Tải bản đầy đủ (.pdf) (181 trang)

Nghiên cứu hành động đề nghị trong tiếng Việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.2 MB, 181 trang )




ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

  



LÊ THỊ TỐ UYÊN




NGHIÊN CỨU HÀNH ĐỘNG ĐỀ NGHỊ
TRONG TIẾNG VIỆT

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC



Chuyên ngành: LÝ LUẬN NGÔN NGỮ
Mã số: 60 22 01



Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. ĐÀO THANH LAN




Hà Nội, 1/2011
MỤC LỤC
Mở đầu 1
I. Lí do chọn đề tài 1
III. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 2
III. Đóng góp của luận văn 2
IV. Phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu 3
V. Bố cục của luận văn 5
Nội dung 6
Chương I: Cơ sở lí luận liên quan đến đề tài 7
I. Về hành động ngôn từ 7
II. Hành động cầu khiến tiếng Việt 20
III. Hành động đề nghị trong mối quan hệ với hành động cầu khiến 28
IV. Hành động đề nghị và tính lịch sự 30
Chương II: Nhận diện hành động đề nghị trong tiếng Việt 36
I. Tiêu chí nhận diện hành động đề nghị trong tiếng Việt 36
1.1. Tiêu chí thứ nhất: ngữ cảnh tình huống 36
1.2. Tiêu chí thứ hai: Quan hệ giữa người nói và người nghe trong
phát ngôn đề nghị 42
1.3. Tiêu chí thứ 3: Khả năng hiện thực hóa của hành động đề nghị 44
1.4. Tiêu chí thứ tư: Những dấu hiệu hình thức đánh dấu phát ngôn đề
nghị 46
II. Phương pháp nhận diện hành động đề nghị trong tiếng Việt 55
2.1. Nét khác biệt giữa hành động đề nghị và hành động yêu cầu 57
2.2. Nét khác biệt giữa hành động đề nghị và hành động khuyên bảo60
2.3. Nét khác biệt giữa hành động đề nghị và hành động dặn dò 61
2.4. Nét khác biệt giữa hành động đề nghị và hành động rủ rê 64
2.5. Nét khác biệt giữa hành động đề nghị và hành động nhờ vả 66
Chương III: Phương thức biểu hiện hành động đề nghị trong tiếng Việt 70

I. Phương thức biểu hiện hành động đề nghị trực tiếp trong tiếng Việt 70
1.1. Phương tiện chỉ dẫn lực ngôn trung đề nghị trường minh - phát
ngôn đề nghị tường minh 71
1.2. Phương tiện chỉ dẫn lực ngôn trung đề nghị nguyên cấp - phát ngôn
đề nghị nguyên cấp 76
1.2.1. Vị từ tình thái “hãy” 81
1.2.2. Tiểu từ tình thái “nào 77
1.2.3. Tiểu từ tình thái “nhé” 84
1.2.4. Tiểu từ “đã” 91
1.2.5. Khả năng kết hợp của vị từ tình thái cầu khiến và tiểu từ
tình thái cầu khiến 94
1.3. Phương tiện chỉ dẫn lực ngôn trung bán tường minh - phát ngôn đề
nghị bán tường minh 95
Vị từ “ mong” 95
1.4. Phương tiện chỉ dẫn lực ngôn trung bán nguyên cấp - phát ngôn đề
nghị bán nguyên cấp 98
Vị từ “để” 98
1.5. Khả năng kết hợp của phương tiện chỉ dẫn lực ngôn trung đề nghị
tường minh và nguyên cấp 100
II. Phương thức biểu hiện hành động đề nghị gián tiếp trong tiếng Việt 102
1.1. Phát ngôn hỏi - đề nghị 102
1.1.1. Phát ngôn hỏi - đề nghị đồng hướng 103
1.1.2. Phát ngôn hỏi - đề nghị ngược hướng 113
1.2 Phát ngôn trần thuật - đề nghị 115
Kết luận 120
Danh mục tài liệu tham khảo
Danh mục nguồn tư liệu trích dẫn
Phụ lục
QUY ƯỚC VIẾT TẮT
C: Chủ ngôn

T: Tiếp ngôn
D1: Danh từ/ cụm danh từ/ đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất
D2: Danh từ/ cụm danh từ/ đại từ nhân xưng ngôi thứ hai
D3: Danh từ/ cụm danh từ/ đại từ nhân xưng ngôi thứ ba
Đ: Đại từ
Đg: Đại từ ngôi gộp
V: Vị từ
Vnh: Vị từ ngôn hành
Vnhck: Vị từ ngôn hành cầu khiến
Vnhđn: Vị từ ngôn hành đề nghị
P: Lõi mệnh đề
(p): thành phần phụ (phụ tố/ phụ ngữ)
*: Không xuất hiện
(+): Có xuất hiện

1
MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài
Với sự đề cao vai trò của các yếu tố hình thức, ngôn ngữ học truyền
thống khi phân loại các phát ngôn tiếng Việt chủ yếu căn cứ vào bình diện kết
học, tức là căn cứ vào mối quan hệ giữa các tín hiệu ngôn ngữ khác nhau.
Đến những năm 60 của thế kỷ XX, ngữ dụng học ra đời và một nhiệm
vụ mới của ngành ngôn ngữ học cũng được xác lập. Khi ngữ dụng học đề cao
chức năng ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp vạn năng của xã hội loài người
thì việc phân loại phát ngôn theo mục đích nói cần được tiến hành trên cơ sở
của bình diện dụng học kết hợp với bình diện kết học và nghĩa học. Về vấn đề
này, trong gần bốn thập niên qua, lý thuyết về hành động ngôn từ của J.L.
Austin, H.P. Grice, J.R.Searle đã xác định những cách tiếp cận mới s00E2u
sắc và toàn diện hơn. Lý thuyết này cho rằng ngôn ngữ có chức năng quan
trọng trong hoạt động giao tiếp, nhưng đơn vị giao tiếp cơ bản không phải là

câu hay một hình thức ngôn ngữ nào đó mà là một phát ngôn nhằm thực hiện
một hành động nhất định. Thành tựu của ngôn ngữ học hiện đại cho thấy
những hành động mà ta thực hiện bằng lời nói vô cùng phong phú, đa dạng
chứ không chỉ là nói để kể, để hỏi hay để cầu khiến. Như thế, ngôn ngữ học
đang quan tâm tới việc trả lời câu hỏi: các thành viên trong cộng đồng nói
năng sử dụng ngôn ngữ như thế nào trong các cảnh huống giao tiếp khác nhau
để đạt được mục đích giao tiếp khác nhau?
Nghiên cứu hành động cầu khiến là góp phần trả lời câu hỏi đó. Tuy
nhiên, trong Việt ngữ học, việc nghiên cứu này chưa nhiều và chưa sâu.
Trước thời điểm hiện tại, các nhà nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt chủ yếu bàn
đến hành động cầu khiến một cách toàn diện, tổng thể, ít ai quan tâm đến việc

2
đào sâu nghiên cứu một tiểu loại hành động trong kiểu hành động này. Chính
điều này đã thôi thúc chúng tôi nghiên cứu một cách sâu sắc hơn về một vấn
đề cụ thể của hành động cầu khiến tiếng Việt: nghiên cứu hành động đề
nghị trong tiếng Việt. Việc nghiên cứu hành động này vừa góp phần chỉ ra sự
thể hiện đa dạng, phong phú của hành động cầu khiến tiếng Việt, vừa góp
phần tăng độ tin cậy cho việc xác định loại hành động ấy; đồng thời đáp ứng
nhu cầu của ngành ngôn ngữ học hiện nay và phù hợp với xu thế phát triển
của ngành . Đây là một hướng đi mới, có thể phát hiện ra nhiều điều mới mẻ,
lí thú, góp phần tìm hiểu những vấn đề ngữ pháp – ngữ nghĩa của lời.
II. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là khảo cứu các phương thức và phương tiện thể
hiện hành động đề nghị trong tiếng Việt, chỉ ra ranh giới của nó với các tiểu
loại hành động khác và sự thể hiện tính lịch sự trong hành động đó.
Với mục đích như trên, luận văn có nhiệm vụ như sau:
- Xác định hành động đề nghị trong tiếng Việt.
- Phân tích, miêu tả hành động đề nghị trong tiếng Việt.
- Chỉ ra mức độ giá trị của hành động đề nghị trên cơ sở biểu

hiện của lực ngôn trung.
- Xem xét tính lịch sự của hành động đề nghị.
III. Đóng góp của luận văn
Như trên đã nói, việc lựa chọn hành động cầu khiến và những vấn đề
xung quanh nó làm đối tượng nghiên cứu không phải là vấn đề hoàn toàn mới
mẻ. Cái mới của luận văn là nghiên cứu một tiểu loại hành động trong hành
động cầu khiến tiếng Việt: hành động đề nghị trên cả ba bình diện dụng học,
kết học và nghĩa học.

3
Công trình nghiên cứu của chúng tôi có ý nghĩa về lí luận và thực tiễn
như sau:
Về lí luận, luận văn hy vọng góp phần làm rõ thêm về khái niệm hành
động cầu khiến nói chung và hành động đề nghị nói riêng, phân loại hành
động đề nghị, miêu tả một số tình thái đề nghị lịch sự, những vấn đề mà xưa
nay đã đề cập đến nhưng chưa được quan tâm đúng mức và chưa được lý giải
đầy đủ, đồng thời làm rõ các dấu hiệu nhận diện hành động đề nghị tiếng
Việt; từ đó góp phần vào việc hoàn thiện các kết quả nghiên cứu về hành
động cầu khiến nói chung và hành động đề nghị nói riêng theo quan điểm mới
của ngôn ngữ học hiện đại.
Về thực tiễn, những kết quả nghiên cứu của luận văn có thể góp phần
giải quyết nhiều vấn đề về cách sử dụng tiếng Việt và là cơ sở để biên soạn
nội dung, xác định phương pháp dạy tiếng Việt không chỉ cho người Việt mà
còn cho người nước ngoài học tiếng Việt. Đặc biệt, trong xu thế hội nhập và
toàn cầu hóa như hiện nay, việc biên soạn sách giáo khoa cho người nước
ngoài đang cần có nhiều nghiên cứu về những vấn đề cụ thể giúp cho người
học có thể nắm bắt được dễ dàng những đặc điểm của tiếng Việt, từ đó thuận
lợi hơn trong việc giao tiếp và thể hiện mục đích giao tiếp của mình.
IV. Phƣơng pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu
1.1. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn tiến hành nghiên cứu dựa trên quan điểm ngữ pháp chức năng
và ngữ dụng học. Nghiên cứu phát ngôn trong hoạt động hành chức của nó
hay trong một ngữ cảnh và ngôn cảnh cụ thể. Từ đó có thể phát hiện, xem xét
và đánh giá được sự thể hiện phong phú của cả hành động đề nghị trực tiếp
lẫn hành động đề nghị gián tiếp. Chúng tôi nghiên cứu theo phương pháp đi
từ nội dung đến hình thức, từ ý nghĩa đến cấu trúc, từ mục đích đến phương

4
tiện, để tìm ra những đặc điểm về ngữ dụng cũng như mối quan hệ giữa hình
thức và ý nghĩa của hành động đề nghị trong tiếng Việt thông qua tư liệu đã
được khảo sát.
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn có sử dụng các phương pháp và thủ
pháp sau:
+ Phương pháp miêu tả: phương pháp miêu tả là phương pháp chiến
lược trong luận văn này. Các nhận định đưa ra đều dựa chủ yếu vào kết quả
phân tích, miêu tả ngữ liệu – phần lớn là lời nói được sưu tầm trong các tác
phẩm văn chương ở nhiều thể loại khác nhau.
+ Thủ pháp thống kê: để xác định tần số xuất hiện của các tiểu loại và đối
chiếu đặc điểm ngữ nghĩa, ngữ pháp của hành động đề nghị trong tiếng Việt.
+ Thủ pháp cải biến: cải biến cấu trúc, giúp cho việc nhận diện và phân
loại hành động đề nghị tiếng Việt.
+ Thủ pháp so sánh: dựa vào các kết quả đã phân tích và miêu tả để so
sánh nhằm tìm ra những điểm tương đồng và dị biệt, tương ứng và phi tương
ứng giữa hành động đề nghị với các hành động khác trong hành động cầu
khiến tiếng Việt trên bình diện hình thức và cấu trúc ngữ nghĩa, giữa các nhân
tố của hành động đề nghị trực tiếp và hành động đề nghị gián tiếp để tạo nền
cho các phương pháp, thủ pháp khác được minh xác và cụ thể hơn.
1.2. Nguồn ngữ liệu
Các ngữ liệu đã khảo sát và trình bày trong luận văn được thu thập chủ
yếu từ một số văn bản viết (gồm văn bản thuộc phong cách nghệ thuật và văn

bản thuộc phong cách hành chính, công vụ), và từ lời ăn tiếng nói hàng ngày
mà người viết quan sát, ghi chép lại được. Các tác phẩm văn chương thuộc
phong cách văn bản nghệ thuật bao gồm rất nhiều thể loại như: truyện ngắn,

5
tiểu thuyết, kịch…và chia thành các giai đoạn văn học khác nhau. Ở luận văn
này, chúng tôi lựa chọn một số tác phẩm văn chương trong các giai đoạn khác
nhau: văn học kháng chiến chống Pháp (1930-1954), văn học kháng chiến
chống Mỹ (1954-1975) và văn học từ 1975 đến nay. Ở mỗi giai đoạn văn học
chúng tôi lựa chọn những cây bút tiêu biểu với những tác phẩm nổi bật nhất.
Các văn bản hành chính công vụ gồm: đơn yêu cầu, đơn đề nghị, công văn,
giấy phép, quyết định .v.v.
Hành động đề nghị thường xuất hiện trong giao tiếp trực tiếp cho nên
chúng tôi tiến hành thu thập và khảo sát những lời thoại giữa các nhân vật để
đáp ứng yêu cầu chung nhất của hành động cầu khiến là chỉ có thể xuất hiện
trong bối cảnh “Tôi, anh, bây giờ”. Trong hoàn cảnh có tính nghi thức, trang
trọng hay trong công việc mang tính chất hành chính, quá trình giao tiếp
thường diễn ra trên văn bản giấy tờ. Chúng tôi cũng tiến hành thu thập tư liệu
và khảo sát các phát ngôn đề nghị ở dạng này để thấy hết sự hoạt động đa
dạng của hành động đề nghị trong tiếng Việt.
V. BỐ CỤC CỦA LUẬN VĂN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Phụ lục và danh mục Tài liệu tham
khảo, luận văn gồm ba chương:
Chƣơng I. Cơ sở lí luận liên quan đến đề tài
I. Về hành động ngôn từ
II. Hành động cầu khiến tiếng Việt
III. Hành động đề nghị trong mối quan hệ với hành động cầu khiến
IV. Hành động đề nghị và tính lịch sự




6
Chƣơng II. Nhận diện hành động đề nghị trong tiếng Việt
I. Tiêu chí nhận diện hành động đề nghị trong tiếng Việt
II. Phương pháp nhận diện hành động đề nghị trong tiếng Việt
Chƣơng III. Phƣơng thức biểu hiện hành động đề nghị trong tiếng Việt
I. Phương thức biểu hiện hành động đề nghị trực tiếp
II. Phương thức biểu hiện hành động đề nghị gián tiếp

7
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG I
CƠ SỞ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
I. VỀ HÀNH ĐỘNG NGÔN TỪ
1.1. Khái niệm về hành động ngôn từ
Hành động ngôn từ (speech acts) đã được các nhà nghiên cứu quan tâm
từ đầu những năm 60 của thế kỷ XX. Mỗi lần nói đến lý thuyết hành động
ngôn từ, chúng ta đều nghĩ ngay tới nhà triết học người Anh, J.L.Austin và
cũng không thể bỏ qua nhà triết học nổi tiếng người Áo L.Wittgenstein [33] –
người đặt tiền đề và tiên phong cho lý thuyết này. L.Wittgenstein đã đồng
nhất hoạt động giao tiếp với hoạt động xã hội và việc sử dụng ngôn từ (lời
nói) như một hành động. Tất cả đóng góp của ông chỉ dừng lại ở việc tìm ra
những quy tắc nhất định khi con người sử dụng lời nói.
Khác với L.Wittgenstein, J.L.Austin bày tỏ luận điểm “To say is to do
something” (nói là làm) qua công trình nghiên cứu năm 1962 “How to do
thing with words” [34]. Ông cho rằng để biểu hiện, diễn tả một hành động
ngôn từ thì cần phải nói ra điều đó và làm - đi vào thực tế, thực tiễn sử dụng
ngôn ngữ. Từ luận điểm này mà người ta đã xây dựng nên lý thuyết về hành
động ngôn từ. Như vậy, hành động ngôn từ là nhấn mạnh bản chất của lời nói.
Khi ta nói một câu nghĩa là ta đã thực hiện một hành động nào đó, tức là

chúng ta thực hiện một hành động đặc biệt mà phương tiện là ngôn ngữ.
Chẳng hạn như thông báo, khuyên, chúc mừng, tuyên bố, hứa hẹn,… Đó là
những hành động được thực hiện bằng ngôn từ và được gọi là hành động
ngôn từ. Thuật ngữ “hành động ngôn từ” có thể khiến nhiều người hiểu
nhầm. Nó bị coi là đồng nghĩa với “hành động phát ngôn ra câu nói” hơn là

8
để biểu thị như nó đã biểu thị, một bộ phận cụ thể nào đó của sản phẩm nói
năng. [38, 246]
Trong luận văn này, chúng tôi sử dụng thuật ngữ “hành động ngôn từ”
theo ý khi ta nói một câu nghĩa là ta đã thực hiện một hành động nào đó và nó
tương đương với thuật ngữ “hành vi ngôn ngữ” mà các nhà nghiên cứu trước
như Đỗ Hữu Châu, Bùi Minh Toán, Nguyễn Đức Dân, … đã sử dụng.
Trong lý thuyết của mình, J.L.Austin xem hành động ngôn từ là một
thể thống nhất những hành động:
− Hành động tạo lời (locutionary act)
− Hành động tại lời (illocutionary act)
− Hành động mượn lời (perlocutionary act)
Sự khác biệt giữa chúng được diễn giải như sau:
- Hành động tạo lời: J.L.Austin đặt tên cho hành động này là “nói một
điều gì đó”. Đây là hành động sử dụng các yếu tố ngôn ngữ như ngữ âm, từ
vựng, ngữ pháp để tạo nên một câu nói.
- Hành động tại lời: Hành động tại lời là nói một điều gì đó và thực hiện
điều đó như thế nào và thực hiện hành động ấy phải ngay khi phát ra câu nói.
Ví dụ: – Không nói chuyện riêng. (Hành động tại lời là đề nghị học
sinh không nói chuyện riêng trong lớp)
Vì vậy hành động tại lời chính là lực ngôn trung, là đích phát ngôn. Nó
bị chi phối bởi các quy tắc hình thành tự nhiên theo cộng đồng với những điều
kiện sử dụng được thực hiện. Cốt lõi của hành động ngôn từ chính là hành
động tại lời.

- Hành động mượn lời : Hành động mượn lời là hành động thông qua
việc phát ngôn câu nói, người nói tác động đến tư tưởng, tình cảm… của
người tiếp nhận. Với một hành động mượn lời, người nghe có thể không nhận

9
ra ngay mặc dù hiểu được hành động tại lời. Một hành động tại lời có thể có
nhiều hành động mượn lời khác nhau.
Ví dụ : Một hành động tại lời là người nói không muốn tiếp chuyện với
người nghe và đưa ra một lời yêu cầu trực tiếp: - Anh về đi cho em ngủ.
Hành động mượn lời có thể là một trong những trường hợp sau:
1. Mấy giờ rồi anh?
2. Ngày mai em phải dậy sớm.
3. Anh à ! Mẹ thường nhắc nhở em đi ngủ sớm kẻo bị ốm,…
1.2. Điều kiện sử dụng hành động ngôn từ
Hành động ngôn từ được thể hiện rõ nét trong hoạt động giao tiếp của
con người. Mỗi hành động ngôn từ phải có những điều kiện nhất định thì
hành động mới được thực hiện. Muốn cho người nghe thực hiện một hành
động nào đó như yêu cầu, đề nghị, sai bảo, khuyên răn… mà người nói mong
muốn thì người nói phải lựa chọn cách nói nào đó để người nghe không chỉ
hiểu điều mình nói ở bề mặt ngôn từ mà còn tri nhận được đích ngôn trung.
Bởi vậy, để đạt được hiệu quả trong giao tiếp, người nói cần quan tâm đến các
điều kiện sử dụng của các hành động ngôn từ này.
Những điều kiện chi phối ấy, L.Wittgenstein gọi là “trò chơi ngôn
ngữ” và J.L.Austin cũng đưa ra luận điểm “nói là làm”, nói là một cách sử
dụng âm thanh ngôn ngữ để bộc lộ một nội dung thông báo nào đó.
Đối với hành động ngôn từ tạo lời, các điều kiện sử dụng và cấu tạo của
nó là về ngữ âm, từ ngữ, ngữ pháp của một ngôn ngữ. Cho nên nếu muốn yêu
cầu, đề nghị, sai bảo, khuyên răn… người nào đó thì chắc chắn cả người nói
lẫn người nghe phải đồng nhất một ngôn ngữ. Có như thế thì cuộc hội thoại
bằng ngôn ngữ mới được diễn ra và hành động đó mới được thực hiện. Đồng

thời các phía người nói lẫn người nghe không bị hạn chế về mặt sinh lý như
câm (phía người nói) và điếc (phía người nghe).

10
Các hành động tại lời cũng đòi hỏi những điều kiện nhất định. Các
hành động tại lời bị chi phối bởi các quy tắc hình thành tự nhiên theo cộng
đồng vì vậy mỗi loại hành động tại lời có những điều kiện sử dụng của nó mà
Austin gọi tên chúng là những điều kiện thuận lợi. Về vấn đề này Searle chia
làm 3 loại chính như sau:
− Điều kiện ban đầu
− Điều kiện chân thực
− Điều kiện thiết yếu (điều kiện căn bản)
 Điều kiện ban đầu
Điều kiện này liên quan đến quan hệ giữa hai người: người nói và
người nghe, tới những ý nguyện, lợi ích và khả năng của người nghe.
Ví dụ: Hành động ngôn từ ra lệnh.
+ Về quyền lợi: người nói là người ra lệnh, người nghe là người nhận lệnh
Người nói là người có lợi, người nghe là người bị thiệt
(về thời gian, công sức hay tiền của…)
+ Về vị thế giao tiếp:
Người nói có vị thế giao tiếp (biểu hiện vị thế xã hội)
cao hơn hoặc là người bậc trên.
Người nghe có vị thế giao tiếp thấp hơn hoặc là người
bậc dưới (trong trường hợp vị thế xã hội không bình
đẳng)
 Hệ quả là tính bắt buộc cao.
+ Ra lệnh là làm một việc gì đó cho tôi, hoặc cho cả anh và cả tôi hoặc
không liên quan gì đến anh nhưng anh vẫn phải làm.
+ Khi người nói ra lệnh cho người nghe thực hiện một hành động nào
đó thì đương nhiên là hành động đó chưa được thực hiện trong quá khứ hoặc


11
thực hiện rồi nhưng chưa đạt yêu cầu nên người nói mới ra lệnh cho người
nghe thực hiện hay thực hiện lại mà thôi.
+ Đồng thời người ra lệnh cần biết được rằng người nhận lệnh có khả
năng hiểu được và thực hiện được mệnh lệnh của mình.
* Điều kiện chân thành
Điều kiện này tập trung chủ yếu nói đến trạng thái tâm lý của hành động
mà người nói thực hiện. Thông báo hay ra lệnh một điều gì đó cho người khác
thì phải tâm niệm rằng thông tin đó là sự thật và phải thực sự mong muốn
người nhận lệnh, nhận thông tin chấp hành, đồng ý. Nếu là hỏi thì không phải
là hỏi xã giao, lấy lệ. Nếu là mời mọc thì phải mong muốn người nghe nhận lời
mời của mình.
Ví dụ : Hành động ngôn từ mời mọc: (mời ăn uống, vui chơi, học tập,
làm việc,…)
+ Về quyền lợi: người nói là người chịu thiệt (người nói phải tốn tiền,
mất thời gian chuẩn bị bữa ăn…), người nghe là người thường được mang lợi
Vì vậy, một lời mời chân thành không chỉ hiển ngôn điều lợi người
nghe sẽ nhận được mà cần phải gia tăng tính ép buộc sao cho không làm mất
đi tính lịch sự của lời mời.
So sánh hai phát ngôn sau, chúng ta sẽ thấy rõ điều này.
(1). Thế nào tối mai anh cũng phải tới nhà em ăn cơm đấy nhé!
(2). Tối mai anh (có) tới nhà em ăn cơm được không?
Ở phát ngôn (1), người nói dùng câu cầu khiến trực tiếp để mời mọc.
Ở phát ngôn (2), người nói dùng câu cầu khiến bằng hình thức hỏi để
mời mọc. Như thế người nói đã đặt người nghe vào một tình huống lựa chọn
có/không. Trong hoàn cảnh nào đó thì có thể coi đây là mời cho có mời thôi,
chứ chưa phải là một lời mời tha thiết.

12

* Điều kiện thiết yếu (điều kiện căn bản)
Đây là điều kiện nói về trách nhiệm, sự ràng buộc với người nói hoặc
người nghe khi hành động đã được thực hiện. Đối với hành động ra lệnh thì
trách nhiệm ấy thuộc về người nhận lệnh. Điều kiện thiết yếu của hành
động mời mọc là người nghe sẵn lòng nhận lời mời, của hành động khuyên
răn là người nghe nhận thấy được giá trị của lời khuyên và thực hiện lời
khuyên ấy hay của hành động yêu cầu đề nghị là người nghe chấp nhận lời
yêu cầu, đề nghị…
Ngoài ra lý thuyết hành động ngôn từ của Searle còn có các điều kiện
khác như: điều kiện xuất phát và tới đích, điều kiện về nội dung mệnh đề… có
tác động không nhỏ vào hiệu quả giao tiếp trong hội thoại.
1.3. Phân loại các hành động ngôn từ
1.3.1. Phân loại hành động ngôn từ theo J.Austin
Trên thực tế, trong một ngôn ngữ có thể có rất nhiều hành động ngôn từ
và đối chiếu giữa các ngôn ngữ với nhau thì chúng có sự khác biệt nhất định.
Trong công trình năm 1962, Austin đã phân loại các hành động tại lời thành 5
lớp lớn:
(1) Phán xét (Verdictive)
(2) Hành xử (Exercitive)
(3) Cam kết (Commisive)
(4) Ứng xử (Behabitive)
(5) Bày tỏ (Expositive)
Tuy quan niệm của J.L.Austin đã có nhiều tiến bộ nhưng vẫn có những
hạn chế nhất định mà theo Searle hạn chế đó là chỉ phân loại các động từ ngữ
vi. Searle là người đầu tiên vạch ra hạn chế của Austin. Ông cho rằng Austin
không định ra các tiêu chí phân loại nên kết quả phân loại có sự chồng chéo.

13
1.3.2. Phân loại hành động ngôn từ theo J.R.Searle
J.R.Searle phân loại các hành động ngôn từ có sự tiến bộ hơn so với

J.L.Austin. Tác giả Nguyễn Đức Dân [4] tóm lược: Searle đã nêu ra mười hai
phương diện (dimensions) mà các hành vi ngôn ngữ có thể khác nhau. Trong
số này, ông chọn bốn tiêu chí cơ bản để phân loại các hành động tại lời.
* Đích ở lời (Illocutionary point)
* Hướng của sự khớp ghép (Direction of fit)
* Trạng thái tâm lý được biểu hiện.
* Nội dung mệnh đề.
Dựa vào những tiêu chí này mà J.R.Searle chia hành động ngôn từ ra
thành 5 loại :
(1) Khẳng định (Assertives)
(2) Cầu khiến (Directive) - Mệnh lệnh
(3) Hứa hẹn (Commissive)
(4) Bày tỏ (Expressive)
(5) Tuyên bố (Declaratives)
Như vậy, J.L.Austin và J.R.Searle đã đưa ngôn ngữ vào sự phong phú,
đa dạng nhưng không kém phần phức tạp của hoạt động ngôn ngữ trong đời
sống hàng ngày. Lý thuyết trên đã khẳng định giao tiếp cơ bản của ngôn từ là
một phát ngôn thực hiện hành động.
1.4. Phân biệt phát ngôn ngôn hành tƣờng minh và phát ngôn ngôn
hành nguyên cấp
1.4.1. Phát ngôn ngôn hành tường minh
Phát ngôn ngôn hành tường minh là phát ngôn có chứa những dấu hiệu
chỉ ra chính hành động được thực hiện khi phát ra phát ngôn đó.
Ví dụ:
- Con xin lỗi mẹ, con đã để mẹ phải chờ! - Nó lúng búng trong mồm.
(Hậu thiên đường, Nguyễn Thị Thu Huệ, tr. 6)

14
Anh chạy theo và gọi:
- Này, mời bà lên xe! Hai hàọ ! Xin bà hai hào rưỡi.

(Người ngựa và ngựa người - Nguyễn Công Hoan - tr. 2)
Bà tiên bỗng hiện ra ngay bên Hoàng khẽ mỉm cười:
…Ông đang chờ đón hai cháu đấy! Ông cũng dành cả một làn bánh
chocolate và hoa quả mà trẻ con đều thích và chờ sẵn nữa! Bây giờ bà sẽ dẫn
hai cháu đi nghe! Còn gia đình cháu bà hứa sẽ lần lượt dẫn họ tới đoàn tụ đầy
đủ, cháu cũng sợ, đừng lo gì nha, giờ cháu nếu không đi cùng, chắc Cô bé sẽ
buồn lắm đấy, vì cô bé không có bố mẹ và chị em gì cả, chỉ có mình cháu thôi.
(Đi qua đỉnh lũ - Khánh Bình - tr.18)
Các phát ngôn trên chứa những vị từ chỉ rõ loại hành động phát ngôn
được thực hiện: xin lỗi, mời, hứa. Các vị từ này được coi là các vị từ ngôn
hành với sự đảm bảo về một số điều kiện nhất định. Điều này sẽ được đề cập
kỹ hơn ở chương sau.
1.4.2. Phát ngôn ngôn hành nguyên cấp
Các hành động ngôn từ không chỉ được thực hiện bằng các vị từ ngôn
hành mà còn được thực hiện ở những phát ngôn có chứa các phương tiện chỉ
dẫn hiệu lực tại lời (như: các kiểu kết cấu, những từ ngữ chuyên dùng trong
các biểu thức ngôn hành, ngữ điệu, quan hệ giữa các thành tố trong cấu trúc vị
từ - tham thể tạo nên nội dung mệnh đề nêu trong phát ngôn ngôn hành).
Những phát ngôn không chứa các vị từ ngôn hành mà sử dụng các phương
tiện chỉ dẫn hiệu lực tại lời được gọi là các phát ngôn nguyên cấp.
Ví dụ:
- Thưa bà, con so.
- Bà nên nói thực, thì tôi mới liệu được. Tôi xem bụng bà, hình như đẻ
con rạ thì phải hơn.
- Thưa bà, thực tôi đẻ con so.
(Oẳn tà roằn, Nguyễn Công Hoan, tr. 5)

15
Phát ngôn “Bà nên nói thực,…” được chủ ngôn thực hiện với mục đích
khuyên thông qua từ ngữ chuyên dùng trong biểu thức ngôn hành là “nên”.

Có rất nhiều phát ngôn ngôn hành nguyên cấp không chứa những dấu
hiệu hình thức để nhận biết cho nên muốn hiểu được chúng thì tiếp ngôn phải
căn cứ vào ngữ cảnh cụ thể.
1.5. Hành động ngôn từ trực tiếp và hành động ngôn từ gián tiếp
1.5.1. Nghĩa tường minh (hiển ngôn) và nghĩa hàm ẩn (hàm ngôn)
Trước khi ra đời bộ môn ngữ dụng học, người ta vẫn thường sử dụng
cái gọi là “ý tại ngôn trung” hay ý ở trong lời, “ý tại ngôn ngoại” hay ý ở
ngoài lời thay vì dùng thuật ngữ nghĩa tường minh và nghĩa hàm ẩn để xem
xét phát ngôn trong hoạt động giao tiếp nói chung và ngôn từ trong các tác
phẩm văn chương nói riêng. Song, với sự lớn mạnh của ngữ dụng học, nghĩa
của phát ngôn dần được nhìn nhận một cách đa chiều và toàn diện hơn.
1.5.1.1. Nghĩa tường minh (hiển ngôn)
Nghĩa tường minh là ý nghĩa được nói ra trực tiếp nhờ các yếu tố ngôn
ngữ như âm, từ, kết cấu phát ngôn…ý nghĩa này hiển hiện trên ngôn từ còn
gọi là hiển ngôn. Bất kì một phát ngôn nào cũng có nghĩa tường minh.
Ví dụ : Tối nào cũng vậy, cứ đến lúc con bé lớn ông Hai thu thủ que
đóm cháy lập lòe trong chiếc nón rách tất tả đi từ nhà bếp lên, và bà Hai
ngồi ngây thuỗn cái mặt trước đĩa đèn dầu lạc, lầm bầm tính toán những
tiền cua, tiền bún, tiền chuối, tiền kẹo,… thì ông Hai vùng dậy, sang bên
bác Thứ nói chuyện.
(Làng, Kim Lân)
Ở ví dụ trên, chúng ta có thể nhận diện ngay tầng nghĩa được thể hiện
rất rõ ràng chỉ cần căn cứ vào câu chữ.

16
Để xác định được nghĩa tường minh của phát ngôn phải dựa vào nghĩa
của mẫu câu và nghĩa của từ ngữ trong phát ngôn. Đối với vấn đề xác định
nghĩa của mẫu câu thì theo hai cách phân loại:
+ Phân loại theo đích ngôn trung (mục đích nói) phân chia thành câu
tường thuật, nghi vấn, cầu khiến hay cảm thán;

+ Phân loại theo cấu trúc cú pháp với hai loại câu đơn, câu phức (câu
ghép)
Ví dụ : Có làm thì mới có ăn. (tục ngữ)
Về mặt mẫu câu đây là câu trần thuật khẳng định với mẫu “(Nếu) có A
thì có B”.
Bên cạnh việc dựa vào mẫu câu để xác định nghĩa tường minh thì cũng
cần đặt từ ngữ vào mẫu câu để xác định ý nghĩa ấy. Như ở ví dụ trên cụm từ
“thì mới” có nghĩa chỉ kết quả từ một điều kiện cho trước. Cụ thể: điều kiện
bắt buộc là “có làm”, kết quả tất nhiên là “có ăn”.
1.5.1.2. Nghĩa hàm ẩn (hàm ngôn)
Nghĩa hàm ẩn là ý nghĩa không lộ ra trên mẫu câu, từ ngữ. Muốn lĩnh
hội được ý nghĩa đó, người tiếp nhận phải trải qua một quá trình suy ý từ
nghĩa tường minh, căn cứ vào tình huống phát ngôn, cách thức sử dụng mẫu
câu, từ ngữ và quy tắc hợp logic. Đây chính là đối tượng nghiên cứu của ngôn
ngữ học và ngữ dụng học. Người đầu tiên nghiên cứu và đưa ra những cơ sở
lý luận về nghĩa hàm ẩn là H.P.Grice. Ông đối lập giữa ý nghĩa tự nhiên
(natural meaning) và ý nghĩa không tự nhiên (non – atural meaning). Grice
xác định về ý nghĩa không tự nhiên như sau: người nói A muốn truyền báo ý
nghĩa không tự nhiên bằng phát ngôn U khi và chỉ khi:
+ A có ý định thông qua phát ngôn U gây ra hiệu quả ở người nghe B.

17
+ A muốn (có ý định) rằng điều kiện gây hiệu quả ở người nghe B có
hiệu lực, đơn giản chỉ là nhờ chỗ B nhận ra được ý định mà A gửi gắm.
Như vậy, ý nghĩa hàm ẩn (không tự nhiên) theo quan niệm của Grice là
phải nằm trong ý định của người nói và cái ý định đó phải được người nghe
nhận biết.
Ví dụ: (Bà và cháu gái nói chuyện với nhau)
A: Đã 29 tuổi đầu rồi mà còn chưa thèm lấy chồng à?
B: Cháu vẫn còn trẻ mà bà.

Ở phát ngôn A, nghĩa tường minh: Người bà hỏi cô cháu gái đã 29 tuổi
rồi mà còn chưa lấy chồng.
Nghĩa hàm ẩn:
+ Tiền giả định
pp‟1: Trong nhà có một cô cháu gái.
pp‟2: Cô gái đã nhiều tuổi so với tuổi lấy chồng bình thường.
pp‟3: Do tính cách hoặc suy nghĩ mà cô ấy chưa (không) muốn lấy
chồng.
pp‟4: Theo lẽ thường (của nơi người con gái đang sống) thì con gái
không nên lấy chồng muộn.
+ Hàm ngôn: Tuy hình thức là câu hỏi nhưng đây là lời nhắc nhở của bà
vì vậy nó có đích ngôn trung cầu khiến là: Hãy lấy chồng đi kẻo nhiều tuổi rồi.
Như vậy, mặc dù dưới hình thức một câu hỏi nhưng hàm ý lại là lời
nhắc nhở. Rõ ràng ý nghĩa hàm ẩn này nằm trong ý định của người nói (bà) và
cái ý định đó được người nghe (cháu) nhận biết. Hiểu được mục đích phát
ngôn trong câu nói của bà nên cô cháu gái mới trả lời “Cháu vẫn còn trẻ mà
bà.” Câu trả lời ấy giải thích lý do người bà hỏi “Tại sao đã 29 tuổi rồi mà
còn chưa lấy chồng.”

18
Trong giao tiếp rất nhiều trường hợp người nói không muốn thể hiện
hiển ngôn ý định của mình thay vào đó là lối nói hàm ẩn. Bằng lối nói này
người nói buộc người nghe phải suy nghĩ để nắm bắt ý nghĩa thực trong lời
nói của mình nhằm tăng sức hấp dẫn, sức thuyết phục cho lời nói. Người nói
dùng lối nói hàm ẩn do nhiều nguyên nhân, có thể do khiêm tốn, không muốn
làm mất thể diện của người nghe, muốn mỉa mai, châm biếm hay không muốn
trực tiếp chịu trách nhiệm về điều mình nói ra…
1.5.2. Hành động ngôn từ trực tiếp (hiển ngôn) và hành động ngôn
từ gián tiếp (hàm ngôn)
Từ cách hiểu về hiển ngôn và hàm ngôn trên, chúng ta có thể phân biệt

được hành động ngôn từ gián tiếp và hành động ngôn từ trực tiếp. Hành động
ngôn từ trực tiếp là hành động mà đích ngôn trung được biểu hiện trực tiếp
bằng dấu hiệu hình thức ngôn từ đặc trưng cho nó, còn gọi là phương tiện chỉ
dẫn lực ngôn trung.
Hành động ngôn từ gián tiếp là hành động mà đích ngôn trung được
biểu hiện gián tiếp thông qua phương tiện chỉ dẫn lực ngôn trung của hành
động khác.
Ví dụ:
(1) - Bạn cho mình mượn quyển sách một chút được không?
(2) - (Hôm qua), bạn có cho mình mượn bút không?
Phát ngôn (2), chủ ngôn chỉ chờ đợi tiếp ngôn xác nhận một trong hai
khả năng “có” hoặc “không” là đủ, tức phát ngôn này nhằm mục đích ngôn
trung chính là muốn người nghe trả lời cho lời hỏi nên đó đươc coi là hành
động ngôn trung trực tiếp.
Còn phát ngôn (1) chủ ngôn hỏi tiếp ngôn về khả năng “cho mượn bút”
và chủ ngôn ít nhiều đã biết hoặc kì vọng vào khả năng thực hiện hành động

19
đó của tiếp ngôn nên nó có hàm ý là chủ ngôn mong muốn tiếp ngôn sẽ thực
hiện hành động mà mình “gợi ý”. Hàm ý này được nhận biết bằng dấu hiệu
ngôn ngữ tạo ra định hướng ngữ nghĩa trong lời là kết cấu: “P + được
không?” thuộc kiểu hàm ngôn quy ước. Ở đây ý nghĩa cầu khiến là hàm ý của
lời, được bày tỏ gián tiếp thông qua hành động hỏi nên ý nghĩa cầu khiến này
là ý nghĩa hàm ngôn.
Tác giả cuốn Ngữ nghĩa ngữ pháp của lời cầu khiến tiếng Việt [14; 47]
đã định nghĩa hành động trực tiếp và hành động gián tiếp như sau:
Hành động trực tiếp/ hiển ngôn là hành động tạo ra địch ngôn trung
hiển ngôn được biểu hiện trực tiếp bởi các dấu hiệu hình thức ngôn từ đặc
trưng cho nó tức là bằng phương tiện chỉ dẫn lực ngôn trung trực tiếp. Hành
động trực tiếp tạo ra lời trực tiếp/ chính danh.

Hành động gián tiếp/ hàm ngôn là hành động mà đích ngôn trung
không được biểu hiện trực tiếp bằng các dấu hiệu hình thức ngôn từ đặc
trưng cho nó mà được biểu hiện gián tiếp thông qua dấu hiệu hình thức của
hành động khác (hành động dẫn nhập) tạo ra hàm ý của lời được người nghe
nhận diện bằng thao tác suy ý trên cơ sở ngữ nghĩa và ngữ cảnh (bao gồm bối
cảnh giao tiếp và thể chế, ước chế xã hội đã được mã hóa). Hành động gián
tiếp tạo ra lời gián tiếp/ hàm ngôn.
II. HÀNH ĐỘNG CẦU KHIẾN TIẾNG VIỆT
2.1. Cầu khiến và hành động cầu khiến
Trong ngôn ngữ học từ xưa đến nay, vấn đề cầu khiến được bàn luận
khá nhiều. Ở Châu Âu, với đặc trưng là ngôn ngữ biến hình thì trong ngôn
ngữ học truyền thống, vấn đề nghĩa cầu khiến hay mệnh lệnh thường thường
gắn với phạm trù ngữ pháp thức. Các nhà nghiên cứu ngữ pháp Châu Âu lấy
phạm trù biểu thị quan hệ giữa hành động với thực tế khách quan và với

20
người nói để giải thích thức. Những thức thường gặp trong ngôn ngữ là: thức
trần thuật, thức mệnh lệnh, thức giả định, thức điều kiện. Trong đó, thức
mệnh lện biểu thị nguyện vọng, yêu cầu của người nói đối với việc thực hiện
hành động.
Ở Việt Nam, vấn đề cầu khiến tuy đã được các nhà nghiên cứu quan
tâm và bàn nhiều, song vẫn chưa đi đến thống nhất.
Nhóm các nhà ngôn ngữ học theo quan điểm ngữ pháp truyền thống
phân loại câu dựa trên hai tiêu chí: theo cấu trúc cú pháp và theo mục đích
phát ngôn. Phân loại câu theo mục đích phát ngôn gồm có: câu trần thuật,
câu cầu khiến, câu cảm thán, câu nghi vấn.
Nguyễn Kim Thản trong Động từ trong tiếng Việt (1977) [30] nhận
diện động từ mang ý nghĩa ngữ pháp mệnh lệnh biểu thị ý chí, ý thức lời yêu
cầu đề nghị hay mệnh lệnh của người nói/ viết đối với người nghe/ đọc đòi
hỏi người này phải thực hiện quá trình do động từ biểu thị. Quan niệm trên

của tác giả đã thể hiện rõ cách phân loại và khái niệm về câu của ngữ pháp
truyền thống là câu cầu khiến là câu dùng để ra lệnh, yêu cầu, đề nghị.
Lê Văn Lý trong Sơ thảo ngữ pháp Việt Nam (1968) [24] khảo sát nhận
diện 13 loại câu, trong đó có câu khuyến lịnh. Theo tác giả câu khuyến lịnh là câu
dùng để bộc lộ ý muốn của mình.
Hoàng Trọng Phiến trong Ngữ pháp tiếng Việt (1980) [27] phân chia
thành: câu cầu khiến, câu hỏi và câu than gọi. Vấn đề về hình thức câu cầu
khiến được tác giả cho rằng câu cầu khiến không có những dấu hiệu ngữ
pháp đặc biệt gì ngoài một số phương tiện hư từ và ngữ điệu. Câu cầu
khiến nói nên ý muốn của chủ thể phát ngôn và yêu cầu người nghe đáp lại
bằng hành động.

×