Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

354 Thực trạng và một số giải pháp hoàn thiện hệ thống báo cáo tài chính ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (375.96 KB, 72 trang )

1
LỜI MỞ ĐẦU


I. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
Kế toán ra đời, tồn tại và phát triển cùng với nền văn minh của nhân loại, nó
là công cụ quản lý kinh tế quan trọng, có nhiệm vụ tính toán phản ánh qúa trình
hoạt động kinh tế và kết qủa hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong nền kinh tế thò
trường, kế toán là phong vũ biểu xác đònh nguồn thông tin trung thực để xác đònh
hiệu qủa kinh tế và các phương án quản lý, giúp các nhà đầu tư, các chủ doanh
nghiệp, các tầng lớp nhân dân lao động sử dụng tốt nhất nguồn vốn và tiền tiết
kiệm của mình để làm lợi cho các cá nhân, các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh
tế. Số liệu kế toán trung thực được thông tin rộng rãi sẽ là tiền đề cho việc hình
thành và phát triển các thò trường, đặc biệt là thò trường tài chính, tạo lòng tin cho
nhân dân, Đảng, chính phủ để xây dựng một nền kinh tế ngày càng giàu mạnh.
Trong qúa trình chuyển đổi cơ chế ở nước ta hiện nay, công tác kế toán càng trở
nên quan trọng, nhưng cũng gặp nhiều khó khăn phức tạp trong việc tìm tòi đổi mới
để đáp ứng yêu cầu quản lý kinh tế tài chính. Những năm qua cùng với quá trình
phát triển kinh tế và quá trình đổi mới của cơ chế kinh tế, hệ thống kế toán Việt
Nam đã không ngừng hoàn thiện và phát triển góp phần tích cực có hiệu qủa vào
công cuộc đổi mới nền kinh tế đất nước, đặc biệt là hệ thống báo cáo tài chính, một
bộ phận cấu thành của hệ thống kế toán, với vai trò là phương tiện để truyền đạt
những thông tin tài chính có ích cho người sử dụng để đề ra các quyết đònh kinh tế.
Tuy đã được cải cách và hoàn thiện, nhưng hệ thống kế toán nói chung và hệ thống
báo cáo tài chính hiện hành nói riêng vẫn còn bộc lộ một số nhược điểm chưa phù

2
hợp vơi cơ chế kinh tế, chưa đáp ứng được nhu cầu thông tin của các đối tượng sử
dụng và chưa thực sự là công cụ hữu ích trong việc đề ra các quyết đònh kinh tế.
Trên cơ sở nhận thức về lý luận, thực tiễn và trong phạm vi nghiên cứu mô hình báo
cáo tài chính hiện hành tại Việt Nam, tôi mong muốn tham gia một số ý kiến nhỏ


bé nhằm góp phần hoàn thiện hơn nữa hệ thống báo cáo tài chính ở Việt Nam để
phù hợp với nhu cầu sử dụng thông tin trong nền kinh tế thò trường hiện nay.
II. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu hệ thống báo cáo tài chính áp dụng cho các doanh
nghiệp ở Việt Nam hiện nay, tình hình thực tế việc lập báo cáo tài chính tại các
doanh nghiệp Việt Nam và hệ thống báo cáo tài chính trên thế giới, nhìn nhận
những ưu điểm và nhược điểm của hệ thống báo cáo tài chính hiện hành ở Việt
Nam. Từ đó đưa ra một số ý kiến và phương hướng hoàn thiện hệ thống báo cáo tài
chính.
III. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng xuyên suốt trong đề tài là phương
pháp duy vật biện chứng. Dựa vào phương pháp này, vấn đề đánh giá những ưu
khuyết điểm của hệ thống báo cáo tài chính hiện hành ở Việt Nam trong giai đoạn
hiện nay được xem như là một hiện tượng khách quan, luôn luôn biến đổi vận động
và do đó hệ thống báo cáo tài chính cũng cần thường thường xuyên hoàn thiện cho
phù hợp. Đồng thời kết hợp sử dụng đồng bộ phương pháp phân tích, phương pháp
đối chiếu so sánh .



3
CHƯƠNG I
TỔNG QUAN VỀ HỆ THỐNG BÁO CÁO TÀI CHÍNH


1.1. Kế toán và mục tiêu của kế toán trong nền kinh tế thò trường
1.1.1 Các quan điểm và đònh nghóa về kế toán
Có thể đònh nghóa kế toán từ hai quan điểm lớn. Đònh nghóa về kế toán có thể
nhấn mạnh đến sử dụng thông tin kế toán, hoặc có thể nhấn mạnh đến hoạt động
của những người làm công tác kế toán, những người thực hiện kỹ thuật và phương

pháp tính toán .
Về sử dụng thông tin kế toán. Kế toán được đònh nghóa là một phương pháp
cung cấp thông tin cần thiết cho quản lý có hiệu qủa và đánh giá hoạt động của mọi
tổ chức.
Đó là những thông tin cần thiết cho :
- Công tác lập kế hoạch, kiểm tra và ra quyết đònh trong quản lý.
- Khả năng thanh toán của tổ chức đối với các nhà đầu tư, tín dụng, cơ quan
Nhà nước và các tổ chức khác.
Có thể khái quát từ đònh nghóa trên thành hai điểm chính :
- Trọng tâm phục vụ, hoặc tiêu điểm của kế toán là tổ chức. Mọi thông tin
kế toán cung cấp đều nhằm phục vụ tổ chức.

- Thông tin kế toán rất cần thiết cho hoạt động của doanh nghiệp. Những
thông tin này được dùng trong việc ra quyết đònh ở bên trong tổ chức ( bởi

4
những người giữ vai trò quản lý ) và cả bên ngoài tổ chức ( bởi những nhà
đầu tư trong việc bỏ tiền vào kinh doanh để mong thu được lợi nhuận, bởi
các nhà tín dụng trong việc cho doanh nghiệp vay tiền…)
Về hoạt động kế toán. Đònh nghóa thứ hai dựa trên công việc của một người
làm kế toán. Trong kế toán, kết qủa hoạt động kinh tế của doanh nghiệp được thu
thập, phân tích, đo lường, sắp xếp, ghi chép, tóm tắt và phản ánh dưới dạng thông
tin.
Điều này cho thấy công việc của người kế toán là một công việc tổng hợp
đòi hỏi nhiều hoạt động khác nhau. Chủ yếu bao gồm :
- Xác đònh số liệu nào liên quan, thích ứng với các quyết đònh đưa ra.
- Xử lý và phân tích các số liệu liên quan.
- Chuyển các số liệu đó thành thông tin phục vụ cho việc ra quyết đònh.
Căn cứ vào điều lệ tổ chức kế toán Việt Nam thì “ Kế toán là công việc ghi
chép, tính toán bằng con số dưới hình thức giá trò, hiện vật và thời gian lao động,

chủ yếu là dưới hình thức giá trò để kiểm tra tình hình vận động của các loại tài sản,
quá trình và kết qủa hoạt động sản xuất kinh doanh, sử dụng vốn và kinh phí của
Nhà nước cũng như từng tổ chức xí nghiệp”
Tóm lại có thể đònh nghóa kế toán như là sự đònh dạng, đo lường, ghi nhận và
chuyển giao thông tin tài chính của các thực thể kinh tế cho những đối tượng cần sử
dụng.
1.1.2 Mục tiêu của kế toán trong nền kinh tế thò trường
Từ thế kỷ XVIII theo sau cuộc cách mạng kỹ nghệ là sự xuất hiện các công
ty cổ phần và đặc biệt là thò trường tài chính, thò trường chứng khoán đã đặt ra cho
việc thực hành kế toán các yêu cầu đa dạng và phức tạp hơn. Cộng thêm sự xuất

5
hiện của khuynh hướng chuyên môn hoá và phân chia trong phạm vi cơ cấu của hệ
thống kế toán cũng đã ảnh hưỡng đến sự phân ngành trong kế toán. Trong giai đoạn
này, căn cứ vào mục tiêu đáp ứng thông tin, người ta phân chia hệ thống kế toán
trong doanh nghiệp thành hai loại : Kế toán tài chính và kế toán quản trò.
Mục tiêu của kế toán tài chính là sắp xếp ghi nhận, phân tích và diễn đạt các
sự kiện kinh tế, pháp lý và giao dòch thương mại bằng một đơn vò đo lường tiền tệ,
nhằm cung cấp những dữ liệu cần thiết cho việc lập các báo cáo kế toán như : Bảng
cân đối kế toán, báo cáo kết qủa hoạt động kinh doanh….v….v… .Đối tượng sử dụng
thông tin thường là ban giám đốc và những người bên ngoài doanh nghiệp, chủ yếu
là các nhà đầu tư, các chủ nợ, các cơ quan quản lý chức năng của Nhà nước để đảm
bảo tính trung thực và tạo ra một sự yên tâm cho những người sử dụng.
Mục tiêu của kế toán quản trò là sắp xếp, ghi nhận, phân tích và truyền đạt
các thông tin có liên quan đến việc lập kế hoạch, kiểm soát các bộ phận trong
doanh nghiệp. Nó được đònh hướng vào việc tính toán, phân tích các chi phí, kết qủa
và các mối tương quan, kiểm soát và phân đònh các trách nhiệm giữa các bộ phận
trong doanh nghiệp trong việc thực hiện các dự toán chi tiêu, quyết đònh giá bán,
sản lượng….Thông tin thường được cung cấp chủ yếu cho ban giám đốc để hình
thành các quyết đònh cần thiết và để kiểm soát các bộ phận trong doanh nghiệp,

được sử dụng trong nội bộ, không cung cấp cho bên ngoài.
Trên bình diện tổng quát, mục tiêu của kế toán là thu thập và truyền đạt các
thông tin cần thiết để đưa ra các quyết đònh có liên quan đến quản trò, đầu tư, tài
trợ, tín dụng, cho vay trong một doanh nghiệp. Xét một cách cụ thể hơn, mục tiêu
của kế toán là cung cấp dữ liệu có liên quan đến :

6
- Việc sử dụng các tài nguyên ( Tài sản ) của doanh nghiệp, các nghóa vụ
và trách nhiệm đối với tài nguyên và vốn chủ sở hữu.
- Các biến động về vốn do ảnh hưỡng của các hành vi kinh tế, pháp lý và
các giao dòch thương mại.
- Các thành qủa đạt được của doanh nghiệp trong một thời kỳ kinh doanh
nhất đònh.
1.2. Bản chất và vai trò của hệ thống báo cáo tài chính
1.2.1 Bản chất của hệ thống báo cáo tài chính
Theo hệ thống kế toán doanh nghiệp Việt Nam, báo cáo tài chính được xác
đònh là loại báo cáo tổng hợp về tình hình tài sản, nguồn vốn cũng như tình hình về
kết qủa hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất đònh, được
thể hiện thông qua một hệ thống các chỉ tiêu có mối liên hệ với nhau do Nhà nước
quy đònh thống nhất và mang tính pháp lệnh.
Có các yếu tố cơ bản hình thành bản chất của báo cáo tài chính là :
- Những sự kiện đã xảy ra trong quá khứ.
- Nguyên tắc kế toán của chế độ quy đònh hoặc được thừa nhận.
Theo viện kiểm toán viên công chứng Hoa kỳ ( AICPA ) “ Hệ thống báo cáo
tài chính được lập nhằm mục đích phục vụ cho việc xem xét đònh kỳ về quá trình
hoạt động của nhà quản lý, về tình hình đầu tư trong kinh doanh và những kết qủa
đạt được trong thời kỳ báo cáo. Hệ thống báo cáo tài chính phản ánh sự kết hợp của
những sự kiện được ghi nhận, những nguyên tắc kế toán và những đánh giá của cá
nhân mà trong đó những đánh giá và nguyên tắc kế toán được áp dụng có ảnh
hưởng chủ yếu đến việc ghi nhận các sự kiện. Những đánh giá đúng đắn tuỳ thuộc


7
vào khả năng và sự trung thực của người lập báo cáo, đồng thời phụ thuộc vào sự
tuân thủ đối với những nguyên tắc kế toán đã được chấp nhận rộng rãi.”
Còn theo hai tác giã Bryan Carberg và Susan Dev thì hệ thống báo cáo tài
chính đựơc thiết kế để trình bày những kết qủa của những nghiệp vụ và những sự
kiện xảy ra trong qua khứ và là kênh truyền đạt thông tin chính của những hoạt
động quản lý với thế giới bên ngoài. Báo cáo tài chính được yêu cầu phải tuân thủ
luật công ty, quy chế của thò trường chứng khoán nếu chứng khoán của công ty được
niêm yết. Việc kiểm toán báo cáo tài chính nên được yêu cầu bởi luật pháp bởi vì
nhà quản lý có thể là một nhóm khác biệt với những cổ đông, những người đã giao
phó tài sản của họ cho nhà quản lý.
Như vậy có thể nói, bản chất của báo cáo tài chính là phản ánh sự kết hợp
của những sự kiện xảy ra trong quá khứ với những nguyên tắc kế toán đã được thừa
nhận và những đánh giá của cá nhân, nhằm chủ yếu là cung cấp thông tin tài chính
hữu ích cho các đối tượng sử dụng bên ngoài doanh nghiệp. Một mặt do thông tin
trình bày trên báo cáo tài chính chòu sự chi phối bởi những đánh giá của người lập
báo cáo tài chính, mặt khác do có sự tách biệt giữa sự sỡ hữu và khả năng kiểm
soát của người cung cấp vốn cho doanh nghiệp, nên báo cáo tài chính được lập đòi
hỏi phải được kiểm toán bởi một tổ chức kiểm toán độc lập.
1.2.2 Vai trò của báo cáo tài chính
Báo cáo tài chính tổng hợp hệ thống các hiện tượng kinh tế phát sinh, giám
đốc sau khi các nghiệp vụ kinh tế phát sinh kết thúc. Báo cáo tài chính là xuất phát
điểm cho việc thiết kế xây dựng chế độ kế toán, phương pháp kế toán : chứng từ,
tài khoản, tính giá… và là cơ sở để xây dựng các phương pháp kế toán khác. Trong
quá trình tổ chức công tác kế toán của một doanh nghiệp, mục tiêu của hệ thống kế

8
toán và vấn đề trọng tâm chính là hệ thống thông tin các chỉ tiêu kế toán phải trình
bày.

Về mặt kinh tế, báo cáo tài chính cung cấp thông tin cho nhà quản lý và chủ
yếu là các nhà đầu tư bên ngoài doanh nghiệp, là công cụ để ra quyết đònh. Theo
“ Báo cáo công ty “ được xuất bản bởi tổ chức kế toán viên chuyên nghiệp ở Anh
và xứ Wales ( 1975 ), những người sử dụng báo cáo tài chính bao gồm :
+ Những người chủ sỡ hữu và cổ đông : Họ cần biết những rũi ro về vốn, cần
các thông tin về các rũi ro tiềm tàng trong các doanh nghiệp có liên quan đến
khoản đầu tư của họ. Họ cần những thông tin để ra các quyết đònh mua bán các
chứng khoán, đánh giá khả năng trả cổ tức của doanh nghiệp.
+ Nhà cho vay : Họ quan tâm đến các thông tin giúp họ xác đònh xem các
khoản nợ gốc và lãi của họ có được trả khi đến hạn không.
+ Nhà cung cấp : Họ quan tâm đến những thông tin có khả năng giúp họ xác
đònh xem những khoản tiền mà doanh nghiệp nợ liệu có được trả đúng hạn không.
Những tín chủ thương mại thường quan tâm đến doanh nghiệp trong khoảng thời
gian ngắn hơn so với các nhà cho vay, trừ trường hợp họ phụ thuộc vào sự liên tục
sản xuất của doanh nghiệp vì doanh nghiệp là khách mua hàng chính của họ.
+ Khách hàng : Họ quan tâm đến những thông tin về khả năng tiếp tục hoạt
động của doanh nghiệp, đặc biệt là khi họ có những mối liên hệ dài hạn hoặc phụ
thuộc vào doanh nghiệp.
+ Nhân viên Công ty : Nhân viên và các nhóm đại diện của họ quan tâm đến
các thông tin về tính ổn đònh và khả năng sinh lợi của doanh nghiệp. Họ cũng quan
tâm đến các thông tin giúp họ đánh giá khả năng chi trả lương, trợ cấp hưu trí và
thời cơ tuyển dụng lao động của doanh nghiệp.

9
+ Chính phủ : Họ quan tâm đến việc phân bổ các nguồn lực và vì thế mà họ
quan tâm đến cả hoạt động của doanh nghiệp. Họ cũng yêu cầu các thông tin để
điều chỉnh các hoạt động của doanh nghiệp, xác đònh chính sách thuế và coi đó là
cơ sở cho việc thống kê thu nhập quốc dân cũng như các thống kê khác tương tự.
+ Công chúng : Doanh nghiệp ảnh hưỡng đến công chúng bằng nhiều dạng,
doanh nghiệp có thể đóng góp lớn vào nền kinh tế của đòa phương như tuyển dụng

lao động và mua hàng của nhà cung cấp đòa phương. Các báo cáo tài chính có thể
trợ giúp công chúng bằng việc cung cấp thông tin về xu hướng phát triển và khả
năng tăng trưởng gần , cũng như các lãnh vực hoạt động của doanh nghiệp.
1.3. Mục tiêu và các tiêu chuẩn của báo cáo tài chính
1.3.1 Môi trường kế toán và các yếu tố ảnh hưỡng
Kế toán cũng như các hoạt động ngành nghề khác là một bộ phận không thể
tách rời khỏi một môi trường nhất đònh. Môi trường kế toán là những điều kiện ràng
buộc và những ảnh hưỡng kinh tế chính trò, xã hội, luật pháp cấu thành môi trường
lý thuyết và môi trường thực hành kế toán. Tất cả những yếu tố này thay đổi theo
thời gian và mang tính lòch sử. Môi trường này luôn luôn biến đổi do đó nó giải
thích mục tiêu của báo cáo tài chính có những biến đổi so với trong quá khứ.
Có ba yếu tố chính trong các yếu tố chi phối :
+ Sự khan hiếm của các tài nguyên thiên nhiên . Điều này bắt buộc con người
rút tỉa và sử dụng tài nguyên thiên nhiên nhằm đem lại lợi ích cao nhất, đã chi phối
nên việc xây dựng một mô hình thông tin mà ở đó cho phép con người có thể nhận
thức và sử dụng một cách tối ưu các của cải, đồng thời phân biệt được những người
sử dụng tài sản có hiệu quả và lãng phí.

10
+ Sự tách rời giữa người chủ sỡ hữu tài sản và người quản lý và sử dụng các
tài sản. Tương ứng với đặc trưng là sự hình thành một tầng lớp quản trò viên chuyên
nghiệp. Đặc trưng này nó có tác động đến việc xây dựng mô hình thông tin, người
ta đòi hỏi các thông tin kế toán phải giúp cho người chủ sỡ hữu kiểm soát được việc
quản trò và sử dụng có hiệu quả tài sản. Như vậy người ta đã đưa yếu tố kiểm soát
vào mục tiêu xây dựng báo cáo tài chính và yếu tố này ngày nay không thể tách rời
ngành nghề kế toán.
+ Sự xuất hiện một tầng lớp sử dụng thông tin tài chính mới. Chính những
tầng lớp này với những nhu cầu đa dạng và phức tạp đã có ảnh hưỡng đến sự lựa
chọn và trình bày mô hình thông tin trong báo cáo tài chính.
Ngoài các yếu tố trên còn có một số yếu tố khác cũng tác động không nhỏ

đến môi trường kế toán như : Hệ thống luật pháp, luật thuế, mức độ lạm phát, yếu
tố văn hoá, chính trò xã hội….
1.3.2 Mục tiêu của báo cáo tài chính
Theo quan điểm tổng quát, mục tiêu của thông tin trong báo cáo tài chính là
cung cấp những chỉ dẫn hữu ích cho việc lấy các quyết đònh về quản trò, đầu tư, tín
dụng… về một thực thể. Theo một quan điểm ít tổng quát hơn, mục tiêu của thông
tin trong báo cáo tài chính là trình bày những chỉ dẫn cho phép tiên liệu những số
tiền, lòch trình và khả năng thu tiền về trong tương lai.
Tháng 12/1988 ủy ban chuẩn mực kế toán thuộc viện các kế toán viên công
chứng Cana có bổ sung thêm các kiến nghò và hiện nay đã có hiệu lực pháp lý
liên quan đến việc trình bày các thông tin kế toán như sau: “ Mục tiêu của báo cáo
tài chính là truyền đạt những thông tin hữu ích cho các nhà đầu tư, các chủ nợ và
những người sử dụng khác cần phải đưa ra các quyết đònh và sung dụng tài nguyên

11
hoặc đánh giá những thể thức mà ban giám đốc thực hiện nhiệm vụ quản trò của
mình “ . Do đó báo cáo tài chính phải cung cấp các thông tin về :
+ Các tài sản có, các quyền và nghóa vụ, các vốn riêng của chủ sỡ hữu trong
một thực thể kinh tế.
+ Sự tiến triễn của các tài sản, các quyền lợi, nghóa vụ và vốn của chủ sỡ
hữu.
+ Thành tích kinh tế của một thực thể.
Nói cách khác, mục đích của báo cáo tài chính là cung cấp những thông tin
về tình hình tài chính, tình hình kinh doanh và những biến động về tình hình tài
chính của doanh nghiệp. Những thông tin này rất hữu ích giúp cho người sử dụng ra
các quyết đònh kinh tế kòp thời.
Các báo cáo tài chính được lập theo mục đích này đáp ứng những yêu cầu
chung của hầu hết những người sử dụng . Tuy nhiên, các báo cáo tài chính không
cung cấp toàn bộ các thông tin mà người sử dụng yêu cầu để ra các quyết đònh về
quản lý kinh tế vì chúng chỉ đưa ra những ảnh hưỡng tài chính quá khứ và cũng

không bắt buộc cung cấp các thông tin phi tài chính.
Báo cáo tài chính cũng trình bày kết qủa về khả năng và trách nhiệm quản lý
của các nhà quản lý doanh nghiệp đối với những nguồn lực mà họ được phép sử
dụng. Những người sử dụng muốn đánh giá về khả năng và trách nhiệm quản lý
của các nhà quản lý, điều này sẽ giúp người sử dụng ra các quyết đònh quản lý kinh
tế kòp thời. Ví dụ , quyết đònh giữ lại hay bán các khoản đầu tư, bổ nhiệm hay thay
thế các nhà quản lý.



12
1.3.3 Các tiêu chuẩn chất lượng của thông tin kế toán
Sau khi đã xác đònh mục tiêu của báo cáo tài chính, vấn đề tiếp theo là xác
đònh số lượng và loại thông tin phải cung cấp, hình thức mà thông tin này nên được
trình bày. Tiêu chuẩn hàng đầu để đánh giá sự lựa chọn về kế toán là tiêu chuẩn về
tính hữu ích cho việc lấy các quyết đònh. Để có thể phân biệt giữa một thông tin có
chất lượng cao ( hữu ích hơn ) và một thông tin có phẩm chất kém ( ít hữu ích ) phải
kể đến các tiêu chuẩn làm cho thông tin có ích. Trong tài liệu của y ban chuẩn
mực kế toán quốc tế ( IASC), người ta nêu ra các tính chất đònh tính cơ bản làm cho
các thông tin trong báo cáo tài chính có ích cho người sử dụng. Đó là : Dể hiểu, phù
hợp, đáng tin cậy và so sánh được. Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam, có thể bổ
sung tính nhất quán trong việc vận dụng các phương pháp kế toán bởi vì tính chất
này bổ sung và làm cho tính có thể so sánh trở nên tốt hơn.
1.3.3.1 Tính dể hiểu
Chất lượng cơ bản của các thông tin do các báo cáo tài chính cung cấp là
những thông tin này phải dể hiểu đối với người sử dụng. Người sử dụng ở đây được
hiểu là người có kiến thức về kinh doanh và hoạt động kinh tế, hiểu biết về kế toán
ở mức vừa phải, sẵn lòng nghiên cứu các thông tin được cung cấp với mức độ tập
trung suy nghó vừa phải. Tuy nhiên, thông tin về những vấn đề phức tạp cần được
kèm theo báo cáo tài chính vì nó phục vụ cho các yêu cầu ra quyết đònh về quản lý

kinh tế của người sử dụng, những thông tin này không thể bò loại ra vì lý do là nó có
thể sẽ là rất khó hiểu đối với người sử dụng.




13
1.3.3.2 Tính thích hợp
Để có ích, các thông tin phải phù hợp để đáp ứng các yêu cầu đưa ra các
quyết đònh kinh tế của người sử dụng. Những thông tin có chất lượng phù hợp là
những thông tin có tác động đến quyết đònh kinh tế của người sử dụng bằng cách
giúp họ đánh giá các sự kiện qúa khứ, hiện tại, tương lai hoặc xác nhận, chỉnh lý
các đánh giá quá khứ của họ. Vai trò xác nhận và dự đoán của các thông tin có
quan hệ tương hổ lẫn nhau. Ví dụ các thông tin về mức độ tài sản và cơ cấu tài sản
hiện có rất có giá trò đối với người sử dụng khi họ muốn dự đoán khả năng của
doanh nghiệp để tận dụng cơ hội và phản ứng với các tình huống ngược lại. Các
thông tin tương tự đóng vai trò xác nhận về các chẩn đoán quá khứ, ví dụ, tìm ra
cách thức để xây dựng nên doanh nghiệp hoặc lập kế hoạch kinh doanh.
Tuy nhiên nếu có sự chậm trể trong việc báo cáo các thông tin thì sự chậm
trể đó có thể làm mất đi tính phù hợp của các thông tin. Vì vậy, thông tin phải được
công bố kòp thời để các đối tượng sử dụng đưa ra các quyết đònh đúng lúc, trước khi
các cơ may có ảnh hưỡng đến quyết đònh của họ trôi qua. Để cung cấp những thông
tin trên cơ sở kòp thời, người ta cho rằng cần thiết phải báo cáo trước khi tất cả các
phương diện của giao dòch hoặc sự kiện được nhận biết.
Như vậy, để thông tin trên báo cáo kế toán được thích hợp, nó phải có các
phẩm chất : Một giá trò dự kiến, một giá trò xác nhận và sự công bố kòp thời.
1.3.3.3 Tính đáng tin cậy
Để hữu ích, thông tin phải đáng tin cậy. Các thông tin có chất lượng đáng tin
cậy khi chúng không mắc những sai lầm nghiêm trọng hoặc phản ánh méo mó một
cách cố ý và có thể phụ thuộc vào người sử dụng khi sử dụng các thông tin đó cho

một mục đích khách quan hợp lý. Các thông tin có thể thích hợp nhưng lại không

14
đáng tin cậy về bản chất hoặc cách trình bày bởi vì các thông tin này có thể có
những sai lầm mà người ta chưa phát hiện ra.
Một thông tin có độ tin cậy phải hội đủ các phẩm chất sau đây :
+ Trình bày trung thực
Để có độ tin cậy, các thông tin phải được trình bày một cách trung thực về
những giao dòch và các sự kiện khác có liên quan. Nó trợ giúp cho việc trình bày
hoặc có thể được dự kiến là hợp lý để trình bày. Hầu hết các thông tin tài chính đều
phụ thuộc vào một số rũi ro do việc trình bày chưa chính xác với tình hình thực tế,
ví dụ thông tin không khách quan vô tư hoặc do những khó khăn tiềm tàng trong
việc xác đònh các nghiệp vụ sự kiện. Vì vậy báo cáo tài chính cần trình bày một
cách trung thực các nghiệp vụ, sự kiện khác có liên quan đến việc đánh giá tài sản
có, công nợ, vốn tự có của doanh nghiệp vào thời điểm lập báo cáo mà những chỉ
tiêu đó đáp ứng được yêu cầu của các tiêu thực hạch toán.
+ Hình thái sỡ hữu
Nếu thông tin được trình bày một cách trung thực về những nghiệp vụ và sự
kiện khác mà chúng phải trình bày, điều cần thiết ở đây là những thông tin đó được
tính toán và trình bày phù hợp với bản chất kinh tế và hình thái sỡ hữu chứ không
đơn thuần chỉ là hình thức pháp lý của chúng. Hình thái của các giao dòch hoặc các
sự kiện không phải lúc nào cũng nhất quán với hình thức pháp lý hoặc hình thức cơ
cấu của chúng. Ví dụ : Một doanh nghiệp có thể nhượng bán một tài sản cho doanh
nghiệp khác theo phương thức nào đó để lập thành những chứng từ chuyển giao
quyền sỡ hữu pháp lý cho người mua, nhưng cũng có thể trong thoả thuận mua bán
sẽ có một điều khoản là doanh nghiệp tiếp tục được hưỡng các lợi ích kinh tế do tài

15
sản này mang lại trong tương lai. Trong những trường hợp như vậy, việc báo cáo
bán hàng sẽ không trình bày được toàn bộ các nghiệp vụ phát sinh.

+ Tính khách quan
Để có độ tin cậy cao, thông tin trong các báo cáo tài chính phải khách quan,
không bò xuyên tạc, bóp méo một cách cố ý. Các báo cáo tài chính sẽ không được
coi là khách quan nếu như bằng việc lựa chọn hoặc trình bày thông tin chúng có
ảnh hưỡng đến việc ra các quyết đònh hoặc xét đoán và cách lựa chọn trình bày đó
nhằm đạt đến kết qủa mà người lập báo cáo đã biết trước.
+ Tính thận trọng
Những người lập báo cáo tài chính thường phải trình bày các nội dung về
nhiều sự kiện, tình thế không chắc chắn khó có thể tránh được, chẳng hạn như khả
năng thu hồi các khoản nợ khó đòi, thời gian hữu dụng có thể của máy móc thiết bò.
Các yếu tố không chắc chắn như vậy được hạch toán bằng cách trình bày nội dung,
bản chất của nó và thực hiện nguyên tắc thận trọng trong việc lập báo cáo tài
chính. Thận trọng bao gồm cả mức độ lường trước các sự kiện cần xét đoán trong
qúa trình dự đoán trên cơ sỡ những dữ liệu không thật chắc chắn, ví dụ tài sản và
thu nhập thì không được tính cao lên, ngược lại công nợ và chi phí không được tính
thấp xuống. Tuy nhiên, việc thực hiện tính thận trọng không có nghóa là che dấu
nguồn dự trữ hoặc lập các quỹ dự phòng lớn hơn yêu cầu thực tế. Việc cố ý ghi giá
trò của tài sản hoặc thu nhập thấp hơn thực tế hoặc xác đònh chi phí, công nợ cao
hơn thực tế không được coi là sự thận trọng mà là xuyên tạc sự thật và điều này sẽ
dẫn đến việc các thông tin trong báo cáo tài chính thiếu khách quan.



16
1.3.3.4 Tính so sánh được và tính nhất quán
Vì người sử dụng phải so sánh các thông tin trong các báo cáo tài chính của
kỳ này với kỳ trước để xác đònh xu hướng biến động về tình hình tài chính và kinh
doanh của doanh nghiệp. Người sử dụng cũng phải so sánh các báo cáo tài chính
của các doanh nghiệp khác nhau để đánh giá mối tương quan về tình hình tài chính,
tình hình kinh doanh và các thay đổi về tình hình tài chính của các doanh nghiệp. Vì

vây, việc xác đònh tính toán và trình bày các ảnh hưỡng tài chính của các giao dòch
và các sự kiện phải được tiến hành một cách nhất quán giữa kỳ này với các kỳ khác
trong phạm vi một doanh nghiệp và giữa các doanh nghiệp với nhau. Điều quan
trọng là báo cáo tài chính phải trình bày các thông tin tương ứng từ các kỳ trước.
Một ngụ ý quan trọng của tính chất đònh tính về tính có thể so sánh được là
người sử dụng phải được thông báo về các chính sách kế toán mà doanh nghiệp áp
dụng để lập các báo cáo tài chính cũng như mọi thay đổi về các chính sách này và
ảnh hưỡng của những thay đổi đó, giúp báo cáo tài chính có thể so sánh được với
nhau.
Phẩm chất này yêu cầu các doanh nghiệp phải sử dụng những phương pháp
kế toán giống nhau từ tài khoá này sang tài khoá khác, nghóa là không thay đổi một
cách tùy tiện. Sự nhất quán về phương pháp ghi chép và trình bày thông tin làm cho
báo cáo kế toán của doanh nghiệp có thể so sánh được từ tài khoá này sang tài
khoá khác. Tuy nhiên, tính nhất quán của phương pháp kế toán không bao hàm một
sự cố đònh về các phương pháp vận dụng, các công ty có quyền thay đổi phương
pháp kế toán nếu họ cho là cần thiết. Sự thay đổi này chỉ có giá trò khi công ty
chứng minh được phương pháp mới chọn để thay đổi tốt hơn phương pháp đang áp
dụng.

17
1.4. Trình bày và công bố báo cáo tài chính theo chuẩn mực kế toán
Việt Nam ( Chuẩn mực số 01 – Chuẩn mực chung )
1.4.1 Các yếu tố của báo cáo tài chính
Báo cáo tài chính phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp bằng cách
tổng hợp các nghiệp vụ kinh tế, tài chính có cùng tính chất kinh tế thành các yếu tố
của báo cáo tài chính. Các yếu tố liên quan trực tiếp đến việc xác đònh tình hình tài
chính trong Bảng cân đối kế toán là Tài sản, Nợ phải trả và Vốn chủ sở hữu. Các
yếu tố liên quan trực tiếp đến đánh giá tình hình và kết qủa kinh doanh trong Báo
cáo kết quả hoạt động kinh doanh là Doanh thu, Thu nhập khác, Chi phí và Kết qủa
kinh doanh.

1.4.1.1 Tình hình tài chính
Các yếu tố có liên quan trực tiếp tới việc xác đònh và đánh giá tình hình tài
chính là Tài sản, Nợ phải trả và Vốn chủ sở hữu. Những yếu tố này được đònh nghóa
như sau :
(a) Tài sản : Là nguồn lực do doanh nghiệp kiểm soát và có thể thu
được lợi ích kinh tế trong tương lai.
(b) Nợ phải trả : Là nghóa vụ hiện tại của doanh nghiệp phát sinh từ
các giao dòch và sự kiện đã qua mà doanh nghiệp phải thanh toán
từ các nguồn lực của mình.
(c) Vốn chủ sở hữu : Là giá trò vốn của doanh nghiệp được tính bằng
số chênh lệch giữa giá trò Tài sản của doanh nghiệp trừ Nợ phải
trả.

18
Khi xác đònh các khoản mục trong các yếu tố của báo cáo tài chính phải chú
ý đến hình thức sở hữu và nội dung kinh tế của chúng. Trong một số trường hợp, tài
sản không thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp nhưng căn cứ vào nội dung kinh tế
của tài sản thì được phản ánh trong các yếu tố của báo cáo tài chính.
+ Tài sản
Lợi ích kinh tế trong tương lai của một tài sản là tiềm năng làm tăng nguồn
tiền và các khoản tương đương tiền của doanh nghiệp hoặc làm giảm bớt các khoản
tiền mà doanh nghiệp phải chi ra.
Lợi ích kinh tế trong tương lai của một tài sản được thể hiện trong các trường
hợp, như :
(a) Được sử dụng một cách đơn lẻ hoặc kết hợp với các tài sản khác
trong sản xuất sản phẩm để bán hay cung cấp dòch vụ cho khách
hàng.
(b) Để bán hoặc trao đổi lấy tài sản khác.
(c) Để thanh toán các khoản nợ phải trả.
(d) Để phân phối cho các chủ sở hữu doanh nghiệp.

Tài sản được biểu hiện dưới hình thái vật chất như nhà xưởng, máy móc,
thiết bò, vật tư, hàng hoá hoặc không thể hiện dưới hình thái vật chất như bản
quyền, bằng sáng chế nhưng phải thu được lợi ích kinh tế trong tương lai và thuộc
quyền kiểm soát của doanh nghiệp.
Tài sản của doanh nghiệp còn bao gồm các tài sản không thuộc quyền sở
hữu của doanh nghiệp nhưng doanh nghiệp kiểm soát được và thu được lợi ích kinh
tế trong tương lai, như tài sản thuê tài chính, hoặc có những tài sản thuộc quyền sở
hữu của doanh nghiệp và thu được lợi ích kinh tế trong tương lai nhưng có thể không

19
kiểm soát được về mặt pháp lý, như bí quyết kỹ thuật thu được từ hoạt động triển
khai có thể thỏa mãn các điều kiện trong đònh nghóa về tài sản khi các bí quyết đó
còn giữ được bí mật và doanh nghiệp còn thu được lợi ích kinh tế.
Tài sản của doanh nghiệp được hình thành từ các giao dòch hoặc các sự kiện
đã qua, như góp vốn, mua sắm, tự sản xuất, được cấp, được biếu tặng. Các giao dòch
hoặc các sự kiện dự kiến sẽ phát sinh trong tương lai không làm tăng tài sản.
Thông thường khi các khoản chi phí phát sinh sẽ tạo ra tài sản. Đối với các
khoản chi phí không tạo ra lợi ích kinh tế trong tương lai thì không tạo ra tài sản.
Hoặc có trường hợp không phát sinh chi phí nhưng vẫn tạo ra tài sản, như vốn góp,
tài sản được cấp, được biếu tặng.
+ Nợ phải trả
Nợ phải trả xác đònh nghóa vụ hiện tại của doanh nghiệp khi doanh nghiệp
nhận về một tài sản, tham gia một cam kết hoặc phát sinh các nghóa vụ pháp lý.
Việc thanh toán các nghóa vụ hiện tại có thể được thực hiện bằng nhiều cách,
như :
(a) Trả bằng tiền.
(b) Trả bằng tài sản khác.
(c) Cung cấp dòch vụ.
(d) Thay thế nghóa vụ này bằng nghóa vụ khác.
(đ) Chuyển đổi nghóa vụ nợ phải trả thành vốn chủ sở hữu.

Nợ phải trả phát sinh từ các giao dòch và sự kiện đã qua, như mua hàng hoá
chưa trả tiền, sử dụng dòch vụ chưa thanh toán, vay nợ, cam kết bảo hành hàng hoá,
cam kết nghóa vụ hợp đồng, phải trả nhân viên, thuế phải nộp, phải trả khác.
+ Vốn chủ sở hữu

20
Vốn chủ sở hữu được phản ánh trong bảng cân đối kế toán, gồm : vốn của
các nhà đầu tư, thặng dư vốn cổ phần, lợi nhuận giữ lại, các qũy, lợi nhuận chưa
phân phối, chênh lệch tỷ giá và chênh lệch đánh giá lại tài sản.
(a) Vốn của các nhà đầu tư có thể là vốn của chủ doanh nghiệp, vốn
góp, vốn cổ phần, vốn Nhà nước.
(b) Thặng dư vốn cổ phần là chênh lệch giữa mệnh giá cổ phiếu với
giá thực tế phát hành.
(c) Lợi nhuận giữ lại là lợi nhuận sau thuế giữ lại để tích lũy bổ sung
vốn.
(d) Các qũy như qũy dự trữ, qũy dự phòng, quỹ đầu tư phát triển.
(e) Lợi nhuận chưa phân phối là lợi nhuận sau thuế chưa chia cho chủ
sở hữu hoặc chưa trích lập các qũy.
(f) Chênh lệch tỷ giá gồm :
- Chênh lệch tỷ giá phát sinh trong quá trình đầu tư xây dựng.
- Chênh lệch tỷ giá phát sinh khi doanh nghiệp ở trong nước hợp nhất báo
cáo tài chính của các hoạt động ở nước ngoài sử dụng đơn vò tiền tệ kế
toán khác với đơn vò tiền tệ kế toán của doanh nghiệp báo cáo.
(g) Chênh lệch đánh giá lại tài sản là chênh lệch giữa giá trò ghi sổ
của tài sản với giá trò đánh giá lại tài sản khi có quyết đònh của
Nhà nước, hoặc khi đưa tài sản đi góp vốn liên doanh, cổ phần.
1.4.1.2 Tình hình kinh doanh
Lợi nhuận là thước đo kết qủa hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Các
yếu tố liên quan trực tiếp đến việc xác đònh lợi nhuận là Doanh thu, Thu nhập khác


21
và Chi phí. Doanh thu, Thu nhập khác, Chi phí và Lợi nhuận là các chỉ tiêu phản
ánh tình hình kinh doanh của doanh nghiệp.
Các yếu tố Doanh thu, Thu nhập khác và Chi phí được đònh nghóa như sau :
(a) Doanh thu và thu nhập khác : Là tổng giá trò các lợi ích kinh tế
doanh nghiệp thu được trong kỳ kế toán, phát sinh từ các hoạt
động sản xuất, kinh doanh thông thường và các hoạt động khác
của doanh nghiệp, góp phần làm tăng vốn chủ sở hữu, không bao
gồm khoản góp vốn của cổ đông hoặc chủ sở hữu.
(b) Chi phí : Là tổng giá trò các khoản làm giảm lợi ích kinh tế trong
kỳ kế toán dưới hình thức các khoản tiền chi ra, các khoản khấu
trừ tài sản hoặc phát sinh các khoản nợ dẫn đến làm giảm vốn chủ
sở hữu, không bao gồm các khoản phân phối cho cổ đông hoặc chủ
sở hữu.
Doanh thu, Thu nhập khác và Chi phí được trình bày trong báo cáo kết qủa
hoạt động kinh doanh để cung cấp thông tin cho việc đánh giá năng lực của doanh
nghiệp trong việc tạo ra các nguồn tiền và các khoản tương đương tiền trong tương
lai.
Các yếu tố Doanh thu, Thu nhập khác và Chi phí có thể trình bày theo nhiều
cách trong báo cáo kết qủa hoạt động kinh doanh để trình bày tình hình kinh doanh
của doanh nghiệp, như : Doanh thu, chi phí và lợi nhuận của hoạt động kinh doanh
thông thường và hoạt động khác.
+ Doanh thu và Thu nhập khác

22
Doanh thu phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh thông thường của
doanh nghiệp và thường bao gồm : Doanh thu bán hàng, doanh thu cung cấp dòch
vụ, tiền lãi, tiền bản quyền, cổ tức và lợi nhuận được chia….
Thu nhập khác bao gồm các khoản thu nhập phát sinh từ các hoạt động ngoài
các hoạt động tạo ra doanh thu, như : thu từ thanh lý, nhượng bán tài sản cố đònh,

thu tiền phạt khách hàng do vi phạm hợp đồng….
+ Chi phí
Chi phí bao gồm các chi phí sản xuất, kinh doanh phát sinh trong quá trình
hoạt động kinh doanh thông thường của doanh nghiệp và các chi phí khác.
Chi phí sản xuất, kinh doanh phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh
thông thường của doanh nghiệp, như : giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng, chi phí
quản lý doanh nghiệp, chi phí lãi tiền vay, và những chi phí liên quan đến hoạt
động cho các bên khác sử dụng tài sản sinh ra lợi tức, tiền bản quyền…Những chi
phí này phát sinh dưới dạng tiền và các khoản tương đương tiền, hàng tồn kho, khấu
hao máy móc, thiết bò.
Chi phí khác bao gồm các chi phí ngoài các chi phí sản xuất, kinh doanh phát
sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh thông thường của doanh nghiệp, như : chi
phí về thanh lý, nhượng bán tài sản cố đònh, các khoản tiền bò khách hàng phạt do
vi phạm hợp đồng….
1.4.2 Ghi nhận các yếu tố của báo cáo tài chính
Báo cáo tài chính phải ghi nhận các yếu tố về tình hình tài chính và tình hình
kinh doanh của doanh nghiệp, trong các yếu tố đó phải được ghi nhận theo từng
khoản mục. Một khoản mục được ghi nhận trong báo cáo tài chính khi thoả mãn cả
hai tiêu chuẩn :

23
(a) Chắc chắn thu được lợi ích kinh tế hoặc làm giảm lợi ích kinh tế
trong tương lai.
(b) Khoản mục đó có giá trò và xác đònh được giá trò một cách đáng tin
cậy.
Ghi nhận tài sản
Tài sản được ghi nhận trong Bảng cân đối kế toán khi doanh nghiệp có khả
năng thu được lợi ích kinh tế trong tương lai và giá trò của tài sản đó được xác đònh
một cách đáng tin cậy.
Tài sản không được ghi nhận trong Bảng cân đối kế toán khi các chi phí bỏ

ra không chắc chắn sẽ mang lại lợi ích kinh tế trong tương lai cho doanh nghiệp thì
các chi phí đó được ghi nhận ngay vào Báo cáo kết qủa hoạt động kinh doanh khi
phát sinh.
1.4.2.1 Ghi nhận nợ phải trả
Nợ phải trả được ghi nhận trong Bảng cân đối kế toán khi có đủ điều kiện
chắc chắn là doanh nghiệp sẽ phải dùng một lượng tiền chi ra để trang trải cho
những nghóa vụ hiện tại mà doanh nghiệp phải thanh toán, và khoản nợ phải trả đó
phải được xác đònh một cách đáng tin cậy.
1.4.2.2 Ghi nhận doanh thu và thu nhập khác
Doanh thu và Thu nhập khác được ghi nhận trong Báo cáo kết qủa hoạt động
kinh doanh khi thu được lợi ích kinh tế trong tương lai có liên quan đến sự gia tăng
về tài sản hoặc giảm bớt nợ phải trả và giá trò gia tăng đó phải xác đònh được một
cách đáng tin cậy.



24
1.4.2.3 Ghi nhận chi phí
Chi phí sản xuất, kinh doanh và chi phí khác được ghi nhận trong Báo cáo kết
qủa hoạt động kinh doanh khi các khoản chi phí này làm giảm bớt lợi ích kinh tế
trong tương lai có liên quan đến việc giảm bớt tài sản hoặc tăng nợ phải trả và chi
phí này phải xác đònh được một cách đáng tin cậy.
Các chi phí được ghi nhận trong Báo cáo kết qủa hoạt động kinh doanh phải
tuân thủ nguyên tắc phù hợp giữa doanh thu và chi phí.
Khi lợi ích kinh tế dự kiến thu được trong nhiều kỳ kế toán có liên quan đến
doanh thu và thu nhập khác được xác đònh một cách gián tiếp thì các chi phí liên
quan được ghi nhận trong Báo cáo kết qủa hoạt động kinh doanh trên cơ sở phân bổ
theo hệ thống hoặc theo tỷ lệ.
Một khoản chi phí được ghi nhận ngay vào Báo cáo kết qủa hoạt động kinh
doanh trong kỳ khi chi phí đó không đem lại lợi ích kinh tế trong các kỳ sau.

1.5

Báo cáo tài chính theo khuôn khổ y ban chuẩn mực kế toán quốc
tế ( IASC )
1.5.1 Mục tiêu cơ bản của báo cáo tài chính theo khuôn khổ IASC.
Trong khuôn khổ mang tính lý luận kế toán của IASC, các báo cáo tài chính
là nhằm mục đích cung cấp cho một bộ phận lớn những người sử dụng thông tin
tiềm năng các thông tin hữu dụng cho việc đưa ra những quyết đònh kinh tế như các
thông tin về tình trạng tài chính, kết qủa hoạt động kinh doanh và những biến động
của tình trạng tài chính công ty. Những người sử dụng thông tin ở đây là một bộ
phận lớn những nhà đầu tư, cán bộ công nhân viên công ty, các nhà đầu tư tài
chính, các nhà đầu cơ, các nhà giao dòch, khách hàng, Chính phủ, các cơ quan quản

25
lý Nhà nước, công chúng. Các nhà đầu tư là những người cung cấp vốn rủi ro cho
doanh nghiệp nên có thể nói rằng các báo cáo tài chính đáp ứng được yêu cầu của
các nhà đầu tư thì cũng có thể làm thoả mãn được hầu hết yêu cầu của những người
sử dụng thông tin khác.
Vậy, để quyết đònh những vấn đề kinh tế những người sử dụng thông tin do
các báo cáo tài chính của công ty cung cấp ( mà chủ yếu là các nhà đầu tư ) sẽ yêu
cầu việc đánh giá khả năng, thời gian và tính xác thực của việc tạo ra các khoản lãi
bằng tiền cũng như các vật có giá trò như tiền của công ty. Những người sử dụng
thông tin này, trong trường hợp được cung cấp những thông tin xung quanh tình
trạng tài chính của công ty sẽ có thể đánh giá được khả năng sinh lời của công ty
đó.
Để tăng khả năng sinh lời, các công ty phải đầu tư tiền tệ vào những tài sản
phi tiền tệ. Việc đánh giá khả năng thành bại đối với những hoạt động của công ty
được căn cứ vào những khoản thu được từ những khoản chi phí ( hoặc đầu tư ) trong
một thời gian dài. Do đó, những người sử dụng thông tin luôn quan tâm đến những
thông tin về khả năng sinh lời của doanh nghiệp.

1.5.2 Một số yếu tố trong báo cáo tài chính theo khuôn khổ IASC
Những yếu tố có liên quan trực tiếp tới việc đánh giá tình trạng tài chính :
- Tài sản có : Là những nguồn lực do doanh nghiệp kiểm soát có được từ
kết qủa hoạt động trước đây và là nguồn lực mà từ đó doanh nghiệp hy
vọng sẽ thu được lợi ích kinh tế cho mình trong tương lai.
- Tài sản nợ : Là nợ hiện tại của một doanh nghiệp hình thành từ các hoạt
động trong quá khứ, việc thanh toán các khoản này làm mất đi các lợi ích
kinh tế của doanh nghiệp .

×