ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
===========
NGUYỄN THỊ THẮM
QUAN NIỆM VỀ TÍNH GIAI CẤP
TRONG VĂN HỌC CÁCH MẠNG VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1945 - 1985
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lý luận văn học
\
Hà Nội-2012
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
===========
NGUYỄN THỊ THẮM
QUAN NIỆM VỀ TÍNH GIAI CẤP
TRONG VĂN HỌC CÁCH MẠNG VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1945 - 1985
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lý luận văn học
Mã số: 602232
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. NGUYỄN BÁ THÀNH
\
Hà Nội-2012
Quan niệm về tính giai cấp trong văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945 - 1985
Nguyễn Thị Thắm Lớp CHVH K54
5
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU 7
1. Lí do chọn đề tài 7
2. Đối tượng, phạm vi đề tài và mục đích nghiên cứu 8
3. Lịch sử vấn đề 9
4. Phương pháp nghiên cứu 11
5. Cấu trúc Luận văn 12
PHẦN NỘI DUNG 14
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIAI CẤP VÀ TÍNH
GIAI CẤP TRONG VĂN HỌC CÁCH MẠNG VIỆT NAM GIAI ĐOẠN
1945 - 1985 14
1.1. Khái niệm về giai cấp và tính giai cấp trong văn học nghệ thuật 14
1.1.1. Khái niệm về giai cấp 14
1.1.2. Khái niệm tính giai cấp trong văn học 15
1.1.3. Vai trò quan niệm tính giai cấp trong hệ thống lí luận văn học Việt
Nam giai đoạn 1945 - 1985 20
1.2. Quán triệt quan điểm giai cấp trong đường lối văn nghệ của Đảng Cộng
sản Việt Nam 23
1.2.1. Văn học chịu sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối, toàn diện của Đảng
Cộng sản Việt Nam 23
1.2.2. Văn học phục vụ trực tiếp sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc
và xây dựng chủ nghĩa xã hội 32
CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG CỦA QUAN NIỆM VỀ TÍNH GIAI CẤP
TRONG LÝ LUẬN VÀ PHÊ BÌNH VĂN HỌC CÁCH MẠNG GIAI
ĐOẠN 1945 - 1985 40
2.1. Quan niệm về tính giai cấp chi phối đến tư duy lý luận, phê bình văn học 40
Quan niệm về tính giai cấp trong văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945 - 1985
Nguyễn Thị Thắm Lớp CHVH K54
6
2.1.1. Tính giai cấp trở thành nguyên tắc trong công tác lý luận, phê bình
văn học 40
2.1.2. Tính giai cấp chi phối các thuộc tính khác trong văn học nghệ thuật
cách mạng giai đoạn 1945 - 1985 43
2.1.3. Tính giai cấp quyết định phương pháp sáng tác trong văn học nghệ
thuật cách mạng giai đoạn 1945 - 1985 48
2.2. Các cuộc tranh luận trong văn học nghệ thuật cách mạng Việt Nam
1945 - 1985 thể hiện mạnh mẽ tinh thần đấu tranh giai cấp 50
2.2.1. “Nghệ thuật vị nghệ thuật” hay “Nghệ thuật vị nhân sinh” 50
2.2.2. Đấu tranh để “nhận đường” trong văn học 51
2.2.3. Cuộc đấu tranh chống Nhân văn - Giai phẩm (1955 - 1958) 55
2.2.4. Đấu tranh chống ảnh hưởng của chủ nghĩa xét lại hiện đại trên mặt
trận văn nghệ 56
CHƯƠNG 3: ẢNH HƯỞNG CỦA QUAN NIỆM VỀ TÍNH GIAI CẤP
TRONG THỰC TIỄN SÁNG TÁC CỦA VĂN HỌC CÁCH MẠNG
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1945 - 1985 65
3.1. Quan niệm về tính giai cấp chi phối đến hệ thống đề tài, chủ đề 66
3.1.1 Văn học phục vụ công, nông, binh (đại chúng) 66
3.1.2. Văn học phục vụ trực tiếp các nhiệm vụ cách mạng 72
3.2. Hình tượng nhân vật trung tâm của văn học cách mạng Việt Nam giai
đoạn 1945 - 1985 89
3.2.1. Hình tượng nhân vật mang tính chất sử thi 89
3.2.2. Các nhân vật luôn xuất hiện trong thế đối kháng 94
3.3. Ngôn ngữ biểu hiện chịu ảnh hưởng của quan niệm về tính giai cấp 105
3.3.1. Ngôn ngữ văn học nghiêng hẳn về lời ăn tiếng nói của quần chúng 106
3.3.2. Ngôn ngữ văn học mang tính chính luận 112
PHẦN KẾT LUẬN 117
TÀI LIỆU THAM KHẢO 122
Quan niệm về tính giai cấp trong văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945 - 1985
Nguyễn Thị Thắm Lớp CHVH
K54
7
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Để tổng kết và đánh giá một giai đoạn văn học cho thật khách quan bao
giờ cũng phải cần đến một độ lùi thời gian cần thiết. Văn học Việt Nam từ sau
Cách mạng tháng Tám đƣợc coi là “giai đoạn mở đầu cho một thời kỳ văn học
mới chƣa có tiền lệ” [46 ; 10] - một nền văn học đƣợc sinh ra, tồn tại và phát
triển trong hoàn cảnh chiến tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nƣớc và
từng bƣớc xây dựng chủ nghĩa xã hội, một nền văn học có “sự biến đổi toàn
diện từ mối quan hệ văn học với đời sống nhà văn và công chúng, đến quan
niệm nghệ thuật, các thể tài, thể loại và thi pháp” [46 ; 11], đồng thời cũng là
một nền văn học “bƣớc đầu xây dựng theo mô hình mới, chƣa có kinh nghiệm
bao nhiêu, do đó khó tránh khỏi những lệch lạc ấu trĩ” [56 ; 48]. Đã qua gần 30
năm sau công cuộc Đổi mới đất nƣớc (Đại hội Đảng VI năm 1986), tình hình
kinh tế, văn hóa, xã hội của đất nƣớc đã có nhiều biến chuyển, khoảng thời
gian gần 30 năm không phải là quá dài nhƣng cũng đã đủ để nhìn nhận lại một
giai đoạn văn nghệ của đất nƣớc.
Văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945 - 1985 là một nền văn học
mang đậm tƣ tƣởng chính trị, gắn liền với cuộc đấu tranh giành độc lập của dân
tộc. Do đó, nền văn học giai đoạn này đã tiếp nhận và chịu ảnh hƣởng sâu sắc
của văn hóa xô viết, của cả nền mĩ học xô viết. Đề tài luận văn tiến hành khảo
sát các vấn đề văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1985 dƣới góc độ hệ tƣ
tƣởng Mác - Lênin mà Hồ Chí Minh và những ngƣời lãnh đạo cách mạng, các
vị tiền bối của văn học cách mạng Việt Nam nhƣ Lê Duẩn, Trƣờng Chinh,
Phạm Văn Đồng, Tố Hữu,… đã tiếp nhận và tạo nên một hệ thống quan điểm
về văn học nghệ thuật, quán triệt tính giai cấp và tính Đảng, những kết quả của
quá trình tiếp nhận đó đã chi phối toàn diện và triệt để đến đời sống văn nghệ
đất nƣớc ta một thời.
Một lí do có tính cá nhân là sự quan tâm của chúng tôi đối với hƣớng
nghiên cứu văn học nhìn từ góc độ văn hóa học. Chúng tôi nhận thấy rằng việc
Quan niệm về tính giai cấp trong văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945 - 1985
Nguyễn Thị Thắm Lớp CHVH
K54
8
nghiên cứu quan niệm về tính giai cấp (một trong những quan điểm mĩ học
mác xít cơ bản) trong văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945 - 1985 là
nghiên cứu mang tính khởi đầu cho việc nghiên cứu khái quát sự ảnh hƣởng
của hệ hình văn hóa, văn học Nga - Xô viết đối với hệ hình văn hóa, văn học
Việt Nam ở vào giai đoạn đƣợc đánh giá là “thời kỳ hội nhập thứ ba” của văn
hóa, văn học Việt Nam. “Thời kỳ thứ ba này là khoảng 40 năm (1945 - 1985)
gắn với hai cuộc chiến tranh lớn là chống Pháp và chống Mỹ, là thời kỳ lấy
nƣớc Nga - Xô viết làm mô hình để noi theo… đó là cuộc hội nhập theo ý thức
hệ” [76 ; 10].
2. Đối tượng, phạm vi đề tài và mục đích nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu trực tiếp của đề tài là ảnh hƣởng của hệ tƣ tƣởng
mác xít, cụ thể là sự hình thành, vận động và khẳng định của quan niệm về tính
giai cấp chi phối đến mọi mặt của văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945
- 1985 - giai đoạn đƣợc đánh giá là “thời kỳ phát triển độc tôn của lý luận văn
học và mĩ học hiện thực xã hội chủ nghĩa”.
Chúng tôi chọn giai đoạn văn học từ sau cách mạng tháng Tám 1945 cho
đến tận năm trƣớc Đổi mới (1985) vì đây là giai đoạn chịu ảnh hƣởng và có
những biểu hiện sâu sắc nhất trên tổng thể diễn tiến văn học từ quan điểm mĩ
học mác xít, cụ thể ở đây là quan niệm về tính giai cấp. Thông thƣờng các
nghiên cứu trƣớc đều chọn giai đoạn văn học từ 1945 - 1975, nhƣng theo
chúng tôi, để có đƣợc một cái nhìn trọn vẹn hơn thì phải khảo sát đến năm
1985 - 10 năm sau đất nƣớc giải phóng, nhƣng quan niệm về tính giai cấp vẫn
có tác động mạnh mẽ đến đời sống văn học nghệ thuật.
Quan niệm về tính giai cấp thực ra đã có tác động đến văn học cách mạng
Việt Nam ở cả giai đoạn trƣớc 1945 nhƣng chƣa rõ rệt và cả ở giai đoạn sau
1985 nhƣng không còn đậm đặc, mang tính thuần nhất nữa. Tuy nhiên, chúng
tôi cũng sẽ trình bày một vài nét chung nhất ảnh hƣởng của quan niệm tính giai
cấp đến diễn trình văn học ở hai giai đoạn trƣớc 1945 và sau 1985 với mục
đích để đối chiếu, làm nổi bật rõ ảnh hƣởng độc tôn ở giai đoạn văn học cách
Quan niệm về tính giai cấp trong văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945 - 1985
Nguyễn Thị Thắm Lớp CHVH
K54
9
mạng 1945 - 1985, trong khi đặt đối tƣợng nghiên cứu trong toàn bộ tiến trình
văn học Việt Nam thế kỷ XX - kỷ nguyên nền văn học Việt Nam gia nhập vào
dòng chảy chung của văn học hiện đại thế giới.
Thế giới quan quyết định sáng tác là một mệnh đề quan trọng của lý luận
văn học mác xít. Cái gọi là bản chất xã hội của văn học thực ra phải thông qua
thế giới quan của nhà văn đƣợc thể hiện trong sáng tác. Mối quan hệ khăng
khít giữa thế giới quan và sáng tác, do đó, gắn rất chặt với các vấn đề tính tƣ
tƣởng (tính Đảng, tính nhân dân, tính giai cấp,…) và tính chân thật của sáng
tác văn học. Vì vậy, nghiên cứu quan niệm về tính giai cấp trong văn học cách
mạng Việt Nam giai đoạn từ 1945 - 1985 hƣớng tới mục đích khảo sát mối
quan hệ bản chất giữa thế giới quan nhà văn (chịu ảnh hƣởng của mĩ học xô
viết) và sáng tác văn học cách mạng. Chính vì lẽ đó mà tiến hành nghiên cứu
về sự ảnh hƣởng và chi phối của quan niệm tính giai cấp đối với văn học cách
mạng Việt Nam giai đoạn 1945 - 1985, luận văn nhằm làm rõ hơn những đặc
trƣng cơ bản, những thành tựu, cũng nhƣ những hạn chế của văn học giai đoạn
này.
3. Lịch sử vấn đề
Ở nƣớc ta, đã có rất nhiều các sách dịch thuật, nghiên cứu, các công trình
biên soạn công phu về nguyên lý mĩ học mác xít và mối quan hệ của nó với
văn học nhƣ: Tính nhân dân, tính giai cấp và tính Đảng của nghệ thuật do
Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô biên soạn, nhà xuất bản Văn hóa nghệ thuật,
năm 1961 [90]; C.Mác - Ph. Ăngghen - V.I. Lênin, Về Văn học và nghệ thuật,
nhà xuất bản Sự thật, năm 1977 [55]; C.Mác - Ph. Ăngghen - V.I. Lênin và một
số vấn đề lý luận văn nghệ, do Hà Minh Đức biên soạn, nhà xuất bản Sự thật,
năm 1981 [20]; Lênin, Bàn về văn học và nghệ thuật [42]; Lênin, Bàn về văn
hóa, văn học [43], I.U. Bô-Rép, Những phạm trù mĩ học cơ bản [2]; M. Gorki,
Bàn về văn học [24],… Tất cả các cuốn sách mà chúng tôi liệt kê ở trên đều là
sách lí luận văn học đƣợc sử dụng làm tài liệu bắt buộc phải đọc của sinh viên
các trƣờng ngữ văn một thời gian rất dài. Đồng thời, đó cũng là mong muốn
Quan niệm về tính giai cấp trong văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945 - 1985
Nguyễn Thị Thắm Lớp CHVH
K54
10
đƣợc tìm hiểu của chính những ngƣời làm công tác văn nghệ và sinh viên, đặc
biệt là ở giai đoạn đầu cuộc cách mạng - khi mà Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh
đạo nhân dân ta giành thắng lợi liên tiếp, văn nghệ đƣợc định hƣớng nhất nhất
đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin, trong khi nguồn sách về lý luận mác xít hồi đó
còn ít và còn hiếm. Vì vậy, tất cả các cuốn sách trên đã cung cấp một nền tảng
lí luận vững chắc về những phạm trù mĩ học mác xít cơ bản, quan niệm sáng
tạo văn hóa, văn học của của C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I. Lênin, trong đó có và
nổi bật là tính giai cấp mà đề tài chúng tôi tiến hành nghiên cứu ở đây.
Việc áp dụng các quan điểm mĩ học mác xít trên vào lí luận văn nghệ Việt
Nam đã thể hiện trong các văn bản có tính chất chỉ đạo văn nghệ của Đảng
nhƣ: Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943 [6], Thƣ của Ban chấp hành trung
ƣơng Đảng Lao động Việt Nam gửi các kỳ đại hội văn nghệ toàn quốc, các báo
cáo chính trị, các lá thƣ, bài phát biểu, bài nói chuyện của các đồng chí lãnh
đạo Đảng: Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trƣờng Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ
Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh, đã đƣợc tập hợp trong cuốn sách Về văn hóa
văn nghệ [58], Tố Hữu có cuốn Về văn học và nghệ thuật [31],…
Bên cạnh các văn bản có tính đƣờng lối văn nghệ của Đảng nhƣ ở trên thì
các cuốn sách lí luận văn học đƣợc coi là các cuốn giáo trình cơ bản giảng dạy
trong các trƣờng đại học một thời gian dài cũng đã trình bày rất cơ bản về
nguyên lý mĩ học Mác - Lênin: Những nguyên lý về lý luận văn học, tập I, của
Hà Minh Đức, đƣợc xếp trong Tủ sách Đại học Tổng hợp [19]; Cơ sở lý luận
văn học, tập I của Tổ bộ môn Lý luận Văn học các trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà
Nội, Vinh và Đại học Tổng hợp, năm 1976 [86]; Cơ sở lý luận văn học, tập I,
của nhóm tác giả Nguyễn Lƣơng Ngọc (Chủ biên) - Lê Bá Hán - Phƣơng Lựu -
Bùi Ngọc Trác, năm 1980 [59],… Tuy nhiên, các cuốn sách lý luận văn học
này mới chỉ dừng lại ở việc cung cấp một kiến thức chung nhất chứ chƣa đi sâu
cụ thể từng chuyên đề.
1. Hai cuốn sách Nhà văn Việt Nam (1945 - 1975), tập 1 do Phan Cự Đệ - Hà
Minh Đức biên soạn [15] và Nhà văn Việt Nam (45 - 75), tập 2 [16], do
Quan niệm về tính giai cấp trong văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945 - 1985
Nguyễn Thị Thắm Lớp CHVH
K54
11
Phan Cự Đệ biên soạn đã có sự bao quát lại về sự vận động của 30 năm văn
học Việt Nam thông qua các thể loại và một số tác giả tiêu biểu. Tuy nhiên,
hai cuốn sách này do chƣa có độ lùi thời gian cần thiết nên mới chỉ nêu ra,
phân tích các hiện tƣợng văn học chứ chƣa có sự khái quát và đánh giá toàn
diện, hơn nữa các vấn đề đƣợc trình bày một cách dàn trải, chƣa đi sâu vào
từng khía cạnh có tính lý luận cụ thể. Các bài viết về văn học cách mạng
giai đoạn 1945 – 1975 đăng trên các tạp chí cũng tƣơng đối đa dạng: Hoàng
Ngọc Hiến, “Về một đặc điểm của văn học và nghệ thuật ở ta trong giai
đoạn vừa qua”, Báo Văn Nghệ, số 23, ngày 9 tháng 6 năm 1979 [27],
Phƣơng Lựu, “Thử tự giải đáp đôi điều về đƣờng lối văn nghệ của Đảng”,
Tạp chí Văn học, số 10, 2001 [50], hay bài viết của tác giả Trƣơng Đăng
Dung: “Những đặc điểm của hệ thống lí luận văn học mác xít thế kỉ XX”,
đăng trên Tạp chí Văn học, số 7 năm 2001 [12], Lã Nguyên, “Diện mạo
Văn học Việt Nam 45 - 75, nhìn từ góc độ thi pháp thể loại”, Tạp chí Văn
nghệ quân đội, số 9, 1995 [60],… Tác giả Nguyễn Bá Thành trong cuốn
Bản sắc Việt Nam qua giao lưu văn học [76] đã đƣa ra nhiều ý kiến về văn
học cách mạng Việt Nam giai đoạn này.
Các Luận án Tiến sỹ Ngữ văn của Vũ Hồng Loan, Văn học Việt Nam tiếp
nhận Văn học Xô Viết [44], Quan niệm văn học là vũ khí cách mạng và ảnh
hưởng của nó đối với thơ 1945 - 1985 của Trần Thị Minh Giới [23],… trong
thời gian gần đây đã trở lại với những vấn đề lý luận có liên quan đến đề tài
của chúng tôi.
Từ việc khái quát lịch sử vấn đề nghiên cứu nhƣ trên, có thể nhận thấy
rằng đề tài của chúng tôi đã có đƣợc một vốn tƣ liệu rất phong phú. Tuy nhiên,
việc nghiên cứu chuyên sâu quan niệm về tính giai cấp trong văn học cách
mạng Việt Nam 1945 - 1985 là chƣa từng có một công trình riêng biệt nào.
4. Phương pháp nghiên cứu
Từ đặc điểm của đối tƣợng và mục đích nghiên cứu của luận văn, chúng
tôi thực hiện đề tài theo các phƣơng pháp sau đây:
Quan niệm về tính giai cấp trong văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945 - 1985
Nguyễn Thị Thắm Lớp CHVH
K54
12
Phƣơng pháp lịch sử - xã hội: Việc xác định lại những điều kiện lịch sử -
xã hội - chính trị - kinh tế làm phát sinh, phát triển những vấn đề lý luận sẽ là
một bức “phông” cần thiết hỗ trợ cho đề tài. Cụ thể ở đây là quan niệm về tính
giai cấp - một trong những vấn đề lý luận chủ chốt của mĩ học mác xít đã đƣợc
hình thành, vận động ra sao ở nƣớc ta và những tác động của nó đến đƣờng lối
văn nghệ và thế giới quan của nhà văn trong nền văn học cách mạng giai đoạn
1945 - 1985.
Phƣơng pháp loại hình: Phƣơng pháp này đƣợc sử dụng để phân tích tác
phẩm theo đặc trƣng của thể loại văn học. Việc phân kỳ lịch sử từng giai đoạn
văn học cách mạng, các cụm đề tài, chủ đề mà các tác giả chọn lựa để sáng tác,
cách xây dựng hình tƣợng nhân vật, lối kết cấu và ngôn ngữ có những nét khác
biệt của văn học cách mạng,… là một việc làm cần thiết để có thể nêu bật đƣợc
ảnh hƣởng của quan niệm về tính giai cấp trong thực tiễn sáng tác của văn học
cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945 - 1985.
Phƣơng pháp so sánh: Phƣơng pháp này giúp chúng tôi có đƣợc một cái
nhìn chính xác và khách quan hơn với đối tƣợng nghiên cứu là nền văn học
cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945 - 1985 trong thế đối sánh với các giai
đoạn trƣớc nó và sau nó, sự biến chuyển của thế giới quan của các nhà văn
sống trong thời kỳ này ở các giai đoạn sáng tác khác nhau của họ.
- Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp: vừa giúp chúng tôi chia tách đƣợc
một cách mạch lạc, tìm hiểu cụ thể vấn đề nghiên cứu nhƣng đồng thời cũng
giúp chúng tôi nhìn nhận tổng thể trong một hệ thống, không sa đà vào những
chi tiết vụn vặt, nhƣng vẫn làm nổi bật đƣợc những hiện tƣợng chủ yếu với
những đặc điểm cơ bản của nó.
Ngoài ra, chúng tôi cũng áp dụng một số phƣơng pháp nghiên cứu khác
nhƣ: phƣơng pháp tiểu sử, phƣơng pháp hệ thống, phƣơng pháp văn hóa học.
5. Cấu trúc Luận văn
Luận văn gồm 124 trang. Ngoài phần mở đầu, kết luận, thƣ mục tham
khảo, phần chính văn của luận văn đƣợc cấu tạo thành 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận về giai cấp và tính giai cấp trong văn
Quan niệm về tính giai cấp trong văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945 - 1985
Nguyễn Thị Thắm Lớp CHVH
K54
13
học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945 - 1985
Chƣơng 2: Ảnh hƣởng của quan niệm về tính giai cấp trong lý luận và
phê bình văn học cách mạng giai đoạn 1945 - 1985
Chƣơng 3: Ảnh hƣởng của quan niệm về tính giai cấp trong thực tiễn sáng
tác của văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945 - 1985
Quan niệm về tính giai cấp trong văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945 - 1985
Nguyễn Thị Thắm Lớp CHVH
K54
14
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIAI CẤP VÀ TÍNH GIAI
CẤP TRONG VĂN HỌC CÁCH MẠNG VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1945 - 1985
1.1. Khái niệm về giai cấp và tính giai cấp trong văn học nghệ thuật
1.1.1. Khái niệm về giai cấp
Trong hệ thống nhận thức triết học C. Mác về lịch sử, “học thuyết giai
cấp và đấu tranh giai cấp” chiếm vị trí đặc biệt quan trọng. Năm 1848, khi Chủ
nghĩa Cộng sản còn bị coi nhƣ một "bóng ma" lởn vởn trên bầu trời châu Âu
thì C. Mác và Ph. Ăngghen đã lần đầu tiên khởi thảo Tuyên ngôn Đảng Cộng
sản. Trong Tuyên ngôn, từ đầu chí cuối, xuyên suốt một tƣ tƣởng cơ bản:
phƣơng thức sản xuất, phƣơng thức trao đổi chủ yếu của mỗi thời đại và cả cơ
cấu xã hội đƣợc sản sinh tất yếu, từ đó làm nên nền tảng chính trị, tinh thần và
lịch sử của thời đại đó. Vì vậy, toàn bộ lịch sử xã hội loài ngƣời từ khi có giai
cấp là lịch sử đấu tranh giai cấp, mà đấu tranh này, hiện đã đi đến giai đoạn
giai cấp vô sản bị bóc lột, bị áp bức. Nếu không đồng thời làm cho toàn xã hội
vĩnh viễn thoát khỏi bóc lột, áp bức thì không thể giải phóng mình ra khỏi sự
khống chế của giai cấp tƣ sản bóc lột mình, áp bức mình. Hai ông đã lần đầu
tiên chỉ ra điều kiện thật sự để giai cấp công nhân cùng toàn thể loài ngƣời
đƣợc giải phóng và tuyên bố chân lý: Sự diệt vong của giai cấp tƣ sản và thắng
lợi của giai cấp vô sản đều là điều không thể tránh khỏi.
Từ điển Triết học đã dẫn ra khái niệm giai cấp của C. Mác từ cuốn Lênin:
Tuyển tập, tập II, phần 2, bản tiếng Pháp, Mát-xcơ-va, 1954, tr. 225: “Giai cấp
là những tập đoàn ngƣời đông đảo, những tập đoàn này khác nhau về địa vị của
họ trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, về những quan
hệ (phần lớn là do luật pháp quy định và thừa nhận) của họ đối với tƣ liệu sản
xuất, về vai trò của họ trong tổ chức lao động xã hội, và do đó, về những
phƣơng thức hƣởng thụ của cải xã hội, và về số lƣợng của cải xã hội mà họ chi
Quan niệm về tính giai cấp trong văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945 - 1985
Nguyễn Thị Thắm Lớp CHVH
K54
15
phối. Giai cấp là những tập đoàn ngƣời mà tập đoàn này có thể chiếm đoạt lao
động của tập đoàn khác, do địa vị khác nhau mà họ chiếm giữ trong một chế độ
kinh tế xã hội nhất định” [62 ; 359].
Từ khái niệm trên cho thấy: Giai cấp là kết quả của sự phân hóa xã hội do
có sự đối lập giữa họ về địa vị trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định. Trong
xã hội, giai cấp nào nắm đƣợc tƣ liệu sản xuất chủ yếu của xã hội thì đồng thời
có khả năng chiếm đƣợc địa vị làm chủ quyền lực chính trị và quyền lực nhà
nƣớc và trở thành giai cấp thống trị xã hội. Giai cấp không chỉ là khái niệm của
khoa học chính trị mà còn là khái niệm phản ánh mối quan hệ khách quan giữa
lĩnh vực kinh tế và lĩnh vực chính trị của xã hội; phản ánh mối quan hệ kinh tế,
chính trị giữa các tập đoàn ngƣời trong một điều kiện lịch sử nhất định. Đó là
mối quan hệ không chỉ có sự khác biệt mà còn có tính chất đối lập của họ trên
phƣơng diện kinh tế và chính trị. Từ đó cho thấy, việc phân tích các vấn đề về
kết cấu chính trị cần phải gắn liền với việc phân tích kết cấu kinh tế của xã hội
theo quan điểm lịch sử cụ thể. Cần phân biệt khái niệm giai cấp với khái niệm
tầng lớp xã hội. Khái niệm tầng lớp xã hội dùng để chỉ sự phân tầng, phân lớp,
phân nhóm giữa những con ngƣời trong cùng một giai cấp theo địa vị và sự
khác biệt cụ thể của họ trong giai cấp đó hoặc chỉ những nhóm ngƣời ngoài kết
cấu giai cấp trong một xã hội nhất định (công chức, trí thức, tiểu nông).
1.1.2. Khái niệm tính giai cấp trong văn học
Trƣớc C. Mác, các nhà xã hội học không tƣởng cũng nhƣ các nhà Sử học
và các nhà Kinh tế của giai cấp tƣ sản đã phát hiện ra sự tồn tại của các giai
cấp và những mâu thuẫn đối kháng giữa các giai cấp đó. Nhƣng chỉ đến C.
Mác, vấn đề mới đƣợc đặt ra quán triệt trong tất cả mọi lĩnh vực, kể cả văn học
nghệ thuật. Tính giai cấp là một trong những quan điểm cơ bản của lý luận văn
học vô sản, là nơi giao điểm đấu tranh giữa chủ nghĩa Mác chân chính và quan
điểm của “bọn xét lại” cùng các trƣờng phái khác. Trƣớc hết, C. Mác là ngƣời
chỉ ra sự tồn tại của các giai cấp bao giờ cũng gắn với cơ sở kinh tế của từng
thời kỳ lịch sử nhất định. Nguồn gốc trực tiếp của giai cấp trong xã hội là từ sự
phân hóa xã hội do sự ra đời, tồn tại của chế độ tƣ hữu đối với những tƣ liệu
sản xuất chủ yếu của xã hội. Trong điều kiện đó tất yếu làm phát sinh và tồn tại
Quan niệm về tính giai cấp trong văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945 - 1985
Nguyễn Thị Thắm Lớp CHVH
K54
16
sự phân biệt địa vị của các tập đoàn ngƣời trong quá trình sản xuất, dẫn tới khả
năng tập đoàn ngƣời này chiếm đoạt lao động thặng dƣ của tập đoàn ngƣời
khác. Tuy nhiên, quá trình này còn phải gắn với điều kiện lực lƣợng sản xuất
phải phát triển đến một mức độ nhất định, làm cho năng suất lao động tăng lên
khiến cho thời gian lao động đƣợc chia thành thời gian lao động tất yếu và thời
gian lao động thặng dƣ mà biểu hiện của nó là sự dƣ thừa tƣơng đối của cải
trong cộng đồng xã hội. Nguồn gốc sâu xa của sự phân hóa giai cấp trong xã
hội là do tình trạng phát triển chƣa đầy đủ của lực lƣợng sản xuất. Khi lực
lƣợng sản xuất phát triển tới mức đầy đủ thì chính nó lại là nguyên nhân khách
quan dẫn đến xóa bỏ chế độ chiếm hữu tƣ nhân về tƣ liệu sản xuất, do đó xóa
bỏ giai cấp, đối kháng và đấu tranh giai cấp trong xã hội.
Theo C. Mác và Ph. Ăngghen, tính giai cấp là một thuộc tính tất yếu của
văn học trong xã hội có giai cấp. Giai cấp không phải chỉ tồn tại trong hình thái
mơ hồ với sự phân biệt về chính trị qua các đặc quyền của một đẳng cấp mà
bản chất của nó đƣợc bộc lộ rõ trong quyền sở hữu những tƣ liệu sản xuất,
trong các tổ chức lao động xã hội và quyền hƣởng thụ sản phẩm làm ra của xã
hội. Điều đó tạo điều kiện để nhận thức những mối quan hệ xã hội, các hiện
tƣợng vật chất và tinh thần trong xã hội, quan hệ giữa cá nhân và xã hội.
Xét về tính thống nhất giữa bản thể và nhận thức, thì văn học với tƣ cách
là tấm gƣơng của hiện thực, không thể không mang tính giai cấp. Mặt khác,
nhà văn trƣớc hết là con ngƣời xã hội, vậy, cá nhân trong xã hội bao giờ cũng
thuộc về một giai cấp nhất định.
Trong quá trình vận dụng và sáng tạo học thuyết đấu tranh giai cấp, C.
Mác, Ph. Ăngghen đã phân biệt và giải thích về tính giai cấp của nhà văn tiểu
tƣ sản: Tính giai cấp của nhà văn có khi không trực tiếp phản ánh lợi ích thiển
cận của giai cấp họ. Muốn nhìn thấy bản chất giai cấp của họ, chúng ta chỉ cần
khảo sát thái độ của những nhà văn đó trƣớc những xung đột thực tiễn xảy ra
có nguy cơ đe dọa toàn bộ sứ mệnh của giai cấp họ. Trên cơ sở đó, C. Mác, Ph.
Ăngghen đã phân tích rằng: trong giai cấp thống trị cũng có sự phân công giữa
lao động vật chất và lao động tinh thần. Vì vậy, trong tác phẩm Hệ tư tưởng
Đức, C. Mác và Ph. Ăngghen đã nhận xét: “Những tƣ tƣởng của giai cấp thống
Quan niệm về tính giai cấp trong văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945 - 1985
Nguyễn Thị Thắm Lớp CHVH
K54
17
trị là những tƣ tƣởng thống trị trong mỗi thời đại, nói cách khác, giai cấp nào là
lực lƣợng vật chất chiếm địa vị thống trị trong xã hội thì cũng là lực lƣợng tinh
thần chiếm địa vị thống trị. Giai cấp nào chi phối những tƣ liệu sản xuất vật
chất thì đồng thời cũng chi phối luôn cả tƣ liệu sản xuất tinh thần, thành thử tƣ
tƣởng của những ngƣời không có tƣ liệu sản xuất tinh thần nói chung bị giai
cấp thống trị chi phối.” [54 ; 48].
Rõ ràng, văn học đã trở thành vũ khí đấu tranh giai cấp giữa các ý thức hệ
khác nhau trong xã hội có giai cấp, trở thành vũ khí sắc bén để tuyên truyền
cho tƣ tƣởng cộng sản, giác ngộ quần chúng nhân dân lao động làm cách
mạng.
Tính giai cấp phải biểu hiện cụ thể trong tác phẩm văn học dƣới nhiều đề
tài, chủ đề rất phong phú, trong đó rất rõ và chủ yếu là trong tƣ tƣởng chủ đề
của tác phẩm. Trong cuộc sống hiện thực muôn màu, muôn vẻ, các nhà văn đã
chọn đề tài nào liên quan đến lập trƣờng, quan điểm giai cấp và quan điểm
thẩm mỹ của họ. Trên cơ sở đó, các nhà văn khi sáng tác dĩ nhiên không thể
“khách quan chủ nghĩa”, khi giải quyết vấn đề mới thực sự lay động tận gốc
đến những tƣ tƣởng tình cảm giai cấp sâu xa, máu thịt của nhà văn. Cuộc đấu
tranh giai cấp đã tác động mạnh mẽ đến tinh thần và những hoạt động của xã
hội. Văn nghệ không những chịu ảnh hƣởng giai cấp mà còn là một công cụ
đấu tranh giai cấp có hiệu lực. Không có một giai cấp nào khi lên nắm chính
quyền mà không chú ý đến hoạt động tinh thần, không khai thác và vận dụng
nó vào trong cuộc đấu tranh về chính trị và đấu tranh để bảo vệ cho khuynh
hƣớng giai cấp mình.
Tuy nhiên, khi khẳng định về mối quan hệ giữa các ý thức hệ giai cấp với
quá trình lao động sáng tạo nghệ thuật, cũng cần tránh khuynh hƣớng lí giải
quá đơn giản và máy móc. Xác định thành phần xuất thân của ngƣời viết và
cho đó là nhân tố quyết định lập trƣờng giai cấp của nhà văn. Làm nhƣ vậy sẽ
dẫn đến việc đánh giá nhà văn không chính xác. Yếu tố quyết định tính giai
cấp trong văn học là lập trƣờng tƣ tƣởng của ngƣời viết và nhân tố này phải thể
hiện trực tiếp trong tác phẩm nghệ thuật. Nhân tố đó với sự tác động trực tiếp
hay gián tiếp nó sẽ quyết định quá trình sáng tác qua những chặng đƣờng lịch
Quan niệm về tính giai cấp trong văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945 - 1985
Nguyễn Thị Thắm Lớp CHVH
K54
18
sử của ngƣời viết.
Trên cơ sở đó, C. Mác - Ph. Ăngghen cho rằng hoạt động của văn học là
một hoạt động có ý thức, gắn liền với tính xã hội, tính giai cấp. Nhà văn thực
chất là ngƣời phát ngôn cho giai cấp mình, là ngƣời nói lên tâm tƣ nguyện
vọng, ý chí và nghị lực của giai cấp trong cuộc đấu tranh vì lợi ích kinh tế và
địa vị xã hội của giai cấp của nhà văn.
Tính giai cấp mà C. Mác - Ph. Ăngghen nêu ra ở trên sau này đã đƣợc VI.
Lênin phát triển hoàn chỉnh hơn và sâu sắc hơn vào trong công cuộc đấu tranh
về kinh tế, chính trị và cả trong lĩnh vực văn học nghệ thuật. Tính giai cấp gắn
bó chặt chẽ với các nguyên lý tính Đảng, tính nhân dân, tính chân thực, đồng
thời nó còn liên quan chặt chẽ đến các vấn đề nội dung, tƣ tƣởng, phƣơng pháp
sáng tác,…
Tác giả Nguyễn Xuân Nam trong cuốn Từ điển Văn học, tập II, Nxb.
Khoa học xã hội, năm 1984 cho rằng: “Tính giai cấp là thuộc tính tất yếu và cơ
bản nhất của văn học trong xã hội có giai cấp. Bản chất giai cấp thể hiện trong
cách sống, tâm lý, tƣ tƣởng tình cảm, lợi ích kinh tế riêng,… của con ngƣời
thuộc các giai tầng, giai cấp xã hội khác nhau. Đặc tính ấy đƣợc phản ánh qua
chủ đề, tƣ tƣởng chủ đề, ngôn ngữ,… trong văn học là tính giai cấp của văn
học. Cũng nhƣ nhà văn về căn bản phải thuộc một giai cấp nhất định thì bất cứ
một tác phẩm, một trào lƣu, một nền văn học nào cũng có tính giai cấp của
nó.” [63 ; 398].
Nhận rõ bản chất xã hội của văn học là một yêu cầu cơ bản của học thuyết
Mác - Lênin về văn học. Học thuyết ấy bác bỏ luận điệu cho rằng văn học
đứng trên giai cấp, đứng ngoài cuộc đấu tranh chính trị của các giai cấp. Có thể
có nhà văn chƣa ý thức rõ rệt về quyền lợi, về địa vị của giai cấp mình, tác
phẩm của họ vẫn mang tính giai cấp, nhƣ M. Gorki đã nói: “Nhà văn là con
mắt, là tiếng nói, là lỗ tai của một giai cấp. Nhà văn có thể không có ý thức, có
thể phủ nhận điều đó. Nhƣng nhà văn không bao giờ và không thể nào thoát
khỏi bộ máy cảm quan của một giai cấp” [24 ; 271]. Khi nhà văn có ý thức sâu
sắc về quyền lợi và địa vị của giai cấp mình, họ công khai và kiên quyết dùng
văn học nhƣ một vũ khí đấu tranh cho sự thắng lợi của một giai cấp. Lúc đó
Quan niệm về tính giai cấp trong văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945 - 1985
Nguyễn Thị Thắm Lớp CHVH
K54
19
tính giai cấp đã phát triển thành tính Đảng. Lênin nói: “Tính đảng nghiêm túc
là ngƣời bạn đƣờng và là kết quả của cuộc đấu tranh giai cấp phát triển đến cao
độ. Và ngƣợc lại, vì mục đích đấu tranh giai cấp công khai và rộng rãi cần phải
phát huy tính đảng nghiêm túc.” [42 ; 104].
Để xác định tính giai cấp của văn học, ta phải xét nhiều mặt, chủ đề, tƣ
tƣởng, ngôn ngữ,… Nhƣng có ý nghĩa quyết định hơn cả là phải xem tƣ tƣởng
tình cảm, lý tƣởng thẩm mỹ toát ra từ nội dung khách quan của tác phẩm thuộc
giai cấp nào. Tính giai cấp biểu hiện ra một cách khác nhau tùy theo phƣơng
pháp sáng tác của nhà văn, tùy theo phong cách và sức mạnh tình cảm giai cấp
của họ. Giữa thành phần giai cấp của nhà văn và tính giai cấp của tác phẩm có
mối quan hệ nhất định. Nhƣng không phải bất kỳ lúc nào, bất kỳ vấn đề nào,
nhà nghệ sĩ cũng phục tùng tâm lý giai cấp mình. Chịu sự tác động của những
quan sát, thể nghiệm trong thực tế cuộc sống, chịu ảnh hƣởng trong phong trào
đấu tranh của nhân dân, nhiều nhà văn vốn gắn bó với những tầng lớp xã hội
có đặc quyền đã vƣợt qua sự chật hẹp trong quan điểm giai cấp của mình.
Những nhà văn vĩ đại của quá khứ nhƣ H. Bandắc, Nguyễn Du, L. Tônxtôi là
“những đứa con phản nghịch” của giai cấp mình, tuy vẫn còn những nét nhất
định của sự hạn chế giai cấp không thể tránh khỏi.
Tính chất giai cấp trong văn học không chỉ bộc lộ khi miêu tả những hiện
tƣợng xã hội, mà còn thể hiện trong những cảm thụ thẩm mỹ đối với cuộc
sống. Những bài thơ ca ngợi thiên nhiên: mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông
cũng đều mang một khuynh hƣớng giai cấp có khi rất kín đáo. Những biện
pháp nghệ thuật bản thân nó không mang tính giai cấp, nhƣng việc vận dụng
những biện pháp nghệ thuật đó trong một tác phẩm cụ thể, các giai cấp thƣờng
theo những dụng ý khác nhau, phụ thuộc quan điểm thẩm mỹ của mình.
Do thực tế đấu tranh giai cấp phức tạp, trong giai cấp lại có nhiều giai
tầng khác nhau; các giai cấp lại không ngừng tác động lẫn nhau, nên tính giai
cấp trong ý thức con ngƣời không thuần nhất. Tính giai cấp trong văn học, do
đó cũng thƣờng không thuần nhất. Có lúc chúng ta phải từ ý nghĩa khách quan
của tác phẩm có lợi cho giai cấp nào trong cuộc đấu tranh xã hội mà suy định
bản chất giai cấp của tác phẩm văn học.
Quan niệm về tính giai cấp trong văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945 - 1985
Nguyễn Thị Thắm Lớp CHVH
K54
20
1.1.3. Vai trò quan niệm tính giai cấp trong hệ thống lí luận văn học
Việt Nam giai đoạn 1945 - 1985
Ở nƣớc ta, từ Đề cương văn hóa năm 1943, đáng chú ý từ cuộc Tranh
luận văn nghệ Việt Bắc năm 1949 và đặc biệt từ cuối những năm 50 trở đi cho
đến tận những năm 80, lí luận văn học thu về một hƣớng thống nhất và trở
thành một thứ lí luận có tính chất nhà nƣớc, chỉ đạo nhất quán từ trên xuống
dƣới, là trụ cột của cuộc đấu tranh ý thức hệ trên lĩnh vực văn học nghệ thuật.
Chƣa bao giờ trong lịch sử nƣớc nhà lí luận văn học đƣợc nâng tầm quan trọng
nhƣ thế, quyền lực nhƣ thế, thống nhất nhƣ thế. Nó trở thành tiêu chí để phê
bình, đánh giá mọi hiện tƣợng văn học trong nƣớc và thế giới. Các khái niệm
nhƣ chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa, tính giai cấp, tính Đảng, tính nhân
dân, tính chân thực, thế giới quan mác xít, vốn sống, lập trƣờng,… đƣợc hiểu
một cách đặc biệt, trở thành tiêu chí giá trị chung của những sáng tác đƣợc suy
tôn là tiên tiến bậc nhất của thời đại.
Trƣớc năm 1954, ở nƣớc ta, lý luận văn học chƣa phải là một bộ môn độc
lập trong nghiên cứu cũng nhƣ giảng dạy, tức là chƣa có một vị trí chính thức
trong số các chuyên ngành của khoa học xã hội và nhân văn trong nhà trƣờng.
Năm 1956, khi nền giáo dục đại học đƣợc mở lại ở Hà Nội, do nhu cầu thiết
yếu của khoa Văn, bộ môn lý luận văn học đƣợc thành lập. Suốt những năm
60, hầu hết sinh viên văn khoa đƣợc biết đến bộ môn lý luận văn học chủ yếu
thông qua cuốn giáo trình của tác giả Nguyễn Lƣơng Ngọc và bộ sách Nguyên
lý lý luận văn học của L. Timofeev. Ở Liên Xô, bộ sách này đƣợc coi là sách
giáo khoa chính thức giảng dạy cho khoa văn các trƣờng đại học tổng hợp và
đại học sƣ phạm. Đƣợc dịch sang tiếng Việt, bộ sách này cùng với cuốn Những
phạm trù mỹ học cơ bản của Viện Hàn lâm khoa học Liên Xô mau chóng là
“kim chỉ nam” cho chúng ta xây dựng những cuốn giáo trình về lý luận văn
học với cùng một kết cấu và những vấn đề cơ bản. Cuốn sách Tính nhân dân,
tính giai cấp và tính Đảng của nghệ thuật của Viện Hàn lâm khoa học Liên
Xô, Viện Triết học - Viện Lịch sử triết học đƣợc xuất bản ở nƣớc ta vào năm
1961. Cuốn sách đã trình bày rất rõ về tính nhân dân và tính giai cấp của nghệ
thuật ở phần thứ hai (cuốn sách đƣợc chia ra làm bốn phần). Trong giáo trình
Quan niệm về tính giai cấp trong văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945 - 1985
Nguyễn Thị Thắm Lớp CHVH
K54
21
này, các nhà lí luận đã khẳng định: “….trong khi nghiên cứu các hiện tƣợng
nghệ thuật theo quan điểm mác xít, thì ắt phải kết luận rằng trong xã hội có giai
cấp, những hiện tƣợng ấy nhất định sẽ mang trong mình dấu vết của các quan
điểm giai cấp. Lịch sử của đời sống xã hội cho thấy rằng từ trƣớc tới nay, nghệ
thuật bao giờ cũng tham gia cuộc đấu tranh giai cấp. Ở một số thời đại, nghệ
thuật có vai trò hết sức to lớn trong cuộc đấu tranh giai cấp [90 ; 39]. Qua việc
khảo sát lịch sử nghệ thuật đã “chứng minh rằng hệ tƣ tƣởng giai cấp biểu hiện
dƣới rất nhiều hình thức ở trong tác phẩm nghệ thuật” [90 ; 37].
Quan niệm về tính giai cấp đã trở thành một trong những nguyên lý vô
cùng quan trọng, không thể thiếu trong hệ thống các bộ giáo trình dùng để
giảng dạy cho sinh viên văn khoa trong các trƣờng đại học. Bộ giáo trình
Những nguyên lý về lý luận văn học, gồm 4 tập do hai tác giả Lê Đình Kỵ và
Hà Minh Đức viết, nhà xuất bản Giáo dục, năm 1962; Bộ giáo trình Cơ sở lý
luận văn học, gồm 4 tập, do tập hợp các tác giả của tổ bộ môn lý luận văn học
các trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội, Vinh và Đại học Tổng hợp viết, nhà xuất
bản Giáo dục, năm 1976, có ghi rõ rằng đây là “sách bồi dƣỡng giáo viên cấp
II và III”, đều đã trình bày những nguyên lý cơ bản về lý luận văn học dựa theo
quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tính giai cấp cũng đƣợc đề cập rất rõ ở
tập I: Phần nguyên lý chung. Quan niệm về tính giai cấp đƣợc trình bày trong
hai bộ sách này vẫn là theo đƣờng hƣớng khẳng định chắc chắn đúng nhƣ theo
quan điểm của lý luận văn học mác xít: “Trong xã hội có giai cấp, văn học bao
giờ cũng thuộc về một giai cấp nhất định, đều mang tính chất giai cấp rõ rệt.”
[86 ; 82]. Bộ giáo trình Cơ sở lý luận văn học do tập thể các nhà nghiên cứu,
giảng dạy văn học của trƣờng Đại học Sƣ phạm I Hà Nội (Nguyễn Lƣơng
Ngọc, Phƣơng Lựu), Đại học Tổng hợp Hà Nội (Lê Đình Kỵ, Hà Minh Đức,
Bùi Ngọc Trác) và Đại học Sƣ phạm Vinh (Lê Bá Hán) biên soạn, nhà xuất bản
Đại học và Trung học chuyên nghiệp, năm 1980 đã xếp tính giai cấp của văn
học trở thành một mục riêng, cùng với tính Đảng của văn học, tính nhân dân
của văn học, tính dân tộc của văn học nằm trong phần “Tính khuynh hƣớng của
văn học”. Xuyên suốt toàn bộ bộ giáo trình, các tác giả đã trình bày một cách
hệ thống toàn bộ các quan điểm lý luận văn học mác xít, quán triệt đúng tƣ
Quan niệm về tính giai cấp trong văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945 - 1985
Nguyễn Thị Thắm Lớp CHVH
K54
22
tƣởng chỉ đạo văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong đó, “tính giai cấp
là thuộc tính tất yếu của văn học trong xã hội phân chia giai cấp” [59 ; 177].
“Tính giai cấp trong văn học không phải là cái gì khác mà chính là tính giai
cấp trong thực tiễn xã hội đƣợc ý thức bằng văn học.” [59 ; 179]. Cùng với
việc chỉ rõ và khẳng định những biểu hiện của tính giai cấp trong văn học qua
tƣ tƣởng, chủ đề tác phẩm, nghệ thuật xây dựng nhân vật, đặc biệt là nhân vật
lý tƣởng, các tác giả của bộ giáo trình cũng đồng thời nêu ra lập trƣờng phê
phán quan điểm siêu giai cấp, đề phòng những cách nhìn giản đơn, máy móc vì
tính giai cấp trong văn học có những biểu hiện phức tạp, cũng không nên quan
niệm tính giai cấp một cách siêu hình, cô lập và tĩnh tại, mà phải thấy chúng
liên đới, phát triển và chuyển hóa. Bộ giáo trình Lí luận văn học do các tác giả
Phƣơng Lựu, Trần Đình Sử, Lê Ngọc Trà biên soạn, nhà xuất bản Giáo dục,
năm 1986, đã đƣợc Hội đồng thẩm định sách của Bộ Giáo dục giới thiệu làm
sách dùng chung cho các trƣờng đại học sƣ phạm. Trong tập I: Nguyên lí tổng
quát, ngoài việc chỉ rõ những biểu hiện của tính giai cấp trong sáng tác văn
nghệ, các tác giả còn chỉ ra ảnh hƣởng của tính giai cấp trong tiếp nhận và
thƣởng thức, đồng thời khẳng định một cách rõ ràng: “Tính giai cấp xuyên
thấm trong cả sáng tác và trong thƣởng thức, cho nên văn học tất yếu sẽ trở
thành vũ khí đấu tranh giai cấp.” [52 ; 112].
Nhận xét về giáo trình lý luận văn học ở nƣớc ta, nhà nghiên cứu Trịnh
Bá Đĩnh bày tỏ: “Kết cấu của chúng thƣờng gồm hai phần: Phần một, các vấn
đề nguyên lý chung (tính Đảng, tính nhân dân, tính giai cấp, bản chất và chức
năng của văn học và nghệ thuật,…) là sự vay mƣợn từ cuốn Nguyên lý mĩ học
Mác - Lênin. Phần hai đi sâu vào đặc tính của văn học (văn học và hiện thực,
hình tƣợng văn học, nội dung và hình thức, kết cấu và ngôn ngữ,…) là sự tham
khảo rõ ràng cuốn Nguyên lý lý luận văn học.” [18 ; 486]. Và điều đáng nói,
cho đến nay, qua một thời gian khá dài phát triển, mô hình giáo trình lý luận
văn học nhƣ trên, về căn bản, vẫn chƣa có sự thay đổi.
Lý luận, phê bình văn học giai đoạn 1945 - 1985 ở nƣớc ta, trƣớc những
yêu cầu của hiện thực cách mạng và những quy định của phƣơng pháp sáng tác
hiện thực xã hội chủ nghĩa đã có những dấu ấn và tác động quan trọng đối với
Quan niệm về tính giai cấp trong văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945 - 1985
Nguyễn Thị Thắm Lớp CHVH
K54
23
hệ thống tác phẩm văn học nói riêng và toàn bộ nền văn học cách mạng Việt
Nam giai đoạn này nói chung. Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi chỉ
xin đƣợc đề cập chủ yếu đến cuốn sách Nhà văn Việt Nam (1945 - 1975) của
hai tác giả Phan Cự Đệ và Hà Minh Đức, Nxb. Đại học và Trung học chuyên
nghiệp năm 1979. Đây là một cuốn sách lý luận, phê bình văn học vô cùng
quan trọng, có tính chất tổng kết cả nền văn học cách mạng từ 1945 - 1975,
đƣợc sử dụng nhƣ là sách tham khảo cơ bản trong khoa ngữ văn tại các trƣờng
đại học ở nƣớc ta trong một thời gian dài, và đến tận bây giờ vẫn đƣợc coi là
một cuốn sách tham khảo cần thiết cho sinh viên học chuyên ngành văn học.
Có thể khẳng định rằng, những nguyên lý của lý luận văn học mác xít, trong đó
có nguyên lý về tính giai cấp đã đƣợc thể hiện hết sức rõ ràng qua phƣơng
pháp nghiên cứu của các tác giả trong cuốn sách này. Kết cấu của cuốn sách
đƣợc phân chia theo các thể loại: ngoài phần “Lời tựa” của Hoàng Trung
Thông, “Lời nói đầu” của nhóm biên soạn, cuốn sách bao gồm 6 phần chính: 1)
Về một nền văn xuôi cách mạng ba mƣơi năm qua 1945 - 1975 (Phan Cự Đệ
viết); 2) Ba mƣơi năm phát triển của thơ ca cách mạng 1945 - 1975 (Hà Minh
Đức viết); 3) Những chặng đƣờng phát triển của nghệ thuật sân khấu cách
mạng ba mƣơi năm qua 1945 - 1975 (Hà Minh Đức viết); 4) Về một nền lý
luận, phê bình, nghiên cứu văn học theo quan điểm mác xít ba mƣơi năm qua
1945 - 1975 (Phan Cự Đệ viết); 5) Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngƣời đặt nền móng
và sáng tạo tinh hoa cho nền văn học cách mạng thời kỳ hiện đại (Hà Minh
Đức viết). Phần cuối cùng là những trình bày của hai tác giả cuốn sách về các
nhà văn, nhà thơ, nhà lý luận, phê bình văn học, nhà hoạt động văn nghệ có vai
trò quan trọng trong giai đoạn văn học cách mạng này: Trƣờng Chinh, Tố Hữu,
Đặng Thai Mai, Tú Mỡ, Huy Cận, Hoài Thanh, Nguyễn Huy Tƣởng, Xuân
Diệu, Nhƣ Phong, Chế Lan Viên, Tô Hoài, Nguyễn Đình Thi.
1.2. Quán triệt quan điểm giai cấp trong đường lối văn nghệ của
Đảng Cộng sản Việt Nam
1.2.1. Văn học chịu sự lãnh đạo trực tiếp, tuyệt đối, toàn diện của Đảng
Cộng sản Việt Nam
Từ hai khái niệm về giai cấp và tính giai cấp trong văn học nói trên,
Quan niệm về tính giai cấp trong văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945 - 1985
Nguyễn Thị Thắm Lớp CHVH
K54
24
chúng ta đã có đƣợc một cơ sở lý luận vững chắc cho vấn đề đang nghiên cứu.
Rõ ràng, văn học cách mạng Việt Nam 1945 - 1985 là nền văn học theo quan
điểm mĩ học của chủ nghĩa Mác - Lênin, chịu sự lãnh đạo chặt chẽ của Đảng
Cộng sản Việt Nam về phƣơng diện tƣ tƣởng và tổ chức.
Hệ thống những quan điểm, tƣ tƣởng và lý luận (đƣợc trình bày trong các
văn kiện chính thức của Đảng đã xuất bản, trong các lời phát biểu của Hồ Chí
Minh và các vị lãnh đạo cao cấp của Đảng, trong các Nghị quyết và chỉ thị của
Trung ƣơng và Chính phủ về công tác văn hóa văn nghệ) đã khai sinh ra nền
văn nghệ cách mạng và những ý kiến của các nhà lý luận văn nghệ đã chứng tỏ
đƣợc vị trí của nguyên tắc về tính giai cấp trong văn học nghệ thuật cách mạng
Việt Nam thời kỳ này.
Đề cương văn hóa Việt Nam (năm 1943) ra đời sau khi Mặt trận Việt
Minh đƣợc thành lập, chiến khu Việt Bắc đã trở thành trung tâm đầu não của
cách mạng Việt Nam. Một không khí giải phóng dân tộc do Đảng lãnh đạo
đang sôi sục trong lòng đại chúng khắp Bắc, Trung, Nam. Trong tình hình ấy,
đề cƣơng văn hóa đƣợc công bố rất phù hợp với thực tiễn cách mạng, với
nguyện vọng của quần chúng. Đề cƣơng nêu lên 3 nguyên tắc vận động cách
mạng trên mặt trận văn hóa và yêu cầu 3 nguyên tắc này luôn luôn phải thống
nhất với nhau: “Dân tộc hóa (chống mọi ảnh hƣởng nô dịch và thuộc địa khiến
cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập); Đại chúng hóa (chống mọi chủ
trƣơng hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông
đảo quần chúng); Khoa học hóa (chống lại tất cả những gì làm cho văn hóa trái
khoa học, phản tiến bộ” [58 ; 140]. Bao trùm lên ba nguyên tắc không thể tách
rời ấy là một nguyên tắc đặc biệt quan trọng đƣợc nhắc lại nhiều lần trong nội
dung đề cƣơng - đó là sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, đứng trên lập trƣờng của
giai cấp công nhân, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin làm tƣ tƣởng. Rõ ràng, đề
cƣơng văn hóa đã chỉ rõ và khẳng định con đƣờng vận động của văn hóa Việt
Nam nói chung, văn học Việt Nam nói riêng là phải hƣớng tới đông đảo quần
chúng lao động và phải tuân thủ đƣờng lối văn nghệ của Đảng của giai cấp
công nhân.
Quan niệm về tính giai cấp trong văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945 - 1985
Nguyễn Thị Thắm Lớp CHVH
K54
25
Năm 1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, một phong trào văn hóa
hóa kháng chiến và kháng chiến hóa văn hóa dƣới sự lãnh đạo của Đảng, thực
chất là sự mở rộng Đề cương văn hóa Việt Nam trong hoàn cảnh mới. Trƣớc
tình hình đó, Đảng đã mở hội nghị giáo dục và đặc biệt là hội nghị văn hóa
toàn quốc lần thứ hai: lần đầu tiên nêu lên một cách hệ thống, toàn diện các
quan niệm về văn hóa và phát triển văn hóa theo lập trƣờng mác xít của Đảng.
Tháng 7 năm 1948, Tổng Bí thƣ Đảng Cộng sản lúc đó là đồng chí Trƣờng
Chinh đã trình bày một cƣơng lĩnh văn hóa quan trọng: Chủ nghĩa Mác và văn
hóa Việt Nam. Nội dung của cƣơng lĩnh này ngoài phần mở đầu và kết luận,
đƣợc chia thành 7 phần. Phần I: Văn hóa và xã hội; Phần II: Lập trƣờng văn
hóa mác xít; Phần III: Văn hóa Việt Nam xƣa và nay; Phần IV: Tính chất và
nhiệm vụ của văn hóa dân chủ mới Việt Nam; Phần V: Mặt trận văn hóa thống
nhất trong mặt trận thống nhất; Phần VI: Văn hóa Việt Nam trong mặt trận văn
hóa dân chủ thế giới; Phần VII: Mấy vấn đề cụ thể trong văn học nghệ thuật ở
nƣớc ta hiện nay. Ngay ở phần I, cƣơng lĩnh đã chỉ rõ tính giai cấp của văn
hóa: “văn hóa thống trị của một xã hội là văn hóa của giai cấp thống trị trong
xã hội ấy…”; vai trò của văn hóa trong đấu tranh giai cấp, đấu tranh cách
mạng: “Cuộc đấu tranh giữa những lực lƣợng cần đƣợc giải phóng với khuôn
khổ kinh tế chính trị của xã hội cũ thoạt tiên hiện ra dƣới hình thức đấu tranh
về tƣ tƣởng… Lúc đó học thuyết cách mạng, văn học cách mạng có hiệu lực
giác ngộ, động viên, tổ chức quần chúng nhân dân, đƣa quần chúng lên hàng
ngũ cách mạng… đứng dậy làm cách mạng, đánh đổ giai cấp áp bức, bóc
lột…”. Đồng thời, cƣơng lĩnh cũng tuyên bố rõ lập trƣờng văn hóa của Đảng,
lập trƣờng văn hóa mác xít: “…về xã hội, lấy giai cấp công nhân làm gốc; về
chính trị, lấy độc lập dân tộc dân chủ nhân dân và chủ nghĩa xã hội làm gốc; về
tƣ tƣởng, lấy học thuyết duy vật biện chứng và duy vật lịch sử làm gốc; về
sáng tác văn nghệ, lấy chủ nghĩa hiện thực xã hội chủ nghĩa làm gốc…” [58 ;
156].
Là sự tiếp tục mở rộng từ Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943, Chủ
Quan niệm về tính giai cấp trong văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945 - 1985
Nguyễn Thị Thắm Lớp CHVH
K54
26
nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam đã nhấn mạnh hơn đến tính chính trị, tính tƣ
tƣởng, tính giai cấp của văn nghệ, khẳng định vai trò to lớn của văn hóa văn
nghệ trong công tác vận động quần chúng.
Trong các bức thƣ của Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng Lao động Việt
Nam gửi Đại hội Văn nghệ toàn quốc lần thứ hai (20/2/1957), lần thứ ba
(26/11/1962), lần thứ tƣ (22/1/1968) đều có sự phân tích diễn biến tình hình
cách mạng và ảnh hƣởng của nó đối với văn nghệ. Trong đó, việc xác định
đƣờng lối vận động, phát triển của văn nghệ cách mạng luôn đƣợc định hƣớng
theo ngọn cờ dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội: “Nền văn nghệ mới ở miền
Bắc chúng ta trong giai đoạn này phải là một nền văn nghệ xã hội chủ nghĩa về
nội dung và dân tộc về hình thức.”
Xuất phát từ quan điểm quần chúng lao động là ngƣời sáng tạo ra lịch sử,
chúng ta chủ trƣơng “văn nghệ phục vụ nhân dân, chủ yếu là phục vụ công
nông binh.” [58 ; 12]. Do vậy, phƣơng pháp sáng tác “độc quyền” đó chính là
phƣơng pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa; các tác phẩm “có ích” cho sự nghiệp
cách mạng đƣợc xuất bản rộng rãi và tất cả những ngƣời công tác văn nghệ yêu
nƣớc và tiến bộ nên đoàn kết nhất trí trong một mặt trận rộng rãi và chặt chẽ
dƣới sự lãnh đạo của Đảng. Phân tích những thiếu sót còn tồn tại trong nền văn
nghệ cách mạng, trong thƣ của Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng Lao động
Việt Nam gửi Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ ba đã khẳng định: “Nhiều tác
phẩm văn nghệ chƣa có tính Đảng rõ rệt” [58 ; 23]. Do đó, nhiệm vụ mà đại
hội đề ra đó là: “Phát triển nền văn nghệ mới với nội dung xã hội chủ nghĩa và
tính chất dân tộc, có tính Đảng và tính nhân dân sâu sắc. Nắm vững phƣơng
pháp hiện thực xã hội chủ nghĩa, phấn đấu để có thêm nhiều tác phẩm phản ánh
chân thật cuộc sống mới, con ngƣời mới, góp phần giáo dục và động viên nhân
dân đấu tranh cho cách mạng xã hội chủ nghĩa và cho sự nghiệp thống nhất
nƣớc nhà.” [58 ; 25]. “Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội là những đề tài cao đẹp
nhất của văn học nghệ thuật nƣớc ta” và đáp ứng đƣợc đòi hỏi của nhân dân về
những tác phẩm văn nghệ: “nêu cao lý tƣởng của Đảng và soi sáng phƣơng
hƣớng đấu tranh của giai cấp công nhân và của dân tộc ta” [58 ; 36] là phƣơng
Quan niệm về tính giai cấp trong văn học cách mạng Việt Nam giai đoạn 1945 - 1985
Nguyễn Thị Thắm Lớp CHVH
K54
27
hƣớng chỉ đạo văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Nam trong đại hội văn nghệ
toàn quốc lần thứ tƣ.
Quan niệm về tính giai cấp của nền văn học cách mạng Việt Nam cũng đã
đƣợc đề cập đến một cách sinh động qua ý kiến của các vị lãnh đạo và các nhà
lý luận văn nghệ nƣớc ta trong giai đoạn này.
Với tƣ cách là một vị chủ tịch nƣớc, giữ vai trò có tính chất chỉ đạo
đƣờng lối văn hóa văn nghệ, nhƣng bằng lối viết sinh động và mộc mạc, Hồ
Chí Minh đã đƣa ra những quan niệm về văn nghệ rất hiện thực mà lại rất dễ
tiếp thu. Trong Thư gửi các họa sĩ nhân dịp Triển lãm hội họa 1951, Ngƣời
khẳng định: “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ
trên mặt trận ấy” [58 ; 67]. Quan niệm về tính chính trị trong văn học cũng
đƣợc Ngƣời đề cập đến một cách sâu sắc:
“Chắc có ngƣời nghĩ: Cụ Hồ đƣa nghệ thuật vào chính trị.
Đúng lắm. Văn hóa, nghệ thuật cũng nhƣ mọi hoạt động khác, không thể
đứng ngoài, mà phải ở trong kinh tế và chính trị.” [58 ; 68].
Tƣ tƣởng văn học là vũ khí đấu tranh giai cấp thể hiện rõ trong tập thơ
Nhật kí trong tù của Bác, đặc biệt trong bài thơ nổi tiếng Cảm tưởng đọc Thiên
gia thi:
“Thơ xƣa yêu cảnh thiên nhiên đẹp,
Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông.
Nay ở trong thơ nên có thép,
Nhà thơ cũng phải biết xung phong”.
Rõ ràng, Ngƣời quan niệm thơ ngày nay trƣớc hết phải có chất cách
mạng, có tính chiến đấu, thể hiện tinh thần của ngƣời chiến sĩ cách mạng. Chữ
“thép” chỉ xuất hiện một lần trong tập thơ nhƣng trong Nhật kí trong tù bài nào
cũng có “thép”, câu nào cũng có “thép”. Nhà thơ Quách Mạt Nhƣợc (Trung
Quốc) đã nhận định nhƣ vậy. Trƣờng Chinh cũng nói trong thơ Hồ Chủ tịch
đều mang chất thép, đều toát ra tƣ tƣởng và tình cảm của một chiến sĩ vĩ đại.
Trong tập “nhật ký bằng thơ” này, một mặt ta thấy có những bài trực tiếp nói