các thế hệ mai sau. “Hội nghị Thượng đỉnh trái đất về môi trường
và phát triển” được tổ chức vào năm 1992 ở Rio de Janeiro (Brazil) và Hội nghị
Thượng đỉnh thế giới về phát triển bền vững tổ chức ở Giôn Hannexbớt (Cộng hoà
Nam Phi) năm 2002 đã xác định: Phát triển bền vững là quá trình phát triển có sự
kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hoà giữa ba mặt của sự phát triển. Mặt thứ nhất là

phát triển kinh tế trong đó chú trọng nhất là tăng trưởng kinh tế. Mặt thứ hai là phát
triển xã hội trong đó đề cao việc thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, xoá đói giảm
nghèo và giải quyết việc làm. Mặt thứ ba là bảo vệ môi trường với những nội dung
được đưa lên hàng đầu là xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất
lượng môi trường, phòng chống cháy và chặt phá rừng, khai thác hợp lý và sử dụng
tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên.
Ông Minoli de Bresser - Trợ lý Đại diện thường trú Chương trình Phát triển
Liên Hợp Quốc tại Việt Nam trong bài phát biểu của mình cũng khẳng định: “Sự
nghiệp phát triển con người bền vững trong thiên niên kỷ tới phải dựa trên sự kết
hợp thành công của hệ thống kinh tế thị trường với việc duy trì một môi trường và
một xã hội dân sự dựa trên hoà bình, dân chủ, sức khoẻ, những truyền thống khoan
dung và sự ổn định xã hội”. [42, lời nói đầu]
Công cuộc đổi mới của nhân dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng
Sản Việt Nam đã và đang đạt được nhiều thành tựu to lớn về mọi mặt, đặc biệt là
trong lĩnh vực kinh tế. Công cuộc đổi mới làm thay đổi nền kinh tế Việt Nam theo
hướng ổn định, phát triển và sự tăng trưởng kinh tế đã tạo nền tảng cho việc cải
thiện mức sống của nhân dân. Với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh, Đảng và Nhà nước ta luôn phấn đấu để đưa đất nước phát triển

2
bền vững. Định hướng ưu tiên của Chính phủ Việt Nam về phát triển kinh tế - xã
hội trong thời gian tới là tiếp tục phát huy sức mạnh nội lực, kết hợp với tranh thủ
ngoại lực nhằm đẩy mạnh thực hiện công cuộc đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước, bảo đảm tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội. Theo đó, đẩy mạnh công cuộc phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, phát
triển các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, tăng cường phòng chống dịch bệnh và
các tệ nạn xã hội, bảo vệ môi trường môi sinh tiếp tục là những nhiệm vụ ưu tiên
của Việt Nam. Trong đó, mục tiêu hàng đầu là đưa Việt Nam ra khỏi danh sách các
nước nghèo vào năm 2010 và trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020.
Để thực hiện thành công những nhiệm vụ ưu tiên trên, Việt Nam phải phát

huy nội lực là chính nhưng cũng rất cần đến sự hợp tác và giúp đỡ từ bên ngoài.
Cộng đồng các tổ chức phi chính phủ nước ngoài (TCPCPNN) là một trong những
lực lượng được Chính phủ Việt Nam quan tâm và tạo điều kiện khuyến khích hoạt
động. Đây là một chính sách đúng đắn bởi từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, các
TCPCPNN ngày càng trở thành một lực lượng có vai trò quan trọng mà trong quan
hệ đối ngoại của mỗi quốc gia cần phải tính đến. Với phạm vi hoạt động rộng khắp
trên thế giới, các TCPCPNN đã góp một cách có ý nghĩa vào việc cải thiện cuộc
sống của những người nghèo, những người bị thiệt thòi tại quốc gia nơi họ tiến hành
viện trợ nhằm giúp người dân nơi đó có một sinh kế đảm bảo sự phát triển bền
vững. Dự án tài trợ của các TCPCPNN đã vượt khỏi mục tiêu nhân đạo và ngày
càng hướng tới mục tiêu phát triển, đem lại lợi ích cho cộng đồng, đặc biệt là những
cộng đồng nghèo.
Khác với viện trợ phát triển chính thức (ODA) mà trong đó phần lớn là các
khoản cho vay từ chính phủ các nước cho Việt Nam, viện trợ phi chính phủ nước
ngoài (PCPNN) là khoản viện trợ không hoàn lại. So với nguồn viện trợ phát triển
chính thức (ODA), viện trợ PCPNN tuy khiêm tốn về quy mô nhưng có khả năng
đáp ứng nhanh và kịp thời các nhu cầu cấp bách của nhiều người nghèo tại những
vùng đặc biệt khó khăn của Việt Nam. Cùng với nguồn ngân sách của Nhà nước,
viện trợ PCPNN đã góp phần giải quyết một số vấn đề kinh tế - xã hội ở cấp cơ sở,
chung sức với Chính phủ và nhân dân Việt Nam trong mặt trận xoá đói giảm nghèo,

3
góp phần vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đảng, Chính phủ và
nhân dân Việt Nam rất trân trọng và đánh giá cao sự giúp đỡ từ phía các
TCPCPNN.
Với chủ trương tranh thủ tối đa và nâng cao hơn nữa hiệu quả viện trợ
PCPNN để tăng thêm nguồn lực cho phát triển đất nước, cộng với những thành
công trong công cuộc đổi mới và chính sách đối ngoại rộng mở, Việt Nam đã ngày
càng thu hút được nhiều TCPCPNN đến hoạt động. Hoạt động của các TCPCPNN ở
Việt Nam trong khoảng hơn một thập kỷ gần đây trở nên rất sôi động với sự gia

tăng về số lượng các tổ chức và giá trị viện trợ. Các quan hệ và viện trợ của các
TCPCPNN ngày càng đi vào chiều sâu. Cho đến nay, tất cả 64 tỉnh thành của nước
ta đều nhận được sự giúp đỡ thiết thực từ các TCPCPNN. Sự giúp đỡ của các
TCPCPNN đối với người dân nghèo Việt Nam không chỉ đơn thuần là hỗ trợ về vật
chất trực tiếp (tiền và hàng) mà còn lồng ghép chuyển giao kinh nghiệm và đào tạo
nhằm cung cấp cho người nghèo những phương pháp, kỹ năng làm kinh tế phù hợp
với điều kiện cụ thể của họ để họ có thể tạo dựng cho mình một cuộc sống tốt đẹp
hơn, đồng thời có thể hỗ trợ những người khác cùng vượt qua đói nghèo. Bên cạnh
đó, dự án của các TCPCPNN đều tập trung đào tạo đội ngũ cán bộ cấp cơ sở, giới
thiệu và áp dụng các phương pháp tiếp cận mới trong phát triển, như phương pháp
có sự tham gia của người dân với mục tiêu không chỉ trợ giúp cho nhóm đối tượng
hưởng lợi trực tiếp mà còn tạo các điều kiện thuận lợi, tăng cường và thúc đẩy các
thể chế để người dân có điều kiện phát triển tốt hơn.
Khái niệm “TCPCPNN” còn khá mới mẻ đối với nhiều người dân Việt Nam,
cũng như sự nhận thức về tầm quan trọng của viện trợ PCPNN còn hạn chế ở nhiều
địa phương, coi viện trợ PCPNN là cho không nên dẫn đến sự thiếu chú trọng trong
công tác vận động và sử dụng viện trợ, vẫn còn tư tưởng được đến đâu hay đến đấy.
Chính vì vậy, việc nghiên cứu, đánh giá về viện trợ PCPNN là điều cần thiết để có
sự nhận thức, khai thác và sử dụng đúng đắn, hiệu quả hơn đối với nguồn lực này.
Khu vực phi lợi nhuận, tự nguyện, hoạt động của các TCPCP (tổ chức phi
chính phủ) là một trong những chủ đề nghiên cứu được nhiều học giả trên thế giới
quan tâm. Tại các trường đại học nổi tiếng thế giới (Đại học George Town, Đại học

4
Kinh tế Luân đôn, Viện Nghiên cứu Phát triển thuộc Đại học Suxess vv…) từ lâu
nay đã thành lập các khoa chuyên nghiên cứu, giảng dạy về lĩnh vực PCP (phi chính
phủ), phi lợi nhuận và đã có nhiều công trình nghiên cứu, tài liệu về chủ đề này.
Tuy nhiên ở Việt Nam chủ đề này dường như chưa thu hút được sự quan tâm của
giới học giả và cho đến nay số lượng các tài liệu, nghiên cứu về lĩnh vực này còn rất
hạn chế.

Vì những lý do trên, tác giả xin mạnh dạn chọn đề tài “Hoạt động của các
TCPCPNN ở Việt Nam (1996 - 2006)” làm đề tài luận văn của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Như đã nói ở phần trên, mảng đề tài về các TCPCPNN ở Việt Nam còn chưa
được khai thác. Chính vì vậy, các tài liệu hiện có về chủ đề này chưa nhiều. Những
cuốn sách được giới thiệu dưới đây, kể cả tài liệu nước ngoài được dịch và xuất bản
tại Việt Nam, là những tài liệu cơ bản và tổng quan nhất về các TCPCPNN tại Việt
Nam và cũng là nguồn tài liệu tham khảo chính.
Cuốn sách đầu tiên phải kể đến là cuốn “Tổ chức và hoạt động PCPNN ở
Việt Nam” do Nguyễn Văn Thanh chủ biên được Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia
xuất bản vào năm 1995. Nội dung cuốn sách chứa đựng nhiều thông tin rất cơ bản
về sự ra đời của loại hình TCPCP trên thế giới, về tình hình hoạt động của các
TCPCPNN ở Việt Nam giai đoạn trước năm 1996 cũng như một số dự án viện trợ
tiêu biểu.
Viết về các TCPCPNN là thành viên của Trung tâm dữ liệu các TCPCP
(thuộc Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam) với những thông tin khái quát về
tên tổ chức, lịch sử ra đời, tôn chỉ, mục đích, địa chỉ liên lạc và danh mục các lĩnh
vực hoạt động của từng tổ chức là cuốn “Danh tập các TCPCPNN hoạt động tại
Việt Nam” xuất bản hàng năm từ năm 1991 (bằng tiếng Anh) và từ năm 1995 (bằng
tiếng Việt) của Trung tâm dữ liệu các TCPCP - thuộc Liên hiệp các tổ chức hữu
nghị Việt Nam.
Ngoài ra cũng cần kể đến những tác phẩm sau:

5
Sổ tay hướng dẫn các TCPCPNN tại Việt Nam của Ban điều phối viện trợ
nhân dân (PACCOM) thuộc Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam (NXB Chính
trị Quốc gia phát hành năm 2003) trong đó chủ yếu cung cấp những thông tin mang
tính chất hướng dẫn các TCPCPNN hoạt động như thông tin về môi trường pháp lý,
các lĩnh vực hoạt động mang tính định hướng ưu tiên của Chính phủ Việt Nam để
định hướng cho các TCPCPNN hoạt động.

Hành trình của một dự án phát triển (sách dịch) (NXB Chính trị Quốc gia
năm 2001) của tập thể tác giả Etienne Beaudoux, Genevieve De Crombrugghe;
Francis douxchamps; Marie - Christine Gueneau; Mark Niewkerk đã cung cấp
nhiều thông tin cơ bản như về bản chất, loại hình, nội dung của một dự án phát triển
của TCPCP. Ngoài ra, cuốn sách còn cung cấp về mặt phương pháp luận trong quá
trình triển khai những dự án phát triển và giới thiệu các phương pháp, công cụ, các
tác nhân trong dự án phát triển.
Tác phẩm Bước vào thế kỷ XXI - Hành động tự nguyện và chương trình nghị
sự toàn cầu (sách dịch) của David Korten (NXB Chính trị Quốc gia năm 1996) đã
trình bày những thách thức mà nhân loại phải đối mặt khi bước vào thế kỷ XXI và
nêu lên sự cần thiết phải đoàn kết nhau lại vì một thế giới hoà bình. Trong cuốn
sách này, tác giả khẳng định vai trò của các TCPCP trong việc thực hiện chiến lược
phát triển mới theo hướng công bằng, bền vững, vì mọi người, lấy nhân dân làm
trung tâm.
Tác phẩm Những bài học rút ra từ một thập kỷ kinh nghiệm của tác giả
Nguyễn Kim Hà là một tác phẩm phân tích chiến lược về phương pháp và hoạt động
của các TCPCPNN ở Việt Nam từ năm 1990 đến 1999. Đây là một công trình
nghiên cứu sâu và công phu. Tuy nhiên, đây không phải là một tác phẩm có cái nhìn
tổng quan về hoạt động của các TCPCPNN ở Việt Nam (đặc biệt là giai đoạn 1996 -
2006) và chưa đánh giá được đóng góp của viện trợ PCPNN đối với công cuộc xoá
đói giảm nghèo, phát triển bền vững ở Việt Nam. Bên cạnh đó cũng có những báo
cáo đánh giá hiệu quả của từng chương trình/ dự án cụ thể tại các địa phương ở Việt
Nam được thực hiện nhờ nguồn viện trợ PCPNN.

6
Tóm lại, viết về hoạt động của các TCPCPNN ở Việt Nam và đánh giá vai
trò của viện trợ PCPNN trong công cuộc xoá đói giảm nghèo vì sự phát triển bền
vững ở Việt Nam trong khoảng thời gian từ 1996 - 2006 chưa có một công trình nào
nghiên cứu một cách thực sự đầy đủ và toàn diện. Chính vì vậy đề tài nghiên cứu
này hy vọng sẽ đóng góp một phần kiến thức cùng với các tác phẩm trước đây, với

những thông tin, thực trạng và phân tích cập nhật hơn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Mục đích của Luận văn là nhằm làm rõ thực trạng hoạt động của các
TCPCPNN ở Việt Nam trong khoảng thời gian hơn mười năm (1996 - 2006) để
thấy được sự đóng góp của các TCPCPNN cho công cuộc giảm nghèo và phát triển
bền vững ở Việt Nam, qua đó nâng cao sự hiểu biết hơn về các TCPCPNN và viện
trợ PCPNN. Tìm ra những giải pháp để nâng cao chất lượng quản lý hoạt động của
các TCPCPNN, vận động và sử dụng viện trợ PCPNN một cách có hiệu quả hơn.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Với mục đích nghiên cứu trên, nội dung của Luận văn có những nhiệm vụ
sau:
- Phân tích làm rõ những kiến thức tổng quan về loại hình TCPCP, viện trợ
PCP và khái quát lịch sử hoạt động của các TCPCPNN ở Việt Nam giai đoạn trước
năm 1996.
- Khái quát về hoạt động của các TCPCPNN ở Việt Nam trong giai đoạn
(1996 - 2006) từ công tác quản lý, vận động viện trợ cho đến tình hình viện trợ của
các TCPCPNN. Với những số liệu thu thập được trong giai đoạn 1996 -2006, luận
văn đi sâu đánh giá sự đóng góp của các TCPCPNN trong việc hỗ trợ các nguồn lực
để giúp nhiều người nghèo ở Việt Nam xoá đói giảm nghèo, hướng đến sự phát
triển bền vững.
- Đưa ra một số nhận xét và đề xuất giải pháp để nâng cao chất lượng công
tác quản lý, vận động và sử dụng viện trợ PCPNN trong thời gian tới.

7
4. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của Luận văn về mặt nội dung là hoạt động của các
TCPCPNN ở Việt Nam trong đó bao gồm từ công tác quản lý Nhà nước của các cơ
quan Việt Nam có thẩm quyền đến thực trạng hoạt động của các TCPCPNN (bao

gồm số lượng tổ chức hoạt động, giá trị viện trợ, lĩnh vực viện trợ, khu vực viện trợ,
những đóng góp chủ yếu vì mục tiêu giảm nghèo và phát triển bền vững của Việt
Nam).
Phạm vi nghiên cứu của Luận văn về mặt thời gian là từ năm 1996 đến năm
2006. Lý do chọn mốc từ năm 1996 là vì đây là mốc thời gian khuôn khổ pháp lý
của Nhà nước Việt Nam đối với hoạt động này được chuyển sang một giai đoạn
mới với nhiều cải tiến và đây cũng là giai đoạn hoạt động của các TCPCPNN ở Việt
Nam diễn ra sôi động, có nhiều đóng góp tích cực trong công cuộc phát triển kinh tế
- xã hội ở Việt Nam.
Do mục đích của Luận văn tập trung làm rõ những đóng góp của các
TCPCPNN vì giảm nghèo và phát triển bền vững ở Việt Nam nên không đi sâu tìm
hiểu về một số mặt còn hạn chế trong hoạt động của một số TCPCPNN và hy vọng
nội dung này sẽ được nghiên cứu trong một đề tài khác.
Đối tƣợng nghiên cứu
Với đề tài “Hoạt động của các TCPCPNN ở Việt Nam (1996- 2006)”, đối
tượng nghiên cứu của Luận văn là các TCPCPNN hoạt động ở Việt Nam trong
những năm 1996 - 2006.
5. Nguồn tƣ liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
Nguồn tƣ liệu
Luận văn dựa vào các nguồn tài liệu chính sau:
- Các báo cáo của Uỷ ban công tác về các TCPCPNN.
- Các công trình nghiên cứu trước đây về các TCPCPNN tại Việt Nam.

8
- Những đánh giá cuối kỳ về các dự án của một số TCPCPNN được lưu trữ tại
cơ sở dữ liệu của Ban điều phối viện trợ nhân dân (PACCOM) và của Trung
tâm dữ liệu các TCPCP thuộc Liên hiệp các tổ chức hữu nghị Việt Nam.
- Sách, báo, tạp chí của một số tác giả trong và ngoài nước có liên quan đến
các TCPCPNN.
- Một số trang web.


Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu lịch sử là chủ yếu, kết hợp với
các phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp để hoàn thành các nhiệm vụ
mà luận văn đặt ra.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn là một công trình nghiên cứu tương đối toàn diện về các
TCPCPNN tại Việt Nam, tổng hợp các mốc quan trọng trong quan hệ giữa Việt
Nam và các TCPCPNN, đưa ra một bức tranh tổng quan về thực trạng hoạt động
của các TCPCPNN ở Việt Nam trong thời gian hơn mười năm gần đây.
- Qua sự hệ thống, khái quát đó, luận văn đưa ra một số nhận xét, đánh giá về
hoạt động của các TCPCPNN, đề xuất một số kiến nghị, giải pháp, góp phần giúp
cho công tác vận động, quản lý và sử dụng viện trợ PCPNN được hiệu quả hơn.
- Luận văn có thể làm cơ sở tham khảo cho các cơ quan quản lý nhà nước về
công tác quản lý hoạt động của các TCPCPNN, các tổ chức Bộ ngành cả ở Trung
ương và địa phương muốn tìm hiểu về các TCPCPNN ở Việt Nam, sinh viên học
trong các ngành phát triển xã hội, cũng như chính các TCPCPNN đang hoạt động
tại Việt Nam.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung luận văn gồm có 3 chương:

9
Chương 1: Tổng quan về TCPCP và Lịch sử hoạt động của các TCPCPNN ở Việt
Nam giai đoạn trước năm 1996
Chương 2: TCPCPNN với hoạt động vì giảm nghèo và phát triển ở Việt Nam
(1996 - 2006)
Chương 3: Một số nhận xét, kiến nghị

10
PHẦN NỘI DUNG

CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ TCPCP VÀ LỊCH SỬ HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC TCPCPNN
Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TRƢỚC NĂM 1996

1.1. Tổng quan về TCPCP và viện trợ PCP
1.1.1. Tổng quan về TCPCP
1.1.1.1. Về tên gọi và bản chất của TCPCP
Ngày nay, “TCPCP” là một từ phổ biến và quen thuộc trên thế giới bởi các
TCPCP ra đời và hoạt động như một hiện tượng xã hội đầy sức sống và mang tính
toàn cầu.
TCPCP - tên tiếng Anh là Non-Governmental Organization (viết tắt: NGO)
là tên gọi chỉ mới xuất hiện từ giữa thế kỷ XX. Trước đó, loại hình tổ chức này là
các tổ chức nhân đạo và cộng đồng. Khi nói về NGO, nhiều nước trên thế giới có
những quan niệm, cách nhìn và sự đánh giá không giống nhau. Danh từ “TCPCP”
cũng không phải là một thuật ngữ thống nhất mang tính pháp lý chung, có nhiều
cách gọi khác nhau ở các nước tuỳ theo tính chất cần nhấn mạnh. Cụ thể như ở Mỹ,
loại hình tổ chức này được gọi là các tổ chức tự nguyện tư nhân (Private Voluntary
Organization, viết tắt là PVO) để nhấn mạnh tính chất tự nguyện hay gọi là tổ chức
không vụ lợi (Non Profit Organization viết tắt là NPO) nhằm nhấn mạnh tính chất
phi lợi nhuận. Ngoài ra, ở một số quốc gia khác, loại hình tổ chức này chỉ đơn thuần
gọi là tổ chức nhân dân (People Organization, viết tắt là PO) nghĩa là tổ chức do
nhân dân lập nên.
Tuy nhiên, tên gọi Non Governmental Organization (TCPCP) vẫn được đa số
các nước sử dụng với mục đích nhấn mạnh tính chất không phải do chính phủ lập
nên. Ngân hàng thế giới đã đưa ra khái niệm về loại hình TCPCP như sau: “TCPCP
là thuật ngữ dùng để chỉ một tổ chức, hiệp hội, quỹ văn hoá xã hội, uỷ hội từ thiện,
tập đoàn phi lợi nhuận hoặc các pháp nhân mà theo pháp luật không thuộc khu vực
nhà nước và không hoạt động vì lợi nhuận. Loại hình tổ chức này không bao gồm

11

các nghiệp đoàn, đảng phái chính trị, hợp tác xã phân chia lợi nhuận hay nhà thờ”
[36, tr11- 12]
Năm 1993, Chương trình phát triển của Liên Hợp Quốc (UNDP) đưa ra khái
niệm cụ thể hơn: Các TCPCP là những tổ chức tư nhân, tự nguyện, không vì lợi
nhuận và được hỗ trợ ít ra là một phần bởi sự đóng góp tự nguyện của công chúng
[154].
Như vậy theo khái niệm trên, TCPCP là tên gọi chung của một loại hình tổ
chức hoạt động song song và bổ trợ cho các chương trình kinh tế - xã hội của nhà
nước do nhân dân lập nên trên cơ sở tiền của, công sức của nhân dân. Loại hình tổ
chức này bao gồm nhiều hình thức tổ chức khác nhau như Hội, Đoàn, Hiệp hội,
Quỹ, Câu lạc bộ, Viện, Trung tâm hoặc có thể chỉ do một số cá nhân đứng ra
thành lập. Một TCPCP có thể hoạt động như là một tổ chức tài trợ hay như là một tổ
chức triển khai viện trợ.
Xét về bản chất, các TCPCP có chung ba tính chất cơ bản. Tính chất thứ nhất
là đứng ngoài chính phủ. Tính chất này có nghĩa là các TCPCP không phải là một
đảng phái chính trị, không được phép tham gia vào các hoạt động chính trị, không
nằm trong khu vực Nhà nước. Dù vẫn chịu sự quản lý của pháp luật nhưng các
TCPCP không do chính phủ thành lập và hoạt động tương đối độc lập với chính
phủ. Tương đối độc lập nghĩa là trên thực tế, có một số TCPCP các nước còn phụ
thuộc vào chính phủ nước họ bằng việc nhận sự tài trợ về tài chính. Tuy nhiên xét
về bản chất các tổ chức này vẫn được coi là PCP bởi về mặt pháp lý những tổ chức
này không đại diện cho chính phủ nước họ mà chỉ đại diện cho tổ chức của mình.
Khi thành lập, các tổ chức này vẫn đăng ký với chính phủ là một tổ chức mang tính
chất tư nhân. Vì vậy, để nhận biết tính chất PCP của một tổ chức thì phải nhìn vào
hình thức tổ chức và phương thức hoạt động của tổ chức đó chứ không chỉ căn cứ
vào nguồn tài trợ mà một tổ chức có được.
Tính chất thứ hai là tính chất tự nguyện. Tính tự nguyện của TCPCP được
biểu hiện trong việc lựa chọn mục tiêu thành lập tổ chức cũng như trong việc lựa
chọn nội dung hoạt động. Những con người có cùng suy nghĩ, lý tưởng tự tìm đến


12
với nhau và họ hoạt động vì những mục tiêu cao cả, vì lợi ích của cộng đồng như
cứu trợ trẻ em, giúp đỡ người tàn tật, giúp những người lưu lạc, bảo vệ môi
trường Các cá nhân trong tổ chức đều tự nguyện và tự giác thực hiện các nhiệm
vụ của tổ chức mình mà không đòi hỏi một điều kiện nào trong khi làm việc. Tính
chất tự nguyện, tự quản của các TCPCP bền vững tới mức trở thành nguyên tắc hoạt
động của tổ chức và tạo nên nét đặc trưng riêng của loại hình tổ chức này.
Thứ ba là tính chất phi lợi nhuận hay còn gọi là tính chất không vụ lợi. Đây
cũng là một đặc trưng quan trọng của TCPCP. Các TCPCP ra đời đều xuất phát từ
mục đích nhân đạo và cộng đồng chứ không phải xuất phát từ mục đích thương mại.
Tác giả Howard L. Oleck và Marth E. Stewart trong tác phẩm “Các hội, tổ
chức và tập đoàn không vụ lợi” đã giải thích tính chất không vụ lợi có nghĩa là
không bộ phận thu nhập hoặc lợi nhuận nào được chia cho các thành viên, giám
đốc, nhân viên. [103, tr 15-16]
Nói cách khác, việc thành lập tổ chức không nhằm mục tiêu tìm kiếm lợi
nhuận để chia cho các thành viên. Có những TCPCP kiếm lời bằng việc sản xuất,
kinh doanh dịch vụ nhưng chỉ để tự trang trải chi phí hoạt động, để lấy tiền tài trợ
cho các chương trình, dự án và để phát triển tổ chức của mình.
Tóm lại, đứng ngoài chính phủ, tự nguyện và không vì mục tiêu lợi nhuận là
ba đặc trưng cơ bản của các TCPCP. Dù được gọi theo những tên gọi khác nhau:
TCPCP, tổ chức phi lợi nhuận hay tổ chức tự nguyện nhân dân thì chúng vẫn có
những bản chất cơ bản nêu trên.
1.1.1.2. Nguyên nhân ra đời TCPCP
Về lịch sử ra đời, các TCPCP ra đời xuất phát từ yêu cầu giải quyết những
vấn đề xã hội mang tính chất từ thiện và nhân đạo. Tiền thân của các TCPCP ngày
nay là các nhóm tự nguyện tiến hành các hoạt động từ thiện mang mục đích cứu trợ,
giúp đỡ những con người bất hạnh trong cuộc sống, những nạn nhân của thiên tai và
chiến tranh. Hoạt động từ thiện, nhân đạo là một hoạt động có từ rất lâu trong lịch
sử nhân loại, từ khi xã hội phân chia giai cấp và nảy sinh những bất công đối với
giai cấp bị thống trị. Phôi thai của hoạt động từ thiện chính là xuất phát từ lòng nhân


13
ái. Đây là hoạt động thể hiện tính nhân văn sâu sắc của con người và phát triển theo
sự tiến bộ của xã hội.
Loại hình hoạt động tình nguyện cứu trợ nhân đạo đã xuất hiện từ rất lâu
trong lịch sử nhân loại và tồn tại ở mọi quốc gia, mọi chế độ xã hội. Ở các nước
Châu Á, Châu Âu, Châu Phi, Châu Mỹ đều xuất hiện những hoạt động từ thiện
nhằm cưu mang, giúp đỡ những con người nghèo khó. Theo các nhà sử học, từ thời
cổ đại, những việc làm cụ thể để giúp đỡ những người nghèo đói, những người đau
yếu, tàn tật, cô đơn đã được nhiều cá nhân thực hiện.
Từ 1400 năm TCN (trước công nguyên), những người thợ đẽo đá Ai Cập đã
biết lập quỹ tập thể để cứu trợ nhau khi xảy ra tai nạn. Ở Hy Lạp cổ đại, người dân
cùng đóng nguyệt liễm để giúp vào việc mai táng cho người quá cố hoặc để hỗ trợ
lẫn nhau khi một thành viên của họ gặp phải hoàn cảnh éo le như thiếu lương thực,
ốm đau, bệnh tật Thế kỷ thứ VIII TCN, những người thợ mộc, thợ rèn, thợ gốm,
thợ thuộc da thời La Mã cũng đã biết lập phường, lập hội tương tế. Vào thế kỷ XI
và XII, dưới ảnh hưởng của giáo hội, nhiều tổ chức từ thiện, cứu trợ ra đời ở Châu
Âu và hoạt động ngày càng mang tính tổ chức cao, độc lập với giới chủ. Và chính
những bất công xã hội nảy sinh từ thế kỷ XIV đã làm cho hoạt động tương tế của
những người lao động ngày càng có tính tổ chức. Họ lập phường, hội nghề nghiệp
của riêng họ, biệt lập với giới chủ.
Cách đây hơn hai trăm năm, khi người Anh đổ bộ lên Châu Mỹ, họ cũng đã
tổ chức ra các hội để giúp đỡ lẫn nhau trong những ngày đầu lập nghiệp.
Dưới chế độ phong kiến, ở Châu Âu cũng như Châu Á, mỗi khi đất nước gặp
thiên tai bão lụt, hạn hán, nhà vua đều có lệnh phát chẩn cứu đói, giảm thuế, giảm
sưu cho dân. Còn nhân dân thì nhường cơm sẻ áo cho nhau, lá lành đùm lá rách.
Sang thời kỳ tư bản chủ nghĩa, khi sự phân biệt giàu nghèo diễn ra ngày càng
sâu sắc và sự áp bức bóc lột của giai cấp tư sản đối với người lao động ngày càng
gia tăng thì hoạt động từ thiện cũng phát triển mạnh hơn, phong phú đa dạng hơn,
mang tính xã hội cao hơn và bắt đầu trở thành hoạt động mang tính có tổ chức.

Nhiều cơ sở phúc lợi xã hội do nhân dân lập nên đã ra đời để giúp đỡ những con

14
người bất hạnh và nhiều tổ chức đã lên tiếng đấu tranh để chính phủ quan tâm hơn
đến những vấn đề xã hội.
Một số nhà tư tưởng như Thomas More, Saint Simon, Fran cois, Fourier,
Robert Owen đã nêu lên ý tưởng cho ra đời một xã hội xoá bỏ hết áp bức, bất
công. Tuy xã hội đó không thể thực hiện được trong chế độ tư bản chủ nghĩa nhưng
những tư tưởng tiến bộ đó đã gieo mầm cho các hoạt động nhân đạo, từ thiện và dẫn
đến sự ra đời các nhà tế bần, cô nhi viện, viện dưỡng lão Những hoạt động này
chính là tiền thân hoạt động của các TCPCP sau này.
Quy mô của hoạt động từ thiện ngày càng phát triển. Ban đầu chỉ là ý tưởng
của một cá nhân, nhóm cá nhân rồi sau phát triển thành hành động của hội đoàn, của
tổ chức. Phạm vi hoạt động của các tổ chức nhân đạo từ thiện (về sau là TCPCP)
cũng ngày càng mở rộng. Lúc đầu, các tổ chức này chỉ lo làm việc nghĩa trong nước
nhưng trước sự bành trướng của chủ nghĩa thực dân, các tổ chức từ thiện của nhân
dân đã vươn tới các thuộc địa Á - Phi - Mỹ La tinh để đáp ứng việc cứu trợ cho các
nạn nhân của chủ nghĩa đế quốc thực dân.
Như vậy, cùng với sự phát triển của xã hội loài người và lịch sử đấu tranh xã
hội, đấu tranh với giới tự nhiên, hoạt động có tính chất nhân đạo từ thiện mang tính
chất tự phát của những cá nhân riêng lẻ đã phát triển thành các hoạt động mang tính
tự giác có tổ chức, có tính xã hội cao và phục vụ sự phát triển của xã hội. Các
TCPCP mang nhiều tên gọi khác nhau tuỳ theo mục tiêu khi thành lập và có lịch sử
ra đời khác nhau (như gắn với cứu trợ chiến tranh, gắn với cứu trợ môi trường hay
giải quyết những vấn đề xã hội ) nhưng đều có chung một mục đích giảm bớt đau
khổ cho con người và vì một xã hội tiến bộ công bằng, văn minh.
1.1.1.3. Sự phát triển của TCPCP
Sự ra đời của loại hình TCPCP và hoạt động PCP được chứng minh là có từ
xa xưa, từ khi xã hội nảy sinh áp bức bất công nhưng sự phát triển lớn mạnh của nó
để trở thành một lực lượng xã hội rộng khắp toàn cầu chỉ thực sự bắt đầu từ sau

chiến tranh thế giới thứ nhất, đặc biệt là sau chiến tranh thế giới thứ hai.

15
Chiến tranh, nghèo đói, bệnh tật, thiên tai, chết chóc đã làm thức tỉnh lương
tri, thôi thúc con người cùng nhau tổ chức và tiến hành các hoạt động nhân đạo, từ
thiện và các tổ chức từ thiện lần lượt ra đời.
Năm 1864, Hội Chữ thập đỏ quốc tế (nay là Hội Chữ thập đỏ và trăng lưỡi
liềm đỏ quốc tế) được thành lập để giúp đỡ các nạn nhân chiến tranh và tù binh.
Năm 1919, Quỹ SC-UK (Anh) ra đời để giúp trẻ em ở nước Đức đang bị lực lượng
đồng minh bao vây. Năm 1942, cũng tại Anh, tổ chức Oxfam được thành lập để
giúp người dân Hy Lạp dưới ách chiếm đóng của quân đội Hít le
Hai cuộc chiến tranh thế giới là hai cuộc chiến tranh đẫm máu nhất trong lịch
sử nhân loại và đã để lại những hậu quả thảm khốc: chết chóc, bệnh tật, đói nghèo,
ly tán làm rung động lương tri của nhân loại tiến bộ. Bên cạnh đó, cuộc sống của
con người đang phải đối mặt với những thách thức và hiểm hoạ ngày càng tăng do
chính con người gây ra như sự suy thoái của môi trường, tài nguyên bị cạn kiệt, sự
bùng nổ dân số, bệnh dịch tràn lan Những hiểm hoạ đó không một chính phủ nào
có thể giải quyết được nếu không có sự hợp tác giữa các chính phủ với nhau và sự
tham gia của nhân dân thế giới. Nhân dân các nước phát triển ý thức được những
nguy cơ và trở ngại đối với sự phát triển bền vững của nước mình nếu không giúp
đỡ nhân dân các nước kém phát triển. Chính vì vậy, sau chiến tranh thế giới thứ hai,
các TCPCP cùng với hoạt động của nó đã mở rộng ra khắp thế giới, đến với những
châu lục còn đói nghèo.
Sau nhiều năm hoạt động và phát triển, đúc rút kinh nghiệm từ nhiều dự án
và chương trình khác nhau ở nhiều nơi trên thế giới, các TCPCP đã đi đến kết luận
là bên cạnh các hoạt động cứu trợ nhân đạo, các TCPCP cần quan tâm nhiều hơn
nữa tới các hoạt động phát triển bền vững và xoá đói giảm nghèo. Tuy nhiên, để làm
được điều này, họ cần có đối tác là những hội, đoàn thể quần chúng, tổ chức nhân
dân ở những nước tiến hành viện trợ. Vì vậy, từ những năm 1960 trở đi, TCPCP ở
các nước Âu Mỹ đã vươn tới những quốc gia kém phát triển trên toàn thế giới và

giúp các nước này thành lập TCPCP của chính họ để góp phần cùng chính phủ giải
quyết những vấn đề xã hội. Các TCPCP đã liên kết lại với nhau thành những tập

16
đoàn lớn mạnh và họ cũng liên kết với các TCPCP quốc gia để trở thành một lực
lượng có ảnh hưởng không nhỏ đến sinh hoạt quốc tế và đời sống xã hội các nước.
Ở Mỹ, năm 1991 có tới 1,2 triệu TCPCP với 260 triệu hội viên và hàng năm
quyên góp được hàng trăm tỷ USD. Ở Anh năm 1992 có 400.000 TCPCP trong đó
có khoảng 100 tổ chức có hoạt động quốc tế. Ở Pháp, có tới 700.000 hội với 520 tổ
chức có hoạt động quốc tế. Ở Canada có 40.000 tổ chức vào năm 1988 trong đó có
300 TCPCP hoạt động ở nước ngoài. Ở Bỉ có 50.000 tổ chức, Đức có 4.800 tổ chức,
Thuỵ Sỹ có 26.000 tổ chức [103, tr 16 -17].
Các TCPCP ở các quốc gia phát triển đã vươn đến các quốc gia đang phát
triển ở mọi châu lục trên thế giới và dẫn đến sự ra đời hàng loạt TCPCP quốc gia.
Từ sau năm 1960, nhiều TCPCP quốc gia và địa phương đã được thành lập ở các
nước đang phát triển và trở thành một lực lượng mạnh mẽ vào những thập kỷ 1980 -
1990. Các TCPCP quốc gia và địa phương hoạt động song song với các TCPCP
quốc tế để giải quyết những vấn đề của quốc gia nước họ.
Theo số liệu nghiên cứu của một số TCPCP, ở Thái Lan năm 1984 có khoảng
15.000 hội hoặc quỹ mang tính chất PCP của người Thái; Ở Philippin (số liệu chưa
đầy đủ) là từ 40.000 đến 50.000 tổ chức; Ở Inđônêxia, số TCPCP địa phương không
xác định được cụ thể vì nhiều tổ chức không đăng ký chính thức, tuy nhiên theo ước
tính Inđônêxia có khoảng 3.000 đến 4.000 TCPCP quốc gia và địa phương; Ở Trung
Quốc có 180.000 tổ chức (1993); Ở Ấn Độ có tới hàng trăm ngàn TCPCP ở nông
thôn. Số lượng TCPCP ở Mianma và Malaixia không nhiều nhưng ngược lại
Bănglađét giữ kỷ lục về số lượng TCPCP, nhiều đến mức mà người ta thường nói
quá lên rằng nó nhiều tương đương với tỷ lệ dân số; Ở Chilê có 27.000 TCPCP; Ở
Achentina vào đầu những năm 1980 có 2.000 tổ chức. Phong trào thành lập các
TCPCP cũng xuất hiện từ cuối những năm 1970 ở Đông Âu và bùng nổ sau khi chế
độ xã hội chủ nghĩa ở những nước này sụp đổ; Hungari có 6.000 quỹ và 11.000 hội;

Ba Lan, Rumani và các nước thuộc Liên Xô cũ cũng xuất hiện hàng loạt các
TCPCP. Ngay cả Nhật Bản (một nước được coi là chậm phát triển về loại hình tổ
chức này) đến năm 1992 đã có 179 TCPCP và đến nay đã lên tới 278 tổ chức [103,
tr 32-34].

17
Như vậy qua nhiều thế kỷ, các hoạt động nhân đạo, từ thiện nhằm giúp đỡ lẫn
nhau giữa những cộng đồng đơn lẻ đã phát triển vượt ra ngoài biên giới quốc gia,
đồng thời tính chất của loại hình hoạt động này đã không chỉ dừng lại ở các hoạt
động cứu trợ nhân đạo nữa mà còn được mở rộng sang các hoạt động phát triển bền
vững.
Sự phát triển mạnh mẽ của các TCPCP trên phạm vi toàn cầu vào cuối thập
kỷ 1980 được Ngân hàng thế giới nhận xét như một tác nhân tập thể của các hoạt
động phát triển [103, tr 34].
Những số liệu trên đã phần nào phản ánh được sự phát triển của các TCPCP
như một xu thế tất yếu của thời đại.
1.1.1.4. Các loại hình TCPCP
Xét về loại hình và căn cứ vào phạm vi hoạt động, từ khi ra đời cho đến nay
có ba loại hình TCPCP hoạt động phổ biến. Đó là các TCPCP mang tính chất quốc
gia, TCPCP mang tính chất chính phủ và TCPCP mang tính chất quốc tế.
Loại hình TCPCP mang tính chất quốc gia có tên tiếng Anh là National Non
- Governmental Organizations (viết tắt là NNGO). Đây là loại hình tổ chức mà các
thành viên đều mang một quốc tịch và các tổ chức này chủ yếu hoạt động trong
phạm vi quốc gia. Loại hình tổ chức này ra đời trong thời kỳ đầu và có số lượng rất
lớn. Ngày nay, trong xu thế hội nhập toàn cầu, loại hình tổ chức này đã mở rộng
phạm vi hoạt động không chỉ dừng lại ở trong nước.
Loại hình TCPCP mang tính chất quốc tế có tên tiếng Anh là International
Non - Governmental Organizations (viết tắt là INGO). Trái với TCPCP mang tính
chất quốc gia, loại hình tổ chức này do các thành viên mang nhiều quốc tịch khác
nhau sáng lập ra với phạm vi hoạt động rộng khắp trên thế giới.

Các TCPCP mang tính chất chính phủ với tên tiếng Anh là Govermental Non
- Governmental Organizations (viết tắt là GNGO). Loại hình này gồm các tổ chức
do chính phủ của một nước lập ra hoặc những tổ chức bị phụ thuộc vào ngân sách
của chính phủ. Các TCPCP mang tính chất chính phủ vẫn được xếp vào loại hình
TCPCP bởi về mặt pháp lý những tổ chức này chỉ đại diện cho tổ chức mình chứ

18
không đại diện cho chính phủ. Tuy nhiên, sự phụ thuộc này đã phần nào làm giảm
bớt tính chủ động, linh hoạt vốn có của các TCPCP bởi sự tài trợ về tài chính của
chính phủ sẽ đi đôi với việc can thiệp ít nhiều vào tôn chỉ cũng như hoạt động của
loại hình TCPCP này.
Ngày nay, hầu hết chính phủ các nước phát triển đều tài trợ cho TCPCP. Các
TCPCP được sử dụng như người làm hợp đồng cho các chương trình viện trợ của
chính phủ. Nguyên nhân của xu thế trên là do các TCPCP làm việc khá hiệu quả
trong lĩnh vực viện trợ phát triển và ngày càng có tiếng nói trong cộng đồng. Dù
thuộc loại hình nào, mỗi TCPCP đều được thành lập và hoạt động tuân theo luật
pháp nước mình đồng thời hoạt động tuân theo tập quán quốc tế cùng pháp luật của
quốc gia nơi tiến hành viện trợ. Dưới nhiều tên gọi khác nhau, các TCPCP đã có
mặt ở khắp mọi nơi trên thế giới và hoạt động cùng với sự nỗ lực của các chính phủ
trong quá trình phát triển xã hội vì hạnh phúc của con người.
1.1.1.5. Nguồn tài chính của TCPCP
Để ra đời, hoạt động và duy trì sự tồn tại của mình, TCPCP cần có một
nguồn kinh phí hoạt động. Ngân sách của TCPCP chủ yếu có được từ các nguồn
chính sau đây: cá nhân, từ các hoạt động kinh doanh- dịch vụ, công ty và chính phủ.
Hoạt động gây quỹ hoặc xin tài trợ của các TCPCP có thể được tiến hành theo đợt
hoặc tiến hành thường xuyên. Hoạt động gây quỹ theo đợt là để có ngân sách phục
vụ những hoạt động lớn hoặc những hoạt động cứu trợ khẩn cấp, được thực hiện sau
khi có những sự kiện cần được cứu trợ (thiên tai, chiến tranh ) xảy ra. Ngân sách
từ hoạt động gây quỹ theo đợt này thường được xác định dành cho các hoạt động và
địa bàn cụ thể. Hoạt động gây quỹ thường xuyên là các hoạt động có kế hoạch từ

trước và được thực hiện thường xuyên để lấy ngân sách phục vụ các hoạt động viện
trợ nhân đạo và phát triển chung, có thể dành cho các hoạt động và địa bàn chưa xác
định.
Nguồn đóng góp từ các cá nhân hảo tâm là một nguồn rất lớn, đặc biệt đây là
tấm lòng của các cá nhân vì mục đích nhân đạo. Có nhiều hình thức quyên góp tiền
từ các cá nhân: đóng góp của các thành viên; mỗi buổi đi lễ ở nhà thờ, mỗi cá nhân

×