Tải bản đầy đủ (.pdf) (157 trang)

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan trước Cách mạng Tháng 8 năm 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.66 MB, 157 trang )

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

1
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
***



HÀ MỸ HẠNH



NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN CÔNG HOAN TRƯỚC CÁCH MẠNG
THÁNG 8 NĂM 1945



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN





HÀ NỘI – 2009
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

2
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


***


HÀ MỸ HẠNH


NGHỆ THUẬT TỰ SỰ TRONG TRUYỆN NGẮN
NGUYỄN CÔNG HOAN TRƯỚC CÁCH MẠNG
THÁNG 8 NĂM 1945

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số : 60 22 34


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Người hướng dẫn: PGS.TS Hà Văn Đức




HÀ NỘI - 2009
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

3
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU………………………………………………………………… 3
1. Lý do chọn đề tài………………………………………………………. 3
2. Lịch sử vấn đề………………………………………………………… 5
3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu…………………………. 6

4. Phƣơng pháp nghiên cứu……………………………………………….11
5. Cấu trúc của luận văn…………………………………………………. 12
NỘI DUNG……………………………………………………………… 13
Chƣơng 1. Ngƣời kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan
trƣớc Cách mạng ………………… ………………………………… 13
1.1. Điểm nhìn tự sự ……………………………………………………14
1.1.1. Điểm nhìn khách quan…………………………………………… 15
1.1.2. Điểm nhìn chủ quan……………………………………………… 21
1.1.3. Di chuyển điểm nhìn……………………………………………….25
1.2. Vai trò ngƣời kể chuyện………………………………………… 27
1.2.1. Người kể chuyện trong sứ mệnh tạo ra mạch tự sự………………28
1.2.2. Người kể chuyện mang tiếng nói, quan điểm của tác giả
về cuộc sống, con người và nghệ thuật ………………………………… 33
Chƣơng 2. Không gian - Thời gian tự sự trong truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan trƣớc Cách mạng ………………………………….36
2.1. Không gian tự sự…………………………………………………….37
2.1.1. Không gian sinh hoạt đời thường – Bối cảnh hoạt động
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

4
của nhân vật……………………………………………………………….38
2.1.2. Không gian hạn hẹp, chật chội, cố định……………………………41
2.1.3. Không gian tương đồng với cảnh ngộ của nhân vật ………………46
2.2. Thời gian tự sự……………………………………………………… 52
2.2.1. Hiện tại – quá khứ trong thời gian tự sự……………………………53
2.2.2. Khoảng thời gian ngắn, hạn hẹp……………………………………64
2.2.3. Nhịp điệu trần thuật nhanh……………………………………… 66
Chƣơng 3. Ngôn ngữ tự sự và giọng điệu tự sự trong truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan trƣớc Cách mạng ………………….……………….72
3.1. Ngôn ngữ tự sự……………………………………………………… 73

3.1.1. Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan đánh dấu sự trưởng thành
và hoàn thiện của ngôn ngữ văn xuôi quốc ngữ………………………….73
3.1.2. Sự sinh động, phong phú, gần gũi với ngôn ngữ đời sống……… 75
3.1.3. Ngôn ngữ nhân vật đặc trưng……………………………………….80
3.2. Giọng điệu tự sự……………………………………………………….85
3.2.1. Tính phức điệu hóa………………………………………………… 86
3.2.2. Các kiểu giọng điệu………………………………………………….89
KẾT LUẬN…………………………………………………………………95
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………………99
PHỤLỤC………………………………………………………………… 105
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

5
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chỉ trong khoảng mười lăm năm, dòng văn học hiện thực Việt Nam
1930 - 1945 đã đạt được những thành tựu hết sức to lớn, bền vững. Trên hành
trình đưa văn chương nước nhà từ trung đại sang hiện đại vào nửa đầu thế kỉ
XX, dòng văn học hiện thực là một khâu đột phá, đã thực sự góp phần làm
vinh dự, làm vẻ vang không chỉ cho nền văn học dân tộc nói riêng mà cả cho
diện mạo văn hoá Việt Nam nói chung.
Song, nói đến văn học hiện thực Việt Nam 1930 - 1945, không thể
không nhắc tới Nguyễn Công Hoan, bởi ông chính là người đã đặt những viên
gạch đầu tiên xây đắp nền móng cho dòng văn học ấy. Như nhà nghiên cứu
Phan Cự Đệ nhận xét: “Nguyễn Công Hoan thuộc lớp nhà văn những năm 20
đầu thế kỉ, lớp người đang mò mẫm, tìm đường, khai phá. Công lao của ông
là giữa những con đường đan nhau ở các ngã ba, ngã tư, nơi mà những người
cầm bút còn đang phân vân, thậm chí có thể lạc lối giữa những nguồn ảnh
hưởng phức tạp, cũ mới tốt xấu lẫn lộn, ông đã chọn con đường đi về phía
truyền thống dân tộc, về phía quần chúng bị áp bức, con đường của chủ nghĩa

hiện thực phê phán Việt Nam” [26,175].
Là người xuất hiện sớm nhất và có ảnh hưởng to lớn trong dòng văn
học Việt Nam hiện đại, với những thành tựu xuất sắc đã đạt được trước Cách
mạng tháng 8 (hơn 200 truyện ngắn và hơn 20 truyện dài), Nguyễn Công
Hoan xứng đáng là một nhà văn lớn, tiêu biểu cho nền văn học hiện thực phê
phán Việt Nam.
Dẫu viết nhiều thể loại, Nguyễn Công Hoan vẫn chủ yếu thành công
nhất ở truyện ngắn. Và chính ở địa hạt của thể loại này, Nguyễn Công Hoan
đã có được một vị trí đặc biệt trong lịch sử văn học Việt Nam, một phong
cách nghệ thuật độc đáo trong truyện ngắn trào phúng khó ai có thể vượt qua.
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

6
Vì vậy, luận văn đặt vấn đề: nghiên cứu nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan trước cách mạng từ góc độ tự sự học, nhằm lý giải sức
sống và sự hấp dẫn, mới mẻ của truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, từ những
thành tố tạo nên cấu trúc nội tại của một truyện kể.
Tìm hiểu nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, luận
văn góp phần nhận thức sâu sắc về khái niệm tự sự học và nghệ thuật tự sự
trong truyện ngắn – là một trong những hướng nghiên cứu quan trọng nhằm
giải mã cấu trúc nghệ thuật của truyện kể.
Tìm hiểu khái niệm tự sự học, vận dụng trong nghiên cứu truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan trước Cách mạng, những kết quả thu được từ luận văn
cũng góp phần hữu ích trong việc phê bình và giảng dạy văn học nói chung và
truyện ngắn Nguyễn Công Hoan nói riêng.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Giới thuyết khái niệm tự sự học
2.1.1. Quan niệm tự sự học
Tự sự học là một ngành nghiên cứu được định hình từ những năm 60 –
70 của thế kỉ XX ở Pháp, nhưng đã nhanh chóng vượt qua biên giới, trở thành

một trong những lĩnh vực học thuật được quan tâm phổ biến trên thế giới.
Bước sang thế kỉ XXI, thi pháp tự sự đã có những đổi thay đáng kinh
ngạc, có thể nói là tự sự học đã phục hưng, từ giai đoạn kinh điển của chủ
nghĩa cấu trúc bước sang giai đoạn hậu kinh điển. Tự sự học hậu kinh điển chỉ
coi tự sự học kinh điển như một khoảnh khắc quan trọng của mình, bởi vì nó
còn hấp thu nhiều phương pháp luận và giả thiết nghiên cứu mới, mở ra nhiều
cách nhìn mới về hình thức và chức năng tự sự. Hơn nữa, giai đoạn tự sự học
hậu kinh điển không chỉ phơi bày những hạn chế của mô hình tự sự học cấu
trúc chủ nghĩa cũ, mà còn lợi dụng các khả năng của chúng, đánh giá lại các
phạm vi ứng dụng của chúng.
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

7
Như vậy, nhìn lại quá trình hình thành tự tự học đến nay có thể nhận
thấy những đổi thay hệ hình lí thuyết, các tầng bậc và phương pháp nghiên
cứu tự sự.
Hệ hình tự sự học kinh điển tập trung nghiên cứu cấu trúc của truyện,
mối quan hệ của các sự kiện tạo nên truyện. Tz. Todorov định nghĩa: “Tự sự
học là lí luận về cấu trúc của tự sự. Để phát hiện cấu trúc và miêu tả cấu trúc
ấy, người nghiên cứu tự sự đem hiện tượng tự sự chia thành các bộ phận hợp
thành, sau đó cố gắng xác định chức năng và mối quan hệ qua lại của chúng”
[71, 9]. Giai đoạn phát triển tiếp theo, tự sự học kinh điển chú ý nghiên cứu
diễn ngôn tự sự, tức là ngôn ngữ trần thuật và các yếu tố tạo nên nó: người kể,
hành động kể, ngôi kể, điểm nhìn, giọng điệu, thời gian…mà đại diện tiêu
biểu là Todorov (hậu kì), G. Genette, S. Chatman, G. Prince. Nhờ đó, lí thuyết
tự sự cấu trúc chủ nghĩa đã cung cấp một hệ thống các khái niệm công cụ rất
có hiệu quả để phân tích diễn ngôn tự sự và đó là một di sản vô giá để đọc
hiểu văn bản tự sự.
Song, tự sự học hậu kinh điển xuất hiện tiếp đó như một hướng nghiên
cứu mở, mở ra với người đọc, với ngữ cảnh và mở ra với các lĩnh vực tự sự

ngoài văn học.
Nhà nghiên cứu Hà Lan Mieke Bal đã kết hợp nghiên cứu cấu trúc
chuyện với văn bản và định nghĩa khác hẳn Todorov: “Tự sự học là lí luận về
trần thuật, văn bản trần thuật, hình tượng, hình ảnh sự vật, sự kiện cùng sản
phẩm văn hóa kể chuyện” [71, 12]. M. Bal chia tự sự làm ba tầng bậc: văn
bản trần thuật (narrative text), chuyện kể (story), chất liệu (fabula), mỗi tầng
lại có các khái niệm hạt nhân. Công trình của M. Bal đã cung cấp một hệ
thống khái niệm được định nghĩa khá chính xác, chặt chẽ và hệ thống, có thể
làm cơ sở cho các công trình nghiên cứu tự sự.
Tự sự học hậu kinh điển còn quan tâm đến mối quan hệ giữa tự sự và
tiếp nhận, các quy luật động trong tự sự, mở rộng phạm vi liên ngành của tự
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

8
sự học (như nghiên cứu tự sự học tâm lí, tự sự học lịch sử, tự sự học pháp
luật, tự sự học tu từ, tự sự học hậu hiện đại, …), phương tiện kể, hay các
khuynh hướng mới trong tự sự học khác như tự sự học so sánh, tự sự học văn
hóa học… Vì vậy, đến nay, tự sự học vẫn nhận được sự hưởng ứng rộng rãi
của giới nghiên cứu trên phạm vi toàn thế giới.
2.1.2. Tự sự học trong nghiên cứu phê bình văn học Việt Nam
Tự sự học là câu chuyện đã qua cách đây gần nửa thế kỉ ở Pháp. Các
tác giả xuất sắc của trường phái này đã chuyển hướng nghiên cứu. Cụ thể,
Todorov đã chuyển sang nghiên cứu đạo đức và mĩ học. Song, không phải vì
“tính lịch sử” mà chúng ta phủ nhận tầm quan trọng của tự sự học trong tình
hình lí luận văn học hiện nay ở Việt Nam.
Lí thuyết tự sự học gắn liền với nhiều vấn đề quan trọng của bản chất
văn chương, vì vậy nó có khả năng thích ứng với mọi thời đại. Hơn nữa, mỗi
dân tộc có một đặc thù riêng trong tiến trình lịch sử văn học. Ở Việt Nam,
trong những năm gần đây, chúng ta đã chiếm lĩnh được những vấn đề cơ bản
của phân môn Tự sự học. Tự sự học đã trở thành một làn sóng, một khuynh

hướng nghiên cứu trong các trường đại học. Hội thảo Tự sự học năm 2001 tại
Đại học sư phạm Hà Nội và việc xuất bản tập công trình tuyển chọn Tự sự
học, một số vấn đề lí luận và lịch sử (Trần Đình Sử chủ biên) đã đánh dấu
một bước khởi đầu mới trong nghiên cứu tự sự học tại Việt Nam. Năm 2007,
tiếp tục hội thảo về Tự sự học, GS. Trần Đình Sử đã tuyển chọn và cho ra đời
công trình Tự sự học, một số vấn đề lí luận và lịch sử - Phần 2, khẳng định vị
trí của Tự sự học. Nhiều công trình khoa học đã mang lại những kết quả bất
ngờ, nhờ vận dụng lí thuyết tự sự vào việc nghiên cứu các hiện tượng văn học
cụ thể.
Đồng thời, xuất hiện một số bài viết nghiên cứu, công trình dịch thuật
các công trình của các tác giả trên thế giới như Roland Barthes, Hayden
White, G. Genete, Mieke Bal Trong đó, tuy chưa thật nhiều các công trình
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

9
trình bày có hệ thống hoặc cụ thể cặn kẽ các tư tưởng tự sự học nước ngoài,
song đó chính là những tư liệu tham khảo về cơ sở lí luận đáng quí đối với
người nghiên cứu.
Hơn nữa, để các khái niệm tự sự học không trở nên xơ cứng, các nhà
nghiên cứu đã kết hợp ba khuynh hướng nghiên cứu: Thi pháp học, Cấu trúc
học, và Tự sự học. Đối tượng của tự sự học ngày nay không chỉ là ngữ pháp
tự sự nói chung mà còn là thi pháp tự sự của các tác phẩm cụ thể, ngôn ngữ tự
sự của các thể loại tự sự, các loại hình tự sự, mô hình tự sự của các giai đoạn
phát triển văn học, sự tiếp nhận tự sự và cách tác động đến người đọc của tự
sự. Đó cũng là định hướng nghiên cứu linh hoạt, sáng tạo giúp chúng ta tìm
hiểu thêm về các bí ẩn của nghệ thuật tự sự trong các tác phẩm văn học của
dân tộc Việt Nam.
Quan niệm của GS. Trần Đình Sử đưa ra trong công trình Tự sự học,
một số vấn đề lí luận và lịch sử (2004) được coi là tương đối xác đáng về Tự
sự học: “Tự sự học vốn là một nhánh của thi pháp học hiện đại nghiên cứu

cấu trúc của văn bản tự sự và các vấn đề có liên quan” [70, 11]. Tác giả phân
biệt “cấu trúc lời văn” và “cấu trúc sự kiện”, từ đó phân biệt giữa “kể cái gì”
và “kể như thế nào”, để làm nổi bật vai trò của chủ thể trần thuật. Như vậy,
bản chất của tự sự là hướng tới cách đọc của độc giả. Quan niệm tự sự vì thế
không tách rời ký hiệu học, lí thuyết giao tiếp và tiếp nhận.
Như vậy, trên cơ sở những lí luận về tự sự học, người viết triển khai luận
văn theo hướng chú trọng cả cấu trúc sự kiện (kể cái gì) và cấu trúc lời văn (kể
như thế nào) qua hình tượng người kể chuyện, không gian – thời gian, ngôn
ngữ - giọng điệu trong các truyện ngắn Nguyễn Công Hoan được khảo sát.
2.2. Về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan
Kể từ ý kiến phê bình đầu tiên của Trúc Hà đăng trên báo Nam Phong
tháng 7 năm 1932 đến nay, lịch sử nghiên cứu về Nguyễn Công Hoan và các
tác phẩm của ông đã qua những 80 năm. Trong suốt thời gian dài đó đã có
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

10
biết bao bài báo, trang sách viết về nhà văn, về từng tác phẩm, từng vấn đề
Nhất là kể từ sau năm 1954 đến nay, hoạt động nghiên cứu đặc biệt trở nên
sôi nổi với nhiều con đường tiếp cận, nhiều phương pháp luận khác nhau
Cùng với vấn đề Nguyễn Công Hoan, có thể lược chia lịch sử nghiên
cứu về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan qua các giai
đoạn:
2.2.1. Giai đoạn trước Cách mạng
Đây là thời kì việc nghiên cứu, phê bình văn học diễn ra gần như song
hành với hoạt động sáng tạo của nhà văn; khi “độ lùi thời gian” của nghiên
cứu và phê bình so với tác giả và tác phẩm còn rất ngắn ngủi, do vậy những
đánh giá về nhà văn và tác phẩm có những hạn chế nhất định. Có những ý
kiến đánh giá khen - chê chưa được thống nhất.
Song, chính tính chất “đồng hành, đối thoại” trong sinh hoạt học thuật
và sáng tạo của giai đoạn này đã mang lại những kết quả đáng chú ý. Hầu hết

các nhà nghiên cứu đều nhận thấy ở Nguyễn Công Hoan một nhà văn tiêu
biểu của chủ nghĩa hiện thực phê phán Việt Nam. Từ góc độ nghệ thuật, các
nhà nghiên cứu cũng nhận xét về một khía cạnh nào đó trong nghệ thuật tự sự
Nguyễn Công Hoan.
Chẳng hạn, ngay từ đầu những năm ba mươi của thế kỉ XX, các nhà
báo và nhà phê bình văn học đã sớm nhận ra “một ngọn bút mới” Nguyễn
Công Hoan. Trên tạp chí Nam Phong tháng 7 năm 1932, khi Lược khảo về sự
tiến hoá của quốc văn trong lối viết của tiểu thuyết, nghĩa là đặt văn chương
của Nguyễn Công Hoan trong quan hệ với văn học đương thời, Trúc Hà nhận
thấy văn xuôi Nguyễn Công Hoan “không réo rắt như một cung đàn, không
nhẹ nhàng như một bài thơ, không man mác như gió thổi mặt nước”giống các
nhà văn, nhà thơ lúc bấy giờ, mà “văn có cái hay, rõ ràng, sáng sủa, thiết thực,
hơi văn nhanh và gọn. Lời văn hàm một giọng trào phúng” [26, 47].
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

11
Rồi tháng 6 năm 1935, ngay sau khi tập truyện ngắn Kép Tư Bền ra đời,
rất nhiều nhà phê bình đã lên tiếng khen ngợi nội dung tiến bộ và nghệ thuật
đặc sắc của tập truyện. Đặc biệt cuộc bút chiến giữa hai phái “nghệ thuật vị
nghệ thuật” và “nghệ thuật vị nhân sinh” vừa dịu xuống lại nhân sự ra đời của
tập truyện này mà bùng lên. Và kết quả là tác giả tập truyện vẫn được hoan
nghênh nhất. Đối với nhà văn, những lời khen từ bạn bè, độc giả và các nhà
phê bình lúc này đã tiếp thêm nguồn lực giúp nhà văn say mê theo đuổi
nghiệp văn.
Trong cuốn Nhà văn hiện đại (1944), nhà phê bình văn học Vũ Ngọc
Phan nhận xét: “Nguyễn Công Hoan sở trường về truyện ngắn hơn truyện
dài… ở truyện ngắn, ông tỏ ra là một người kể chuyện rất có duyên. Phần
nhiều truyện ngắn của ông linh động lại có nhiều cái bất ngờ, làm cho người
đọc khoái trá vô cùng”. Vũ Ngọc Phan cũng ca ngợi: “Trong luôn mười năm
nay, ngòi bút tả chân của ông vẫn giữ nguyên tính chất tả chân và lối văn của

ông viết vẫn nguyên một lối văn bình dị” [26, 72].
Tuy nhiên, giai đoạn này, các nhà nghiên cứu chủ yếu hướng đến cách
tiếp cận xã hội học, đánh giá cao ý nghĩa xã hội của truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan, ít chú ý đến nghệ thuật tự sự.
2.2.2. Giai đoạn sau Cách mạng
Sau Cách mạng, công tác nghiên cứu phê bình văn học đã có một bước
phát triển mới. Không chỉ quan tâm đến hướng tiếp cận xã hội học, các nhà
nghiên cứu chú ý nhiều đến cách tiếp cận theo phong cách học, tiếp cận thi
pháp học.
Sự nghiệp văn học của Nguyễn Công Hoan từ đó, được đánh giá xác
đáng hơn. Ngày càng nhiều hơn những công trình nghiên cứu về tác giả
Nguyễn Công Hoan và tác phẩm của ông, nhất là về thể loại truyện ngắn. Các
nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục tìm hiểu về Nguyễn Công Hoan như là một nhà
văn trào phúng hay một nhà văn tiêu biểu của chủ nghĩa hiện thực phê phán.
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

12
(Ví dụ: nghiên cứu của Trương Chính trong Lược thảo lịch sử văn học Việt
Nam, Hồng Chương trong Phương pháp sáng tác trong văn học nghệ thuật,
Nguyễn Đức Đàn trong Mấy vấn đề văn học hiện thực phê phán Việt Nam,
Như Phong trên báo Nhân dân 25 - 3 - 1973, Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn
tiền chiến, Nguyễn Đăng Mạnh trong Nhà văn tư tưởng và phong cách, Phan
Cự Đệ trong Nhà văn Việt Nam 1945 - 1975, Nguyễn Hoành Khung trong
Văn học Việt Nam 1930 - 1945, Phong Lê trong Tạp chí văn học số 6 - 1993.)
Trong những công trình ấy, dù nghiên cứu dưới nhiều góc độ, những
kết luận chủ yếu quan tâm đến những yếu tố của cốt truyện, chưa quan tâm
nhiều đến các yếu tố của truyện kể. Song, cũng có những đánh giá về một
khía cạnh nào đó trong nghệ thuật kể chuyện tài hoa của Nguyễn Công Hoan.
Chẳng hạn, tại Hội nghị văn học so sánh thế giới năm 1976, Jan Mucka
khi so sánh Truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan và truyện ngắn của Sêkhốp

chỉ ra một vài đặc điểm nghệ thuật tự sự của Nguyễn Công Hoan, nhận thấy
“trong khi miêu tả, Nguyễn Công Hoan dựa trên tính năng động của đối thoại
và những tình cảm bên trong hơn là dựa vào môi trường xung quanh” [26,
159]. Về cách dẫn dắt mạch truyện là “bằng vai trò trung gian có điều kiện
của người kể chuyện (ngôi thứ ba), là hình thức tường thuật chủ quan hoàn
chỉnh bằng một sự đánh giá trực tiếp đối với biến cố” [26, 160]. Về mối quan
hệ tác phẩm - người đọc : “Nguyễn Công Hoan tính đến trực giác của người
đọc và xây dựng tác phẩm của mình sao cho giá trị thẩm mĩ khái quát được
thể hiện triệt để trong mối liên hệ với những mặt hết sức khác nhau của đời
sống tinh thần của người đọc” [26, 162]. Jan Mucka đi đến kết luận “Trong
những năm 30 ở thế kỉ này, Nguyễn Công Hoan đã đưa vào văn học Việt
Nam một cách không theo truyền thống một thể loại truyện ngắn mang tính
chất xã hội mạnh mẽ, truyện ngắn châm biếm” [26, 163].
Nhà nghiên cứu phê bình văn học Nguyễn Đăng Mạnh trong bài Đọc
lại truyện ngắn trào phúng của Nguyễn Công Hoan, nhận xét: “Truyện ngắn
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

13
Nguyễn Công Hoan thường chỉ rút về một bình diện ý nghĩa với một chủ đề
rõ ràng đơn giản Tài hoa của ông chủ yếu dồn cho cốt truyện và cách kể
chuyện”, “ông có một cái duyên kể chuyện hết sức hấp dẫn”. Nhà nghiên cứu
đánh giá cao vai trò của Nguyễn Công Hoan như một người có công phá lối
mở đường trong việc xây dựng và phát triển thể tài truyện ngắn hiện đại ở
nước ta, và lí giải: “Thành công của Nguyễn Công Hoan do nhiều nguyên
nhân: phương thức kể chuyện biến hoá, tài vẽ hình, vẽ cảnh sinh động, khả
năng dựng đối thoại có kịch tính, giọng kể chuyện tự nhiên, hoạt bát, lối ví
von so sánh độc đáo, cách chơi chữ táo bạo, dí dỏm Nhưng về đại thể, bí
quyết chủ yếu vẫn là nghệ thuật dẫn dắt tình tiết sao cho mâu thuẫn trào
phúng, tình thế hài hước bật ra ở cuối tác phẩm một cách đột ngột bất ngờ.”
[26, 172]

Trong cuốn Nhà văn Việt Nam 1945 - 1975 xuất bản năm 1983, nhà
nghiên cứu Phan Cự Đệ cũng đánh giá cao nghệ thuật viết truyện ngắn khá
điêu luyện của Nguyễn Công Hoan: “Truyện ngắn Nguyễn Công Hoan sinh
động hấp dẫn là vì tác giả luôn luôn thay đổi các thủ pháp nghệ thuật, thay đổi
màu sắc và cung bậc tình cảm Nguyễn Công Hoan là người biết tổ chức cấu
trúc chặt chẽ và thay đổi cấu trúc hình thức rất linh hoạt ” [26, 177].
Nhà nghiên cứu Lê Thị Đức Hạnh là người dành nhiều tâm huyết và
công phu hơn cả trong việc nghiên cứu sáng tác của Nguyễn Công Hoan.
Trong cuốn Tìm hiểu truyện ngắn Nguyễn Công Hoan và Nguyễn Công Hoan
1903 - 1977, tác giả nghiên cứu ở cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật
để đi đến kết luận : Sáng tác của Nguyễn Công Hoan mang đậm yếu tố trào
phúng và hiện thực. Nhiều vấn đề của nghệ thuật tự sự cũng được đề cập, như
về người kể chuyện, về kĩ thuật viết truyện ngắn, kĩ thuật viết truyện dài,
ngôn ngữ trong tác phẩm Nguyễn Công Hoan.
Lê Thị Đức Hạnh cũng đã giới thiệu và tuyển chọn gần như đầy đủ nhất
những công trình nghiên cứu về Nguyễn Công Hoan từ trước đến nay trong
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

14
cuốn Nguyễn Công Hoan, về tác gia và tác phẩm (26). Cuốn sách trở thành tài
liệu quý cho bất cứ ai muốn nghiên cứu, giảng dạy, học tập và thưởng thức
những sáng tác của Nguyễn Công Hoan.
Năm 1996, trong luận án Tiến sĩ Khoa học Từ quan niệm nghệ thuật
đến nghệ thuật ngôn từ trong truyện ngắn trào phúng Nguyễn Công Hoan, từ
góc độ thi pháp học, Nguyễn Thanh Tú nghiên cứu tiếng cười của Nguyễn
Công Hoan như một chỉnh thể nghệ thuật, bắt đầu từ cái nhìn nghệ thuật, quan
niệm nghệ thuật về cuộc đời và con người, để từ đó nghiên cứu các hình thức
biểu hiện: cốt truyện, kết cấu, trần thuật, lời văn
2.2.3. Nhận xét:
Qua những tư liệu nghiên cứu về truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, đặc

biệt là về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, người viết
nhận thấy còn một số tồn tại sau:
- Trước Cách mạng, việc nghiên cứu về Nguyễn Công Hoan còn chủ
yếu nặng về phương diện ý nghĩa xã hội của tiếng cười, phương diện nghệ
thuật tự sự chưa được chú ý.
- Sau Cách mạng, truyện ngắn Nguyễn Công Hoan còn được tìm hiểu
từ các lý thuyết nghiên cứu văn học trong lý luận phê bình phương Tây: Thi
pháp học, Cấu trúc học và đã có những kết luận liên quan đến nghệ thuật trần
thuật như về người kể chuyện, nghệ thuật cấu trúc tác phẩm, về không gian,
thời gian, hay ngôn từ, giọng điệu. Tuy nhiên, đó đều là những kết luận riêng
lẻ, hoặc chưa triệt để, hoặc là những kết luận không phải được đi tới từ góc độ
“tự sự học”.
- Chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống về nghệ thuật
tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan từ quan điểm tự sự học - một nhân
tố quan trọng trong nghiên cứu cấu trúc văn bản văn xuôi nghệ thuật.
Vì vậy, luận văn nghiên cứu về nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn
Nguyễn Công Hoan là một nỗ lực nhằm lấp những “khoảng trống” này.
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

15
3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Luận văn tìm hiểu nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công
Hoan nhằm rút ra phong cách tự sự độc đáo của Nguyễn Công Hoan, đồng
thời chỉ ra sự tiệm cận với nghệ thuật tự sự hiện đại của truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan.
- Cố gắng tìm cách tiếp cận mới, khai thác những bình diện mới trong
nghệ thuật tự sự ở truyện ngắn Nguyễn Công Hoan.
- Góp phần vào công việc giảng dạy tốt hơn nữa các tác phẩm của
Nguyễn Công Hoan trong nhà trường.

3.2. Đối tƣợng nghiên cứu
Luận văn đi sâu nghiên cứu nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan trước Cách mạng tháng 8 năm 1945 ở các khía cạnh người tự sự,
không gian – thời gian tự sự và ngôn ngữ - giọng điệu.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Sáng tác Nguyễn Công Hoan khá phong phú về với nhiều thể loại
(truyện ngắn, truyện dài ) Với mục đích và khuôn khổ của đề tài, luận văn
chỉ khảo sát và nghiên cứu nghệ thuật tự sự biểu hiện trong một thể loại quan
trọng nhất, thể hiện rõ nhất đặc trưng phong cách Nguyễn Công Hoan là thể
loại truyện ngắn.
Phạm vi tư liệu nghiên cứu dùng cho luận văn này chủ yếu từ 103
truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan trước Cách mạng in trong tập Nguyễn
Công Hoan - Truyện ngắn chọn lọc (gồm 113 truyện ngắn), do Lê Minh sưu
tầm biên soạn, NXB Văn học, Hà Nội, 2004.
Ngoài ra có khảo sát thêm một số truyện ngắn khác do Lê Thị Đức
Hạnh sưu tầm và giới thiệu.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn kết hợp sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học như:
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

16
- Phương pháp thống kê, phân loại.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
Nhằm khám phá cấu trúc tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan
trước Cách mạng, luận văn sử dụng lí thuyết tự sự học, thi pháp học làm
phương pháp tiếp cận tác phẩm.
5. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Thư mục tham khảo, Phụ lục, luận
văn gồm 3 chương:

Chương 1. Người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan
trước Cách mạng.
Chương 2. Không gian - Thời gian tự sự trong truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan trước Cách mạng.
Chương 3. Ngôn ngữ và giọng điệu tự sự trong truyện ngắn Nguyễn
Công Hoan trước Cách mạng.

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

17
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1.
NGƢỜI KỂ CHUYỆN TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN CÔNG
HOAN TRƢỚC CÁCH MẠNG THÁNG 8 NĂM 1945.
Trong nghiên cứu văn học từ lí thuyết tự sự, không thể không nhắc đến
người kể chuyện. Tìm hiểu người kể chuyện giúp ta hiểu được phương diện chủ
thể của tác phẩm tự sự và hiểu được tác phẩm một cách sâu sắc trọn vẹn hơn.
Người kể chuyện là khái niệm trung tâm trong nghiên cứu tự sự, song
khái niệm này chưa được thống nhất bởi các nhà lí luận văn học.
Theo Pospelov thì người kể chuyện là “người môi giới giữa các hiện
tượng được miêu tả và người nghe, là người chứng kiến và cắt nghĩa các sự
việc xảy ra” [71, 196]. Người kể chuyện là một chủ thể ngôn ngữ, người kể
một câu chuyện, cũng là một nhân vật đặc biệt trong tác phẩm tự sự. Tzevan
Todorov trong khi viết về Thi pháp học đã làm nổi bật vai trò người kể
truyện: “Người kể chuyện là một nhân tố chủ động trong việc kiến tạo thế
giới hư cấu. Chính người kể chuyện là hiện thân của những khuynh hướng
mang tính xét đoán và đánh giá Không có người kể chuyện thì không có
truyện kể.
Nhưng mức độ hiện diện của người kể chuyện trong văn bản có thể là -
và thực tế là - rất khác nhau” [7, 404]

Theo quan niệm của G. Genette, người kể chuyện có mối quan hệ chặt
chẽ với câu chuyện của mình và chính vị trí của người kể chuyện trong mối
quan hệ với câu chuyện xác lập nên điểm nhìn của truyện kể. Từ đó, nhà
nghiên cứu phân biệt hai kiểu người kể chuyện: người kể chuyện từ ngôi thứ
nhất và người kể chuyện từ ngôi thứ ba.
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

18
Người kể chuyện từ ngôi thứ nhất là người kể chuyện hiện diện như
một nhân vật trong truyện, vừa đóng vai trò người kể chuyện vừa đóng vai trò
là một nhân vật trong cấp độ hành động.
Người kể chuyện từ ngôi thứ ba là người thứ ba, không phải là nhân vật
trong truyện. Trong kiểu trần thuật từ ngôi thứ ba này, có sự “khác nhau tự
nhiên” giữa thế giới người kể chuyện và thế giới hành động.
Tuy nhiên, trong khi Genette chỉ quan tâm đến giới hạn điểm
nhìn thì lí thuyết tự sự học ngày nay lại hướng đến đề xuất của M. Bal về tiêu
điểm trong sự phân biệt với điểm nhìn. Theo Bal, điểm nhìn thuộc văn bản,
còn tiêu điểm thuộc truyện kể. Mỗi truyện kể, người kể chuyện có thể sử dụng
một hay nhiều người quan sát, có thể là người quan sát bên ngoài (một người
kể chuyện), cũng có thể là người quan sát bên trong (một nhân vật), người
quan sát quy định tiêu điểm của trần thuật.
Như vậy, khái niệm người kể chuyện có liên quan mật thiết với
điểm nhìn tự sự và tiêu điểm trần thuật, cả ba cùng xác định nên trần thuật và
tạo nên vai trò to lớn của người kể chuyện đối với câu chuyện, với văn bản,
với người đọc
Nói như Michel Butor: “Tiểu thuyết là một hình thức đặc biệt của trần
thuật. Tam giác tự sự ba chiều “tác giả - nhân vật - độc giả” dần được thay thế
bởi sự huyền diệu và phức tạp hơn của tứ giác tự sự với “tác giả - người tự sự -
nhân vật - độc giả” [68, 32]. Ý kiến đó đã bao quát được cả tầm quan trọng của
người kể chuyện với các tác phẩm tự sự nói chung và với truyện ngắn nói riêng.

Trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, người kể chuyện thực sự là một
sản phẩm của sự sáng tạo nghệ thuật, là một công cụ do nhà văn hư cấu nên để
kể một câu chuyện. Việc tác giả lựa chọn kiểu người kể chuyện nào để kể hoàn
toàn không phải là một sự ngẫu nhiên mà nó mang tính quan niệm, nhằm mục
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

19
đích chuyển tải tư tưởng, nội dung một cách hiệu quả nhất. Hiện diện trong tác
phẩm của Nguyễn Công Hoan là nhiều hình thức người kể chuyện đa dạng:
người kể chuyện từ ngôi thứ nhất, người kể chuyện từ ngôi thứ ba, người kể
chuyện bên trong, người kể chuyện bên ngoài. Hơn nữa, một trong những yếu
tố tạo nên sức hút mãnh liệt của truyện ngắn trào phúng Nguyễn Công Hoan
chính là từ vai trò, chức năng đặc biệt của người kể chuyện.
1.1. Điểm nhìn tự sự
Trong cuốn Giáo trình Dẫn luận thi pháp học, Trần Đình Sử đã dẫn lời
của Gucốpxki: “Người ta không thể miêu tả nếu không có nguời miêu tả và
không bắt đầu từ một điểm nhìn nào”. Điểm nhìn chính là sự lựa chọn cho
một cự li trần thuật nào đó để kể lại câu chuyện, mà có thể giảm thiểu hoặc
loại trừ khả năng can thiệp của tác giả vào các sự kiện miêu tả, làm cho tác
phẩm trở nên tự nhiên hơn, gần gũi với cuộc sống hơn. Tác giả là người đứng
sau tác phẩm, tác giả có mặt ở khắp nơi nhưng lại chẳng ở nơi nào cả, và là
người có sức mạnh toàn năng đối với từng chi tiết, hành động, nhân vật
trong tác phẩm của mình.
Điểm nhìn của người kể chuyện trong nghệ thuật tự sự có thể hình
dung cũng như điểm nhìn, góc nhìn của nhiếp ảnh gia hay người họa sĩ trong
nghệ thuật nhiếp ảnh, hội họa. Mỗi người nghệ sĩ đều cần chọn cho mình một
chỗ đứng, một điểm nhìn tốt nhất để có thể cảm nhận không gian nghệ thuật
một cách tối ưu và sáng tạo nên những kiệt tác. Sự khác biệt cơ bản là ở chỗ,
nếu như trong nghệ thuật hội họa, nhiếp ảnh, điểm nhìn là của chính người
nghệ sĩ trong mối quan hệ với thế giới mà anh ta mô tả, thì trong nghệ thuật tự

sự của mỗi truyện kể, điểm nhìn tự sự là của một người kể chuyện - nhân vật
do tác giả hư cấu nên để kể lại câu chuyện - nhân vật thống nhất nhưng không
đồng nhất với tác giả.
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

20
Điểm nhìn là một yếu tố quan trọng trong tác phẩm tự sự. Trong truyện
ngắn Nguyễn Công Hoan, việc xác định điểm nhìn dược thấy rõ qua dấu hiệu:
cách sử dụng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba, có thể theo qui
tắc:
- Một văn bản truyện kể theo điểm nhìn chủ quan: nếu như trong những
câu kể lại hành động truyện có một số câu chứa đại từ nhân xưng ngôi thứ
nhất (tôi), và “tôi” đồng nhất với một nhân vật trong truyện.
- Một văn bản truyện kể theo điểm nhìn khách quan: nếu những câu kể
lại hành động truyện đều là những câu ở ngôi thứ ba (ông, bà, anh, chị, nó,
); trường hợp đặc biệt, nếu xuất hiện ngôi thứ nhất “tôi, ta” với tư cách
người kể chuyện nhưng không phải là nhân vật nào trong truyện kể.
- Một văn bản truyện kể theo hình thức di chuyển điểm nhìn: nếu văn
bản được kể theo điểm nhìn di chuyển từ điểm nhìn khách quan sang điểm
nhìn chủ quan, từ điểm nhìn của tác giả sang điểm nhìn của nhân vật, hoặc từ
điểm nhìn của nhân vật này sang điểm nhìn của nhân vật khác.
Như vậy, khảo sát truyện ngắn Nguyễn Công Hoan từ khía cạnh điểm
nhìn, có ba tình huống trần thuật:
1.1.1. Trần thuật theo điểm nhìn khách quan
Truyện được kể từ ngôi ba, người kể chuyện vắng mặt, người kể
chuyện không qui chiếu vào một nhân vật nào trong truyện.
Đây là cái nhìn bên ngoài không được nhân vật hóa mà ẩn đằng sau là
hình bóng của tác giả. Chọn điểm nhìn trần thuật khách quan giúp Nguyễn
Công Hoan tạo ra được một khoảnh cách nhất định đối với nhân vật và sự
kiện được miêu tả. Nhà văn cố gắng tối đa trong việc giảm sự can thiệp của

mình vào tác phẩm, tạo cho độc giả độ tin cậy cao vào các sự kiện được kể
lại. Mọi nhìn nhận đánh giá gói trọn trong việc lựa chọn điểm nhìn, thông qua
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

21
những mối quan hệ của các nhân vật với nhau. Người kể chuyện chỉ có vai trò
dẫn truyện và là người sắp xếp, thông báo các tình tiết, sự kiện có thể xảy ra
hoặc sắp xảy ra.
Việc khảo sát về điểm nhìn khách quan và các dạng thức xuất hiện
được trình bày trong bảng 1.1 (phụ lục).
Theo đó, điểm nhìn khách quan được sử dụng với tần số lớn nhất trong
truyện ngắn Nguyễn Công Hoan: 76 truyện/ 103 truyện khảo sát, chiếm
73.8%. Số liệu đó đã khẳng định phần nào vai trò của điểm nhìn khách quan
trong truyện ngắn của tác giả này.
Tình huống trần thuật theo điểm nhìn khách quan có hai dạng tồn tại là
trần thuật theo điểm nhìn tác giả, và trần thuật theo điểm nhìn bên trong của
nhân vật trong truyện.
1.1.1.1. Trần thuật theo điểm nhìn tác giả
Đây là dạng truyện xuất hiện nhiều nhất trong các truyện trần thuật theo
điểm nhìn khách quan (64 truyện, chiếm 84% các truyện kể theo điểm nhìn
khách quan, 62% tổng số truyện). Có lẽ ưu thế của cách nhìn thế giới bao quát
của tác giả người kể chuyện (như “Trời nhìn”) đặc biệt phù hợp với việc phát
hiện mô tả sức mạnh tinh thần cũng như những khuyếm khyết của nhân vật.
Hình thức ấy dường như đã có một huyết mạch nối liền trong các truyện kể
truyền thống của văn học Việt Nam, kể từ các truyện cổ dân gian, truyện kể
trung đại đến truyện ngắn hiện đại sau này.
Việc nhận diện điểm nhìn tác giả trong truyện ngắn Nguyễn Công
Hoan có hai trường hợp:
Truyện hoàn toàn dùng ngôi thứ ba, hoặc có tên (Sinh, Nghĩa, Nguyệt,
Phong ) hoặc không tên (ông, bác, ngài, anh, chị, cô, chú ). Số lượng các

truyện này rất nhiều, có 52 truyện, tiêu biểu như Răng con chó nhà tư sản,
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

22
Oẳn tà roằn, Hai thằng khốn nạn, Thật là phúc, Người ngựa và ngựa người.
Đây là cách để tác giả rất linh hoạt trong việc phơi bày toàn bộ thế giới của
câu chuyện.
Trong những trường hợp này, như Diệp Tú Sơn đã nói: “Tác giả có
quyền xuất hiện ở mọi nơi, hiểu biết về tất cả, có thể phơi bày ra toàn bộ các
khía cạnh của các sự việc và các nhân vật, cảm giác lập thể rất phong phú.
Tác giả ngự trị bên trên toàn bộ thế giới tiểu thuyết, từ trên cao nhìn xuống để
quan sát điều chỉnh tất cả. Bằng cặp mắt tinh tường của mình, tác giả quan sát
từ đầu đến cuối câu chuyện, quan sát nguyên nhân, kết quả, quan sát lời nói
cử chỉ, thế giới nội tâm của nhân vật. Tác giả tìm hiểu tất cả những gì về nhân
vật, kể cả những điều mà chính bản thân nhân vật cũng không hay biết hoặc
không ý thức được” [68, 34].
Chẳng hạn truyện Hai thằng khốn nạn kể về hai nhân vật: bác Lan và
ông nghị Trinh. Một người cha buộc phải bán con khi không còn cách nào
giải thoát khỏi cảnh chết đói của hai cha con, và một ông nghị Trinh giàu có
hiếm hoi muốn mua một đứa con nuôi. Tình huống ấy tưởng như rất bình
thường và dễ dàng giải quyết. Nhưng những nghịch cảnh trớ trêu dần lộ diện
qua điểm nhìn khách quan của tác giả.
Mở đầu tác giả đứng ngoài khách quan kể lại bối cảnh truyện: “Năm
1926, nước to, đê vỡ tứ tung, nhân dân bêu rếch, khổ sở. Nhất là khi nước đã
ra rồi, trông cảnh tượng mới lại càng đáng ngậm ngùi hơn nữa”. Tiếp đó, tác
giả có thể kể về cảnh ngộ nhân vật: “Bởi thế, bác Lan luôn mấy tháng, nào
nhà đổ, nào trâu chết, nào đất bán, nào ruộng cầm Không những thế, vợ bác
lại mới chết về bệnh dịch, để lại cho bác một đứa con trai mới biết ngồi”. Tác
giả có thể bình luận về nhân vật “Bác Lan thực là một thằng khốn nạn vậy”.
Tác giả cũng dễ dàng thâm nhập vào nhân vật, nhìn bằng con mắt vừa

thèm muốn, vừa sợ hãi, lo lắng của người nông dân khốn khổ ấy: “Đi mãi
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

23
mấy làng, bác mới đến nhà ông nghị Trinh. Trời đã sắp xẩm tối. Đứng ở cổng,
trông vào trong nhà, bác thấy gạch tây đánh bóng lộn, sập gụ, tủ chè, gương
đứng, giường tây, thật có vẻ đỉnh chung sung sướng”; hay suy nghĩ cùng
những ước muốn những tính toan của nhân vật: “Bác Lan, vì cái đói khát nó
cấp bách quá, nên tưởng tượng ngay độ dăm phút nữa thì bụng sẽ được no
đầy Bác Lan tuy trong bụng lép kẹp, nhưng thấy như no được một nửa vậy”.
Đôi khi tác giả có thể rời khỏi nhân vật để hướng tới độc giả đang theo
dõi câu chuyện để đối thoại, bàn luận: “Người bán không nói giá, người mua
không biết giá, thì làm thế nào? Độc giả các ngài đánh giá hộ đi? Một người
như chúng ta đấy, khéo nuôi khéo dạy, thì chưa biết chừng, vĩ nhân cũng nên
đấy. Một trăm nhé! Hai trăm nhé! Năm trăm nhé!” Nhưng không, ông nghị đã
đưa ra giá trị thằng bé con: ba hào! Thật không ngờ. Điều ấy khiến bác Lan
gãi tai, thở dài và vơ vẩn nghĩ ngợi mãi. Tác giả lại nhìn sâu trong suy nghĩ
của Bác: “Nửa giờ sau, Bác không thể nào nhịn nổi cái dạ dày rỗng tuếch từ
hôm trước. Thôi thì ba hào thì ba. Con mình được chỗ ấm no nương tựa, còn
hơn là bố con bêu rếch, xó chợ đầu đường”. Bác đã cố mà đồng ý, nhưng ba
hào cũng không được nữa, vì con bác có quá nhiều nốt ruồi sau lưng nên ông
nghị bắt phạt bớt hai xu. “Bác lạy van mãi. Nhưng bác nghĩ, nếu cố nằn nì hai
xu, thì chưa chắc đã được, mà không khéo bị trả tiền lại”. Còn ông nghị vẫn
không ngớt nhìn lưng thằng bé rồi còn như tiếc món tiền tiêu vô ích khi nãy,
ra ý hối hận muốn bớt hẳn năm xu, rồi còn quát thằng bếp tìm bác Lan trả tiền
mà lấy lại con ngay Lần này, “bác Lan giật nảy mình, co cẳng, ù té chạy bán
sống bán chết”. Một người giàu có, tiêu bạc vạn lo nghị viên không tiếc, mà
lại tiếc mấy xu mua con; một người nghèo kiết không còn gì, bán con rẻ mạt
với hai hào tám, mà phải cố chạy trốn kẻo bị gọi lại trả tiền lấy con về. Câu
chuyện về Hai thằng khốn nạn ấy được kể lại vừa cảm động, vừa chua xót,

cay đắng qua điểm nhìn khách quan của tác giả.
Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

24
Song ở một số trường hợp khác, Nguyễn Công Hoan thể hiện sự tìm tòi
của mình khi đưa thêm ngôi thứ nhất xưng “tôi”, thường xuất hiện ở đầu câu
chuyện, hướng tới một đối tượng cụ thể là “độc giả” “các ngài” “bạn đọc”.
Như là một cách để gây lòng tin ở độc giả, hoặc nhằm đối thoại trực tiếp với
độc giả về những vấn đề dặt ra trong câu chuyện. Song thực chất câu chuyện
vẫn được kể từ điểm nhìn ngôi thứ ba – tác giả, vì cái “tôi” này không là nhân
vật nào trong truyện. Ông chủ báo chẳng bằng lòng, Mất cái ví, Một tấm
gương sáng, Ngậm cười, Đồng hào có ma là những truyện tiêu biểu cho
truyện kể xuất hiện cả ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba.
Lấy ví dụ đoạn đầu truyện Mất cái ví: “Ông Tham nhà tôi hôm nay mất
cái ví trong đựng bốn mươi đồng bạc. Ngài làm dữ quá! Dữ đến nỗi nếu
không có ông cậu ruột ngài, là người có thế lực can thiệp vào mà phát gắt lên,
thì việc này quyết ra đến tận xăng-tan chứ chẳng chơi! ”.
Ngôi nhân xưng thứ nhất “tôi” chỉ xuất hiện một lần duy nhất trong
truyện, như tạo độ tin cậy chắc chắn khi “tôi” có “cự li gần” với các nhân vật
trong truyện. Song kể từ đó đến hết, nhân vật tôi không xuất hiện lần nào,
giảm đến tối đa sự can thiệp của cái tôi - tác giả vào câu chuyện kể. “Tôi”
đứng ngoài và không là nhân vật của truyện kể; mọi suy nghĩ, tâm lí, bản chất
của các nhân vật được hiện lên qua hành động, ngôn ngữ, suy tính của ba
nhân vật ở ngôi thứ ba ông Tham, bà Tham, ông cụ.
Đôi khi, nhân vật “tôi” - người kể chuyện tạo độ xác tín cho người đọc
nhiều hơn nữa khi khẳng định: câu chuyện “tôi” sắp kể là chuyện thật. Một
tấm gương sáng mở đầu bằng đoạn thoại của tác giả và người kể chuyện:
“Điều tôi lấy làm bực mình nhất, là thế nào cũng có một độc giả đa
nghi, xem xong câu chuyện này, bảo một bạn rằng:
- Hắn bịa.

Nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn Nguyễn Công Hoan …

25
Tôi hãy cái trước rằng:
- Thưa không bịa tí nào.
Vậy thì chuyện này là chuyện thật, xẩy ra trong một xứ kia, chừng
mười mấy năm nay.”
Vậy là phần đầu, chuyện có vẻ được kể bởi “tôi” xác định - người kể
một câu chuyện “thật”, xác định “trong một xứ kia, mười mấy năm nay”.
Nhưng từ khi câu chuyện được bắt đầu kể đến hết, “tôi” không xuất hiện
thêm, truyện vẫn được kể từ ngôi thứ ba.
Mặc dù, so với cách kể chuyện truyền thống (hoàn toàn ngôi thứ ba),
truyện kể xen kẽ ngôi thứ nhất - ngôi thứ ba theo điểm nhìn tác giả ít hơn (12
truyện), song, sự linh động trong cách đưa cái “tôi” khách quan khác nhau
trong mỗi câu chuyện thể hiện sự tìm tòi đáng quí của nhà văn về cách kể.
1.1.1.2. Trần thuật theo điểm nhìn bên trong của nhân vật trong truyện.
Theo M. Jahn, đó là các “Truyện kể mà các sự kiện diễn ra trong truyện
được nhìn dưới con mắt của một người phản ánh bên trong ở ngôi thứ ba Một
trong những hiệu quả chính của điểm nhìn bên trong là thu hút sự chú ý tới ý
nghĩ của nhân vật - người phản ánh và bỏ qua người kể chuyện và quá trình sắp
xếp trần thuật” [57, 17]. Ở những truyện này, người kể chuyện có vẻ như rút lui
hoặc ẩn sau nhân vật chính mà chúng ta gặp ngay từ mở đầu truyện.
Đúng theo quan niệm của M. Jahn, truyện kể theo điểm nhìn này đem
lại những cái nhìn sinh động của các nhân vật trong truyện. Chúng ta chú ý tới
góc nhìn trẻ thơ trong câu chuyện của thằng bé Dần (Nỗi vui sướng của thằng
bé khốn nạn), của “nó” - thằng ăn cắp (Thế cho nó chừa) của con đỏ (Quyền
chủ); hoặc góc nhìn của thân phận những anh kéo xe (Được chuyến khách),
anh phu tuần (Vợ), anh đĩ (Thằng điên), hoặc góc nhìn của những ông chủ, bà
chủ: ông nghị Xuân (Chính sách thân dân), bà chánh Tiền (Hé! Hé! Hé!), ông

×