Tải bản đầy đủ (.pdf) (134 trang)

Cái tôi trữ tình trong thơ Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến, Hoàng Việt Hằng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.55 MB, 134 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN




ĐỚI THỊ HỒNG



CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ DƯ THỊ HOÀN,
ĐOÀN THỊ LAM LUYẾN, HOÀNG VIỆT HẰNG





LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM







HÀ NỘI, NĂM 2013

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN






ĐỚI THỊ HỒNG



CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ DƯ THỊ HOÀN,
ĐOÀN THỊ LAM LUYẾN, HOÀNG VIỆT HẰNG



LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM
MÃ SỐ: 60.22.34



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. LƯU KHÁNH THƠ



HÀ NỘI, NĂM 2013

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU 4
1.Lý do chọn đề tài. 4

2. Lịch sử vấn đề. 5
2.1. Tác giả Dư Thị Hoàn. 5
2.1.2. Tác giả Đoàn Thị Lam Luyến. 8
2.1.3. Tác giả Hoàng Việt Hằng 10
3.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 12
3.1. Đối tượng nghiên cứu. 12
3.1.2. Tác giả Đoàn Thị Lam Luyến luận văn khảo sát tập trung ở ba tập thơ:
12
3.1.3. Tác giả Hoàng Việt Hằng chúng tôi tập trung khảo sát qua hai tập thơ:
12
3.2. Phạm vi nghiên cứu. 12
4.Mục đích nghiên cứu. 12
5.Phương pháp nghiên cứu. 13
6.Bố cục của luận văn. 13
PHẦN NỘI DUNG 14
CHƯƠNG 1: NHẬN THỨC CHUNG VỀ CÁI TÔI TRỮ TÌNH – SỰ HÌNH THÀNH
CÁ TÍNH SÁNG TẠO TRONG THƠ DƯ THỊ HOÀN, ĐOÀN THỊ LAM LUYẾN,
HOÀNG VIỆT HẰNG. 14
1.1.Khái niệm về “cái tôi”, “cái tôi trữ tình” và biểu hiện của cái tôi trữ tình
trong thơ ca truyền thống. 14
1.1.1.Cái tôi 14
1.1.2.Cái tôi trữ tình. 16
1.1.3.Các hình thức biểu hiện của cái tôi trữ tình trong văn học. 18
1.1.3.1.Cái tôi trữ tình trong văn học dân gian. 19
1.1.3.2.Cái tôi trữ tình trong văn học cổ điển. 19
1.1.3.3.Cái tôi trữ tình trong thơ lãng mạn 20
1.1.3.4.Cái tôi trữ tình trong thơ cách mạng. 21
1.2.Sự hình thành cá tính sáng tạo trong thơ Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam
Luyến, Hoàng Việt Hằng. 21
1.2.1.Đặc điểm chung của thơ nữ Việt Nam sau năm 1986 21

1.2.2.Cá tính sáng tạo trong thơ Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến, Hoàng
Việt Hằng. 26
1.2.2.1.Đoàn Thị Lam Luyến – người đàn bà “dại yêu” và khát vọng sống
mãnh liệt. 26
1.2.2.2.Dư Thị Hoàn – một “lối nhỏ” độc đáo trên hành trình sáng tạo thi ca. . 27
1.2.2.3.Hoàng Việt Hằng – “một mình khâu những lặng im” và âm thầm tỏa
sáng. 33
CHƯƠNG 2: CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ DƯ THỊ HOÀN, ĐOÀN THỊ LAM
LUYẾN, HOÀNG VIỆT HẰNG NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NỘI DUNG. 36
2.1. Cái tôi trữ tình trong thơ Dư Thị Hoàn 36
2.1.1. Cái tôi trữ tình băn khoăn day dứt trước hiện thực đời sống. 36
2.2.2. Cái tôi trữ tình triết lý, chiêm cảm. 47
2.2. Cái tôi trữ tình trong thơ Đoàn Thị Lam Luyến 54
2.2.1. Cái tôi – người tình đam mê, mãnh liệt 55
2.2.2. Cái tôi cô đơn, khắc khoải 67
2.2.3. Cái tôi trữ tình trong thơ Hoàng Việt Hằng 72
2.2.3.1. Cái tôi – cô đơn, đau khổ của một kiếp thi nhân – đàn bà 72
2.2.3.2. Cái tôi tìm đến thiên nhiên để đồng cảm, chia sẻ 83

2.4. Tiểu kết 89
CHƯƠNG 3: CÁI TÔI TRỮ TÌNH TRONG THƠ DƯ THỊ HOÀN, ĐOÀN THỊ LAM
LUYẾN, HOÀNG VIỆT HẰNG NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT 90
3.1. Thể thơ 90
3.1.1. Thể thơ tự do 90
3.1.2. Thể thơ lục bát 97
3.1.3. Thể thơ 5 chữ 101
3.1.3.1.Thể thơ 5 chữ Error! Bookmark not defined.
3.1.3.2. Thơ ngắn Error! Bookmark not defined.
3.2. Ngôn ngữ 103
3.2.1.Ngôn ngữ giàu sắc thái biểu cảm. 104

3.2.2. Ngôn ngữ giản dị đời thường. 106
3.3. Giọng điệu 111
3.3.1. Giọng điệu lo âu, hoài niệm, trăn trở. 111
3.3.2. Giọng điệu trữ tình suy tư, trầm lắng. 118
3.3.3. Giọng điệu nồng nàn, ấm áp. 123
PHẦN KẾT LUẬN 127
TÀI LIỆU THAM KHẢO 130




PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài.
Cùng với dòng chảy của thời gian, những gì của ngày hôm nay rồi sẽ dần trở
thành quá khứ của ngày sau. Cuộc sống vĩnh hằng vẫn lưu chuyển trong từng
khoảnh khắc của không gian và thời gian. Còn con người luôn mong ước được sống
hết mình cho từng giây, từng phút của đời người. Trọn vẹn với những ước mơ,
những yêu thương nồng nhiệt và cả những hờn tủi, đau đớn hay hạnh phúc đời
mình,Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến, Hoàng Việt Hằng đã trải lòng qua các
trang thơ và lưu dấu ấn trong nền văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới.
Cái tôi trữ tình là một trong những khái niệm triết học cổ nhất, đánh dấu ý
thức đầu tiên của con người về bản thể tồn tại của mình, từ đó nhận ra mình là một
con người khác với tự nhiên, một cá thể độc lập khác với người khác. Cái tôi trữ
tình thể hiện một cách nhận thức, cảm xúc đối với thế giới, con người thông qua
lăng kính cá nhân của chủ thể và thông qua việc tổ chức các phương tiện của thơ trữ
tình, tạo ra một thế giới tinh thần riêng biệt, độc đáo mang tính thẩm mỹ, nhằm
truyền đạt đến người đọc. Cái tôi trữ tình chính là trung tâm sáng tạo và tổ chức văn
bản trữ tình. Chính vì vậy, nghiên cứu cái tôi trữ tình là để thấy cái tôi nhà thơ đã
được nghệ thuật hóa trở thành một yếu tố nghệ thuật phổ quát trong thơ, một thành

tố trong thế giới nghệ thuật của tác phẩm.
Công cuộc đổi mới được khởi xướng vào năm 1986 là một sự kiện trọng đại
làm thay đổi cuộc sống nước ta vốn đã có lúc rơi vào khủng hoảng sâu sắc. Văn nghệ,
trong tình hình mới đã dám “nói thẳng”, “nói thật” về nhiều vấn đề khúc mắc, nhiều
sự thật đau lòng. Theo đó, cá tính sáng tạo của nhà thơ cũng được giải phóng triệt để
hơn. Trong bối cảnh lịch sử và văn hóa mới, cả mặt phải và mặt trái của nó khiến cho
nhà thơ không thể nhìn cuộc sống như trước đây mà buộc họ phải thích ứng với
những thay đổi nhiều khi chóng mặt của cuộc sống. Điều đó dẫn tới sự thay đổi sâu
sắc về tư duy nghệ thuật thơ giai đoạn này qua ba điểm đáng chú ý sau đây: Ý thức
nhìn cuộc đời bằng cái nhìn tỉnh táo và thơ ca hiện ra như một hình thức tra vấn
không ngừng về đời sống; Nỗ lực khám phá sự phong phú trong “cái tôi ẩn giấu”,
dám phơi bày những bi kịch nhân sinh, hoài nghi những giá trị vốn đã quá ổn định để
đi tìm những giá trị mới; Thơ như một ngôn ngữ”. Có thể nói tinh thần của Đại hội
VI đã làm chuyển hướng văn học, văn học đang trở về với đời thường, với số phận
riêng. Cùng với điều kiện đổi mới trên, thơ ca còn chịu tác động mạnh mẽ của cơ chế
thị trường. Trong nền thơ hiện đại đã xuất hiện nhiều khuynh hướng, nhiều thể
nghiệm, tìm tòi với những hình thức mới lạ, có màu sắc hiện đại. Nội dung thơ cũng
muôn màu, muôn vẻ, với những cách khai thác, tiếp cận khác nhau. Có thể nói, bước
chuyển quan trọng nhất của thời kỳ này là thơ đã đến với con người trong mọi biểu
hiện phong phú của nó. Đối với thơ, giờ đây không còn có vùng cấm, vùng trắng mà
“Ở đâu có sự sống ở đó có thơ ca”. Thơ đã trở về với hiện thực của nhân tình thế thái,
trở về với cái tôi cá nhân, bên cạnh dòng thơ trữ tình công dân.
Hòa vào dòng chảy chung của thi ca thời kỳ đổi mới, Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị
Lam Luyến, Hoàng Việt Hằng là những cây bút được sống và sáng tác trong môi
trường ấy. Chính nó đã tạo điều kiện cho ba nhà thơ nữ được phát huy khả năng sáng
tạo, cất lên những tiếng thơ tràn ngập cảm xúc.
Chọn đề tài nghiên cứu, Cái tôi trữ tình trong thơ Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị
Lam Luyến, Hoàng Việt Hằng chúng tôi muốn vận dụng những lý thuyết truyền
thống kết hợp với lý thuyết hiện đại để đi sâu vào thế giới nội tâm phức tạp trong
thơ của các chị, mong tìm ra những mạch ngầm nội tại làm nên sức sống bền vững

của nó.
2. Lịch sử vấn đề.
Trong nền văn học dân tộc thơ nữ luôn có bước tiến song hành , nó không
tách rời xu hướng phát triển của thơ ca dân tộc. Sự đóng góp của các nhà thơ nữ
thời kỳ đổi mới đã tạo nên những tiếng nói mới mẻ cho nền thơ ca hiện đại của dân
tộc. Nó trở thành đối tượng nghiên cứu của giới phê bình văn học. Qua khảo sát ,
thống kế chúng tôi đã tìm thấy nhiều bài viết liên quan tới đề tài. Nhìn vào những bài
viết này chúng tôi có thể khẳng định là cho đến nay những công trình, nghiên cứu,
tìm hiểu về các nhà thơ Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến, Hoàng Việt Hằng… đều
thống nhất, đánh giá, thơ các chị là tiếng nói chân thành tha thiết của trái tim phụ nữ,
những trăn trở suy tư của một kiếp người.
2.1. Tác giả Dư Thị Hoàn.
Dư Thị Hoàn là một trong những cây bút nữ tiêu biểu trong giai đoạn đổi mới
của văn học. Người ta viết khá nhiều về chị, nhưng chủ yếu dưới dạng những nhận
xét khái quát những đặc điểm cơ bản hoặc có tính giới thiệu, bình phẩm chứ chưa
nghiên cứu một cách có hệ thổng. Vẫn chưa có một công trình nghiên cứu nào đề cập
đến cái tôi trữ tình đầy triết lý, chiêm cảm cùng đời tư thế sự phức tạp của thơ chị.
Tuy nhiên phải kế đến phải kể đến những công trình, những bài nghiên cứu có tính
chất khái lược về thơ chị. Tiêu biểu là các tác giả:Bùi Công Hùng, Hồ Thế Hà, Lưu
Khánh Thơ, Nguyễn Thụy Kha, Lê Lưu Oanh, Phong Lê, Bích Thu, Nguyễn Đằng
Điệp….
Nhìn chung, các tác giả đều thống nhất ở quan điểm thơ thời kỳ đổi mới
hướng vào cái tôi cá nhân, khẳng định con người cá nhân, cá tính thể hiện rõ trong
thơ Dư Thị Hoàn. Nhiều tác giả có những nhận xét, đánh giá chung về vị trí và đặc
điểm thơ Dư Thị Hoàn. Theo Bùi Công Hùng, “Dư Thị Hoàn thể hiện tâm tình của
một người phụ nữ người Việt gốc Hoa trong Lối nhỏ” [11, tr.294]. Với Lưu Khánh
Thơ, “Bài Tan vỡ của Dư Thị Hoàn cũng đã hơn một lần bị lên án nhắc nhở. Đến
nay, khía cạnh này được nhìn nhận đúng mức hơn. Có lẽ một phần do cách biểu hiện
của từng nhà thơ, phần nữa là do tâm lý và thị hiếu của người đọc ngày càng đa
dạng và hiện đại hơn” [29, tr.20]. Còn Hồ Thế Hà cho rằng, “Với tấm lòng bao dung,

nhân ái, Dư Thị Hoàn đã gây được thiện cảm ở người đọc. Thơ chị không cầu kỳ,
kênh kiệu hoặc làm dáng trong câu chữ một cách trống rỗng mà đó là sự lựa chọn
nghệ thuật xuất phát từ thực tế, suy tư của chính mình và những người thân một cách
chân tình. Và vì vậy, nó giản dị, gần gũi với đời thường. Chính sức mạnh của ý tứ,
của vẻ đẹp tâm hồn đã giúp cho thơ chị bỏ qua một số quan hệ: vần điệu, tiết tấu để
đến thẳng với độc giả bằng một chiều sâu suy nghĩ, liên tưởng mới mẻ” [11, tr.78]. Lê
Lưu Oanh, Bích Thu, Nguyễn Đăng Điệp, Đỗ Bạch Mai,… đều cho rằng ý thức giải
phóng cái tôi cá nhân, giải phóng cá tính đã tạo cho các nhà thơ nữ một giọng điệu
riêng, mỗi người mỗi kiểu không ai giống ai, đặc biệt là giọng điệu thơ của Dư Thị
Hoàn.
Đánh giá về tập thơ Lối nhỏ của Dư Thị Hoàn, Văn Tâm đã nhận định: “Với nội
dung khá đặc thù, thơ Lối nhỏ va đập mạnh tâm thức độc giả chủ yếu do chữ chứ
không phải vì từ. Nhiều lúc tác giả cũng đã hy sinh từ (kể cả vần và nhạc tính)” [37].
Cũng bàn về vấn đề này, nhà phê bình Chu Văn Sơn đã nói cụ thể hơn: “Đọc
thơ Dư Thị Hoàn ai cũng thấy một hình thức là lạ, toàn những bài ngắn, câu ngắn.
Khước từ thể cách và rất nhiều vần điệu. Không nệ cả những tiết điệu của nhạc tính
thông thường. Y như những lời – nói – thơ, hiểu theo nghĩa: những lời nói thường có
chất thơ, thế thôi” [27].
Mặt khác, ở những công trình, bài viết nghiên cứu, các tác giả cũng đã có
những cảm nhận đánh giá về thơ Dư Thị Hoàn.
Công trình khoa học Chân dung nữ văn nghệ sĩ do Lê Minh chủ biên, tác giả
đã nêu lên những đóng góp của nữ văn nghệ sĩ trong các lĩnh vực nghệ thuật. Đồng
thời, tác giả cũng điểm qua một vài nét về những đóng góp và phong cách sáng tác
của họ, trong đó có nữ sĩ Dư Thị Hoàn.
Hồ Thế Hà trong bài viết Sức quyến rũ từLối nhỏ có nhận xét: “Đọc thơ Dư
Thị Hoàn một vài lần quả là không có gì đáng chú ý, bởi nó không có vẻ đẹp rực rỡ
của câu chữ, không có sự độc đáo của nhạc điệu, tiết tấu. Nhưng đọc nhiều lần,
những vấn đề hấp dẫn bề sâu của chất thơ chị lại hiện ra: hiền dịu mà không dễ dãi,
lặng lẽ mà dữ dội ngầm, đau buồn mà đầy tin yêu, hy vọng… Giữa những đối lập ấy
là tấm lòng nhân ái, một ước mơ hướng thiện, sống có văn hóa. Chị không chạy theo

những cảm xúc dễ dãi vay mượn ở người khác một cách giả tạo. Thơ chị là tiếng lòng
của chị được thể hiện một cách nghệ thuật” [11, tr.74].
Luận văn thạc sĩ Tình yêu trong thơ nữ Việt Nam từ 1986 đến nay nhìn từ cá
tính sáng tạo mang đặc điểm giới của tác giả Trần Thị Thu Hằng (năm 2006) có nhận
xét: “Dư Thị Hoàn đến với tình yêu bằng một giọng thơ mạnh mẽ, đầy cá tính. Xuất
hiện trên thi đàn chưa nhiều nhưng chị đã sớm khẳng định được chỗ đứng trong lòng
độc giả bằng những khám phá sáng tạo của mình. Chị đã tạo cho mình một lối đi riêng
dẫu không mấy bằng phẳng, dễ dàng. Thơ chị viết về tình yêu và những biến thái thăng
trầm của cuộc đời. Trong trang viết của chị có rất ít niềm vui mà thấm đẫm những nỗi
buồn trước nhân tình thế thái. Đó là nỗi đau mà chỉ trái tim nhạy cảm mới cảm nhận
được. Thơ chị là tiếng nói sẻ chia trước những nghịch lý, những bi kịch tình yêu của
người phụ nữ. Vẻ đẹp tâm hồn, lòng nhân ái của chị đã thổi vào những vần thơ rất gần
gũi, rất đời thường nhưng dễ được độc giả tiếp nhận” [13, tr.57].
Luận văn thạc sĩ Đặc trưng nghệ thuật thơ tự do của Lê Thị Mây, Dư Thị
Hoàn, Phạm Thị Ngọc Liên của tác giả Văn Thị Kiều Vương (năm 2010) cũng khẳng
định: “Thơ Dư Thị Hoàn là nỗi ám ảnh không nguôi về thận phận của những kiếp
người trong cõi nhân sinh. Đó là thân phận long đong của chính mình, của người phụ
nữ bạc mệnh, số phận bất hạnh, hẩm hiu, thiệt thòi của những kiếp người nhỏ bé trong
xã hội thông qua một loạt những hình ảnh thơ có tính biểu tượng cao” [31, tr.83].
Qua việc tìm hiểu và nghiên cứu các tài liệu liên quan đến nhà thơ Dư Thị
Hoàn, chúng tôi thấy rằng các tài liệu này đã chỉ ra nhiều điều lý thú và mới mẻ về Dư
Thị Hoàn, đặc biệt là về mảng thơ tình yêu. Các ý kiến tuy diễn đạt khác nhau nhưng
không đối lập nhau mà khá thống nhất trong xu hướng khẳng định vẻ đẹp và tài năng
của thơ Dư Thị Hoàn. Đó là những ý kiến vô cùng quý giá mà người viết có được để
làm tiền đề và mở đường trong việc triển khai các nội dung của đề tài luận văn này.
2.2. Tác giả Đoàn Thị Lam Luyến.
Với Đoàn Thị Lam Luyến - chị đã khẳng định được một thế đứng trên thi đàn
văn học hiện đại. Với hàng loạt các tập thơ được xuất bản và đạt giải thưởng uy tín
của hội nhà văn. Thơ chị được độc giả đón nhận một cách khá nồng nhiệt, thế nên,
không hề quá lời khi ta nói rằng người đàn bà “dại yêu” là một hình tượng nổi bật

trong thơ Đoàn Thị Lam Luyến – đó là một cách để nhà thơ tự ý thức về chính cuộc
đời mình, và rộng ra là về cuộc đời và số phận của người phụ nữ hiện đại. Đã có
khoảng hơn 30 bài viết in trên các tạp chí, báo và mạng internet về thơ của Đoàn Thị
Lam Luyến. Nhìn chung các bài viết mới chỉ dừng lại ở việc đánh giá, nhận xét về
một vài bài thơ tiêu biểu trong các tập thơ, hoặc bàn bạc về một tập thơ cụ thể mà
chưa có cái nhìn bao quát về toàn bộ thế giới nghệ thuật trong thơ Đoàn Thị Lam
Luyến cũng như cái tôi trữ tình được biểu hiện xuyên suốt và đặc sắc trong toàn bộ
các sáng tác của chị.
Đoàn Thị Lam Luyến là một tác giả nữ có bản bản sắc thơ khá rõ nét. Thơ
chị trăn trở sới lật câu chuyện muôn thuở của thân phận đàn bà (Xuân Cang).
“Trong thơ chị người ta thấy nó không cao sang, không lên giọng, không làm điệu.
Nó bật lên từ ngôn ngữ đời thường, có thế nào nói thế”(Ánh Xuân). Chính chị đã
tâm sự trong phần Mấy lời tự bạch ở cuốn Nhà văn Việt Nam hiện đại (nxb Hội nhà
văn Việt Nam - 1997) : Làm thơ với tôi như là một nhu cầu tự thân. Cuộc sống vất
vả từ nhỏ, vào đời không mấy suôn sẻ và đời tư lại éo le, trắc trở, vì vậy có nhiều
điều muốn nói, muốn được giãi bày. Ngoài thơ ra không biết lấy ai để bộc bạch gửi
gắm lòng mình. Thơ tôi “Thật” và “đời thường” là vì thế.
Tác giả Lê Thị Mây, trong bài viết “Nhen lại lửa lòng” in trên báo Văn nghệ
(Số tháng 12 - 1996) nhìn thơ Lam Luyến dưới góc độ giọng điệu. Lê Thị Mây thấy
giọng thơ Lam Luyến mạnh tiết tấu, nhạc điệu các thể thơ truyền thống. Không chỉ
có thế, tác giả còn nhận thấy trong thơ Lam Luyến có một người đàn bà yêu không
mệt mỏi và yêu như một bản tính hồn nhiên, nhẹ dạ như bất kỳ ai trong phái đẹp.
Cái trữ tình nồng hậu ở trong thơ Lam Luyến ẩn chứa một cái “Tâm: cho, tặng và
dâng hiến” của chị. Trong bài viết này chúng tôi thấy Lê Thị Mây khá ưu ái và cảm
nhận rất sâu sắc thơ Lam Luyến như có sự đồng cảm tri âm, tri kỷ vậy. Tác giả đã
có một cái nhìn khá bao quát và thấy một Lam Luyến khác hơn ở Châm khói so
với Lỡ một thì con gái và Chồng chị chồng em.
Cũng nhân đọc Châm khói, tác giả Ánh Xuân lại có cảm nhận khác trong bài
viết ngắn “Hương nồng đắng một hồn thơ”. Ở đó Ánh Xuân nhận định Chất hương
của Đoàn Thị Lam Luyến không chỉ đắng đót, nó còn có vị ấm nóng nồng nàn của

một trái tim thương yêu trong một đời sống pha tạp còn đầy những bất trắc. Tác giả
Ánh Xuân cũng giống như Lê Thị Mây nhận thấy rằng : Nếu như ở “Chồng chị
chồng em” là tâm trạng muôn thuở của thân phận người đàn bà, nhưng là một người
đàn bà hiện đại thản nhiên nhặt bã trầu về têm thì ở “Châm khói” là tâm trạng và
nỗi niềm của thân phận người đàn bà dở dang, nhỡ nhàng với những cung bậc khác
nhau: Cô đơn đến tận cùng, nuối tiếc, một cái cười diễu cợt… Và ở đó là lời ca của
một trái tim cháy bỏng yêu thương.
Đọc những dòng thơ tình yêu của Đoàn Thị Lam Luyến, tác giả Vũ Nho trên
báo Văn nghệ số tháng 5 – 2003 ở bài viết ngắn với tiêu đề “Đoàn Thị Lam Luyến -
Người yêu đến nát cuộc đời cho thơ” lại cảm nhận về thơ Lam Luyến: Với Lam
Luyến tình yêu như là cội nguồn, lại cũng là động lực nuôi dưỡng thúc đẩy cảm
hứng sáng tạo, và cũng là sông lớn, là biển cả, là ốc đảo, là miền đất hứa cho trái
tim hạn hán của Lam Luyến hướng về. Theo Vũ Nho thì dường như thơ của Lam
luyến trào dâng từ một tình yêu mãnh liệt của một trái tim cuồng nhiệt hiếm thấy ở
những cây bút nữ vốn thiên về ngọt ngào, duyên dáng và dịu dàng e ấp. Cô gái họ
Đoàn đòi hỏi yêu là cuồng nhiệt, yêu là phải cháy bùng ngọn lửa mê say, yêu là
phải hết mình.
Lam Luyến đã góp một tiếng nói quan trọng vào khát vọng yêu, khát vọng
hạnh phúc muôn đời của phụ nữ. Cùng bàn về vấn đề này, Phan Thị Thanh Nhàn
trong bài viết “Lam Luyến càng yêu càng gặp tình hờ” (Vnexpress – ngày
26/11/2008) khẳng định: Lam Luyến dám bộc bạch mọi nỗi niềm riêng tư của chị.
Những dòng thơ của chị làm người đọc nao lòng. Theo tác giả Thái Doãn Hiểu (Tạp
chí Sông Hương số 205 tháng 3 /2006) Lam Luyến là nhân vật độc đáo nổi lọan
tình yêu trong thơ. Lam Luyến lận đận nên khát yêu, vồ vập yêu, dại yêu, xây hạnh
phúc như “làm nhà trên lưng cá voi”, nàng dữ dằn châm khói, tuyên chiến với tình
yêu. Đúng là đọc thơ Lam Luyến chúng tôi thấy thơ chị luôn hướng về một thế giới
hoàn mỹ. Và chất thơ của chị lặng lẽ nhả hương trong bóng tối đời mình.
Tuy các bài viết chưa bao quát hết sự nghiệp thơ Đoàn Thị Lam Luyến,
nhưng ý kiến của những người đi trước đã là những gợi ý quý báu và định hướng
cho chúng tôi trong khi thực hiện bản luận văn của mình.

2.3. Tác giả Hoàng Việt Hằng
Hoàng Việt Hằng xuất hiện trên văn đàn cách đây vài chục năm , trước hết là
văn xuôi (chủ yếu là truyện ngắn), nhưng hình như thơ mới là dòng chảy tâm hồn tha
thiết của chị. Chị từng tâm sự : “Tôi trở thành một người làm thơ, viết báo, thế chấp
một đời cho văn chương. Tôi như người chạy chợ thức khuya dậy sớm trên ruộng chữ
nghĩa của mình”. Bởi vậy có thể nói, Hoàng Việt Hằng có một năng lực sáng tạo khá
dồi dào, cùng một cá tính không mấy ồn ào – tạo nên một vẻ đẹp riêng của thơ chị.
Người ta ít biết thơ chị và hầu như không viết về chị, đó có lẽ là một mảnh đất mầu
mỡ cho người viết tự do khám phá một kiếp thi nhân – đàn bà. Một số bài viết của
các tác giả tiểu biểu như: Phạm Hồ Thu, Vũ Nho, Lê Thiếu Nhơn, Việt Quỳnh…
Cũng như người, thơ Hoàng Việt Hằng ít khi vui, luôn mang sự cô đơn quạnh
quẽ lạnh vắng của người quen sống một mình, và bao nhiêu chuyến đi xa, lang thang
khắp các vùng miền đất nước cũng lại một mình. Tác giả Việt Quỳnh nhân đọc tập
thơ “Xóa đi và không xóa” đã chia sẻ “Lời thơ của Hoàng Việt Hằng đơn giản như
thủ thỉ, thấy gì, cảm gì thì ghi chép lại. Câu thơ không phức tạp chữ nghĩa, không hoa
lệ ngôn từ, cứ như một khoảnh tự mình trò chuyện với mình, dọc đường những lúc
nghỉ chân đỡ phần mỏi mệt”. Có lẽ những trải nghiệm trong từng chuyến đi đã khiến
chị thấu hiểu tâm sự của mọi kiếp người trong cuộc mưu sinh đầy cơ cực. Đúng như
Vũ Nho đã nhận định trong cuốn 33 gương mặt thơ nữ: “ Thơ Hoàng Việt Hằng
khiến người đọc nhìn vào cuộc mưu sinh đầy khó khăn gian khổ, thấy những phận
người lầm lũi, những gắng gỏi, an nhiên của họ để biết rằng cuộc sống của mình là
hạnh phúc, cần phải quý trọng, nâng niu…”. Phải chăng vì hướng đến những người
lam lũ mà thơ Hoàng Việt Hằng thường nhạy bén chạm vào những góc khuất, những
bất thường của cảnh vật làm bật ra những trăn trở, băn khăn, day dứt.
Đồng quan điểm trên Lê Thiếu Nhơn trong bài viết “Hoàng Việt Hằng cầu
cạnh bút nghiên run rẩy viết” đã nhận định “Thơ Hoàng Việt Hằng không thuộc diện
tài hoa, nhưng nhiều câu lấp lánh nước mắt khiến người đọc nao dạ!”. Hoàng Việt
Hằng là người Hà Nội chính gốc nhưng chị lại chọn cho mình lối sống và cách viết
hướng về nhà quê. Nói như Lê Thiếu Nhơn quả không quá “ Hoàng Việt Hằng đã
nếm trải nhiều lao đao để những sóng gió bất trắc lặn vào trang giấy trắng thành

những câu thơ vỗ về kiếp người nổi nênh”.
Hoàng Việt Hằng xuất hiện trên văn đàn cách đây vài chục năm, trước hết
bằng văn xuôi (chủ yếu là truyện ngắn). Tuy Hòa sau đọc tản văn của Hoàng Việt
Hằng đã viết “ Văn xuôi của Hoàng Việt Hằng có gì lạ? Thứ nhất, chị có bề dày hoạt
động văn học để tạm đủ tư liệu viết về chân dung nghệ sĩ. Thứ hai, lối cảm lối nghĩ
của một nhà thơ mang lại vẻ đẹp riêng cho thể loại tùy bút hoặc tản mạn”. Chị đã có
4 tập văn xuôi xuất bản, nhưng hình như thơ mới là dòng chảy da diết nhất từ tâm
hồn chị. Đặc biệt với tập “Vệt trăng và cánh cửa” của chị đã đạt giải thưởng Hội nhà
văn Hà Nội. Phạm Hồ Thu đã chia sẻ sau khi tập thơ đạt giải thưởng “Vệt trăng và
cánh cửa là tập thơ thứ 5 của chị, cho biết một năng lực sáng tạo khá dồi dào, dẫu
bạn bè biết Hoàng Việt Hằng là một cá tính, không mấy ồn ào. Và điều này cũng làm
nên nét đẹp riêng của thơ chị”. Đó quả là một thành công đối với một người đàn bà
mang nghiệp cầm bút.
Những ý kiến trên tuy chưa trực tiếp đi sâu tìm hiểu, phân tích đánh giá về nghệ
thuật của thơ Hoàng Việt Hằng nhưng phần nào đã chỉ ra được tầm quan trọng và ý
nghĩa của thế giới nghệ thuật trong thơ của chị. Nhạy cảm với những vất vả,lam lũ,
nghèo khó của những phận người, nên Hoàng Việt Hằng đã có những vệt thơ riêng.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
3.1. Đối tượng nghiên cứu.
Do luận văn nghiên cứu về ba tác giả nên chúng tôi chỉ tập trung khảo sát một
vài tập thơ tiêu biểu thể hiện rõ cái tôi trữ tình của từng tác giả. Cụ thể như sau:
3.1.1.Tác giả Dư Thị Hoàn luận văn khảo sát ở hai tập thơ tiêu biểu:
1. Lối nhỏ (Hội Văn học nghệ thuật Hải Phòng xuất bản, 1988)
2. Du nữ ngâm (Tập thơ đăng mạng Internet)
3.1.2. Tác giả Đoàn Thị Lam Luyến luận văn khảo sát tập trung ở ba tập thơ:
1. Lỡ một thì con gái (1989)
2. Chồng chị chồng em (1991).
3. Dại yêu (2000).
3.1.3. Tác giả Hoàng Việt Hằng chúng tôi tập trung khảo sát qua hai tập thơ:
1. Một mình khâu những lặng im

2. Vệt trăng và cánh cửa.
3.2. Phạm vi nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu của luận văn là Cái tôi trữ tình trong thơ Dƣ Thị
Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến, Hoàng Việt Hằng được triển khai theo các phương
diện nội dung và hình thức nghệ thuật như ngôn ngữ, giọng điệu, thể thơ…Điều
quan trọng là muốn đi vào thế giới nghệ thuật của các nhà thơ, chúng tôi luôn phải
đối sánh với nội dung thơ, đời sống và tư tưởng của từng nhà thơ.
4. Mục đích nghiên cứu.
Luận văn nhằm làm sáng tỏ vấn đề sau:
- Tìm hiểu về cái tôi trữ tình trong thơ Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến,
Hoàng Việt Hằng qua những nguồn cảm hứng tiêu biểu và nghệ thuật thể hiện
nó để thấy được sự đóng góp của các nhà thơ nữ trong nền thơ ca Việt Nam
hiện đại
- Góp phần làm sáng tỏ phong cách thơ của Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến,
Hoàng Việt Hằng .
5. Phƣơng pháp nghiên cứu.
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu
chủ yếu sau đây:
Phương pháp phân tích – tổng hợp.
Phương pháp thống kê, phân loại
Phương pháp so sánh – đối chiếu
Phương pháp cấu trúc – hệ thống
Phương pháp tiểu sử
6. Bố cục của luận văn.
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, phần Nội dung chính
của luận văn được triển khai gồm ba chương:
Chương 1: Nhận thức chung về cái tôi trữ tình – Sự hình thành cá tính sáng
tạo trong thơ Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến, Hoàng Việt Hằng
Chương 2: Cái tôi trữ tình trong thơ Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến,
Hoàng Việt Hằng nhìn từ phương diện nội dung

Chương 3: Cái tôi trữ tình trong thơ Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến,
Hoàng Việt Hằng nhìn từ phương diện nghệ thuật.



























PHẦN NỘI DUNG

CHƢƠNG 1: NHẬN THỨC CHUNG VỀ CÁI TÔI TRỮ TÌNH – SỰ HÌNH
THÀNH CÁ TÍNH SÁNG TẠO TRONG THƠ DƢ THỊ HOÀN, ĐOÀN THỊ
LAM LUYẾN, HOÀNG VIỆT HẰNG.

1.1. Khái niệm về “cái tôi”, “cái tôi trữ tình” và biểu hiện của cái tôi trữ tình
trong thơ ca truyền thống.
1.1.1. Cái tôi
Chúng ta thường có xu hướng tự nhiên muốn tìm hiểu, khám phá bản chất
của các sự vật, hiện tượng trong thế giới bên ngoài, thuộc về tự nhiên và xã hội. Tuy
nhiên, chúng ta cũng thường quên mất rằng, ngay chính mỗi con người chúng ta
mới là một cái gì đó không thể lý giải, thậm chí là một thế giới hoàn toàn bí hiểm.
Tôi là gì, là thể xác hay linh hồn, là phần cảm tính, phần lý tính, hay phần ý chí?
Câu hỏi về bản chất, về cấu trúc của cái tôi đã và đang là nỗi trăn trở của mỗi con
người khát khao tìm hiểu và tìm kiếm sự tồn tại đích thực của mình, thoát khỏi sự
trần tục, thế tục của cuộc sống hàng ngày.
Cái tôi hay bản ngã là một trong những khái niệm triết học cổ đại nhất đánh
dấu ý thức đầu tiên của con người về bản thể tồn tại của mình, từ đó nhận ra mình là
một con người khác với tự nhiên, là một cá thể độc lập khác với người khác.
Khái niệm cái tôi là một khái niệm có nội hàm rộng, có rất nhiều các khái
niệm khác nhau như trong triết học, trong phân tâm học, trong triết lý Phật
Giáo…nhưng ở đây chúng tôi chỉ xin dừng lại ở một số quan niệm của triết học về
cái tôi vì nó có liên quan trực tiếp và gần gũi với việc tìm hiểu cái tôi trữ tình.
Nhiều nhà triết học đã cố gắng làm sáng tỏ vấn đề này và đưa ra các cách lý
giải rất khác nhau từ cách tiếp cận của mình qua việc tiếp thu và phát triển các quan
niệm của các nhà tư tưởng trước đó.
Theo Đề Các (1596 – 1650), cái tôi thể hiện ra như một cái thuộc về thực thể
biết tư duy, như căn nguyên của nhận thức duy lí và do đó, cái tôi thể hiện tính độc
lập của mình với định nghĩa nổi tiếng: “tôi tư duy tức là tôi tồn tại”.
Theo Kant (1724 – 1804), cái tôi bao gồm hai phương diện: cái tôi với tư
cách chủ thể tư duy, chủ thể nhận thức thế giới và cái tôi với tư cách là khách thể

của chính nhận thức. Đồng thời Kant cũng nhấn mạnh tuyệt đối khả năng nhận thức
của cái tôi: “Tính thống nhất của tự nhiên không phải ở trong tính vật chất của nó
mà ở trong tính thống nhất của chủ thể nhận thức, của cái tôi”.
Heghen (1770 – 1831) một mặt xem cái tôi như là sự tha hóa của “ý thức
tuyết đối”, một mặt nhấn mạnh vai trò tuyệt đối của cái tôi: cái tôi như là trung tâm
tồn tại, cái tôi có khả năng, khát vọng và sức mạnh để thể hiện mình trong hiện
thực.
Becxong (1858 – 1941) đã chú ý đến cái tôi thuần túy trong ý thức khi nhấn
mạnh đến đời sống bên trong cá nhân. Theo ông, trong con người có hai cái tôi: đó
là cái tôi bề mặt và cái tôi bề sâu. Trong đó, cái tôi bề mặt là các quan hệ của con
người đối với xã hội. Cái tôi bề sâu là phần sâu thẳm của ý thức. Đó mới chính là
đối tượng của nghệ thuật.
Các quan điểm duy tâm về cái tôi khẳng định: cái tôi là phương diện trung
tâm tinh thần con người, là cốt lõi của ý thức có khả năng chi phối hoạt động và là
sự khẳng định nhân cách con người trong thế giới. Tuy nhiên, các quan điểm trên đã
tách cái tôi khỏi con người xã hội sinh động, chưa nhìn thấy cơ sở lịch sử cụ thể và
tính tích cực của cái tôi.
Đối lập với quan điểm trên, triết học Mác đã xác định giá trị con người cá
nhân từ bản thân con người với tư cách là chủ thể và khách thể của các mối quan hệ
xã hội. Theo Mác, mỗi cá nhân có ý nghĩa như là một bộ mặt xã hội của con người,
như là kết quả của việc xã hội hóa cá thể con người và cá nhân cũng tìm thấy mình
trong xã hội. Lý tưởng giải phóng cá nhân của triết học Mác là tự do cho mỗi cái tôi
cá nhân trong tự do của tất cả mọi người. Đồng thời vai trò của cái tôi cũng được
khẳng định: “cái tôi là trung tâm tinh thần của con người, của cá tính con người có
quan hệ tích cực đối với thế giới và với chính bản thân mình”.
Như vậy, quan niệm cái tôi trong triết học đã đóng một vai trò rất quan trọng
trong việc nhận thức bản thể của con người, đồng thời nó cũng có mối liên hệ chi
phối, quen thuộc với cái tôi trữ tình trong thơ ca các thời đại.
1.1.2. Cái tôi trữ tình.
Lermôntôp có lần nói về tác phẩm của mình, một bài thơ trữ tình rằng:

“Chuyện của tôi chỉ toàn là những tuyệt vọng. Tôi đã lục lọi lại toàn bộ tâm hồn và
dốc lộn xộn ra giấy”. Còn L.Tônstôi thì nói “Nhà văn chỉ quý giá và cần thiết đối
với chúng ta trong chừng mực nhà văn thổ lộ với chúng ta cái hoạt động bên trong
của tâm hồn mình…, và trong tác phẩm của nhà văn, điều quý giá đối với chúng ta
chỉ là cái hoạt động bên trong của tâm hồn nhà văn”. Có lẽ vì thế mà ClôtBeena đã
phân biệt rõ ràng: “Nghệ thuật là tôi, còn khoa học là chúng ta”. Mọi người vẫn
thường nói thơ trữ tình là “những bản tốc ký nội tâm” nghĩa là sự tuôn trào của hình
ảnh và từ ngữ trong một trạng thái cảm xúc mạnh mẽ của người sáng tạo. Chính vì
vậy, về bản chất, mọi nhân vật trữ tình trong thơ chỉ là những biểu hiện đa dạng của
cái tôi trữ tình. Vậy cái tôi trữ tình là gì?
Cái tôi trữ tình là sự thể hiện một cách nhận thức và cảm xúc đối với thế giới
và con người thông qua lăng kính cá nhân của chủ thể và thông qua việc tổ chức các
phương tiện của thơ trữ tình, tạo ra một thế giới tinh thần riêng biệt độc đáo mang
tính thẩm mỹ, nhằm truyền đạt tinh thần đến người đọc.
Bản chất của cái tôi trữ tình là một khái niệm tổng hòa nhiều yếu tố hội tụ
theo quy luật nghệ thuật, bao gồm cả ba phương diện cụ thể: bản chất chủ quan cá
nhân (đây là mối quan hệ giữa tác giả và cái tôi trữ tình được thể hiện trong tác
phẩm); bản chất xã hội của cái tôi trữ tình (đó là mối quan hệ giữa cái tôi trữ tình và
cái ta cộng đồng); bản chất thẩm mỹ của cái tôi trữ tình (nó là trung tâm sáng tạo và
tổ chức văn bản). Cả ba phương diện biểu hiện của cái tôi trữ tình đều nằm trong
hình thức của thể loại trữ tình.
Cái tôi trữ tình không chỉ là cái tôi nhà thơ, nó còn là cái tôi thứ hai hoặc cái
tôi được khách thể hóa, được thăng hoa trong nghệ thuật và bằng nghệ thuật. Cái tôi
trữ tình chính là trung tâm sáng tạo và tổ chức văn bản trữ tình. Nếu quan niệm một
tác phẩm trữ tình là một hệ thống với các cấp độ, các yếu tó thì có thể nói mọi thành
tố tạo nên bài thơ, từ các biện pháp tu từ cho đến thể thơ, nhịp và vần điệu…đều
nằm trong ảnh hưởng của một trung tâm quy chiếu là cái tôi trữ tình.
Văn chương không chỉ là bức tranh đời sống mà còn là bức chân dung tinh
thần của chủ thể sáng tạo. Chủ thể không chỉ là người sáng tạo ra những giá trị tinh
thần mà còn là đối tượng miêu tả biểu hiện, chủ thể không chỉ được xem như là một

yếu tố tạo nên nội dung tác phẩm mà còn được xem như là một phương tiện bộc lộ
nội dung của tác phẩm,là một yếu tố của thế giới nghệ thuật do tác phẩm tạo ra. Ở
những nhà thơ có cá tính sáng tạo độc đáo, dấu ấn của chủ thể còn in đậm trong
từng từ, từng hình ảnh, từng dòng thơ, bài thơ…
Mối quan hệ giữa chủ thể với hình tượng nhân vật trữ tình, là những hình
thức biểu hiện của chủ thể với tư cách là hình tượng trung tâm của tác phẩm thơ trữ
tình. Mối quan hệ này được biểu hiện thông qua các yếu tố: chủ thể và cái tôi, cá tôi
của nhà thơ và cái tôi trữ tình trong tác phẩm. Chủ thể là một phạm trù được xem
xét trong mối quan hệ với khách thể, là phạm trù đối lập với khách thể ở tính tích
cực, thể hiện ở ý thức, ý chí và khả năng nhận thức, chiếm lĩnh hiện thực khách
quan. Cái tôi là yếu tố của chủ thể làm cho chủ thể ý thức được chính mình, là chức
năng tự nhận thức của chủ thế.
Cái tôi của nhà thơ có mối quan hệ trực tiếp và thống nhất với cái tôi trữ tình
trong thơ. Nhà thơ là nhân vật chính, là hình bóng trung tâm, là cái tôi bao quát
trong toàn bộ sáng tác. Những sự kiện, hành động, tâm tình và ký ức trong cuộc đời
riêng cũng in đậm nét trong thơ. Cái tôi của nhà thơ có lúc thể hiện trực tiếp qua
những cảnh ngộ riêng, trực tiếp giãi bày những nỗi niềm thầm kín. Cái tôi của nhà
thơ còn hiện diện qua các cách nhìn, cách nghĩ, qua tình cảm thái độ trước thế giới.
Tuy nhiên, cái tôi trữ tình trong thơ và cái tôi của nhà thơ không hề đồng nhất. Cái
tôi của nhà thơ ngoài đời thuộc phạm trù xã hội học, còn cái tôi trữ tình trong thơ
thuộc phạm trù nghệ thuật. Cái tôi trữ tình là cái cái tôi nhà thơ đã được nghệ thuật
hóa và trở thành một yếu tố nghệ thuật phổ quát trong thơ trữ tình, là một thành tố
trong thế giới nghệ thuật của tác phẩm.
Như vậy, trong mối quan hệ với nội dung và hình thức trữ tình thì cái tôi trữ
tình được quan niệm như hệ quy chiếu chủ quan, góp phần quy định các yếu tố
trong cấu trúc thể loại. Vì vậy cần xác định: cơ sở chủ quan của nội dung và hình
thức trữ tình với những biểu hiện của nó để từ đó khái quát được chức năng của cái
tôi trữ tình như một yếu tố trung tâm của thể loại. Theo Lê Lưu Oanh thì “cái tôi trữ
tình có thể được nghiên cứu ở ba cấp độ: tác phẩm, tác giả, thời đại. Mỗi cấp độ là
một giới hạn về lượng và chất của cái tôi trữ tình”

1.1.3. Các hình thức biểu hiện của cái tôi trữ tình trong văn học.
Như ta đã biết đặc điểm quan trọng nhất của tư duy thơ là sự biểu hiện của
cái tôi trữ tình, cái tôi cảm xúc, cái tôi đang tư duy. Và cái tôi trữ tình trong thơ
được biểu hiện dưới hai dạng thức chủ yếu là cái tôi trữ tình trực tiếp và cái tôi trữ
tình gián tiếp. Thơ trữ tình coi trọng sự biểu hiện cái chủ thể đến mức như là nhân
vật số một trong mọi bài thơ. Tuy nhiên do sự chi phối của quan niệm thơ và
phương pháp tư duy của từng thời đại mà vị trí của cái tôi trữ tình có những thay đổi
nhất định. Nói như Nguyễn Bá Thành: “Lịch sử phát triển của thơ ca Việt Nam là
lịch sử phát triển của thơ trữ tình”. Và lịch sử đó được biểu hiện như sau:
1.1.3.1. Cái tôi trữ tình trong văn học dân gian.
Trong văn loại hình văn học sơ khai thì cái tôi trữ tình biểu hiện cụ thể và rõ
ràng nhất là thể loại ca dao – dân ca. Cái tôi được tìm thấy trong tiếng nói chung
của tập thể, nó không bộc lộ như một cá nhân riêng biệt mà có thể chìm lằng và
biểu hiện qua cái tôi xã hội, cộng đồng. Cảm hứng của các tác giả dân gian bắt
nguồn từ nhu cầu được chia sẻ, giao hưởng và đồng vọng trong những cảnh ngộ
tương đồng. Nhân vật trữ tình trong văn học dân gian chủ yếu là người lao động, họ
có thể là những người giãi nắng dầm mưa, quanh năm “bán mặt cho đất bán lưng
cho trời”, “trên đồng cạn dưới đồng sâu”, là kẻ đang nhọc nhằn lên đồng xuống
truông…và không gian xuất hiện của họ cũng gắn liền với không gian lao động sản
xuất như: bến nước con đò, bãi dâu đồng cỏ, vườn chè áo cá…
Cái tôi trữ tình trong văn học dân gian là cái tôi phi cá thể hóa, bởi hình thức
của loại hình văn học dân gian là diễn xướng và truyền miệng. Thời gian và không
gian mang tính ước lệ, làm cho thời gian cá thể hóa của cái tôi tác giả mờ nhạt hẳn
đi. Không gian có thể thay đổi, chẳng hạn từ địa danh này sang địa danh khác vì thế
làm mất đi cá tính cụ thể của một hoàn cảnh cụ thể. Và diện mạo duy nhất của cái
tôi dân gian là cái chung, cái cá thể bị xòa nhòa.
1.1.3.2. Cái tôi trữ tình trong văn học cổ điển.
Trong văn học cổ nói chung, bản chất con người bắt nguồn từ quan hệ cộng
đồng, giá trị cá nhân nằm trong giá trị tập thể, vì thế văn học chủ yếu phát ngôn trên
tư cách siêu cá nhân, với những vấn đề của gia đình, dòng họ, giai cấp và của dân

tộc. Chính yếu tố đó đã hình thành nên kiểu nhà thơ cổ điển “phi ngã”.
Trong văn học Trung đại ý thức về cá nhân cá tính có xuất hiện nhưng tồn tại
trong những quy tắc luật lệ khuôn mẫu mà ta gọi đó là tính quy phạm. Cái tôi trữ
tình chủ yếu là cái tôi vũ trụ, cái tôi cá tính đã khách thể hóa vũ trụ. Mỗi sự việc,
mỗi khung cảnh đều mang một ý nghĩa triết lý về quan hệ giữa con người và vũ trụ.
Do không tách mình khỏi vũ trụ, để từ những bí ẩn của vũ trụ gián tiếp bộc lộ
những bí ẩn của tâm hồn, vì thế biểu hiện tình cảm xã hội là gián tiếp, kín đáo. Cái
nhà thơ luôn đi tìm là sự hài hòa giữa cái hữu hạn và cái vô cùng, giữa nhất thời và
vĩnh cửu, giữa quá khứ và thực tại, giữa cái thực và cái hư, giữa cái động và cái
tĩnh.
Nhưng đã là thơ trữ tình thì không thể gọi là hoàn toàn “phi ngã”, cho dù
trong thơ chỉ có “mây, gió, trăng, hoa” Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Tú Xương,
Tản Đà …đều đã tự xưng tên mình trong một số bài thơ. Nhưng do quan niệm về
cái cá nhân và ý thức về cái bản ngã chưa mạnh mẽ nên cái tôi trữ tình còn ẩn khuất
sau những nhân vật trữ tình khác. Các nhà thơ thời kỳ phong kiến không trực tiếp
viết về cái tôi như thời kỳ thơ lãng mạn.
1.1.3.3. Cái tôi trữ tình trong thơ lãng mạn
Thơ Mới ra đời, cái tôi trữ tình giành lấy vị trí trung tâm trong mọi bài thơ,
bản chất của thơ lãng mạn là tiếng nói cá nhân. Kiểu nhà thơ lãng mạn song hành
với sự tự ý thức của cá nhân như là một cá thể độc đáo, riêng biệt, nó không chống
lại cái nhìn duy lý của chủ nghĩ cổ điển. Cái tôi cũng có khi là cái tôi cá nhân tự
biểu hiện, khép kín và cô đơn. Cách cảm, cách nghĩ, sự biểu hiện của thế giới và
con người đều là những yếu tố đặc thù tạo nên chất thơ của văn chương lãng mạn.
Các tác giả đã lấy cái tôi làm vị trí trung tâm để cảm nhận, và làm nguyên tắc cho
thế giới quan.
Thơ lãng mạn là thơ của tâm hồn, đưa nó thoát ra khỏi tính quy phạm và để
nó bộc lộ hết mình, “tâm hồn tiếp xúc trực tiếp với ngoại giới”. Tâm hồn đã trở
thành trung tâm phản ánh và có lẽ thế nên nó không ưa cõi thực tầm thường mà
thích những cái gì cá biệt khác thường, cái phi thường. Cái tôi trữ tình vượt lên trên
hoàn cảnh bằng những tưởng tượng khác thường, bằng mộng ảo, hoài niệm, tôn

giáo, lịch sử… chỉ với mục đích duy nhất là khẳng định mình, khẳng định tự do của
mình.
Tuy nhiên cả thơ bác học thời phong kiến và thời kỳ thơ Mới, tư duy thơ đều
thiên về hướng nội, nghĩa là mục đích nhận thức và phản ảnh của thơ không phải cái
khách thể, cái hoàn cảnh tự nhiên và xã hội có tính lịch sử cụ thể mà nhà thơ đang
sống. Và cái tôi trữ tình luôn luôn được biểu hiện dưới dạng trực tiếp. Nghĩa là đối
tượng thẩm mĩ là những trạng thái tình cảm khác nhau của chủ thể. Tôi vui, tôi
buồn, tôi cô đơn, tôi yêu, tôi nhớ…Cái tôi ấy giãi bày, đối thoại trực tiếp với độc
giả.
1.1.3.4. Cái tôi trữ tình trong thơ cách mạng.
Gắn liền với hoàn cảnh và yêu cầu của lịch sử, văn học lúc này đặt vấn đề
dân tộc lên trên tất cả. Vì thế trong thơ cách mạng, cái tôi bộc lộ chủ yếu trên các
vấn đề dân tộc, lịch sử.
Các nhà thơ cách mạng luôn đứng trong những sự kiện lớn của đất nước, với
tư thế dân tộc, thời đại, giai cấp. Họ hiện hữu với trách nhiệm trước cuộc đời hiện
tại khẳng định niềm tin và tương lai của dân tộc. Cái tôi lúc này mang một sinh khí
mới rất mạnh mẽ và kiêu hãnh. Đây là giai đoạn các nhà thơ từ bỏ cái tôi cá nhân,
để cái riêng tư hòa vào cái chung dân tộc.
Thơ cách mạng là thơ của cái tôi mới, cái tôi cộng đồng. Chủ thể không còn
là cái tôi riêng mà là một phạm trù đa thức. Đó là một cá nhân không lặp lại hoặc là
một nhóm người cùng chung ý chí, nguyện vọng có thể là toàn bộ xã hội nói chung.
Trong cái tôi mỗi người có cả một hệ thống cái tôi khác nhau, trong quá trình tự
nhận thức trước cuộc sống, cái tôi nào đó được lựa chọn, vượt lên tự khẳng định.
Cái tôi lúc này là cái tôi công dân xã hội, hướng về tình cảm chung của cộng đồng,
cái tôi hòa hợp với cái ta trong cộng đồng mà khi giao tiếp thường được xưng là ta,
chúng ta. Nó khác với cái tôi cá nhân phân biệt người này với người khác. Cái tôi
khẳng định sự chung sức chung lòng cho sự nghiệp đánh giặc cứu nước.
1.2. Sự hình thành cá tính sáng tạo trong thơ Dƣ Thị Hoàn, Đoàn Thị
Lam Luyến, Hoàng Việt Hằng.
1.2.1. Đặc điểm chung của thơ nữ Việt Nam sau năm 1986

Tiếp nối dòng chảy của lịch sử văn học, văn học Việt Nam sau thời kỳ Đổi
mới (1986) đến nay có những đổi thay đáng kể. Có thể thấy rất rõ là sự thay đổi
trong quan niệm nghệ thuật, thay đổi trong quan niệm về chức năng, nhiệm vụ và
phương pháp sáng tác văn học. Đó là sự thay đổi từ chức năng phản ánh tuyên
truyền trong văn học Cách mạng giai đoạn trước đó chuyển sang phản ánh con
người đời thường, con người cá nhân. Cái tôi cá nhân được tôn trọng và có vị trí
bình đẳng với cái ta. Bên cạnh đó, sự thay đổi trong tư duy sáng tác cũng là điều
đáng lưu ý, tư duy sáng tác từ hướng ngoại bắt đầu chú ý đến hướng nội. Văn học
thời kỳ này đề cập mạnh mẽ đến quan niệm về sự cách tân, hiện đại hóa. Lúc này,
văn học nói chung và thơ nói riêng được thể hiện dưới nhiều hình thức biểu hiện.
Có thể thấy rằng, chưa bao giờ thơ được “cởi trói” và có dịp thể hiện con người cá
nhân rầm rộ như bây giờ. Vì vậy, để hiểu hơn về quan niệm của các nhà thơ nữ nói
chung và Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến, Hoàng Việt Hằng nói riêng, chúng ta
phải đi sâu vào tìm hiểu những đặc điểm của thơ họ.
Thơ là tiếng nói tâm hồn, tình cảm. Thơ là tiếng lòng và cùng với văn hóa
của nhà thơ làm nên giọng hay phong cách riêng. Đặc biệt với người phụ nữ, trái
tim của họ luôn nhạy cảm trước những vấn đề của cuộc sống, nên những nỗi buồn
vui, trăn trở, suy tư của họ đều được thể hiện qua thơ. Thời kỳ đổi mới, quan điểm
“cởi trói” trong văn học nghệ thuật đã tác động đến tư duy, ý thức sáng tạo của các
nhà thơ, trong đó có các nhà thơ nữ.
Trong bầu không khí dân chủ của đời sống văn học từ sau 1986, thơ nhanh
chóng nhập cuộc với cuộc sống đa diện, đa chiều và phong phú của thời đại mới. Để
phù hợp với yêu cầu của đời sống, cảm hứng thơ không bị bó hẹp trong một phạm vi
đề tài nào mà ngược lại biên độ phản ánh của thơ ngày càng được mở ra theo nhiều
chiều kích mới, đa dạng và phong phú hơn. Thơ đi vào ngõ ngách của đời sống, cả
những vấn đề trước đây chưa được thơ quan tâm hoặc cấm kỵ, nay đã được khai thác.
Như vậy, có thể từ sau 1975, đề tài thơ đã được mở rộng trên nhiều bình diện, đặc
biệt từ sau 1986 khi vấn đề con người đã được quan tâm một cách chính đáng thì thơ
càng đi sâu vào khai thác đề tài đời tư, thế sự, trong đó có thơ của các nhà thơ nữ.
Nhận xét về các cây bút nữ, Bích Thu cho rằng: “Văn chương của phái đẹp hôm nay

đã không thi vị hóa những chuyến đi, không tỏ ra đài các hoặc đa cảm trong giọt lệ
khóc chống hay giấc mộng phù dung mà sắc sảo và sâu sắc khi tiếp cận và khai thác
đề tài thế sự, đời tư với nỗi đau nhân tình thế thái bằng lối viết dịu dàng mà bén ngọt,
riết róng mà đồng cảm, sẻ chia với những thân phận, những kiếp người quanh mình”.
Ở lĩnh vực thơ nữ, với sự tinh tế và nhạy cảm của tâm hồn phụ nữ, các chị đã
trở về với đề tài đời tư , thế sự để thông cảm, sẻ chia với những con người và cuộc
sống quanh mình. Trong thơ nữ hôm nay ta bắt gặp một thế giới thật bình thường.
Đó là những hình ảnh của một cụ già bán thuốc, một người đạp xích lô ế khách
trong Ánh sáng nhờ nhờ của Nguyễn Thị Hồng; là nỗi cô đơn tội nghiệp của bà lão
ăn xin trong Mẹ của Lê Hồ Lan; bà lão bán trầu trong Bà lão bán trầu cau của
Hoàng Kim Dung; nỗi đau của những em bé phải chịu thiệt thòi bởi cảnh ly hôn của
cha mẹ chúng trong Đồ chơi của Đoàn Ngọc Thu; tình cảnh của những con người
tội nghiệp, kém may mắn qua Người ăn mày, Hòn vọng phu sau mùa bão của
Phạm Thu Yến… Tất cả đều thể hiện qua cái nhìn cảm thông, yêu thương, trìu mến
của các nhà thơ nữ. Trong thơ nữ ta cũng bắt gặp những nỗi niềm, tình cảm, những
lo âu, khắc khoải, đau đáu yêu thương người thân, gia đình trong Những vần thơ về
mẹ, Nước mắt một đời, Thay cho lời ru, Cho ngày cuối, Cỏ trắng của Bùi Anh
Kim; trong Chỉ còn ảnh cha, Ngày của bà ngoại của Hoàng Kim Dung; trong Thời
tuổi trẻ bà đâu của Lâm Thị Mỹ Dạ…Nguyễn Thị Mai cũng có những câu thơ xót
xa về người mẹ đã quá cố của mình: “Mẹ ơi/ Thơm cay một miếng trầu xưa/ Mà con
phải bớt tiền mua vì nghèo/ Bây giờ đã bớt gieo neo/ Lại không còn mẹ mà chiều.
Khổ không?” (Qua hàng trầu nhớ mẹ).
Thơ của các nhà thơ nữ đôi lúc là tiếng nói đối thoại, điều trần với xã hội,
báo động sự xuống cấp của đạo đức, thói thờ ơ vô trách nhiệm của người đời:
“Những con lừa đã giấu đi bản chất/ Râu xanh/ Khoác trên vai mùi thơm những
vòng nguyệt quế”(Ốc đảo – Đoàn Thị Lam Luyến). Thơ bộc lộ nỗi đau thế thái nhân
tình trước sự thay đổi của lòng người, những tiêu cực trong xã hội (Nghịch lý –
Nguyễn Thị Hồng Ngát, Bài ca thời gian – Lê Thị Mây, Kết thúc một tác quyền –
Phạm Thị Ngọc Liên). Các chị đau đớn vì linh cảm được sự đổi thay của lòng người
trong thời buổi kinh tế thị trường, những điều cao quý thiêng liêng như tình yêu

cũng được đem bán mua, đổi chác, trái tim cũng trở nên cằn khô, cạn kiệt: “Thật
khủng khiếp khi lời yêu thương cạn kiệt/ Khi người ta cứ vô cảm sự đời/ Trước vẻ
đẹp của ánh trăng, ngọn cỏ/ Trước nỗi buồn da diết cũng dửng dưng” (Khoảng
cách – Hoàng Kim Dung).
Tình yêu luôn đồng hành với đau khổ và “những vết thương do tình yêu gây ra
dù không làm cho người ta chết, cũng không bao giờ chữa khỏi được” (Bairon). Vì
thế, thơ tình của các nhà thơ nữ hôm nay còn là nơi để họ giãi bày những nỗi đau của

×