Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Cảm hứng và chất liệu tôn giáo trong thơ Hàn Mặc Tử và Huy Cận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (930.62 KB, 73 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN







NGUYỄN THỊ YẾN








CẢM HỨNG VÀ CHẤT LIỆU TÔN GIÁO
TRONG THƠ HÀN MẶC TỬ VÀ HUY CẬN







TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC












Hà Nội - 2009
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN







NGUYỄN THỊ YẾN








CẢM HỨNG VÀ CHẤT LIỆU TÔN GIÁO
TRONG THƠ HÀN MẶC TỬ VÀ HUY CẬN






LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Chuyên ngành: Lýluận văn học – Mã số 60 22 32




Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS Trần Khánh Thành







Hà Nội - 2009

1
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 3
1. Lý do chọn đề tài 3
2. Lịch sử vấn đề 4
2.1 Hàn Mặc Tử 4
2.2 Huy Cận 5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 7
4 .Phương pháp nghiên cứu 7

4.1. Phương pháp hệ thống 7
4.2. Phương pháp khảo sát thống kê 7
4.3. Phương pháp phân tích, so sánh 7
5. Kết cấu của luận văn 8
Chương 1: TÔN GIÁO VÀ CẢM HỨNG TÔN GIÁO TRONG VĂN HỌC 9
1.1. Giới thuyết chung về tôn giáo 9
1.1.1. Tôn giáo và nguồn gốc của tôn giáo 9
1.1.2. Bản chất của tôn giáo 15
1.2. Cảm hứng tôn giáo trong văn học 18
Chương 2: CẢM HỨNG TÔN GIÁO TRONG THƠ HÀN MẶC TỬ 22
2.1. Hàn Mặc Tử - Một con chiên ngoan đạo mà bất hạnh 22
2.2. Từ cảm hứng thơ đến cảm hứng tôn giáo trong thơ là sự khao khát vươn
đến cái tột cùng của Hàn Mặc Tử 26
2.2.1. Cảm hứng trong thơ 26
2.2.2. Cảm hứng tôn giáo trong thơ 28
2.2.3. Sự khao khát đến cái tột cùng của Hàn Mặc Tử 34
2.3. Thơ Hàn Mặc Tử là một thế giới tôn giáo sống động nhiều màu sắc 39
2.4. Đức tin là yếu tố không thể thiếu trong cuộc sống và sáng tạo nghệ thuật
của Hàn Mặc Tử 44
Chương 3: CẢM HỨNG VÀ CHẤT LIỆU TÔN GIÁO TRONG THƠ
HUY CẬN 50
3.1. Huy Cận nhà thơ của tình đời và niềm khát vọng sự sống vĩnh hằng 50
3.1.1. Vài nét về cuộc đời Huy Cận 50
3.1.2. Hành trình sáng tạo thơ của Huy Cận 50
3.2. Cảm hứng và chất liệu tôn giáo trong thơ Huy Cận trước Cách mạng
Tháng Tám 51
3.2.1. Niềm tâm sự của kẻ mất thiên đường 51

2
3.2.2.Triết lý Đạo gia và khát vọng tiêu dao trong vũ trụ 55

3.3. Cảm hứng và chất liệu tôn giáo trong thơ Huy Cận sau Cách mạng
Tháng Tám 58
KẾT LUẬN 67
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 69

3

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Tôn giáo là một một hiện tượng xã hội mang tính lịch sử, ra đời sớm và có
ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống tinh thần của nhân loại. Đã từ lâu, tôn giáo và
nghệ thuật có mối quan hệ gắn bó và thâm nhập lẫn nhau, đôi khi thật khó phân biệt
đâu là tác phẩm văn học và đâu là giáo lý của tôn giáo. Tôn giáo là đề tài hấp dẫn và
là nguồn cảm hứng vô tận của các nhà thơ, nhà văn. Nhiều kiệt tác nghệ thuật thế
giới hướng về đề tài tôn giáo. Tôn giáo là vùng lãnh địa hấp dẫn để các nhà thơ, nhà
văn thể hiện khao khát tột cùng của mình về cái đẹp và về miền bí ẩn khuất lấp trong
tâm hồn con người, góp phần hướng con người vươn tới cái thiện.
Trong lịch sử văn học Việt Nam, mối quan hệ giữa văn học và tôn giáo
khá mật thiết. Thời kì trung đại, văn học Việt Nam chịu ảnh hưởng khá đậm của
Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo. Đặc biệt thời Lý -Trần, Phật giáo chi phối rất sâu
rộng đề tài, cảm hứng văn học, tạo nên dấu ấn đặc sắc trong tiến trình văn học
Việt Nam.
Bước sang thời kỳ hiện đại, cùng với sự giao lưu văn hóa Đông – Tây,
mối quan hệ giữa văn học và tôn giáo có thêm nhiều sắc thái mới. Bên cạnh sự
ảnh hưởng qua lại giữa văn học và các tôn giáo truyền thống phương Đông, lại
có thêm sự ảnh hưởng không kém phần mạnh mẽ của Thiên Chúa giáo được
truyền bá từ phương Tây trong thế kỷ XIX vào đầu thế kỷ XX. Những nguồn
ảnh hưởng qua lại đó được thể hiện khá tập trung ở thơ Hàn Mặc Tử và Huy
Cận. Dù màu sắc và mức độ khác nhau nhưng Hàn Mặc Tử và Huy Cận đều sử
dụng khá nhiều chất liệu tôn giáo và lấy cảm hứng tôn giáo để sáng tạo những

thi phẩm độc đáo, tạo nên một thế giới nghệ thuật hấp dẫn, đầy không khí thiêng
liêng. Đó chính là lý do thôi thúc chúng tôi chọn Cảm hứng và chất liệu tôn giáo
trong thơ Hàn Mặc Tử và Huy Cận làm đề tài luận văn thạc sĩ, xem đó như là
một hướng để khám phá và nghiên cứu thế giới nghệ thuật thơ Hàn Mặc Tử và
Huy Cận.

4
2. Lịch sử vấn đề
2.1 Hàn Mặc Tử
Năm 1987, khi Nhà xuất bản Văn học ấn hành Tuyển tập Hàn Mặc Tử
nhà thơ Chế Lan Viên viết lời giới thiệu có cái nhan đề khá độc đáo: Hàn Mặc
Tử, anh là ai? Cho đến bây giờ giới nghiên cứu dù tốn biết bao giấy mực cũng
chưa thể trả lời cho thật thấu đáo câu hỏi “Hàn Mặc Tử, anh là ai?”. Hàn Mặc
Tử là một tài năng lớn, độc đáo với một hồn thơ mãnh liệt mà kì dị. Thơ ông có
cảnh quê, tình quê nồng nàn, rạo rực và có cả cảnh máu cuồng, hồn điên rất kinh
dị. Hàn Mặc Tử tự nhận mình là “thi sĩ của đội quân thánh giá”, khơi mạch thơ ở
Đức Chúa trời. Chính cảm hứng và chất liệu tôn giáo đã góp phần tạo nên một
thế giới thơ độc đáo nhưng cho đến nay vẫn chưa có công trình nào nghiên cứu
một cách hệ thống về cảm hứng và chất liệu tôn giáo trong thơ Hàn Mặc Tử.
Nhìn tổng quan, lịch sử nghiên cứu Hàn Mặc Tử có ba giai đoạn lớn với
những mốc thời gian tương đối xác định: Một là trước 1945, hai là từ 1945-
1987, ba là từ 1987 đến nay.
Trước 1945, hầu hết là những ý kiến thiên về khẳng định, đề cao tài năng
Hàn Mặc Tử ở những công trình như Thi nhân Viêt Nam của Hoài Thanh - Hoài
Chân, Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan, nhất là công trình Hàn Mặc Tử,
thân thế và thi văn của Trần Thanh Mại và những bài báo khác đều ca ngợi tên
tuổi của Hàn Mặc Tử như một vì sao chổi lạ xoẹt ngang bầu trời thi ca Việt
Nam.
Từ 1945-1987, việc nghiên cứu Hàn Mặc Tử hình thành hai khu vực phía
Bắc và phía Nam. Phía Bắc do điều kiện chiến tranh và quan điểm nhìn nhận

còn khắt khe nên việc khẳng định còn dè dặt và chật hẹp. Trong khi đó ở phía
Nam lại có phần thái quá trong việc đề cao thơ Hàn Mặc Tử.
Từ 1987 đến nay, không khí đổi mới đã giải phóng tư duy, khơi nguồn
sáng tạo cho các nhà phê bình nghiên cứu văn học, việc đánh giá các hiện tượng
văn học trong quá khứ cởi mở và khách quan hơn. Nhiều nhà Thơ mới đã được
nhìn nhận theo một tinh thần mới. Lần đầu tiên Tuyển tập thơ Hàn Mặc Tử được
ấn hành trên toàn quốc. Nhà thơ Chế Lan Viên đánh giá rất cao người bạn thơ
cùng trường phái với mình. Từ đây, việc nghiên cứu Hàn Mặc Tử lại trở nên

5
hưng thịnh hơn bao giờ hết. Thơ Hàn Mặc Tử được đưa vào giảng dạy ở trường
phổ thông như một trong những gương mặt sáng giá nhất của phong trào Thơ
mới, được đưa vào giảng dạy ở Đại học như một tác gia của văn học Việt Nam
hiện đại. Thơ văn Hàn Mặc Tử được tái bản nhiều lần. Những công trình nghiên
cứu, sưu tầm, hồi ký, chuyên khảo, chuyên luận, bình giảng về tác phẩm của
Hàn Mặc Tử lần lượt ra đời. Các nhà nghiên cứu đã tìm tòi, khám phá ngày càng
sâu sắc hơn về những di sản tinh thần của Hàn Mặc Tử, có một số nhà nghiên
cứu đã tìm đến miền linh thiêng, bí ẩn trong thơ ông. Tiêu biểu là các bài: Ảnh
hưởng Đạo phật trong thơ Hàn Mặc Tử (Quách Tấn), Hàn Mặc Tử với đức tin,
Đạo và đời trong thơ Hàn Mặc Tử (Yến Lan). Những bài viết này bước đầu đã
phân tích mối quan hệ giữa tôn giáo và cảm hứng sáng tạo nghệ thuật trong thơ
Hàn Mặc Tử, tạo những điểm tựa quan trọng để tác giả thực hiện luận văn này.
Yếu tố tôn giáo trong thơ Hàn Mặc Tử là điều dễ nhận thấy. Nhưng ảnh hưởng
của nó thuộc những phương diện nào trong thế giới nghệ thuật thơ Hàn Mặc Tử?
Thuộc phạm trù tình cảm (Đức tin tôn giáo?) hay tư duy nghệ thuật (Tư duy tôn
giáo)? Và tôn giáo ở Hàn Mặc Tử chỉ thuần là Công giáo hay gồm cả Phật giáo?
Từ những câu hỏi đó người viết có thể tìm câu trả lời trong khi đến với thế giới
nghệ thuật thơ Hàn Mặc Tử
2.2 Huy Cận
Huy Cận đã đi qua một chặng đường thơ dài hơn nửa thế kỷ. Thời kỳ nào

thơ Huy Cận cũng thu hút được sự chú ý của giới phê bình, nghiên cứu và đông đảo
bạn đọc. Đến nay đã có hơn 100 bài tiểu luận, chuyên luận về thơ Huy Cận ở nhiều
góc độ khác nhau, từ một bài thơ, một chặng đường sáng tác hay một đặc điểm nổi
trội, một nguồn cảm hứng lớn cho đến những công trình có tính chất hệ thống và
khái quát hơn trên góc độ thi pháp, thế giới nghệ thuật thơ Huy Cận.
Các nhà thơ, các nhà phê bình nghiên cứu văn học như Xuân Diệu, Vũ
Ngọc Phan, Hoài Thanh, Chế Lan Viên, Trương Chính, Lê Đình Kỵ, Trinh
Đường, Hà Minh Đức, Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn Hoành Khung, Nguyễn
Văn Long, Trần Khánh Thành, Trần Đình Sử, Vũ Quần Phương, Đỗ Lai
Thúy đều có những bài tiểu luận, chuyên luận sâu sắc về Huy Cận. Các tác giả
đều trân trọng những đóng góp của Huy Cận trên cả hai chặng đường thơ, trước

6
và sau cách mạng. Nhiều ý kiến đã lý giải được quá trình vận động cảm hứng
sáng tạo của Huy Cận qua các tập thơ, phác thảo được những nét đặc sắc phong
cách thơ Huy Cận về tình yêu sự sống, nỗi khắc khoải không gian, giọng điệu
trầm lắng,… những tiểu luận đánh giá phê bình này được tập hợp lại khá đầy đủ
trong hai công trình: Huy Cận đời và thơ - Trần Khánh Thành tuyển chọn và
giới thiệu [31]; Huy Cận về tác gia và tác phẩm - Trần Khánh Thành, Lê Dục
Tú tuyển chọn và giới thiệu [32].
Nhìn chung lịch sử nghiên cứu thơ Huy Cận có thể thấy chia làm hai giai
đoạn, trước và sau Cách mạng Tháng Tám.
Thời kỳ trước Cách mạng Tháng Tám: Năm 1940, tập thơ Lửa thiêng của
Huy Cận ra mắt bạn đọc cùng với lời giới thiệu hết sức nhiệt thành của nhà thơ
Xuân Diệu. Với tâm hồn nhạy cảm, với sự thấu hiểu của một tri âm tri kỉ, Xuân
Diệu đã chỉ ra được những nỗi niềm của Huy Cận trong thơ. Nỗi buồn nhân thế,
tình cảm yêu đời tha thiết, khả năng lắng nghe linh hồn trời đất của Huy Cận đã
được Xuân Diệu lý giải thuyết phục. Trong Thi Nhân Việt Nam, Hoài Thanh đã
chỉ ra một nét nổi trội trong hồn thơ Huy Cận: “Có lẽ thi nhân trong cuộc viễn
du đã có lần nhác thấy cái xa thẳm của thời gian và không gian, có lẽ người đã

nghe trong hồn hơi gió lạnh buốt từ vô cùng đưa đến” [30]. Như vậy, bên cạnh
việc đánh giá Huy Cận như một tiếng thơ tiêu biểu, đặc sắc của phong trào Thơ
mới, các nhà phê bình nghiên đã chỉ ra được một số đặc điểm trong cảm quan
nghệ thuật của Huy Cận, bước đầu đã nhận ra cõi thiêng liêng, cổ kính, thanh
cao trong Lửa thiêng
Sau Cách mạng Tháng Tám, Huy Cận cho ra đời nhiều tập thơ: Trời mỗi
ngày lại sáng, Đất nở hoa, Bài thơ cuộc đời, Hai bàn tay em, Những năm 60,
Chiến trường gần đến chiến trường xa, Ngày hằng sống ngày hằng thơ,… đã thu
hút được sự chú ý của đông đảo giới phê bình nghiên cứu. Hàng loạt các bài
báo, tiểu luận đã kịp thời khẳng định những thành quả mới của Huy Cận. Các
tác giả đều chủ yếu tâp trung đi sâu vào những đổi mới cơ bản, tích cực trong
hồn và trong thơ Huy Cận sau cách mạng. Có hai chuyên luận khá công phu về
toàn bộ sự nghiệp thơ của Huy Cận. Đó là Thế giới thơ Huy Cận (1987) của
Xuân Diệu và Thi pháp thơ Huy Cận (2002) của Trần Khánh Thành. Trong Thi
pháp thơ Huy Cận, Trần Khánh Thành đã phân tích quan niệm của Huy Cận về

7
phần hồn của con người trong cuộc sống và trong cõi trời xưa cõi biếc. Trong
nhiều tiểu luận viết về thơ Huy Cận, chúng tôi đặc biệt lưu tâm đến hai tiểu luận:
Ngọn lửa thiêng trong đời và trong thơ của Hà Minh Đức và Huy Cận, sự khắc
khoải không gian của Đỗ Lai Thúy. Giáo sư Hà Minh Đức tuy còn dè dặt nhưng
bước đầu đã đặt vấn đề “Phải chăng Huy Cận đã chịu ảnh hưởng của một tôn
giáo nào để rồi hình dung ra bên cạnh cõi đời là một địa ngục hay thiên
đường?‟‟ Còn Đỗ Lai Thúy cắt nghĩa nỗi khắc khoải không gian trong Lửa
thiêng là niềm tâm sự của kẻ mất Thiên đường. Ông đã chỉ ra ảnh hưởng của
Thiên chúa giáo trong nhiều bài thơ của Huy Cận. Đây cũng là những gợi mở
cần thiết để tác giả tìm hiểu cảm hứng và chất liệu tôn giáo trong thơ Huy Cận.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu của luận văn này là cảm hứng và chất liệu tôn
giáo được thể hiện trong thơ Hàn Mặc Tử và thơ Huy Cận.

* Phạm vi nghiên cứu: Tất cả các tác phẩm thơ viết về tôn giáo và có liên
quan đến tôn giáo trong thơ của Hàn Mặc Tử và Huy Cận.
4 .Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp hệ thống
Để chỉ ra những nét đặc trưng, khác lạ về Tôn giáo trong thơ Hàn Mặc
Tử và thơ Huy Cận. Coi thế giới nghệ thuật trong thơ Hàn Mặc Tử và thơ Huy
Cận như một chỉnh thể thống nhất, là một thế giới tinh thần của thi sĩ. Trong đó
tôn giáo đóng vai trò như thế nào trong sáng tạo nghệ thuật?
4.2. Phương pháp khảo sát thống kê
Nhằm chứng minh thế giới thơ Hàn Mặc Tử dày đặc những cảm hứng và
niềm tin tôn giáo chúng tôi tiến hành thống kê những bài thơ có liên quan đến
tôn giáo để tiến hành khảo sát tìm ra những đặc điểm riêng trong thế giới nghệ
thuật của hai tác giả.
4.3. Phương pháp phân tích, so sánh
Để thấy được cái riêng, cái nổi bật, đặc trưng trong thơ Hàn Mặc Tử so
với Huy Cận và so với các tác giả khác cùng thời (1930-1945). Từ đó thấy được
giá trị, chỗ đứng của niêm tin tôn giáo trong cuộc sống và trong sáng tạo nghệ
thuật của nhà thơ.

8
5. Kết cấu của luận văn
Gồm phần mở đầu, ba chương, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo.
Chương 1: Tôn giáo và mối quan hệ giữa tôn giáo và nghệ thuật
Chương 2: Cảm hứng và chất liệu tôn giáo trong thơ Hàn Mặc Tử
Chương 3: Cảm hứng và chất liệu tôn giáo trong thơ Huy Cận

9

Chương 1
TÔN GIÁO VÀ CẢM HỨNG TÔN GIÁO TRONG VĂN HỌC

1.1. Giới thuyết chung về tôn giáo
1.1.1. Tôn giáo và nguồn gốc của tôn giáo
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội xuất hiện rất sớm trong lịch sử, thu hút
được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Đến nay, đã có nhiều cách trả lời
khác nhau cho câu hỏi “Tôn giáo là gì?”. Từ góc độ nhân loại học, Tylor cho rằng
“Tôn giáo là lòng tin vào những vật linh” [29, tr.16]; từ góc độ ngôn ngữ học,
Maxmuller xem "tôn giáo là niềm tin vào các vị thần" [29, tr.16]; trên bình diện văn
hoá học, AJ.Troibi quan niệm "Tôn giáo là một yếu tố của văn hoá, là một hiện
tượng văn hoá" [29, tr.17]; từ góc độ bản thể, Durkhein định nghĩa: Tôn giáo là hệ
thống cố kết những tín ngưỡng và thực hành có liên quan đến các sự vật thiêng
liêng, gắn với một cộng đồng tinh thần gọi là giáo hội. Nhìn chung các cách định
nghĩa trên đây do nhìn nhận tôn giáo một cách phiến diện nên chưa phản ánh được
một cách toàn diện hiện tượng tôn giáo.
Trên cơ sở tư tưởng của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin, có
thể quan niệm, tôn giáo là một hiện tượng xã hội mang tính lịch sử, bao gồm ý thức
tôn giáo, hoạt động tôn giáo và tổ chức tôn giáo, mà sự tồn tại phát triển của nó là
do sự phản ánh hư ảo hiện thực khách quan vào trong đầu óc con người.
Như vậy, tôn giáo là sản phẩm của xã hội, của những mối quan hệ giữa
con người với tự nhiên và mối quan hệ giữa người với người. Chính con người
sinh ra tôn giáo chứ không phải tôn giáo sinh ra con người, tôn giáo không phải
là hiện tượng tự nhiên tồn tại trước con người, ngoài xã hội loài người.
Ph.Ăngghen khẳng định: “Bất cứ tôn giáo nào cũng đều là sự phản ánh hư ảo vào
đầu óc người ta những sức mạnh từ bên ngoài chi phối cuộc sống hàng ngày của
họ; chỉ là sự phản ánh mà trong đó những sức mạnh của thế gian đã mang hình
thức sức mạnh siêu thế gian” [8, tr.544].
Một tôn giáo cụ thể thường bao gồm ba yếu tố: Ý thức tôn giáo, hoạt động
tôn giáo và tổ chức tôn giáo. Trong quá trình vận động, phát triển của tôn giáo,
ý thức tôn giáo, tổ chức tôn giáo và các hoạt động tôn giáo luôn luôn tác động

10

biện chứng lẫn nhau. Nhưng vai trò, vị trí của chúng không ngang bằng nhau.
Trong bất cứ tôn giáo nào, ý thức tôn giáo luôn luôn là yếu tố giữ vai trò cơ bản,
quyết định nhất. Ý thức tôn giáo vừa là yếu tố không thể thiếu của mọi tôn giáo,
vừa quy định phương hướng, nội dung, hình thức, sự vận động, phát triển của
các tổ chức tôn giáo và hoạt động tôn giáo; đồng thời nó còn tác động đến các
lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Các hoạt động tôn giáo và tổ chức tôn giáo có
vai trò rất quan trọng đối với sự tồn tại, phát triển của tôn giáo. Chúng vừa góp
phần củng cố, duy trì ý thức tôn giáo, vừa làm cho ý thức tôn giáo phát triển
sống động trong đời sống tinh thần mỗi giáo dân và cộng đồng tôn giáo.
Ngày nay, bằng những công cụ, phương tiện hiện đại, các nhà khoa học đã
khẳng định, con người đã xuất hiện cách đây ít nhất từ 2 đến 3 triệu năm, thậm chí
5 triệu năm. Nhưng, hình thức tín ngưỡng đầu tiên cũng mới xuất hiện nhiều nhất
chỉ cách đây 2,5 đến 4 vạn năm, và những tôn giáo đầu tiên chỉ xuất hiện cách đây
khoảng 2,5 đến 3 nghìn năm. Khi đó, lực lượng sản xuất đã có bước phát triển đáng
kể, xã hội đã xuất hiện chế độ tư hữu, phân công lao động lần thứ hai giữa lao động
trí óc và lao động chân tay đã diễn ra, trong xã hội đã xuất hiện những người
chuyên làm “nghề” tôn giáo.
Rõ ràng, loài người đã tồn tại rất lâu không cần đến tôn giáo, không cần đến
“ý niệm”, "ma", "quỷ", "thần", "thánh" mà vẫn phát triển bình thường trong hạnh
phúc yên vui. Và nhất định đến một lúc nào đó "đám mây mù tôn giáo" cũng sẽ
mất đi khi những điều kiện nuôi dưỡng nó không còn.
Tuy nhiên, bàn về lịch sử nguồn gốc của tôn giáo đã được các nhà tư tưởng
luận giải rất khác nhau. Các nhà duy tâm khách quan đều xuất phát từ "tinh thần thế
giới", "ý niệm tuyệt đối" để giải thích sự vận động của xã hội. Vì thế, họ đều cho
rằng, ý thức tôn giáo có trước xã hội loài người, tồn tại vĩnh hằng quyết định sự ra
đời và phát triển của giới tự nhiên, xã hội và con người. Một số nhà duy tâm chủ
quan cho tôn giáo là thuộc tính vốn có của ý thức con người không phụ thuộc vào
hiện thực khách quan.
Các nhà duy vật trước C.Mác mà đỉnh cao là Lútvích Phoiơbắc đã phân tích sâu
sắc nguồn gốc nhận thức, nguồn gốc tâm lý của tôn giáo. Lútvích Phoiơbắc viết: "Cảm

giác về sự phụ thuộc là cơ sở của tôn giáo" [20, tr.51], và một nguyên nhân khác của

11
lòng tin vào Thượng đế: con người áp dụng quan niệm về sự sáng tạo có tính mục đích
của mình vào giới tự nhiên. C.Mác và Ph.Ăngghen đánh giá rất cao cống hiến của Lút-
vích Phoiơbắc. Nhưng do lập trường duy tâm và phương pháp nhận thức siêu hình các
vấn đề xã hội, Lútvích Phoiơbắc đã không thấy được ý thức của con người nói chung,
tình cảm tôn giáo nói riêng cũng là sản phẩm xã hội lịch sử. Vì thế, ông đã không thấy
được nguồn gốc xã hội của tôn giáo.
Trên cơ sở thành tựu của các ngành khoa học, xuất phát từ lập trường của
chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, các nhà kinh điển
của chủ nghĩa Mác - Lênin đã giải quyết khoa học, cách mạng vấn đề nguồn gốc
tôn giáo. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tôn giáo là một hiện
tượng xã hội mang tính lịch sử, ra đời từ nguồn gốc nhận thức, nguồn gốc xã hội
và nguồn gốc tâm lý
Để thực hiện quá trình lao động, con người phải dùng công cụ và phương
tiện lao động tác động vào giới tự nhiên, khi công cụ, phương tiện còn rất thô sơ
thì con người tỏ ra yếu đuối và bất lực trước giới tự nhiên, họ không giải thích nổi
những hiện tượng như: Sấm, sét, bão, lụt, bệnh tật nên họ khuất phục và sợ hãi.
Sự bất lực ấy đã tạo nên ở họ những biểu tượng hoang đường và họ thần thánh
hoá các lực lượng tự nhiên. Họ tưởng tượng ra thần sấm, thần sét, thần núi, thần
sông Họ tin rằng các lực lượng đó luôn chi phối cuộc đời họ. Như vậy, sự bất
lực của con người (nhận thức hạn chế) trước sức mạnh của giới tự nhiên là một
trong những nguồn gốc của tôn giáo.
Sự bất lực trong nhận thức của con người được biểu hiện trước hết ở sự thiếu
hiểu biết về tự nhiên, xã hội và chính bản thân mình. Ph.Ăngghen viết: "Bất cứ tôn
giáo nào đều có gốc rễ trong các quan niệm thiển cận và ngu dốt của thời kỳ mông
muội" [9, tr.404], "từ những khái niệm hết sức sai lầm, nguyên thuỷ của con người
về bản chất của chính họ và về giới tự nhiên bên ngoài xung quanh họ" [9, tr. 443].
Nhưng sự thiếu hiểu biết tự nó chưa phải là nguồn gốc sinh ra tôn giáo, mà chỉ khi

nào, trên cơ sở sự thiếu hiểu biết "sự ngu dốt" ấy con người không nhận thức đúng,
không tìm ra được phương hướng, biện pháp khắc phục đúng sự thiếu hiểu biết đó,
dẫn đến đồng nhất "cái chưa biết" thành cái "không thể biết," thì những ảo ảnh và
biểu tượng tôn giáo mới có điều kiện xuất hiện. Nói khác đi, chỉ khi nào con người

12
không thể giải quyết được mâu thuẫn giữa nhu cầu nhận thức thế giới, với khả năng
hiện có của mình, dẫn tới bất lực, tuyệt vọng thì tôn giáo mới nảy sinh.
Mặt khác, nhận thức của con người là sự thống nhất không thể tách rời giữa
nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính, giữa phương pháp nhận thức gián tiếp và
phương pháp nhận thức trực tiếp.
Quá trình nhận thức gắn liền với sự hình thành các biểu tượng, phát triển
trí tưởng tượng của con người. Đây vừa là sự hơn hẳn, sự khác nhau về chất
giữa tâm lý ý thức của con người so với tâm lý động vật, thể hiện rõ nhất sức
mạnh của tư duy trí tuệ con người, vừa chứa đựng nhiều nhất những khả năng
phản ánh sai lầm, ảo tưởng. V.I Lênin chỉ rõ: " ngay trong sự khái quát đơn giản
nhất, trong ý niệm chung sơ đẳng nhất cũng có một phần ảo tưởng" [20,
tr.395]. Vì thế, khi con người biến những hình ảnh ảo tưởng, sai lầm, chỉ tồn tại
trong tư duy thành một cái gì tồn tại ngoài tư duy của mình, thì lúc đó sẽ xuất
hiện các biểu tượng tôn giáo.
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, nguồn gốc nhận
thức chỉ là tiền đề làm nảy sinh hiện tượng tôn giáo, chính nguồn gốc xã hội, sự bất
lực của con người trong các hoạt động thực tiễn cải tạo xã hội mới là nguồn gốc cơ
bản, chủ yếu nhất tạo nên tôn giáo.
Bởi vì, về mặt lý luận, chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ rõ, thực tiễn là nguồn
gốc của nhận thức. Sự bất lực của con người trong thực tiễn cải tạo các hiện tượng
tự nhiên, cải tạo các hiện tượng xã hội, là nguồn gốc dẫn con người đến bế tắc
trong nhận thức, sợ hãi tuyệt vọng trong cuộc sống.
Hơn nữa, về mặt thực tiễn, sự bất lực, việc không tìm ra con đường, giải
pháp để giải quyết mâu thuẫn giữa nhu cầu cải tạo giới tự nhiên và cải tạo xã hội

với khả năng hiện có của con người luôn luôn gắn liền với nhau trong một thể
thống nhất. Nhưng vai trò của những bất lực này trong việc hình thành tín ngưỡng,
tôn giáo, là không ngang bằng nhau ở mỗi thời kỳ lịch sử.
Trong thời kỳ nguyên thuỷ, khi lực lượng sản xuất kém phát triển, xã hội
chưa phân chia thành giai cấp, chưa có hiện tượng người bóc lột người, thì sự bất
lực của con người trong quá trình cải tạo các hiện tượng tự nhiên là nguồn gốc chủ
yếu tạo nên tín ngưỡng, tôn giáo.

13
Khi xã hội xuất hiện chế độ người bóc lột người thì sự bất lực của con người
trong quá trình cải tạo các mối quan hệ xã hội trở thành nguồn gốc cơ bản, chủ yếu
tạo nên tôn giáo. Bởi vì, khi xã hội có giai cấp, lực lượng sản xuất ngày càng phát
triển tạo điều kiện để con người giảm đi những bất lực trong quá trình cải tạo các
hiện tượng tự nhiên. Đồng thời, do chế độ tư hữu làm cho con người khai thác cạn
kiệt tài nguyên, làm môi trường sinh thái ngày càng ô nhiễm. Vì thế, thiên nhiên
ngày càng "trả thù" con người với quy mô lớn hơn, cường độ mạnh hơn. Do vậy,
con người ngày càng bất lực nhiều hơn trong việc cải tạo thiên nhiên.
Mặt khác, chế độ bóc lột là thủ phạm gây ra những tai hoạ ngày càng to lớn,
khủng khiếp hơn đối với nhân dân lao động. Chế độ bóc lột về thực chất là chế độ
cướp bóc của kẻ mạnh đối với người yếu. Với pháp luật, nhà tù, toà án, quân đội
cùng biết bao thủ đoạn xảo quyệt khác, nhà nước của giai cấp bóc lột không chỉ
thống trị nhân dân lao động về kinh tế, mà còn áp bức về tinh thần tư tưởng, không
chỉ bóc lột cá nhân từng người lao động mà còn áp bức bóc lột cả một giai cấp, một
dân tộc. Người lao động không chỉ bị một tên tư bản bóc lột mà còn bị cả giai cấp
tư sản cướp bóc. Chế độ bóc lột không chỉ đe doạ miếng cơm, manh áo hàng ngày,
mà còn đe doạ cả sự sống còn của mỗi con người, cả cộng đồng người và toàn thể
nhân loại Đúng như V.I.Lênin nhận xét, giai cấp bóc lột đang hàng ngày, hàng giờ
gây ra cho những người lao động bình thường những nỗi thống khổ cực kỳ ghê
gớm, những sự đau thương thật là khủng khiếp, nhiều gấp nghìn lần so với những
biến cố phi thường như chiến tranh, động đất.

Sự tồn tại và phát triển của chế độ bóc lột làm con người ngày càng bị tha
hoá, bần cùng hoá về mọi mặt. Dưới chế độ nô lệ, người nô lệ trở thành công cụ
biết nói, trở thành một thứ hàng hoá có giá trong tay giai cấp chủ nô. Nhưng dưới
chế độ tư bản, người công nhân không những bị coi như một công cụ vật chất khác,
mà còn bị “biến thành nô lệ của những công cụ đó" thành "công cụ loại hai, loại
ba”, thành "những đồ vật tầm thường"

thành "hàng hoá loại hai, loại ba thậm chí là
loại bốn". Cái thân phận "nô lệ của nô lệ" ấy đã làm cho toàn thể nhân dân lao động
cảm thấy "mình bị xúc phạm, bị bỏ rơi, bị đánh lừa, bị đánh cắp mất cái con người
đích thực nơi họ". Điều đó, đã làm cho con người trong xã hội tư bản, mặc dù sống
trong điều kiện dư thừa các phương tiện cơ sở vật chất hiện đại, nhưng vẫn thường

14
xuyên khủng hoảng về tinh thần, mất hết niềm tin và sức mạnh trong quá trình đấu
tranh cải tạo tự nhiên, xã hội.
Như vậy, chế độ áp bức bóc lột một mặt ngày càng gây ra những tai hoạ khủng
khiếp, đòi hỏi con người phải có sự nhảy vọt về chất cả về sức mạnh vật chất và tinh
thần để cải tạo nó; mặt khác chế độ đó lại làm suy giảm không ngừng niềm tin, sức
mạnh của họ. Vì thế, chế độ bóc lột ngày càng chứng tỏ là thủ phạm tạo nên tình trạng
bất lực ngày càng gia tăng của con người trong quá trình cải tạo tự nhiên và xã hội.
Chính trên ý nghĩa đó, V.I.Lênin khẳng định nguồn gốc xã hội luôn là nguồn gốc chủ
yếu, nguồn gốc sâu xa nhất, nguồn gốc thật sự của tôn giáo.
Ngày nay, các nhà khoa học đã chứng minh tâm trạng cô đơn, sợ hãi,
tuyệt vọng đã từng có ở các động vật bậc cao. Với con người; do có khả năng
sinh sống, hoạt động trong nhiều môi trường, phức tạp và do trí tưởng tượng
phong phú, nên trước những tai hoạ khủng khiếp như dịch bệnh, bão tố, động
đất, núi lửa, chiến tranh; trước cảnh bao la, hùng vĩ của trời, biển, cảnh u tịch,
lạnh lẽo của hang sâu, rừng thẳm họ càng dễ rơi vào trạng thái sợ hãi, cô đơn,
tuyệt vọng. "Đặc biệt là cái chết làm nảy sinh ra sự sợ hãi lòng tin vào Thượng

đế" [31, tr.51].
Bên cạnh những lực lượng xã hội, những hiện tượng thiên nhiên gieo tai hoạ,
luôn tồn tại những hiện tượng tự nhiên tạo ra điều kiện thuận lợi, đáp ứng nhu cầu
nguyện vọng con người và cả những lực lượng xã hội, những cá nhân anh hùng, dũng
cảm xả thân cứu giúp đồng loại. Những sự kiện đó là lý do nảy sinh lòng biết ơn, kính
trọng. Tâm trạng cô đơn, sợ hãi, tuyệt vọng và lòng biết ơn, kính trọng là những trạng
thái tâm lý khác nhau, nhưng liên hệ mật thiết với nhau. Tất cả đều trở thành nguồn
gốc trực tiếp để hình thành ý thức tín ngưỡng, tôn giáo.
Trong thực tế, những nguồn gốc dẫn đến sự ra đời, tồn tại của tôn giáo luôn
quan hệ chặt chẽ, thành một thể thống nhất không tách rời nhau. Song vai trò của
chúng không ngang bằng nhau. Vai trò đó phụ thuộc vào điều kiện lịch sử cụ thể.
Tuy nhiên, ở bất cứ đâu, trong bất cứ thời điểm nào, nguồn gốc xã hội, vẫn là cơ
bản, chủ yếu nhất. Nó quyết định xu hướng, nội dung, hình thức, tồn tại phát triển
của nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc tâm lý; quyết định sự ra đời của tôn giáo.
Ngược lại, nguồn gốc nhận thức, nguồn gốc tâm lý cũng tác động trở lại rất to lớn

15
đến sự hình thành, phát triển của tôn giáo và góp phần làm sâu sắc, phong phú hơn
nguồn gốc xã hội.
1.1.2. Bản chất của tôn giáo
Trước C.Mác, các nhà tư tưởng đã nghiên cứu bản chất tôn giáo dưới nhiều
góc độ khác nhau. Các nhà duy tâm và các nhà thần học, đều thần bí hoá tôn giáo
coi tôn giáo như một hiện tượng kỳ bí, vĩnh hằng, có trước con người.
Các nhà duy vật trước C.Mác, đỉnh cao là Lútvích Phoiơbắc đã có những
nhận định đúng khi cho rằng: "Bí mật của tôn giáo, xét đến cùng, chỉ là bí mật của
sự kết hợp trong cùng một thực thể, ý thức và cái vô thức, ý chí và cái không ý chí"
[31, tr.70], là: "Sự đồng nhất cái chủ quan và cái khách quan" [31, tr. 70]. Song, do
cách nhìn duy tâm, siêu hình về xã hội, Lútvích Phoiơbắc đã không giải quyết được
vấn đề bản chất tôn giáo một cách triệt để.
Kế thừa quan điểm của các nhà duy vật, các nhà kinh điển của chủ nghĩa

Mác - Lênin, trong các tác phẩm của mình đã đưa ra những tư tưởng cơ bản, đặt
nền tảng cho việc nghiên cứu đúng đắn bản chất tôn giáo.
Trong lời nói đầu tác phẩm Phê phán triết học pháp quyền của Hêghen,
C.Mác viết: "Con người sinh ra tôn giáo, chứ không phải tôn giáo sinh ra con
người. Tôn giáo là tự ý thức, tự tri giác của những người chưa tìm thấy mình hoặc
tự đánh mất mình một lần nữa" [7, tr.569]. Phát triển tư tưởng của C.Mác, trong tác
phẩm “ChốngĐuy Rinh” Ph.Ăngghen viết: “Bất cứ tôn giáo nào cũng đều là sự
phản ánh hư ảo vào đầu óc người ta những sức mạnh từ bên ngoài chi phối cuộc
sống hàng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh mà trong đó những sức mạnh của thế
gian đã mang hình thức sức mạnh siêu thế gian ” [8, tr.437].
Từ tư tưởng của các nhà kinh điển có thể khẳng định, bản chất tôn giáo là sự
phản ánh hư ảo thế giới khách quan vào trong đầu óc những con người chưa tìm
thấy mình, hoặc tự đánh mất mình một lần nữa.
Trước hết, cần khẳng định “tôn giáo chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo thế
giới khách quan”. Nguồn gốc, nội dung sự tồn tại, phát triển của tôn giáo do thế
giới khách quan quy định. Tôn giáo không có nguồn gốc lịch sử tách rời thế giới
khách quan. Muốn tìm nguồn gốc, nội dung, hình thức và động lực của sự vận
động, phát triển của tôn giáo phải tìm ngay trong hiện thức khách quan, trong tồn

16
tại xã hội và ngay trong lịch sử phát triển của xã hội loài người. Đây là nội dung
quan trọng thể hiện quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử trong việc nghiên
cứu, xem xét bản chất tôn giáo, xa rời nội dung này sẽ đẫn tới quan điểm duy tâm,
không thể nhận thức đúng đắn bản chất tôn giáo.
Nghiên cứu giáo lý, giáo luật của các tôn giáo lớn, ra đời rất sớm như Đạo Phật
(thế kỷ VI TCN) Đạo Kitô (thế kỷ I TCN) đều có nội dung khuyên con người không
được trộm cắp. Đạo Phật còn coi "chính mệnh", sống bằng nghề nghiệp chân chính là
một trong bát chính đạo để giải thoát nỗi khổ. Nội dung đó vừa phản ánh sự tồn tại cuả
chế độ tư hữu vừa khẳng định trong xã hội đã xuất hiện nhiều nghề nghiệp chuyên môn
phong phú. Đặc biệt, cõi "Niết bàn" của đạo Phật, vườn "Địa đàng" của đạo Do Thái,

hay "Thiên đàng" của đạo Kitô chẳng qua chỉ là một bức tranh sinh động, miêu tả cuộc
sống no đủ của những cư dân sản xuất nông nghiệp trong những năm tháng mưa thuận
gió hoà, mùa màng tươi tốt bội thu.
Thượng đế, Thiên Chúa, Ngọc hoàng chỉ là hình ảnh hoàn thiện, hoàn
mỹ, tập trung tất cả mọi sự tinh tuý, tốt đẹp nhất cả về thể chất và tinh thần
của những con người hiện thực. Thực chất, đó là sự thần thánh hoá một ông
vua chuyên chế với quyền lực vô hạn, cai quản, điều khiển đất nước, thần dân
của mình.
Tuy nhiên, sự phản ánh của tôn giáo đối với hiện thực khách quan không
phải là sự phản ánh bình thường, phản ánh đúng đắn, trung thực, mà là sự phản ánh
hư ảo, bịa đặt. Đây là nội dung cơ bản nhất cấu thành bản chất của tôn giáo, quyết
định sự ra đời, tồn tại và những chức năng đặc thù của tôn giáo. Thiếu nội dung cơ
bản này mọi tín ngưỡng, tôn giáo, mọi yếu tố cấu thành tôn giáo sẽ không tồn tại.
Tôn giáo không chỉ đảo lộn, xem: "Bản chất khách quan coi như là chủ
quan, bản chất của giới tự nhiên là khác với giới tự nhiên, coi như bản chất của
con người, bản chất của con người như khác với người, coi như là bản chất
không phải người" [20, tr.71], mà còn phủ nhận mọi quy luật khách quan, mọi
suy nghĩ và hành động sáng tạo của con người. Mặt khác, tôn giáo còn quy mọi
sự tồn tại, vận động, biến đổi của thế giới, từ hoạt động nhận thức của con người
tới sự vận động của các thiên hà bao la đều phụ thuộc vào ý chí của đấng siêu
nhiên, phục vụ đấng siêu nhiên. Cho nên, tôn giáo không chỉ phản ánh xuyên tạc
tình hình, khả năng khách quan mà còn phủ nhận quy luật khách quan, không

17
chỉ xuyên tạc quy luật của tự nhiên, xã hội, mà còn xuyên tạc quy luật vận động
của tư duy; tôn giáo không chỉ sai lầm trong cách đặt vấn đề, giải quyết vấn đề
mà còn sai lầm trong kết thúc vấn đề. Đó là chuỗi dài của những phản ánh sai
lầm liên tiếp cả về nội dung và phương pháp. Vì thế, những nội dung phản ánh
của tôn giáo về cơ bản không có giá trị về lý luận và thực tiễn, thậm chí nó còn
là nguồn gốc gây nên những tai hoạ to lớn cho sự phát triển của tự nhiên, xã hội

và con người.
Hơn nữa, ý thức tôn giáo, về cơ bản là kết quả của một trình độ phản ánh
cảm tính, là "hình thức cảm xúc" của những con người chưa tìm thấy mình, hoặc tự
đánh mất mình một lẫn nữa.
Sự ra đời của tôn giáo gắn liền với những con người chưa nhận thức được vị
trí, vai trò của mình, chưa làm chủ được tự nhiên, xã hội, hoặc tự đánh mất vai trò, vị
trí và lý trí của mình trong quá trình nhận thức, cải tạo thế giới khách quan. Những
con người này không chỉ tạo ra các biểu tượng sai lầm, coi biểu tượng sai lầm là có
thực trong thế giới khách quan, mà còn gửi gắm cả sinh mệnh và cuộc sống vô cùng
quí giá của mình cho những biểu tượng sai lầm đó. Cho nên, mọi giáo lý, giáo luật
của tôn giáo nhằm hướng con người tin tưởng vào đấng siêu nhiên đều không thể tồn
tại trước sự phán xét của "toà án" lý trí. Và phải chăng do nhận thức được vấn đề
này, đạo Kitô đã cho rằng, tội lỗi lớn nhất (tội tổ tông) của con người đối với chúa,
đối với tôn giáo là đã cố tình ăn phải "cây lý trí" [4, tr.68].
Cho nên, tôn giáo thật sự là sự ấu trĩ, “thời thơ ấu của nhân loại" [20, tr. 64]
việc phê phán tôn giáo đang làm cho con người thoát khỏi ảo tưởng, để con người
suy nghĩ trở nên có lý tính" [7, tr. 570].
Như vậy, nội dung phản ánh của tôn giáo luôn luôn là sự thống nhất giữa cái
hư và cái thực, trong đó cái hư ảo, cái bịa đặt chiếm tỉ trọng tuyệt đối, giữ vai trò chủ
đạo, lấn át, che lấp hầu như toàn bộ cái thực. Cái thực, được hiện ra như một nhu cầu
được bù đắp tình cảm, lý trí và sức mạnh để vươn tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc;
một khát vọng thoát ra và phản kháng lại cái xã hội buộc con người sinh ra tôn giáo,
cần đến tôn giáo. Tuy bị suy biến, bị phủ định và chiếm một tỉ lệ vô cùng nhỏ, song
không bao giờ cái thực mất đi hoàn toàn, nó vẫn là điều kiện, tiền đề cho sự tồn tại
của cái ảo, của tôn giáo. Đúng như Phoiơbắc đã viết: "Trong tôn giáo, ngoài ảo
tưởng ra, mặt thực tế tìm tòi cái tốt hơn tìm sự che chở, sự giúp đỡ là cực kỳ quan

18
trọng" [20, tr. 63]


. Hơn nữa, toàn bộ quá trình ra đời, tồn tại, vận động, phát triển
của tôn giáo cũng như các hoạt động tôn giáo vừa là sự biểu hiện, vừa là quá trình
giải quyết mâu thuẫn giữa cái hư và cái thực.
1.2. Cảm hứng tôn giáo trong văn học
Không phải ngẫu nhiên, không phải chỉ kinh thánh mà kinh Coran, kinh
veda đều là những kiệt tác văn học. Đạo đức, triết học, tôn giáo và nghệ thuật là
những đối tượng thuộc thượng tầng kiến trúc, từ lâu đã có mối quan hệ mật thiết
và qua lại. Đạo đức, nhất là triết học tác động mạnh mẽ đến nghệ thuật, nhưng
Tôn giáo lại gắn bó chặt chẽ với nghệ thuật theo một con đường riêng. Triết học
dù có sâu sắc bao nhiêu, đạo đức dù có cao cả đến đâu, cũng là nhằm giải thích
thế giới hoặc hướng đạo cuộc sống thực tại. Còn tôn giáo bao giờ cũng hướng về
một thế giới khác, cho nên nó dễ bắt gặp tính chất lý tưởng vươn lên trên thực tế
của nghệ thuật. Feurerbach đã có một nhận xét khá sâu sắc: Tôn giáo là thơ,
người ta có thể nói như vậy bởi vì lòng tin bằng sản phẩm của tưởng tượng.
Văn học chân chính bao giờ cũng hướng con người vươn tới cái đẹp, cái
thiện, làm cho con người càng ngày càng hoàn thiện hơn. Nghệ thuật ra đời
trong thời kỳ bình minh của lịch sử nhân loại. Xuất phát từ nhu cầu lao động và
nhận thức thế giới, xuất phát từ nhu cầu giao tiếp tư tưởng tình cảm, nghệ thuật
đã hình thành và phát triển không ngừng. Khi tư duy của con người phát triển,
nền nghệ thuật phát triển đến trình độ cao thì tác phẩm nghệ thuật trở thành món
ăn tinh thần cho con người.
Văn học nghệ thuật phản ánh hiện thực cuộc sống của con người nơi
trần thế, nơi con người sống với ngổn ngang những suy tư dằn vặt, với những
niềm vui, nỗi buồn, nơi con người có sinh thành, phát triển và có già cỗi, mất
đi, nơi những kiếp người có sinh có diệt. Văn học nghệ thuật không bao giờ
thoát li đời sống. Nó lấy chất liệu từ đời sống phong phú phức tạp rồi sàng lọc
qua quá trình sáng tạo của nhà văn để xây nên những hình tượng nghệ thuật.
Khác với nghệ thuật, Tôn giáo là hình thức phủ nhận thực tại, là cuộc trốn
chạy hiện thực đời sống trần thế. Tôn giáo hướng con người đến thế giới thiêng
liêng cao cả, nơi trú ngụ của thần thánh cao sang, bất diệt. Thế giới của Tôn giáo

là thế giới được xây bằng trí tưởng tượng, xây bằng niềm mơ ước thánh thiện.

19
Đó là thế giới có sự sống vĩnh cửu, nơi đó là tâm hồn con người sẽ được thanh
thản, bình yên trong sự cưu mang của Đấng tối cao.
Nghệ thuật và Tôn giáo là hai hình thái ý thức xã hội khác nhau. Bản chất
của Tôn giáo và nghệ thuật không giống nhau, nhưng hai hình thái ý thức ấy lại
có những điểm gặp gỡ, giao thoa nhất định. Điểm hội tụ ấy chính là những miền
bí ẩn nơi tâm hồn con người, là khao khát đền bù những hạn chế, thiếu hụt trong
đời sống con người ở thực tại.
Chính vì thế mà đã từ lâu Tôn giáo đã trở thành đề tài hấp dẫn cho nghệ
thuật. Không riêng gì văn học, ở lĩnh vực nhạc, họa, điêu khắc cũng có khá
nhiều tác phẩm nổi tiếng hướng vào đề tài Tôn giáo. Không chỉ là đề tài mà Tôn
giáo còn trở thành nguồn cảm hứng vô tận của các nhà thơ….
Thơ là hiện thực cuộc sống được kết tinh, là sự thể hiện con người và thời
đại một cách cao đẹp. Thơ không nói chuyện đời mà còn nói đến chuyện đạo,
thơ không chỉ phản ánh các mối quan hệ tình cảm giữa người và người mà còn
phản ánh ý thức của con người và giới tự nhiên. Thơ phản ánh biểu hiện con
người xã hội nhưng cũng phản ánh con người tâm linh.Tôn giáo đã mượn hình
thức nghệ thuật để chuyển tải nội dung giáo lý, đức tin của mình.
Vì vậy ở một số nhà thơ cảm hứng Tôn giáo thâm nhập vào nội dung cảm
hứng thơ ca, trong đó có thi sỹ Hàn Mặc Tử và Huy Cận.
Thơ của 2 thi sỹ này vừa phản ánh cuộc đời nơi trần thế vừa phản ánh thế
giới tâm linh con người ở miền cực lạc. Có điểm giao thoa giữa tôn giáo và nghệ
thuật trong hai nhà thơ này, có điều mức độ đậm nhạt khác nhau. Một người là con
chiên ngoan đạo, được mệnh danh là “thi sỹ của đạo quân thánh giá” nói thứ tiếng
của Tôn giáo mình, còn người kia là kẻ ngoại đạo (Huy Cận) có cái nhìn của người
ngoài cuộc.Nhưng nếu như Tôn giáo là nguồn cảm hứng vô tận đối với Hàn Mặc
Tử để tác giả trải niềm đau thì nó lại là chất liệu sống động và hữu hiệu nhất để
Huy Cận từ tôn giáo nói đến cuộc đời.

Tôn giáo mà hai nhà thơ này hướng tới không phải là giáo phái nào khác
mà chính là Phật giáo và Thiên chúa giáo. Đây là hai trong số những Tôn giáo
lớn nhất trên thế giới và có hệ thống tín đồ đông đảo.

20
Phật giáo được du nhập vào Việt Nam từ rất sớm, ngay từ đầu Công
nguyên với truyện cổ tích Chử Đồng Tử học đạo của một nhà sư Ấn Độ. Luy
Lâu (thuộc tỉnh Bắc Ninh) là trị sở của quận Giao Chỉ sớm trở thành trung tâm
Phật giáo quan trọng. Các truyền thuyết về Thạch Quang Phật và Man Nương
Phật Mẫu xuất hiện cùng với sự giảng đạo của Khâu Đà La (Ksudra) trong
khoảng các năm 168-189.
Do tiếp thu Phật giáo trực tiếp từ Ấn Độ nên từ Buddha (bậc giác ngộ) được
phiên âm trực tiếp thành "Bụt", từ "Bụt" được dùng nhiều trong các truyện dân
gian. Phật giáo Việt Nam lúc ấy mang màu sắc của Tiểu thừa, Bụt được coi như
một vị thần chuyên cứu giúp người tốt, trừng phạt kẻ xấu. Sau này, vào thế kỷ thứ
4-5, do ảnh hưởng của Đại thừa đến từ Trung Quốc mà từ "Bụt" bị mất đi và được
thay thế bởi từ "Phật". Trong tiếng Hán, từ Buddha được phiên âm thành "Phật đà",
"Phật đồ" rồi được rút gọn thành "Phật".
Phật giáo ăn sâu, bám rễ vào Việt Nam từ rất sớm. Đến đời nhà Lý, nhà
Trần, Phật giáo phát triển cực thịnh, được coi là quốc giáo, ảnh hưởng đến tất cả
mọi vấn đề trong cuộc sống. Đến đời nhà Hậu Lê thì Nho giáo được coi là quốc
giáo và Phật giáo đi vào giai đoạn suy thoái. Đến đầu thế kỷ 17, vua Quang
Trung cố gắng chấn hưng đạo Phật, chỉnh đốn xây chùa, nhưng vì mất sớm nên
việc này không có nhiều kết quả. Đến thế kỷ 20, mặc dù ảnh hưởng mạnh của
quá trình Âu hóa, Phật giáo Việt Nam lại phát triển mạnh mẽ khởi đầu từ các đô
thị miền Nam với các đóng góp quan trọng của các nhà sư Khánh Hòa và Thiện
Chiếu.
Thành tựu lớn nhất của Phật giáo là đã tìm ra Tứ diệu đế: Đạo Phật quan
niệm cuộc đời là bể khổ(Khổ đế), tất cả mọi ham muốn của con người không đạt
được đều khổ. Nguyên nhân sinh ra khổ là ái dục và vô minh (Tập đế). Đạo Phật

còn chỉ ra con đường để thoát khỏi khổ đau đấy chính là Diệt đế. Họ cho rằng sở
dĩ con người rơi vào vòng đau khổ chính là có nhiều ham muốn. Do vậy phải
tìm cách diệt mọi ham muốn thì con người mới thoát khỏi vòng luân hồi của bể
khổ. Đạo đế chính là con đường tu luyện để thoát khỏi vòng luân hồi ấy.
Ngày nay, nhìn vào đời sống văn hoá của xã hội Việt Nam ta có thể thấy
các tôn giáo, nhất là hai tôn giáo lớn là Phật giao và Thiên chúa giáo đã và đang

21
để lại những dấu ấn văn hóa sâu sắc không chỉ trong thơ văn mà còn cả trong hội
hoạ, điêu khắc…. Ngày nay, bên cạnh sự phát triển ngày một lớn mạnh của kiến
trúc hiện đại, Việt Nam vẫn phục hồi kiến trúc cổ xưa, qua việc tu sửa lại nhà thờ,
đền, chùa, miếu mạo, những danh lam thắng cảnh.




22

Chương 2
CẢM HỨNG TÔN GIÁO TRONG THƠ HÀN MẶC TỬ

2.1. Hàn Mặc Tử - Một con chiên ngoan đạo mà bất hạnh
Trong Mắt thơ, Đỗ Lai Thuý đã có cách so sánh rất hình tượng vị trí của Hàn
Mặc Tử trong Thơ mới như sau: Nếu Tản Đà, nhà thơ, nhà nho tài tử - kiện tướng cuối
cùng chạy đến hụt hơi mà vẫn không vượt qua ngưỡng của Thơ mới thì Hàn Mặc Tử
chính là hiện thân sinh động nhất cho cuộc chạy đua tiếp sức đó [36].
Hàn Mặc Tử là một hiện tượng có sức ám ảnh vào bậc nhất của thơ ca
Việt Nam hiện đại. Ám ảnh Hàn Mặc Tử là một phức hợp gồm nhiều mặt: Một
thân phận thơ đầy bất hạnh, một hồn thơ hết sức dị biệt và một nghiệp thơ vừa
trong trẻo bí ẩn, vừa huyền diệu ma quái… Bởi thế, trong phong trào Thơ mới

1932 – 1945, nếu Xuân Diệu được xem là “mới nhất”, Nguyễn Bính là “quen
nhất”, thì ngôi vị của Hàn Mặc Tử hẳn phải là “lạ nhất” và phức tạp nhất (Chu
Văn Sơn).
Hơn nửa thế kỷ trước, Chế Lan Viên đã từng tiên tri về Hàn Mặc Tử như
một nhà cách tân duy nhất còn lại với mai hậu “Tôi xin hứa hẹn với các người
rằng, mai sau những cái tầm thường mực thước sẽ biến tan đi và còn lại cái thời
kỳ này chút gì đáng kể, đó là Hàn Mặc Tử” [42]. Không còn nghi ngờ gì nữa,
Hàn Mặc Tử chính là một hiện tượng văn học sử có sức sống mãnh liệt và luôn
đòi hỏi được khám phá, chiếm lĩnh. Hẳn linh hồn thi sĩ sau khi về với Chúa sẽ
được thanh thản. Tấm lòng độc giả sẽ thay thế nàng tiên rửa vết thương lòng cho
thi sĩ:
“Một mai kia ở bên khe nước ngọc
Với sao sương anh nằm chết như trăng
Không tìm thấy nàng tiên mô đến khóc
Đến hôn anh và rửa vết thương tâm”
(Lời chàng trong duyên kỳ ngộ)
Cuộc đời bênh tật, mà tâm hồn thanh sạch. Thơ Hàn Mặc Tử là cả một
dòng tinh huyết sáng láng, thấm đượm một dòng cảm hứng bao giờ cũng đắm

23
say, cuồng nhiệt, có lúc cả hồn ông, thơ ông đã bay lên cõi ước mơ, một vùng
trời tinh khiết đến Thiên đàng, nơi có Đức Chúa trời, có mẹ Maria nhân từ, có
cuộc sống vĩnh cửu.
Thơ Hàn Mặc Tử là sinh lực trong con người,là chính cuộc đời bạc mệnh
đau khổ của nhà thơ. Nên để hiểu được thơ Hàn Mặc tử, ta phải tìm hiểu ông,
Và đời ông sẽ giúp ta hiểu kỹ hơn về thơ ông. Chính dòng thơ đời nóng hổi này
đã làm nên một Hàn Mặc Tử - thi sĩ tài hoa.
Có người so sánh quá trình hoạt động của con gấu và của các nhà thơ, nhà
văn là quá trình hoạt động ngược chiều nhau. Con gấu ăn bao nhiêu cỏ ngọt để
rồi tiết ra thứ đắng nhất trên đời đấy là mật gấu, còn các nhà văn, nhà thơ lại

nếm trải bao đắng cay ở đời để rồi tiết ra thứ mật ngọt nhất đấy là các tác phẩm
văn thơ của họ. Trong sự liên tưởng này ta thấy đúng tuyệt đối với Hàn Mặc Tử
- Một con chiên bất hạnh giữa cõi trần.
Hàn Mặc Tử sinh ngày 22 tháng 9 năm 1912, tên thật là Nguyễn Trọng
Trí, được đặt tên thánh là Pierre, kế đó là Francois tại Lệ Mỹ, Đồng Hới, Quảng
Bình. Con của ông Nguyễn Văn Toản, chủ sự Thượng thánh Nhật Lệ và bà
Nguyễn Thị Duy con gái một ngự y thời Tự Đức.
Năm 1921, cả gia đình Hàn Mặc Tử vào Quy Nhơn, rồi trở ra Bồng Sơn.
Năm 1926, Hàn Mặc Tử ra Huế học Pellerin và cũng năm này, thân sinh của
Hàn Mặc Tử mất, thọ 45 tuổi.
Năm 1930, Hàn Mặc Tử thôi học về Quy Nhơn, ông được giải nhất trong
cuộc thi thơ do một thị xã tổ chức và đổi bút hiệu là Phong Trần. Nguyễn Trọng
Trí nổi tiếng với bút hiệu Phong Trần vì được cụ Phan Bội Châu chủ nhân thi xã
Mộng Du hoạ thơ và giới thiệu.
Sau đó, Hàn Mặc Tử ra thăm ông già bến Ngự tại Huế. Nguyên trước đó,
cụ Nguyễn Hữu Bài, bạn thân của ông Nguyễn Văn Toản đã ghi tên Nguyễn
Trọng Trí vào danh sách đi du học tại Pháp. Nhưng sau việc này, Nguyễn Trọng
Trí đã bị xoá tên.
Năm 1932 – 1933, Hàn Mặc Tử xin vào làm việc ở sở Đạc Điền – Quy
Nhơn. Công việc của Hàn Mặc Tử không bận lắm nên vẫn có thời gian đọc sách,

×