Tải bản đầy đủ (.pdf) (90 trang)

Đặc trưng thẩm mỹ cơ bản của tiểu thuyết hiện thực chủ nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1000.81 KB, 90 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN.
***




HỒ THU GIANG







ĐẶC TRƯNG THẨM MỸ CƠ BẢN
CỦA TIỂU THUYẾT HIỆN THỰC CHỦ NGHĨA





LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC NGỮ VĂN



Chuyên ngành Văn học Việt Nam
Mã số : 5.04.33.





Người hướng dẫn khoa học: GS.VS PHAN CỰ ĐỆ.





Hà Nội -2004.


MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài. Trang
2. Lịch sử vấn đề. 4
3. Phạm vi và các phương pháp nghiên cứu. 8
4. Các cấu trúc luận văn. 9
PHẦN NỘI DUNG
Chương I: Chủ nghĩa hiện thực và tiểu thuyết 10
1.1. Quan niệm về chủ nghĩa hiện thực 10
1.2.Sự hình thành chủ nghĩa hiện thực ở Việt Nam 19
1.3.Một số hiện tượng tiêu biểu trong tiểu thuyết hiện thực chủ nghĩa Việt
Nam buổi đầu hình thành và phát triển (Từ cuối thế kỷ XVIII đến hết thế
kỷ XIX) 23
1.3.1Chủ nghĩa hiện thực trong tiểu thuyết Đoạn trường tân thanh
của Nguyễn Du. 23
1.3.2.Chủ nghĩa hiện thực trong tiểu thuyết Hoàng Lê nhất thống
chí của Ngô Gia văn phái . 29
1.4.Chủ nghĩa hiện thực và sự ra đời của tiểu thuyết. 31

Chương II: Đặc trưng thẩm mỹ cơ bản của tiểu thuyết hiện thực chủ nghĩa
41
2.1. Tiểu thuyết là gì ? 41
2.2. Đặc trưng thẩm mỹ cơ bản của tiểu thuyết hiện thực chủ nghĩa. 44
Tiểu thuyết là thể loại văn học gần gũi nhất với đời sống, có thể bao
quát hiện thực trên quy mô rộng lớn và toàn vẹn.
2.2.1.Cuộcsống trong tiểu thuyết bao giờ cũng là cuộc sống toàn
diện,phong phú và nhiều mặt. 46
2.2.2. Tiểu thuyết gắn bó chặt chẽ với cuộc sống của quần chúng nên
nó là một trong những thể loại dân chủ nhất của văn học. 55

2.2.3. Trong tiểu thuyết, các tính cách nhân vật có sự phát triển tự thân như
trong đời thật. 59
Chương III: Ảnh hưởng quyết định của đặc trưng thẩm mỹ cơ bản đối
với các đặc trưng thẩm mỹ khác trong tiểu thuyết hiện thực chủ
nghĩa.
3.1.Tiểuthuyết là thể loại có bản chất tổng hợp, nhiều phong cách và thanh
điệu. 65
3.1.1. Ảnh hưởng của âm nhạc. 70
3.1.2. Ảnh hưởng của điện ảnh. 71
3.2. Tính văn xuôi của tiểu thuyết. 74
3.1.1.Tính văn xuôi của tiểu thuyết được thể hiện ở cuộc sống bình thường
hàng ngày trong sự pha trộn, đan chéo và chuyển hoá lẫn nhau của các sắc
thái thẩm mỹ. 75
3.2.2.Tính văn xuôi của tiểu thuyết được thể hiện trong ngôn ngữ
gầnnhư trung tính của tiểu thuyết. 79
3.3.Tiểu thuyết là thể loại có dung lượng lớn. Sự khác nhau giữa tiểu
thuyếtvà truyện ngắn, tiểu thuyết và kịch. 83
















10
PHẦN NỘI DUNG

CHƢƠNG I: CHỦ NGHĨA HIỆN THỰC VÀ TIỂU THUYẾT
1.1.Quan niệm về chủ nghĩa hiện thực.
Nghệ thuật, trong hành trình tồn tại của mình luôn làm tròn thiên
chức cao cả là phản ánh một cách chân thực sự vận động của lịch sử, sự
phát triển của xã hội và những diễn biến phức tạp trong thế giới nội tâm
con người. Đặc tính quý giá này của nghệ thuật cho phép ta tìm thấy ở nó
một cuốn biên niên vĩ đại, một thứ ký ức đặc biệt của nhân loại, đó là lịch
sử được tái hiện bằng ngôn từ (43/82). Với những khả năng đặc biệt nghệ
thuật đã ghi lại những biến cố trong đời sống vật chất và tinh thần của các
nền văn minh cổ xưa đầy đủ hơn, nguyên vẹn hơn những văn bản lịch sử đã
cũ nát hay những di chỉ văn hoá vật chất còn lại cho đến ngày nay của nhân
loại.
Bộ sử thi vĩ đại Illiade, Odyssée của Homère đã cho ta hiểu về cuộc
sống chiến đấu đầy mưu trí và dũng cảm của người Hy Lạp xưa cách đây

mấy mươi thế kỷ. Sự sụp đổ của lý tưởng nhân văn thời kỳ Phục Hưng
trong sự nảy sinh chế độ tư bản đã in đậm trong Don Quichotte của
Cervantès hay những vở bi kịch của Shakespeare .Cuộc sống đầy biến động
và đau thương dưới chế độ phong kiến đang trên đà đi xuống của thế kỷ
XVIII đã được Nguyễn Du phản ánh sâu sắc trong Truyện Kiều …
Tuy vậy, bộ mặt của thế giới hiện ra trong tác phẩm nghệ thuật
không phải là một thứ rập khuôn những gì có sẵn, một sự sao chép máy
móc thực tế cuộc sống. Mô tả cuộc sống con người và đời sống xã hội một
cách chân thực là yêu cầu chung cho tất cả các nền văn học nghệ thuật chân
chính từ xa xưa. Song điều đó không có nghĩa là nghệ thuật trong mọi thời
đại bao giờ cũng là nghệ thuật của chủ nghĩa hiện thực.

11
Chủ nghĩa hiện thực với tư cách là phương pháp sáng tác, một trào
lưu nghệ thuật là một hiện tượng phát sinh ở một giai đoạn nhất định trong
một hành trình phát triển nhận thức của nhân loại. khuynh hướng vận động
ngày càng cao của xã hội giúp con người nhận ra rằng: hành động và tình
cảm của mình không phải là hệ quả của những say mê hoặc những ý đồ
thần linh mà chúng bị quyết định bởi những nguyên nhân thực tại của cuộc
sống. Là một phương pháp sáng tác, chủ nghĩa hiện thực có khả năng miêu
tả chân thực cuộc sống chân thực cuộc sống con người và hoàn cảnh xã hội,
nơi họ sống và hoạt động theo một quy luật nhất định Chủ nghĩa hiện thực
bao hàm một thái độ tích cực của con người đối với cuộc sống, một ý muốn
tìm hiểu, nhận thức thế giới y như nó tồn tại, và một ý thức can thiệp vào
đời sống xã hội (8/14). Quan niệm về chủ nghĩa xã hội hiện thực như vậy
yêu cầu con người phải đạt tới một trình độ nhận thức nhất định. Điều đó
có nghĩa là con người phải có một vốn kinh nghiệm về đời sống tự nhiên,
tâm lý xã hội của bản thân mình cùng với những mối quan hệ phức tạp giữa
bản thân con người với xã hội thì chủ nghĩa hiện thực mới hình thành trong
nghệ thuật .

Nghệ thuật Trung Cổ cũng đã mang những yếu tố thực của cuộc
sống nhưng chủ nghĩa hiện thực chưa xuất hiện bởi con người còn bị thống
trị bởi chế chế độ phong kiến Trung Cổ hà khắc và nhà thờ Thiên Chúa
Giáo. Cái đẹp chân chính trong sự an bài của Chúa, đó là cái đẹp tinh thần,
cái đẹp hướng tới lòng tôn kính những đấng siêu nhiên .
Thế kỷ XVI, cùng với sự xuất hiện mầm mống chủ nghĩa tư bản, ý
thức hệ phong kiến gần suy sụp về căn bản, ý niệm về cái Tôi cá nhân bắt
đầu hình thành. Nghệ thuật phá vỡ quy phạm của nhà thờ, vượt ra ngoài
vòng kiêm toả của tôn giáo để miêu tả cuộc sống trần thế. Nguyên tắc tái
hiện hiện thực bằng nghệ thuật là tiền đề khách quan cho sự phát sinh chủ
nghĩa hiện thực với tư cách là một trào lưu một khuynh hướng, một phương

12
pháp sáng tác độc lập. Có được điều đó, nghệ thuật đã phải đi vào con
đường nghiên cứu và mô tả cuộc sống xã hội, những tình cảm của con
người trong những mối liên hệ phức tạp, tác động chi phối lẫn nhau và có
tính lịch sử của chúng .
Ở Châu Âu, sự hình thành chủ nghĩa hiện thực như một trào lưu
nghệ thuật độc lập gắn liền với sự biến đổi to lớn của lịch sử xã hội. Đó là
một cuộc cách mạng trong tư tưởng con người, sự xói mòn của cấu trúc các
quan hệ xã hội phong kiến đã giải phóng và nâng cao vị trí con người trong
xã hội, từ đó thay đổi thế giới quan của con người. Mặc dù hết sức tinh vi,
nhưng ý thức Trung Cổ chưa phát hiện được cho cá nhân con người những
khả năng tư duy và cảm quan giải phóng . Thoát khỏi hệ thống thế giới
quan phong kiến, con người bắt đầu ý thức về những khả năng của mình
như là những cá nhân với đời sống nội tại riêng.
Các tác phẩm nghệ thuật Trung Cổ cũng đã sử dụng chất liệu của cuộc
sống, nhưng đó chưa được coi là chủ nghĩa hiện thực mà chỉ là những yếu tố
hiện thực, tính hiện thực, giá trị hiện thực… chúng được đan quyện với các
biểu tượng phi thực tại về thế giới, các yếu tố ước lệ, cách điệu, huyền thoại

… phương pháp hiện thực chủ nghĩa bắt đầu hình thành trong nghệ thuật
Phục Hưng, một nền nghệ thuật không thuần nhất, phong cách hết sức đa
dạng, trong đó nghệ thuật Gôtích kề bên chuyện sinh hoạt và tiếu lâm mà
tiêu biểu là những tác phẩm của Pôgiô và Mazaxiô, trong đó sử thi cung
đình Trung Cổ biến thành thơ hùng -hài, thành thơ ca hết sức trần tục của
Pulchi hoặc trường ca anh hùng hào hoa của Ariôxtô, trong đó chủ nghĩa
chủ quan của những người theo chủ nghĩa Platon và nghệ thuật Baroccô
thay thế cho những truyền thống thơ xán lạn và hoàn thiện bắt nguồn từ
Pêtrarca (43/46).
Chủ nghĩa hiện thực được phát sinh cùng với sự xuất hiện của
Gargantua và Pantagruel của Rabelais. Đó được xem như tác phẩm mở

13
đầu cho sự xuất hiện chủ nghĩa hiện thực trong buổi bình minh của nó. Mặc
dù các nhân vật còn được mô tả theo lối cường điệu quá đáng, các quy
phạm của nghệ thuật phong kiến vẫn còn tồn tại, song tác phẩm đã có
những phân tích những quan hệ xã hội đương thời. Xung đột trong tác
phẩm là xung đột của xã hội thời hiện tại. Rabelais đã thấy rõ cuộc sống
xác thực đang bị bóp méo, thậm chí lý tưởng về một cuộc sống tươi đẹp
đang bị phủ định. Với trí tuệ ưu tú và trái tim mẫn cảm Rabelais đã nhìn ra
được mâu thuẫn đối kháng đang chứa chất trong lòng xã hội thời kỳ phôi
thai của của một chế độ xã hội mới. Xung đột làm thành cốt lõi của
Gargantua và Pantagruel được nghệ sĩ rút ra từ môi trường trong đó con
người sống và hoạt động, từ kinh nghiệm thực tiễn của nó (43/49) .
Một thời gian không lâu sau đó, tiểu thuyết Don Quichotte của
Cervantès ra đời đã cung cấp cho ta một bức tranh khá đầy đủ về xã hội
Tây Ban Nha và thế kỷ XVII, giai đoạn giao thời giữa thời kỳ Phục Hưng .
Xung đột tác phẩm phản ánh tình trạng đầy bi kịch giữa khát vọng vươn tới
cái cao cả và lẽ công bằng của con người với một thực tế đầy tính chất văn
xuôi của cuộc sống hàng ngày. Cervantès đã chính xác hơn Rabelais rất

nhiều về sự nhận địmh và phản ánh xã hội thời đại ông , và do vậy bi kịch
giữa lý tưởng nhân văn với thực tế sinh hoạt thị dân được phản ánh sâu sắc
hơn, toàn diện hơn. Nếu như Rabelais luôn hy vọng có thể đạt tới sự hài
hoà trong cuộc sống, luôn kỳ vọng vào một xã hội tốt đẹp thì Don
Quichotte đã ca ngợi sự cao cả của cái thiện, cái đẹp, đồng thời phá vỡ ảo
tưởng về khả năng cái thiện sẽ thắng thế trong trật tự thế giới mới của xã
hội tư sản đang hình thành .
Sự xuất hiện của Gargantua và Pantagruel và Don Quichotte
đánh dấu một bước ngoặt quan trọng của sự hình thành bước đầu chủ nghĩa
hiện thực như một trào lưu nghệ thuật độc lập, một phương pháp sáng tác
nghệ thuật mới trong lịch sử nhân loại. Từ khi thượng đế từ từ rời khỏi vị

14
trí của Người nơi từ đó Người đã điều khiển toàn bộ vũ trụ và ngôi thứ của
các giá trị trong vũ trụ đó , phân biệt cái thiện với cái ác và ban cho mỗi sự
vật một ý nghĩa, Don Quichotte bước ra khỏi nhà và không còn đủ sức
nhận ra thế giới nữa. Cái thế giới này thiếu mất vị trí phán xét tối cao, đột
nhiên hiện ra trong một tình trạng nhập nhằng đáng sợ, chân lý thần thánh
duy nhất bị tan rã thành hàng trăm chân lý tương đối mà những con người
chia lấy cho nhau. Như vậy đấy, thế giới của thời hiện đại đã ra đời
(24/13), và cùng với nó chủ nghĩa hiện thực đã hình thành trong buổi đầu
sơ khai của mình .
Cervantès đã chọn một tiêu chí khác để đánh giá và suy xét cuộc
sống thực tại, ông tìm kiếm trong bản thân những xung đột của cuộc sống
câu trả lời cho tính chất của hành động của con người, động cơ và nguyên
nhân dẫn tới quyết định của con người. Ông lấy chính các kinh nghiệm
cuộc sống để điều chỉnh lại các hành vi của con người và lôgíc của hành
động. Cervantès đã thông qua thái độ mỉa mai, châm biếm, thậm chí hạ
thấp những chiến công cao cả của Don Quichotte để chứng minh rằng: lý
tưởng không phải là trừu tượng, nó là lôgíc của cuộc sống thực tế nôm na

hằng ngày và nghệ thuật phải phản ánh nó chứ không được phản ánh lại
những hiện tượng tự biện về thế giới. Tư tưởng này của tác phẩm là một
thành tựu rất to lớn của nghệ thuật hiện thực chủ nghĩa đang hình thành.
Millan Kundera cho rằng: Đối với tôi, người sáng lập Thời Hiện Đại
không chỉ là Descartes mà còn là Cervantès (24/11) . Thời Hiện Đại, thời
của chủ nghĩa hiện thực , một trào lưu vô cùng quan trọng của nghệ thuật
nói chung và văn học nói riêng, và chủ nghĩa hiện thực của Rabelais, của
Cervantès là chủ nghĩa hiện thực nghịch dị (Bakhtin ). Trong đó, hiện thực
cuộc sống đương thời hết sức rối ren, khắc nghiệt cùng với mơ ước về một
cuộc sống tốt đẹp hơn luôn đan xen nhau trong một chỉnh thể thống nhất
không thể tách rời. Điều đó được phản ánh dưới kiểu hình tượng đặc thù

15
nằm trong thuộc tính của nền văn hoá trào tiếu dân gian với hệ thống những
yếu tố gây cười.
Nghệ thuật hiện thực chủ nghĩa với nhiệm vụ phản đời sống xã hội
của con người để rồi từ đó nhận thức bản chất các quá trình lịch sử trong
hình thành của mình, luôn có những bước phát triển vượt bậc. Lối mô tả
cuộc sống nhiều bình diện trong các tác phẩm của Shakespeare được xem
như là một bước đột phá trong sự phát triển của phương pháp hiện thực chủ
nghĩa.
Các sáng tác của Shakespeare luôn có tính nguyên hợp, những mô
típ hiện thực và phi hiện thực luôn đan xen với nhau trong các tác phẩm.
Nhưng môtíp chủ đạo vẫn là chủ nghĩa hiện thực trong sự mô tả những tính
cách, sự tái hiện một cách chân thực những xung đột đạo đức của các nhân
vật. Đó là cơ sở cốt yếu nhất để nhận thức một cách đúng đắn và chân thực
xã hội đương thời.
Các xung đột bi kịch của những nhân vật trong sáng tác của
Shakespeare không mang tính chất định mệnh bởi các đấng siêu nhiên mà
bị quyết định bởi các nguyên nhân từ điều kiện lịch sử - xã hội. Những khát

vọng cá nhân cao đẹp luôn luôn mâu thuẫn với thực tế cuộc sống đương
thời. Cái chết của Roméo và Julliette, tấn bi kịch tinh thần của Hamlet, sự
sụp đổ lòng tin của Otello là kết quả của những xung đột nằm trong chính
xã hội mà Shakespeare sống và sáng tác. Thực tế là chìa khoá của bi kịch,
là ngọn nguồn phát sinh những bi kịch đó. Shakespeare đã phản ánh một
cách chân thực những xung đột của cuộc sống bằng những sáng tác của
mình. Chủ nghĩa hiện thực đến Shakespeare đã có sự phát triển mới sâu
sắc hơn chủ nghĩa hiện thực của Rabelais và Cervantès.
Shakespeare mô tả thế giới nội tâm của con người trong sự thống
nhất với thực tế xã hội. Tính cách các nhân vật của ông là những điển hình
của một thời đại lịch sử trong đó nổi bật lên ở những bình diện vừa phổ

16
quát, vừa cá biệt. Tư tưởng nghệ thuật của Shakespeare hướng về nghiên
cứu tồn tại khách quan và ông đã biểu hiện những mâu thuẫn cùng xung
đột trong lòng xã hội đó. Mâu thuẫn trong những tính cách của Shakespeare
là mâu thuẫn của chính cuộc sống thời đại ông. Tuy cốt truyện được lấy từ
quá khứ nhưng Shakespeare luôn hướng về cuộc sống hiện tại bằng việc
nghiên cứu đời sống xã hội và những xung đột đang diễn ra nóng hổi. Chủ
nghĩa hiện thực Shakespeare được coi là chủ nghĩa hiện thực thời Phục
Hưng.
Sau Shakespeare, chủ nghĩa hiện thực vẫn tiếp tục phát triển: Lôgíc
của sự phát triển lịch sử, sự nghiên cứu bằng nghệ thuật thực tiễn của con
người được hiểu theo nghĩa rộng đã dẫn tới việc chủ nghĩa hiện thực hình
thành hoàn toàn như là một phương pháp sáng tác độc lập. Các sáng tác của
Rechardson , Diderot, Lessing ,Goethe, Smolett thế kỷ XVIII đã cho phép
ta xác định đặc điểm xác định của phương pháp mô tả hiện thực và phân
biệt nguyên tắc chủ nghĩa hiện thực với các xu hướng khác nhau trong nghệ
thuật.
Thế kỷ XIX, khi chủ nghĩa tư bản bộc lộ hết bản chất xấu xa của nó ,

chủ nghĩa hiện thực kiểu mới có thái độ phê phán đối với thực tế xã hội
đương thời của Balzac; Stendhal; Dickens; Gogol đã xuất hiện. Cho đến lúc
này, chủ nghĩa hiện thực mới trở thành một phương pháp sáng tác nghệ
thuật hoàn chỉnh với đầy đủ các đặc trưng của nó. Lịch sử hình thành của
chủ nghĩa hiện thực với tính cách là một khuynh hướng hiện nghệ thuật
diễn ra rất phức tạp. Nhưng có thể nói chủ nghĩa hiện thực đã đạt tới mức
độ phát triển cao nhất , mức độ biểu hiện rõ rệt nhất và có ý thức của nó
trong giai đoạn quá độ từ thời cách mạng tư sản sang thời đại cách mạng
vô sản, nói đúng hơn tức là trong thế kỷ XIX (60/52).
Chủ nghĩa hiện thực gắn liền với tiểu thuyết của Stendhal, Balzac,
Flaubert (Pháp); Dickens, Thakerey, Charlotte Bronte (Anh); Gogol,

17
Tchékov, L. Tolstoi, Dostoievsky ( Nga ) … trong thế kỷ XIX. Trước đó và
cùng thời với nó là những tiểu thuyết lãng mạn chủ nghĩa của Walter Scott,
Victor Hugo, Alexandre Dumas (Pháp), Multatuli (Hà Lan)… Đó là chưa
kể những tiểu thuyết chủ nghĩa tự nhiên của Émile Zola… Trong thế kỷ
XIX, tiểu thuyết hiện thực chủ nghĩa là dòng chủ lưu nhưng không phải là
tất cả và không nên quy lịch sử tiểu thuyết thành hai dòng tiểu thuyết hiện
thực chủ nghĩa và tiểu thuyết phi hiện thực bởi như vậy là không đúng,
thậm chí là lệch lạc.
Là một phương pháp sáng tác, một trào lưu nghệ thuật độc lập, chủ
nghĩa hiện thực có đầy đủ các tiêu chí nghệ thuật của nó. Nghệ thuật chủ
nghĩa hiện thực đòi hỏi phải phản ánh hiện thực một cách chân thực, khách
quan. Cái đẹp của nghệ thuật hiện thực phải là cái đẹp của cuộc sống, cái
đẹp bắt nguồn từ cuộc sống. Engels cho rằng: Theo tôi quan niệm thì chủ
nghĩa hiện thực, ngoài tính chân thực của chi tiết, nó còn đòi hỏi tính chân
thực trong việc tái hiện những tính cách điển hình trong hoàn cảnh điển
hình (60/72 ).
Lời phát biểu của Engels được coi là một chuẩn mực để đánh giá các

tác phẩm nghệ thuật hiện thực chủ nghĩa. Nghệ thuật hiện thực chủ nghĩa
đòi hỏi phải chân thực đến từng chi tiết của cuộc sống. Nhưng chỉ thế thôi
chưa đủ , mà nghệ thuật hiện thực chủ nghĩa còn phải xây dựng được
những tính cách điển hình trong một hoàn cảnh điển hình. Cái điển hình ở
đây chính là cái bản chất trong những sự kiện và hiện tượng, cái mà qua đó
người ta có thể thấy được tính khái quát hoá và cá thể hoá của bản thân
những sự kiện, hiện tượng đó.
Chủ nghĩa hiện thực đi sâu vào chân lý của đời sống thực tại, rút
chân lý đó ra từ những biểu hiện sinh động của hiện thực khách quan bằng
cách mô tả chân thực sự phản ánh của đời sống vào tâm lý con người.
A.Tolstoi cho rằng : Chủ nghĩa hiện thực trong nghệ thuật, đó là sự trần

18
thuật xuất phát từ bên trong, về cuộc đấu tranh của cá tính con người trong
hoàn cảnh vật chất bao quanh cá tính đó. Chủ nghĩa lãng mạn tách con
người ra khỏi hoàn cảnh vật chất, hướng con người tới chỗ đấu tranh
chống những gì trừu tượng, như Don Quichotte chẳng hạn, chống cối xay
gió, chủ nghĩa tự nhiên mô tả, xuất phát từ cái bên ngoài nói chung, hoàn
cảnh vật chất không đi sâu vào tính biện chứng bên trong của sự vật - chủ
nghĩa hiện thực xuất phát từ cái bên trong để phát hiện thế giới nội tâm
của con người bao quanh như cây gắn liền với rễ của nó với đất nuôi
dưỡng nó (60/81 ). Chủ nghĩa hiện thực luôn tìm tòi những mối liên hệ giữa
cuộc sống vật chất và cuộc sống tinh thần để từ đó làm nổi bật bản chất của
hiện thực đời sống khách quan và những khát vọng của cá nhân con người
trong xã hội đó. Cách xử lý hình tượng theo phương pháp hiện thực chủ
nghĩa đòi hỏi phải nêu thật nổi bật bản chất của hình tượng không cho đan
xen vào trong đó một tính khuynh hướng lộ liễu , không ép các thuộc tính
và phẩm chất của hình tượng phải “thích ứng” giả tạo với quan niệm giả
định sẵn có về nó - phải nêu nổi bật bản chất nói trên qua sự vận động của
những niềm say đắm và những khát vọng cá nhân gắn bó với tồn tại xã hội

của con người, với những cảnh và môi trường xung quanh cuộc sống con
người (60/79).
Có thể nói chủ nghĩa hiện thực là một phương pháp sáng tác, một
trào lưu, một khuynh hướng nghệ thuật mang tính lịch sử. Với hành trình
hơn bốn thế kỷ, chủ nghĩa hiện thực luôn có những bước phát triển vượt
bậc cùng với sự phát triển của tri thức nhân loại. Trong buổi sơ khai của
mình, chủ nghĩa hiện thực nghịch dị, chủ nghĩa hiện thực thời Phục Hưng
của Rabelais, Cervantès và Shakespeare đã có những thành tựu đáng kể đặt
nền móng cho chủ nghĩa hiện thực thế kỷ XVIII, chủ nghĩa hiện thực phê
phán phát triển và hoàn thiện nguyên lý sáng tác. Đến chủ nghĩa hiện thực
xã hội chủ nghĩa, nghệ thuật đã trở thành một vũ khí tư tưởng mạnh mẽ của

19
nhân dân, của giai cấp vô sản trên toàn thế giới, tích cực đấu tranh cho cái
mới nhanh chóng thắng lợi ngay trong cuộc sống hiện tại và cho việc xây
dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn xã hội trước đó, xã hội cộng sản chủ
nghĩa.

1.2. Sự hình thành chủ nghĩa hiện thực ở Việt Nam.
Ở Việt Nam, chủ nghĩa hiện thực ra đời muộn hơn ở Châu Âu
khoảng hai thế kỷ. Vào nửa sau thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX(
Thời Lê mạt – Nguyễn sơ ), xã hội phong kiến Việt Nam đã thật sự rơi vào
tình trạng khủng hoảng trầm trọng, bộc lộ toàn vẹn sự xấu xa, thối nát của
các tập đoàn phong kiến vua Lê, Chúa Trịnh, Chúa Nguyễn. Nhiều phong
trào nông dân khởi nghĩa nổ ra, nổi bật là phong tào Tây Sơn với người anh
hùng áo vải Nguyễn Huệ. Cuộc khởi nghĩa được xem như là một cuộc cách
mạng lớn có thể so sánh với thời đại Phục Hưng ở một số nước Phương
Tây. Xã hội biến động dẫn tới sự phân hoá sâu sắc các giai tầng trong xã
hội, tiêu biểu là sự phân hoá tầng lớp nho sĩ, lực lượng trí thức duy nhất của
xã hội phong kiến. Các quy phạm về chính trị, đạo đức thẫm mỹ của xã hội

phong kiến cũng bị đảo lộn, những khát vọng tự do, công lý của quần
chúng, của tầng lớp thị dân ngày càng dâng lên mạnh mẽ, tạo điều kiện cho
một loạt sáng tác văn học nghệ thuật mang những yếu tố hiện thực chủ
nghĩa kết tinh thành cả trào lưu văn học hiện thực chủ nghĩa bước đầu với
những tác phẩm xuất sắc như Truyện Kiều của Nguyễn Du và Hoàng Lê
nhất thống chí của Ngô Gia văn phái, thơ Hồ Xuân Hương .
Xét về quy mô và tính chất thì ở Việt Nam sự biến thiên xã hội để
hình thành chủ nghĩa hiện thực như một phương pháp sáng tác , một trào
lưu văn học nhỏ hơn nhiều so với Phương Tây thời Phục Hưng. Việt Nam
là một nước nằm trong phương thức sản xuất Châu Á khép kín, manh mún
nhỏ hẹp, thiếu tính chất liên kết rộng lớn kể cả trong nước và ngoài nước.

20
Các cuộc cải cách xã hội diễn ra chậm chạp và nhỏ giọt. Tuy nhiên kết quả
của những chuyển biến xã hội và tư tưởng là sự ra đời của một phong trào
văn học nghệ thuật hết sức đặc sắc. Nội dung, đề tài, khuynh hướng sáng
tác, thể loại của văn học dân gian cũng như văn học bác học phong phú và
sâu sắc chưa từng thấy trong lịch sử văn học lịch sử văn học nghệ thuật dân
tộc. Chủ nghĩa hiện thực trên cơ sở đó đã phôi thai ở những bước đầu
tiên. Chủ nghĩa hiện thực với tư cách là một phương pháp sáng tác, một
trào lưu văn học độc lập được đánh dấu bởi các sáng tác của Nguyễn Du,
tác giả của Truyện Kiều nỗi tiếng, Nguyễn Du là đại biểu lớn nhất ,
Truyện Kiều và một phần thơ chữ Hán của ông là sự thể hiện rực rỡ nhất
chủ nghĩa hiện thực ( 8/25) .
Chủ nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam được tiếp thu từ truyền
thống của văn học dân gian, cụ thể là truyện thơ Nôm. Truyện thơ Nôm là
loại hình tự sự lớn nhất của Việt Nam trước đây (thế kỷ XVIII trở về
trước), chiếm một khối lượng đồ sộ trong kho tàng văn học cổ. Truyện thơ
Nôm bắt rễ sâu vào đời sống của nhân dân. Nhiều lúc dường như là tiếng
vang của những cuộc khởi nghĩa quần chúng , đặc biệt là trong thời kỳ Lê

mạt - Nguyễn sơ. Giai cấp phong kiến chưa bao giờ đặt văn học Nôm
ngang hàng với văn học chữ Hán ( chỉ có Nguyễn Huệ, người anh hùng áo
vải là dám đem chữ Nôm thách thức với chữ Hán trong mọi lĩnh vực ).
Nôm na là cha mách qué, Mua vui cũng được một vài trống canh
Truyện Nôm để đả kích, để châm biếm, để mua vui’ chứ không phải để chỉ
đạo như văn học chữ Hán. Phú, văn tế, hịch, cáo, thơ Đường là những
thể loại nghiêm nghị, bi ai, hùng tráng. Thơ Đường luật của bà Huyện
Thanh Quan trang trọng, chạm trổ tinh vi, kết cấu chặt chẽ, thâm nghiêm
như một toà lâu đài phong kiến. Nhưng văn Nôm thì có loại bông lơn đùa
cợt. Thơ Đường luật của Hồ Xuân Hương, Tú Xương nghe có giọng châm
chọc, đả kích đôi khi quất thẳng vào mặt kẻ thù như một tiếng chửi.

21
Văn học chữ Hán gắn liền với đạo lý. Truyện thơ Nôm hầu như xa
lịch sử, cho phép hư cấu nhiều hơn ,nói chuyện đời nhiều hơn. Truyện thơ
Nôm vừa đề cập đến những vấn đề của quốc gia, dân tộc đồng thời vừa
phản ánh những câu truyện hằng ngày của quần chúng, chú ý nhiều hơn
đến số phận những con người bình thường trong cuộc sống. Khuynh hướng
dân chủ hoá khiến nó đi sâu được vào quần chúng đông đảo. Truyện thơ
Nôm về cơ bản nằm ngoài khuôn khổ của những quy phạm đạo đức phong
kiến. Do vậy nó là một cơ sở quan trọng để chủ nghĩa hiện thực tiếp thu và
phát triển trở thành một phương pháp sáng tác, một trào lưu văn học độc
lập .
Chủ nghĩa hiện thực cũng đã tiếp thu các yếu tố thực, các giá trị hiện
thực của dòng văn học bác học từ thế kỷ XVIII trở về trước. Đó là những
dòng tâm sự, những nỗi lòng của tác giả về thời thế, những chi tiết tả chân
về cuộc sống hiện thực của xã hội phong kiến Việt Nam : Lĩnh Nam chích
quái của Trần Thế Pháp, Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ . Nam ông
mộng lục của Hồ Nguyên Trừng Bên cạnh những tác phẩm chữ Hán
mang tính chất chỉ đạo, ngợi ca xã hội phong kiến, còn có những dòng thơ

Nôm thể hiện nỗi lòng tâm sự về cuộc sống hàng ngày, nhân tình thế thái
và tư tưởng nhân văn cao cả luôn hướng về nhân dân của các bậc trí thức
giàu lòng nhân nghĩa. Ngoài ra chủ nghĩa hiện thực cũng đã kế thừa thơ
Đường Trung Quốc của Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị các tiểu thuyết thời Minh ,
Thanh như Tam Quốc chí, Thuỷ Hử, Hồng Lâu Mộng Truyền thống
văn học dân gian và văn học bác học cũng như ảnh hưởng thời kỳ đầu của
văn học Trung Quốc đóng vai trò vô cùng quan trọng trong sự hình thành
chủ nghĩa hiện thực.
Chủ nghĩa hiện thực hiện thực trong văn học học Việt Nam thời Lê
được hình thành trong những điều kiện lịch sử - xã hội đặc biệt của dân tộc
Việt Nam và cũng như thời kỳ Phục Hưng ở Châu Âu, chủ nghĩa hiện thực

22
ở Việt Nam bao trùm toàn bộ các lĩnh vực của văn học nghệ thuật chứ
không phải chỉ riêng ở văn học . Chủ nghĩa hiện thực được thể hiện trong
hội họa, âm nhạc, điêu khắc ( Các vị La Hán chùa Tây Phương ), nhưng
đặc biệt in dấu đậm nhất vẵn là ở các tác phẩm nghệ thuật ngôn từ . Văn
học Việt Nam là một bộ phận của văn học Đông Nam Á và Văn học học
thế giới nên chủ nghĩa hiện thực Việt Nam vừa mang những nét phổ biến
giống chủ nghĩa hiện thực trong khu vực, văn học thế giới, vừa mang
những nét riêng biệt ,độc đáo của dân tộc.
Tính chất dân tộc của chủ nghĩa hiện thực Việt Nam nửa cuối thế kỷ
XVIII đó là văn học chống chế độ phong kiến tham tàn đang trên dốc của
sự suy thoái. Hình tượng bọn vua chúa tham tàn được khắc hoạ rõ nét trong
rất nhiều tác phẩm văn học nghệ thuật. Truyện Kiều của Nguyễn Du,
Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô Gia văn phái Các phong tráo khởi
nghĩa nông dân dưới chế độ phong kiến thối nát cũng đã được văn học
phản ánh khá đầy đủ, đặc biệt là phong trào khởi nghĩa Tây Sơn của người
anh hùng áo vải Quang Trung - Nguyễn Huệ. Chủ nghĩa hiện thực Việt
Nam thế kỷ XVIII cũng đã đồng thời đề cấp đến những tư tưởng nhân văn

cao cả. Đó là sự bênh vực những người thấp cổ bé miệng trong xã hội, đặc
biệt là những người phụ nữ, ca ngợi tình yêu tự do
Nằm trong quy luật phát triển chung, chủ nghĩa hiện thực Việt Nam
cũng đã thể hiện những nét phổ biến của chủ nghĩa hiện thực khu vực và
chủ nghĩa hiện thực thế giới. Các tác phẩm Việt Nam đã lên án bọn xâm
lược ngoại bang đội lốt các thầy tu đi truyền bá và khai sáng văn minh ở
xứ sở lạc hậu, phê phán sự lỗi thời của tư tưởng Nho giáo và Phật giáo
Về hình thức thể hiện, đặc trưng chủ nghĩa hiện thực Phương Đông có sự
tranh chấp giữa chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa quy phạm. Khi khắc họa
các nhân vật phản diện, các nhà văn đã dùng bút pháp tả thực, còn khi xây

23
dựng các nhân vật lý tưởng, các quy phạm của mỹ học phong kiến lại
chiếm ưu thế.
Ở bình diện thế giới, các nhà văn đã xây dựng hình tượng các bạo
chúa tham tàn giống như ở Châu Âu Phục Hưng. Bạo chúa là hình tượng
văn học phổ biến trong dòng văn học hiện thực của tất cả các nền văn học
trong buổi đầu hình thành chủ nghĩa hiện thực. Đó là các Trang vương,
Ngụy vương, lực lượng phản diện cản trở và trà đạp hạnh phúc của con
người.
Đồng thời với việc xây dựng các bạo chúa, tiếng cười cũng đã được
đưa vào văn học như một vũ khí châm biếm, đã kích vào thực tế thối nát
của chế độ phong kiến. Nếu như tiếng cười của Rabelais nhằm chống lại
trật tự xã hội Trung Cổ thì tiếng cười Hồ Xuân Hương lại tấn công vào chế
độ phong kiến Việt Nam thế kỷ XVIII đầy bất công và thối nát.
Có thể nói chủ nghĩa hiện thực Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII nửa
đầu thế kỷ XIX mặc dù chưa có các điển hình nỗi tiếng như chủ nghĩa hiện
thực Châu Âu thời Phục Hưng nhưng đã đạt đến một trình độ khá cao về
mặt khái quát hoá và điển hình hoá. Lần đầu tiên trong văn học con người
thoát khỏi tư tưởng thần quyền, thế giới quan tôn giáo để khẳng định tư

tưởng làm chủ của mình. Và cũng lần đầu tiên những con người bình
thường được phản ánh một cách rõ nét và chân thực. Tuy vậy chủ nghĩa
hiện thực thời Lê mạt - Nguyễn sơ vẫn còn mang tính chất tự phát, phổ
biến nhưng tản mạn, không đều phải tập trung rất nhiều tác phẩm mới có
thể khái quát hoàn chỉnh bức tranh xã hội đương thời (8/39).
1.3. Một số hiện tƣợng tiêu biểu trong tiểu thuyết hiện thực chủ
nghĩa buổi đầu hình thành và phát triển ( Từ cuối thế kỷ XVIII đến
hết thế kỷ XIX )

24
1.3.1 Chủ nghĩa hiện thực trong tiểu thuyết Đoạn trường tân thanh
của Nguyễn Du.
Chủ nghĩa hiện thực là sự phản ánh hiện thực xã hội vào thế giới nội
tâm con người một cách đầy đủ nhất và chính xác nhất. Chủ nghĩa hiện
thực tái hiện thực tại như nó vốn có, không lý tưởng hoá, không phóng đại
theo lối châm biếm, đả kích. Sự phản ánh của chủ nghĩa hiện thực không
chỉ dừng lại ở việc tái hiện hình thức bên ngoài mà còn phải đi sâu vào bản
chất của cuộc sống đế xây dựng những tính cách điển hình trong hoàn cảnh
điển hình.
Tiểu thuyết Đoạn trƣờng tân thanh của Nguyễn Du là tác phẩm
đầu tiên đặt nền móng cho văn học hiện thực ở nước ta. Tuy nhiên trong
buổi đấu sơ khai của nó tính chất quy phạm của nền văn học trước vẫn còn
dấu ấn. Ở Truyện Kiều có sự đan xen, giằng xé giữa xu hướng chủ nghĩa
hiện thực và những những nền nếp đã trở thành quy phạm. Và cái vĩ đại
của Nguyễn Du không phải ở chỗ cắt đứt mọi liên hệ với văn học quá khứ
và đương thời mà là ở chỗ, thông qua những khuân khổ, những quy ước
định sẵn, Nguyễn Du tìm được con đường dẫn tới chủ nghĩa hiện thực,
bằng một sự kết hợp sinh động, tài tình(27/7). Xuất phát từ một tác phẩm
nước ngoài nhưng Nguyễn Du đã sáng tạo và xây dựng nên một tác phẩm
mang tư tưởng mới mẻ, là sản phẩm của xã hội và thời đại ông . Từ Kim

Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân đến Truyện Kiều của Nguyễn
Du là một sự tái tạo tinh vi , phức tạp để biến một tác phẩm văn học tầm
thường , tự nhiên chủ nghĩa đến thô tục trở thành một tác phẩm văn học
hiện thực chủ nghĩa kiệt xuất, tuyệt vời (27/ 62 ). Nguyễn Du sống ở thời
điểm xã hội phong kiến đang trên bờ vực của sự suy tàn, và bản thân ông
là một nhà Nho nên có chịu ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến. Nguyễn
Du tin vào định mệnh, ông tin rằng có một thứ chủ nghĩa định mệnh đâu đó
ở thế giới trần thế này chi phối đến cuộc sống tình cảm con người . Đó

25
chính là tâm trạng bế tắc của tác giả trước sự bế tắc của xã hội đương thời.
Nguyễn Du không biết nguyên do tại đâu, không biết đâu là lối ra, không
giải thích được vì sao lực lượng này cứ ngự trị trong cuộc sống. Nguyễn Du
không biết làm thế nào để đánh đổ lực lượng ấy và lấy gì để thay thế vào.
Ông cho rằng, đó là do định mệnh, do một đấng thiên tạo nào đó bày ra,
chủ nghĩa định mệnh cũng từ đó ảnh hưổng đến tư tưởng và kết cấu
Truyện Kiều. Truyện Kiều cũng có cái kết thúc có hậu giống như các
truyện Nôm đương thời và đó là ý nghĩa của lực lượng thần bí, là ước mơ
của con người qua lời tiên tri của nhà Phật. Đấy chính là hạn chế của tư
tưởng - nghệ thuật tác phẩm.
Chủ nghĩa định mệnh của Truyện Kiều bắt nguồn từ tư tưởng thiên
mệnh của Đạo Nho: Không biết mệnh, không là người quân tử, Tử sinh
hữu mệnh, phú quý tại thiên. Mặt khác chủ nghĩa định mệnh của Nguyễn
Du cũng ảnh hưởng của tư tưởng luân hồi đạo Phật:
Đã mang lấy nghiệp vào thân
Cũng đừng trách lẫn trời gần trời xa
Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài
Thiên mệnh, hoạ phúc con người là tư tưởng của tôn giáo và Nguyện
Du đã dùng nó để chứng minh cho thuyết tài mệnh tương đố, hồng nhan

bạc mệnh. Trong hoàn cảnh xã hội phong kiến, thuyết này không phải là
không có nội dung hiện thực, nhưng Nguyễn Du đã gán cho nó một ý nghĩa
duy tâm , siêu hình, cho đó là tạo vật đố hàn, bỉ sắc tư phong. Mâu thuẫn
trong thế giới quan của Nguyễn Du đã được thể hiện qua tác phẩm:
Trăm năm trong cõi người ta
Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau
tài ở đây là tài hoa, tài sắc, tài tình. Với Đạm Tiên là tài văn chương, với
Kiều là tài đàn hát, tài thơ, với Từ Hải là tài cầm quân Và có một điều

26
chắc chắn là trong thuyết tài mệnh tương đố của mình, Nguyễn Du lệch về
phía tài hoa mà rất nhẹ về phía tài thao lược, trí dũng, anh hùng. Cái tài của
Từ Hải cũng vì thế không nằm trong vòng cương toả của chữ mệnh. Mâu
thuẫn trong tư tưởng của Nguyễn Du vừa mang tính chất lịch sử xã hội,
đồng thời cũng sẽ có căn nguyên từ chính hoàn cảnh cá nhân ông . Nếu
Nguyễn Du đồng nhất chữ tài với cái anh hùng thì chủ đề tác phẩm sẽ
khác, nhân vật trung tâm sẽ không phải là Thuý Kiều mà là Từ Hải. Chủ
đề Truyện Kiều sẽ là mâu thuẫn giữa những con người có khí phách như
Từ Hải với số mệnh tàn ác. Nhưng đó là giả thuyết vì quan niệm của
Nguyễn Du về chữ tài không cho phép ông đặt phần sâu sắc nhất của lý
tưởng thẩm mỹ của mình vào nhân vật Từ Hải. Đây chính là hạn chế của
Nguyễn Du.
Chữ tài trong Truyện Kiều về thực chất là chữ tình. Thuý Kiều
chịu bao oan khổ, đập vùi cũng là vì muốn sống cho ra sống, do chữ tình
đối với cuộc đời, đỗi với người khác và đối với chính mình .
Nghĩ đời mà ngán cho đời
Tài tình chi lắm cho trời đất ghen
Nếu bỏ qua cái vô siêu hình thì lý thuyết của Nguyễn Du không phải
là không có cơ sở khách quan, không phải là không có giá trị tố cáo. Xã hội
phong kiến vốn không dung nạp tài năng, thời Nguyễn Du, Gia Long đã

bãi bỏ chức trạng Nguyên vì sợ người có tài. Đến Đặng Trần Thường,
Nguyễn Văn Thành là những công thần khai quốc cuối cùng cũng có một
kết cục đau thương. Trong xã hội phong kiến đa tài đồng nghĩa với đa nạn.
Từ Hải chết đứng còn Kiều thì: Những là oan khổ lưu ly.
Chữ tài của Nguyễn Du mang đậm nội dung xã hội. Ông đã thấy
được thế lực hắc ám gây tội ác với những người tài hoa như Kiều, Đạm
Tiên. Tác giả đã quất mạnh tay và vạch mặt một cách không thương xót lũ
người ấy. Khi cần Nguyễn Du cũng đã có những kết luận đúng đắn. Nhưng

27
đến khi tổng kết, khi rút ra những khái quát triết lí thì dường như, Nguyễn
Du lại quên mất lũ sai nha đầu trâu mặt ngựa, quên mất Tú Bà, Sở
Khanh…, những kẻ buôn thịt bán người. Kẻ thù không còn là lũ lang sói
mà là một cái gì vô hình vô ảnh, tuy không kém phần khắc nghiệt: đó là số
mệnh.
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung.
Mệnh là sự may rủi cá nhân và là cái không thể tránh được. Nguyễn
Du tin như vậy:
Rủi may âu cũng tự trời.
Lòng tin của Nguyễn Du vào định mệnh bắt nguồn từ căn nguyên xã
hội. Thời đại Nguyễn Du sống là thời đại mà chế độ phong kiến đã đến cực
điểm của sự khủng hoảng, nhiều phong trào nông dân nổ ra rồi thất bại.
Trong hoàn cảnh như thế, ông không biết phải giải thích ra sao, phải chăng
do định mệnh?
Nguyễn Du tin vào số mệnh nhưng mặt khác ông cũng tố cáo định
mệnh: Xưa nay nhân định thắng thiên cũng nhiều. Tác giả xót xa cho thân
phận con người, căm ghét những lực lượng giày xéo lên con người, gây cho
họ những bất hạnh, khổ đau. Chủ nghĩa hiện thực Truyện Kiều được xây
dựng dựa trên tư tưởng nhân đạo tích cực ấy. Truyện Kiều đã phản ánh

được chân lí đời sống đồng thời chắp cánh cho những ước mơ được giải
phóng của những con người chịu nhiều khổ đau trong xã hội cũ.
Truyện Kiều là bức tranh hiện thực rộng lớn về xã hội Việt Nam,
phản ánh những mối quan hệ thực tế gắn liền với chế độ phong kiến trên
bước đường suy vong của nó . Những quan hệ này làm nên bối cảnh thực
cho hành động của các nhân vật. Qua đó tính cách của nhân vật được phơi
bày và mang ý nghĩa điển hình sinh động. Tú Bà, Sở Khanh, Mã Giám
Sinh, Hồ Tôn Hiến… lần lượt đều chịu tác động của nghề nghiệp. Đó là

28
hình ảnh của những con buôn, mụ chủ, quan lại trong xã hội phong kiến
thối nát rất nhỏ nhen, rất bẩn thỉu, rất dâm ô.
Nhân vật trong Truyện Kiều cũng đã có sự giằng xé nội tâm gay
gắt, có sự bộc lộ tính cách qua độc thoại nội tâm. Ở một số nhân vật, bước
đầu có sự đa dạng và phát triển tính cách theo hoàn cảnh. Lúc ở Lâm Tri,
Thúc Sinh mê Kiều như Kim Trọng nhưng trước sự chèn ép của Hoạn Thư,
Thúc Sinh lại xử sự như Sở Khanh. Con người Thúc là vậy: ân tình mà bạc
bẽo, đáng giận mà đáng thương, vừa là tội nhân, vừa là nạn nhân. Còn
Thuý Kiều, nhân vật được Nguyễn Du yêu mến nhất cũng bị xã hội làm
cho tha hóa. Là một người con gái khôn ngoan và tinh tế nhưng đứng trước
những khổ đau và dập vùi, với mong muốn thoát khỏi nhục nhã, Kiều đã bị
mắc lừa Sở Khanh, đã chịu khuất phục trước ngọn roi của Tú Bà, bám vào
Thúc Sinh để thoát khỏi lầu xanh, bị Hồ Tôn Hiến lừa trong trận chiến với
Từ Hải. Ở Kiều có sự thống nhất các mặt đối lập. Khúc tình ca với Kim
Trọng, chủ nghĩa hiện thực nôm na với Thúc Sinh, cảm hứng anh hùng ca
với Từ Hải, Kiều đã trải qua tất cả. Kiều chỉ sống với Kim Trọng mà chọn
con đường phụ bạc Kim Trọng. Kiều cảm phục Từ Hải cũng chân thành
như khuyên Từ Hải ra hàng. Kiều vừa sắc sảo khôn ngoan lại vừa nhẹ dạ
cả tin, nhìn thấy tâm can của Kim Trọng, Từ Hải, Thúc Sinh nhưng lại mắc
lừa Sở Khanh, Hồ Tôn Hiến. Kiều tin yêu , hồn nhiên, mà cũng biết dè

chừng, tính toán, dạn dày. Kiều can trường quyết liệt nhưng lại thu phục
khẩn cầu, vâng dạ trước Tú Bà và nhẫn nhục một cách lạ kỳ khi rơi vào tay
Hoạn Thư. Kiều gắn bó với đời mà lại có cảm tình với cảnh tu hành. Kiều
rất hiền lành, sinh ra ở đời chỉ để yêu thương và đem lại hạnh phúc, cuối
cùng buộc phải nhờ tay Từ Hải vung gươm lên gây ra cảnh máu rơi thịt nát
tan tành. Xét cho cùng thì cuộc sống đã tạo ra một Thuý Kiều như thế, vừa
đa dạng vừa rất thống nhất (27/221).

29
Có thể nói, trong chừng mực nhất định, một số nhân vật trong
Truyện Kiều có diễn biến, có phát triển theo lôgic nội tại một cách biện
chứng. Nhân vật vừa dựa vào nhau để sống, vừa là mình, vừa biến đổi, vừa
chịu tác động, vừa tác động trở lại. Ta có thể hiểu nhân vật này thông qua
nhân vật kia và ngược lại.
Với Truyện Kiều, lần đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam,
Nguyễn Du đã thông qua ngoại hình để đi sâu vào tâm lí bên trong nhân
vật. Một nét mặt, một cử chỉ, một điệu bộ, một tư thế không chỉ là cái bên
ngoài mà thông qua đó tác giả thể hiện cái thần của nhân vật. Và cũng với
Truyện Kiều lần đầu tiên ngôn ngữ dân tộc đạt đến độ tinh vi nhất, đẹp đẽ
nhất.
Tuy nhiên, chủ nghĩa hiện thực Truyện Kiều trong buổi đầu sơ khai
còn bị chi phối bởi những quy phạm của mỹ học phong kiến. Các nhân vật
lí tưởng như Kim Trọng, Từ Hải còn chịu ảnh hưởng sâu sắc của khuynh
hướng lí tưởng hóa. Một số nhân vật được xây dựng theo thủ pháp ước lệ,
tượng trưng. Tâm lí nhân vật còn sơ khai, mức độ cá thể hóa chưa được sâu
sắc. Cái vĩ đại của Nguyễn Du chính là qua Truyện Kiều đặt nền móng
đầu tiên cho sự hình thành và phát triển chủ nghĩa hiện thực ở Việt Nam.
1.3.2 - Chủ nghĩa hiện thực trong Hoàng Lê nhất thống chí của
Ngô Gia văn phái.
Chủ nghĩa hiện thực từ Truyện Kiều đến Hoàng Lê nhất thống chí

đã có một sự phát triển cao hơn. Hoàng Lê nhất thống chí đã khái quát
một cách chân thực và khá đầy đủ xã hội Việt Nam đầy biến động thời Lê
mạt- Nguyễn sơ. Phong trào khởi nghĩa nông dân nổ ra khắp nơi, những
cuộc nổi loạn của đám kiêu binh, sự ăn chơi vô độ của quan lại nhà Lê-
Trịnh… đã được các tác giả họ Ngô phản ánh khá sắc nét. Chế độ phong
kiến Việt Nam hàng ngàn năm tồn tại đang trên bờ vực của sự suy tàn đã

30
bộc lộ tất cả những gì xấu xa nhất, bỉ ổi nhất. Sức mạnh lớn nhất của chủ
nghĩa hiện thực trong Hoàng Lê nhất thống chí là việc xây dựng những
tính cách điển hình trong lòng xã hội đảo điên ấy. Muốn xác định bất cứ
một phương pháp sáng tác nào, những giới hạn và nguyên tắc của nó, thì
việc tái hiện vấn đề tái hiện tính cách bằng phương pháp nghệ thuật có một
ý nghĩa quyết định (60/49). Những điển hình tính cách trong Hoàng Lê
nhất thống chí có ý nghĩa quyết định đối với phương pháp hiện thực chủ
nghĩa của tác phẩm.
Hoàng Lê nhất thống chí đã dựa trên bối cảnh lịch sử- xã hội
đương thời để xây dựng những tính cách điển hình trong lòng xã hội đó với
rất nhiều dáng vẻ sinh động khác nhau tùy theo ngôi thứ, đẳng cấp của họ
trong xã hội. Từ những kẻ lưu manh côn đồ lợi dụng thời thế đảo điên để
hành sự như Đặng Mậu Lân, Nguyễn Cảnh Thược, những kẻ bất tài, bỉ ổi
như Dương Khuông, bè phái lộng quyền như Quận Huy, khoác lác mưu mô
quyền lực như Hoàng Phùng Cơ, tàn bạo và gian dối như Đinh Tích
Nhưỡng… đến những kẻ cầm quyền đầy hoang dâm, bạo tàn như Trịnh
Sâm, xa xỉ như Trịnh Tông, bất tài hèn hạ như Trịnh Bồng, đớn hèn, nhu
nhược như Lê Cảnh Hưng, Lê Chiêu Thống… Tất cả như những con rối
múa may quay cuồng trong lòng chế độ phong kiến đang trên bờ vực của
sự suy tàn. Đối lập với những kẻ bạo tàn, đớn hèn và nhu nhược ấy là
những người luôn có ý thức đem tài năng cải tạo xã hội trở nên tốt đẹp hơn
như Phan Huy Ích, Ngô Thì Nhậm, đặc biệt là sự tỏa sáng của người anh

hùng áo vải Quang Trung- Nguyễn Huệ.
Hoàng Lê nhất thống chí đã xây dựng được một số nhân vật điển
hình có chiều sâu, có cá tính rõ nét: Nguyễn Hữu Chỉnh, Lê Chiêu Thống,
Nguyễn Huệ… Nhưng được khắc họa sâu sắc nhất, hoàn chỉnh nhất là
Nguyễn Hữu Chỉnh. Với hình tượng Nguyễn Hữu Chỉnh Hoàng Lê nhất
thống chí đã đạt tới tính cách điển hình ở trình độ khá cao, nói lên bước

31
tiến quan trọng của văn học hiện thực chủ nghĩa thời Lê mạt- Trịnh sơ
(8/129), Các tác giả Hoàng Lê nhất thống chí bằng ngòi bút của mình đã
làm nổi bật được bản chất giai cấp của Nguyễn Hữu Chỉnh, nhân vật tiêu
biểu cho một thứ chính khách thời loạn, có tài và nhiều tham vọng cá nhân,
xuất thân từ tầng lớp con buôn nhưng lại có Nho học (10/461). Bằng thủ
đoạn, ma giáo, liều lĩnh Chỉnh đã leo từ một chức quan nhỏ bé lên làm tể
tướng Bắc Hà quyền chính thật ngang với nhà vua, thế của Chỉnh có thể lật
nghiêng cả nước… Chỉnh là hạng người có ý nghĩ cực kì hiểm độc, bụng dạ
quá ư tàn nhẫn, mưu mô hết sức sâu sắc, gian trá rất đỗi khôn ngoan, mà
ứng biến thì mau lẹ tuyệt vời. Con người ấy thực là một kẻ gian hùng thời
loạn (18/387). Các tác giả Hoàng Lê nhất thống chí đã phân tích khá sâu
sắc cái tâm lí hai mặt, gian dối, lật lọng và tàn nhẫn của Chỉnh, tâm lí ấy rất
phù hợp với nguồn gốc giai cấp xuất thân của y.
Với hình tượng Nguyễn Hữu Chỉnh, các tác giả Hoàng Lê nhất
thống chí đã nâng vấn đề cá thể hóa lên một bước phát triển cao hơn so với
các tác phẩm trước đó. Tác giả không phải chỉ kể lại những việc nhân vật
mình làm mà nhấn mạnh đến các cách mà nhân vật đó làm như thế nào
nữa. Nhân vật nói bằng một thứ ngôn ngữ của riêng mình, ngôn ngữ cá thể
hóa chứ không phải là ngữ điệu của người kể chuyện, ngôn ngữ của tính
cách và làm nổi rõ tính cách. Ngôn ngữ của Nguyễn Hữu Chỉnh đã phản
ánh rất trung thành tính cách của hắn, tính cách của một chính khách thời
loạn rất hiểm ác, tráo trở, gian hùng nhưng lúc cần cũng có thể nói chuyện

nhân nghĩa vua tôi, thầy trò, có lúc lại giả vờ tỏ ra khiêm tốn, nhún nhường,
tự hạ mình xuống làm kẻ bất tài, vô dụng… Nhân vật Nguyễn Hữu Chỉnh
cùng với Hoàng Lê nhất thống chí đã đánh dấu một bước phát triển đột
xuất trên dòng văn học hiện thực chủ nghĩa của nền văn học Việt Nam cổ
và cận đại (27/138).

×