Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Báo cáo " Nhận diện đặc điểm pháp lí cơ bản của tranh chấp về chống bán phá giá trong khuôn khổ WTO " ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (248.12 KB, 6 trang )



nghiên cứu - trao đổi
38 tạp chí luật học số 8/2011






Ths. Nguyễn Thị Thu Hiền *
rong khuụn kh WTO, tranh chp v
chng bỏn phỏ giỏ l mt trong nhng
loi tranh chp ph bin v phc tp nht,
ũi hi cỏc bờn tranh chp, c bit l cỏc
thnh viờn ang phỏt trin, trong ú cú Vit
Nam,
(1)
phi tỡm hiu v nm vng phỏp lut
ca WTO v gii quyt tranh chp núi chung
v nhng c thự trong lnh vc gii quyt
tranh chp v chng bỏn phỏ giỏ núi riờng
m trc ht, cn phi nhn din v nm rừ
nhng c im phỏp lớ c bn ca loi tranh
chp ny. ú l nhng c im v tớnh cht,
v ch th, v phm vi cỏc vn tranh chp
v phỏp lut ỏp dng trong gii quyt tranh
chp v chng bỏn phỏ giỏ ti WTO. Di
gúc lớ lun cng nh thc tin, vic nm
vng nhng c im phỏp lớ c bn ca cỏc
tranh chp v chng bỏn phỏ giỏ trong khuụn


kh WTO s giỳp cỏc bờn tranh chp hn
ch ri ro ng thi tham gia tớch cc, hiu
qu hn vo vic gii quyt cỏc tranh chp
v chng bỏn phỏ giỏ ang ngy cng gia
tng mnh m trong thng mi quc t.
1. Quan nim ca WTO i vi tranh
chp v chng bỏn phỏ giỏ
Theo quy nh ca WTO, cỏc thnh viờn
ca t chc ny cú th a nhng tranh
chp v chng bỏn phỏ giỏ ra gii quyt ti
WTO bo v cỏc quyn v li ớch hp
phỏp ca mỡnh. Trong khuụn kh ca t
chc thng mi ln nht ton cu ny,
WTO s dng cm t Anti-dumping disputes
hoc Disputes in the anti-dumping area
ch cỏc tranh chp v chng bỏn phỏ giỏ.
(2)

Tuy nhiờn, WTO li khụng h a ra khỏi
nim chớnh thc v loi tranh chp ny.
(3)

Mc dự vy, quan nim ca WTO i vi
tranh chp v chng bỏn phỏ giỏ vn cú
th c hiu v suy lun qua cỏch din t
trong nhng hip nh v iu khon cú liờn
quan ca WTO, ch yu l cỏc quy nh
trong Bn tho thun v cỏc quy tc v th
tc iu chnh vic gii quyt tranh chp
(DSU), Hip nh chung v thu quan v

thng mi (GATT 1994) v Hip nh v
chng bỏn phỏ giỏ (ADA).
Trc ht, tranh chp v chng bỏn phỏ
giỏ ti WTO l tranh chp gia cỏc thnh
viờn WTO, bi vy, v bn cht, nú l loi
tranh chp quc t, l s bt ng v mt
quy phm phỏp lut hoc s kin no ú
gia cỏc ch th nht nh trong quan h
quc t.
(4)
C th, i vi tranh chp v
chng bỏn phỏ giỏ trong khuụn kh WTO,
ú l s bt ng gia cỏc thnh viờn WTO
v chớnh sỏch hoc phỏp lut khụng phự hp
ca mt thnh viờn hoc liờn quan ti quyt
T
* Ging viờn Khoa phỏp lut quc t
Trng i hc Lut H Ni


nghiªn cøu - trao ®æi
t¹p chÝ luËt häc sè 8/2011 39
định về áp dụng các biện pháp chống bán phá
giá được ban hành làm ảnh hưởng tới các
quyền và lợi ích của những thành viên khác
theo các hiệp định của WTO. Không những
thế, tranh chấp về chống bán phá giá là những
tranh chấp trong lĩnh vực chống bán phá giá
và là một trong những loại tranh chấp có thể
được giải quyết tại WTO.

(5)
Dựa trên cách
diễn đạt trong các hiệp định của WTO, đặc
biệt là các điều XXII, XXIII của GATT 1994
và DSU thì có thể thấy những tranh chấp
được giải quyết tại WTO là những tranh chấp
giữa các thành viên WTO về các vấn đề pháp
lí liên quan đến các quyền và nghĩa vụ theo
các hiệp định và các cam kết trong khuôn khổ
WTO. Bởi vậy, cùng với cách diễn đạt tại
Điều 17 của ADA, có thể hiểu tranh chấp về
chống bán phá giá trong khuôn khổ WTO là
những bất đồng giữa các thành viên WTO về
các vấn đề pháp lí liên quan đến các quyền và
nghĩa vụ trong lĩnh vực chống bán phá giá
theo các hiệp định của WTO. Tranh chấp về
chống bán phá giá có những đặc điểm pháp
lí cơ bản với những quy định đặc thù trong
khuôn khổ WTO.
2. Những đặc điểm pháp lí cơ bản của
các tranh chấp về chống bán phá giá
trong khuôn khổ WTO
2.1. Đặc điểm về tính chất
Về tính chất, tranh chấp về chống bán
phá giá là loại tranh chấp thứ phát, theo đó,
việc giải quyết các tranh chấp về bán phá giá
ở nước nhập khẩu có thể là tiền đề dẫn đến
những tranh chấp tiếp theo về chống bán phá
giá hay nói cách khác, việc giải quyết tranh
chấp về chống bán phá giá tại WTO là giải

quyết tranh chấp tiếp theo của giải quyết
tranh chấp trong nước về bán phá giá giữa
các doanh nghiệp được nâng lên thành tranh
chấp giữa các chính phủ.
Tranh chấp về bán phá giá, về bản chất,
là tranh chấp thương mại giữa các doanh
nghiệp xuất khẩu sản phẩm bán phá giá với
các doanh nghiệp nội địa sản xuất các sản
phẩm tương tự với sản phẩm nhập khẩu về
việc sản phẩm nhập khẩu có dấu hiệu bán
phá giá. Để bảo vệ quyền lợi của mình,
doanh nghiệp hoặc nhóm các doanh nghiệp
có đủ điều kiện để được coi là đại diện cho
ngành sản xuất trong nước theo pháp luật về
chống bán phá giá của nước nhập khẩu có
thể đứng đơn kiện và yêu cầu cơ quan có
thẩm quyền của quốc gia mình tiến hành các
thủ tục điều tra và áp thuế chống bán phá giá
đối với hàng nhập khẩu có bán phá giá. Trên
cơ sở yêu cầu đó, cơ quan có thẩm quyền
của chính phủ nước nhập khẩu sẽ tiến hành
các thủ tục điều tra và giải quyết tranh chấp
về bán phá giá, xem xét và quyết định việc
liệu có áp dụng các biện pháp chống bán phá
giá đối với sản phẩm nhập khẩu hay không.
Theo quy định của WTO, chính phủ các
nước thành viên có thể tiến hành các hành
động để chống lại hàng nhập khẩu bán phá
giá với những điều kiện nhất định. Như vậy,
các thành viên WTO, bằng công cụ pháp luật

về chống bán phá giá của mình có quyền
khởi xướng các cuộc điều tra và áp dụng các
biện pháp chống bán phá giá để đối phó với
các sản phẩm nhập khẩu bán phá giá đồng
thời, thực chất đây cũng chính là cách thức
mà các thành viên này có thể sử dụng để giải
quyết những tranh chấp về bán phá giá trong
nước. Tuy nhiên, trong một số trường hợp,
việc ban hành các quyết định về việc áp


nghiªn cøu - trao ®æi
40 t¹p chÝ luËt häc sè 8/2011
dụng các biện pháp chống bán phá giá hoặc
những chính sách và pháp luật về chống bán
phá giá hàng nhập khẩu không phù hợp của
thành viên nhập khẩu có thể làm “triệt tiêu”
hoặc “suy giảm” lợi ích của các thành viên
khác, do đó, có thể làm phát sinh những tranh
chấp về chống bán phá giá. Trên cơ sở cân
nhắc lợi ích của quốc gia mình và có thể là
trước cả “sức ép” từ phía các doanh nghiệp
nội địa, các thành viên WTO, là những nước
bị “triệt tiêu” hoặc “suy giảm” lợi ích trong
trường hợp nói trên, sẽ xem xét việc đưa vụ
tranh chấp về chống bán phá giá ra giải
quyết tại WTO. Như vậy, giữa các tranh
chấp về bán phá giá và các tranh chấp về
chống bán phá giá có mối liên hệ chặt chẽ về
thời điểm phát sinh tranh chấp và tranh chấp

về chống bán phá giá chỉ có thể phát sinh sau
khi đã có tranh chấp về bán phá giá.
Rõ ràng, tranh chấp về chống bán phá giá
là loại tranh chấp thứ phát, theo đó, việc giải
quyết tranh chấp về chống bán phá giá tại
WTO là giải quyết tranh chấp tiếp theo của giải
quyết tranh chấp trong nước về bán phá giá
giữa các doanh nghiệp được nâng lên thành
tranh chấp giữa các chính phủ. Bởi vậy, khi
số lượng các tranh chấp về bán phá giá cũng
như số lượng các cuộc điều tra chống bán phá
giá được khởi xướng và các biện pháp chống
bán phá giá được áp dụng gia tăng thì có thể
dẫn đến tình trạng gia tăng các tranh chấp về
chống bán phá giá. Điều này cũng đã được
chứng minh qua thực tiễn giải quyết tranh
chấp của GATT/WTO trong hơn sáu thập kỉ
qua, bên cạnh tính ưu việt của hệ thống giải
quyết tranh chấp của WTO thì cùng với sự
gia tăng của các cuộc điều tra chống bán phá
giá được khởi xướng và các biện pháp chống
bán phá giá được áp dụng,
(6)
số lượng các vụ
tranh chấp về chống bán phá giá được đưa ra
giải quyết tại WTO cũng đã ngày càng gia
tăng một cách nhanh chóng.
(7)

2.2. Đặc điểm về chủ thể

Các tranh chấp về chống bán phá giá
trong khuôn khổ WTO là những tranh chấp
xảy ra giữa các thành viên WTO. ADA là
hiệp định đa phương trong khuôn khổ WTO
và bởi vậy, đối với các tranh chấp về chống
bán phá giá trong hệ thống giải quyết tranh
chấp của tổ chức này, chỉ có các thành viên
của WTO, tất nhiên đó cũng chính là những
thành viên của ADA, mới có thể trở thành
các bên tham gia với tư cách là các bên tranh
chấp hoặc bên có quyền và lợi ích liên quan
(sau đây gọi là bên thứ ba). Các quốc gia và
vùng lãnh thổ không phải là thành viên của
WTO sẽ không thể khởi kiện và trở thành các
bên tham gia với tư cách là các bên tranh
chấp và bên thứ ba tại WTO trong các vụ
tranh chấp về chống bán phá giá.
Ngoài ra, Ban thư kí WTO, các nước
quan sát viên của WTO, các tổ chức quốc tế
liên chính phủ khác, chính quyền địa phương
và khu vực cũng không được phép khởi kiện
các vụ tranh chấp về chống bán phá giá tại
WTO. Đối với các cá nhân hoặc công ti tư
nhân, họ cũng không thể trực tiếp tham gia
vào hệ thống giải quyết tranh chấp của
WTO, ngay cả khi thông thường họ chính là
những người bị tác động tiêu cực nhất (với
tư cách là những nhà xuất khẩu và nhập
khẩu) bởi các biện pháp chống bán phá
giá.

(8)
Điều này cũng tương tự với các tổ
chức phi chính phủ khác có sự quan tâm
chung tới các vấn đề được xử lí trong hệ
thống giải quyết tranh chấp của WTO.
(9)



nghiªn cøu - trao ®æi
t¹p chÝ luËt häc sè 8/2011 41
Như vậy, liên quan tới đặc điểm về chủ
thể, giữa tranh chấp về chống bán phá giá và
tranh chấp về bán phá giá đã có sự khác biệt
rất cơ bản, theo đó, nếu tranh chấp về chống
bán phá giá là tranh chấp giữa các chính phủ
thì tranh chấp về bán phá giá là tranh chấp
giữa các doanh nghiệp.
2.3. Đặc điểm về phạm vi các vấn đề
tranh chấp về chống bán phá giá được giải
quyết tại DSB
Trong hệ thống giải quyết tranh chấp của
WTO, sau khi các bên tranh chấp tham vấn
không thành công, nếu nguyên đơn muốn
đưa tranh chấp về chống bán phá giá ra giải
quyết tại DSB thì phạm vi các vấn đề tranh
chấp được đưa ra giải quyết tại DSB cũng
chỉ giới hạn trong bốn loại tranh chấp về
chống bán phá giá sau đây: 1) Các tranh
chấp về thuế chống bán phá giá chính thức;

2) Các tranh chấp về biện pháp tạm thời; 3)
Các tranh chấp về biện pháp cam kết giá; 4)
Các tranh chấp về sự không phù hợp trong
các quy định pháp luật của một thành viên
với nội dung của ADA.
(10)
Như vậy, theo
quy định,
(11)
DSB sẽ chỉ tiến hành giải quyết
các tranh chấp về chống bán phá giá thuộc
một trong bốn loại tranh chấp nói trên và
những vấn đề này bắt buộc phải được nêu rõ
trong nội dung đơn yêu cầu thành lập Ban
hội thẩm, bao gồm cả việc mô tả “biện pháp
có vấn đề” và “cơ sở pháp lí ” cho việc khởi
kiện.
(12)
Cần lưu ý, đối với các tranh chấp về
chống bán phá giá, nếu yêu cầu bắt buộc nói
trên không được tuân thủ thì ngay kể cả khi
ban hội thẩm đã được thành lập và đưa ra kết
luận về vụ tranh chấp thì khi có kháng cáo,
Cơ quan phúc thẩm (AB) cũng sẽ bác bỏ các
kết luận đó bởi ngay từ đầu, việc đưa vụ
tranh chấp ra Ban hội thẩm đã là không phù
hợp với Điều 6.2 của DSU. Khi đó, nguyên
đơn sẽ bị thiệt hại và lãng phí về thời gian,
công sức cũng như chi phí cho việc khởi
kiện. Tiếp theo đó, nếu nguyên đơn vẫn muốn

đưa vụ tranh chấp về chống bán phá giá này
ra giải quyết tại WTO thì họ sẽ phải bắt đầu
lại thủ tục khởi kiện trên cơ sở tuân thủ đầy
đủ các quy định của DSU. Để hiểu rõ hơn về
quy định này, có thể lấy ví dụ về trường hợp
của Mexico trong hai vụ kiện liên tiếp về
chống bán phá giá đối với sản phẩm xi măng
portland nhập khẩu từ nước này vào
Guatemala . Trong vụ kiện đầu tiên vào năm
1996 (vụ Guatemala – Xi măng I (DS60)),
Mexico đã khởi kiện Guatemala về cuộc điều
tra chống bán phá giá mà Guatemala tiến
hành đối với xi măng portland nhập khẩu từ
Mexico vì cho rằng Guatemala đã vi phạm
các điều 2, 3, 5 và 7.1 của ADA. Vụ việc đã
được xét xử tại Ban hội thẩm, tuy nhiên, sau
đó, báo cáo của Ban hội thẩm đã bị AB bác
bỏ vì ngay từ đầu, trong đơn yêu cầu thành
lập Ban hội thẩm của Mexico vẫn chưa xác
định được “biện pháp có vấn đề”, bởi lẽ
Mexico chỉ khởi kiện Guatemala về cuộc
điều tra chống bán phá giá mà vấn đề này lại
không nằm trong phạm vi các vấn đề tranh
chấp về chống bán phá giá được giải quyết
tại DSB. Đến năm 1999, Mexico lại tiếp tục
khởi xướng vụ kiện thứ hai (vụ Guatemala –
Xi măng II (DS156)) về việc Guatemala áp
thuế chống bán phá giá chính thức đối với
sản phẩm xi măng portland xám nhập khẩu
từ Mexico. Lần này, đơn yêu cầu thành lập

ban hội thẩm của Mexico đã đáp ứng đủ các
điều kiện nêu tại Điều 6.2 của DSU, đó là
khởi kiện về việc áp thuế chống bán phá giá


nghiªn cøu - trao ®æi
42 t¹p chÝ luËt häc sè 8/2011
chính thức (một trong những biện pháp được
quy định tại Điều 17.4 của ADA) và vụ việc
sau đó cũng đã được Ban hội thẩm xét xử và
đi đến kết luận việc áp thuế chống bán phá
giá chính thức của Guatemala đối với xi
măng portland xám nhập khẩu từ Mexico là
vi phạm các quy định của ADA.
Từ những phân tích trên đây có thể nhận
thấy, theo quy định của WTO, đối tượng
tranh chấp trong các vụ tranh chấp về chống
bán phá giá có thể được đưa ra để giải quyết
tại WTO là các quyết định về việc áp dụng
các biện pháp chống bán phá giá hoặc các
chính sách và pháp luật về chống bán phá
giá hàng nhập khẩu không phù hợp của
thành viên nhập khẩu.
2.4. Đặc điểm về pháp luật áp dụng
trong giải quyết tranh chấp về chống bán
phá giá tại WTO
Cơ sở pháp lí để giải quyết các tranh
chấp về chống bán phá giá trong khuôn khổ
WTO, về mặt nội dung cũng như về tố tụng,
sẽ tuân theo pháp luật của WTO áp dụng

trong giải quyết tranh chấp về chống bán phá
giá. Các loại nguồn của pháp luật WTO áp
dụng trong giải quyết tranh chấp về chống
bán phá giá cũng được xác định tương ứng
với các loại nguồn của pháp luật WTO nói
chung.
(13)
Đối với các tranh chấp về chống
bán phá giá, việc giải quyết tranh chấp về
nội dung trước hết sẽ căn cứ vào Hiệp định
WTO, cơ bản là Điều VI của GATT 1994 và
ADA, cùng với các loại nguồn khác như tập
quán quốc tế; các nguyên tắc pháp luật
chung; thực tiễn của WTO và các báo cáo về
giải quyết tranh chấp của Ban hội thẩm và
AB; thực tiễn của GATT 1947 và các báo
cáo về giải quyết tranh chấp của Ban hội
thẩm; các tài liệu được ban hành bởi các cơ
quan WTO; các hiệp định quốc tế khác; các
học thuyết của các học giả có uy tín. Trong
khi đó, về tố tụng, việc giải quyết tranh chấp
về chống bán phá giá sẽ tuân theo DSU cùng
với những quy tắc và thủ tục đặc biệt, bổ
sung cho DSU được ghi nhận trong ADA
(14)

và các quy tắc tố tụng khác có liên quan của
WTO. Rõ ràng, pháp luật của WTO áp dụng
trong giải quyết tranh chấp về chống bán phá
giá không đồng nhất với và không chỉ bao

gồm các quy tắc ghi nhận trong ADA hay
DSU. Mặc dù không thể phủ nhận đây là
những hiệp định quan trọng của WTO
(15)


(Xem tiếp trang 24)

(1). Tính đến hết ngày 25/7/2011, Việt Nam đã tham
gia vào mười vụ kiện tại WTO thì có tới năm vụ liên
quan tới chống bán phá giá, cụ thể, bốn trong số năm
vụ đó, Việt Nam tham gia với tư cách là bên thứ ba và
một vụ tham gia với tư cách nguyên đơn. Xem thêm
tại
vietnam_e.htm
(2). Thuật ngữ dùng trong phần “Dispute settlement”
tại
info_e.htm
(3). Tương tự như WTO, GATT 1947, mà cụ thể là
tại Điều VI, không có bất kì quy định nào đề cập khái
niệm tranh chấp về chống bán phá giá. Tuy nhiên, sau
đó, trong khuôn khổ GATT, đến Bộ luật về chống bán
phá giá (Anti-Dumping Code -ADC) năm 1967, tại
Điều 17 của Bộ luật này có đề cập “vấn đề” tranh
chấp, đó là “các vấn đề liên quan tới việc vận hành hệ
thống chống bán phá giá tại bất kì nước thành viên và
vùng lãnh thổ hải quan nào mà có thể tác động tới
hoạt động của ADC”. Quy định này rõ ràng là hạn
chế và còn rất chung chung. Sau đó, đến ADC 1979,
bộ luật này, lần đầu tiên, đã đưa ra khái niệm chính

thức trong phần chú thích của Điều 15, theo đó, tranh
chấp về chống bán phá giá được hiểu là “những tranh
chấp phát sinh giữa các bên liên quan tới các quyền
và nghĩa vụ theo Hiệp định này”. Khái niệm mang


nghiªn cøu - trao ®æi
t¹p chÝ luËt häc sè 8/2011 43

tính khái quát cao này, sau đó, vì nhiều lí do khác
nhau, đã không còn được nêu lại trong ADA.
(4).Xem: Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật
quốc tế, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2008, tr. 385.
(5). Theo quy định tại Điều 1.1 của DSU, các quy tắc
và thủ tục của DSU “phải được áp dụng cho những
tranh chấp được đưa ra theo các quy định về tham vấn
và giải quyết tranh chấp của những hiệp định được liệt
kê trong Phụ lục 1 của thoả thuận này”. Trong Phụ lục
1 đó của DSU có liệt kê GATT 1994 và ADA.
(6). Theo bản Báo cáo năm 2009 của WTO, trong
vòng 13 năm (1995 - 2008), đã có 2.190 biện pháp
chống bán phá giá được áp dụng và các số liệu thống
kê trong những năm gần đây cũng đã cho thấy xu
hướng tăng trở lại của các vụ điều tra chống bán phá
giá được khởi xướng bởi các thành viên của WTO.
Xem thêm tại: sh/res_e/booksp
_e/anrep_e/anrep09_e.pdf và
news_e/pres09_e/pr5 56_e.htm
(7). Tính đến hết tháng 11/2010, chỉ trong gần 16 năm
tồn tại của WTO, đã có 84 vụ tranh chấp về chống

bán phá giá được đưa ra giải quyết tại WTO so với 8
vụ tranh chấp được đưa ra giải quyết tại Ban hội thẩm
của GATT trong gần 50 năm tồn tại của GATT 1947.
Xem thêm tại:
dispu_e/dispu_agreements_index_e.htm?id=A6#select
ed_agreement và reports/
gattpanels/gattpanels.asp.
(8). Trong pháp luật quốc gia hoặc trên thực tế, các cá
nhân và công ti tư nhân có thể gây ảnh hưởng hoặc
thậm chí gây sức ép đối với chính phủ của nước mình
trong việc đưa một tranh chấp ra giải quyết tại WTO,
tuy nhiên, họ không thể trực tiếp khởi kiện ra WTO.
(9). Trong khuôn khổ WTO, vẫn còn có một số ý kiến
khác nhau về sự tham gia của các tổ chức phi chính
phủ, đặc biệt là liên quan tới vấn đề đệ trình các ý
kiến theo hình thức “amicus curiae” tại Ban hội thẩm
và Cơ quan phúc thẩm. Xem thêm David Palmeter,
Petros C. Mavroidis (2004), Dispute settlement in the
World Trade Organization: Practice and procedure,
2nd ed., Cambridge: Cambridge Univ., United
Kingdom, tr. 39; Ủy ban quốc gia về hợp tác kinh tế

quốc tế, Sổ tay về hệ thống giải quyết tranh chấp của
WTO, Hà Nội, 2006, tr. 37 - 38.
(10).Xem: Điều 17.4, ADA; Điều 6.2, DSU; Báo cáo
của AB, vụ Goa-tê-ma-la – Xi măng I, WT/DS60/AB/R,
đoạn 79; Báo cáo của AB, vụ Hoa Kỳ - Đạo luật
chống bán phá giá năm 1916, WT/DS136/AB/R,
WT/DS162/AB/R, đoạn 72.
(11).Xem: Điều 17.4 của ADA và Điều 6.2 của DSU.

Cả hai quy định này được áp dụng đồng thời và bổ
sung cho nhau. Điều 17.4 không đặt ra thêm bất kì
yêu cầu bổ sung nào so với Điều 6.2 và bởi vậy, một
yêu cầu đã phù hợp với Điều 6.2 của DSU thì cũng
thoả mãn các yêu cầu của Điều 17.4.
(12).Xem: Báo cáo của AB, vụ Guatemala – Xi măng
I, WT/DS60/AB/R, đoạn 69, đoạn 80 và đoạn 90;
Phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, Tranh
chấp về chống bán phá giá trong WTO, Hà Nội, 2010,
tr. 57 - 61.
(13). Nhìn chung, việc xác định các loại nguồn của
pháp luật WTO, cơ bản được dựa trên cách xác định
nguồn luật áp dụng truyền thống của Điều 38(1) của
quy chế toà án công lí quốc tế và có tính tới cả những
đặc thù của WTO. Tuy nhiên, về số lượng, tên gọi, vị
trí, vai trò của từng loại nguồn khác của pháp luật
WTO thì vẫn có những điểm khác biệt trong những
nghiên cứu của các học giả. Xem: Peter Van Den
Bosseche (2008), The Law and Policy of the World
Trade Organization: Text, Cases and Materials, 2nd
ed., Cambridge University Press, United Kingdom, tr.
53; David Palmeter, Petros C. Mavroidis (2004),
Dispute settlement in the World Trade Organization:
Practice and procedure, 2nd ed., Cambridge:
Cambridge Univ., United Kingdom, tr. 50; và Joost
Pauwelyn, The role of Public International Law in the
WTO: How far can we go?, The American Journal of
International Law, VOL. (95):3, tr. 563 - 564.
(14). Quy định từ Điều 17.4 đến 17.7 của ADA.
(15). Theo đó, trong hệ thống giải quyết tranh chấp

của WTO, tất cả các phân tích pháp lí, trước hết,
“phải được bắt đầu từ chính nội dung của các hiệp
định này”. Xem Báo cáo của AB, vụ Nhật Bản – Thuế
đánh vào sản phẩm rượu, WT/DS8/AB/R, WT/DS10/AB/R,
WT/DS11/AB/R, đoạn 97.

×