Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Thế giới nghệ thuật trong ký của Hà Minh Đức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (815.27 KB, 84 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



LÊ THỊ PHƢƠNG NGA





THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG KÝ
CỦA HÀ MINH ĐỨC



Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34



LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC




Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS Đoàn Đức Phƣơng




Hµ néi - 2010
MỤC LỤC

MỞ ĐẦU 1
1. Lý do chọn đề tài 1
2. Lịch sử vấn đề 3
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu 4
3.1. Mục đích nghiên cứu 4
3.2. Phạm vi nghiên cứu 4
4. Phương pháp nghiên cứu 5
4.1. Phương pháp phân tích, tổng hợp 5
4.2. Phương pháp thống kê, phân loại 5
4.3. Phương pháp lịch sử - xã hội 5
5. Cấu trúc của luận văn 5
CHƢƠNG 1: KHÁI LƢỢC VỀ KÍ VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC KÍ
CỦA HÀ MINH ĐỨC 7
1.1. Khái lược về kí 7
1.1.1. Khái niệm và những đặc điểm thể loại 7
1.1.2. Thể kí trong văn học Việt Nam 11
1.2. Hành trình sáng tác kí của Hà Minh Đức 15
CHƢƠNG 2: CUỘC SỐNG VÀ CON NGƢỜI TRONG KÍ CỦA HÀ MINH
ĐỨC 20
2.1. Thế giới nghệ thuật và thế giới nghệ thuật ký Hà Minh Đức 20
2.2. Đề tài nhà trường, thầy cô, bạn bè 22
2.2.1. Hình bóng chân thực của con người và của một thời 22
2.2.2. Những triết lý về cuộc sống 28
2.3. Đề tài những miền quê đất nước và nước ngoài 32
2.3.2. Những cảm nhận về nước Mỹ 39
2.4. Đề tài chuyện đời thường 45
CHƢƠNG 3: NGHỆ THUẬT KÝ HÀ MINH ĐỨC 55

3.1. Chất hiện thực và hư cấu trong các tác phẩm ký của Hà Minh Đức 55
3.1.1. Mối quan hệ giữa chất hiện thực và hư cấu trong thể loại ký 55
3.1.2. Biểu hiện của chất hiện thực và hư cấu trong ký của Hà Minh
Đức 56
3.2. Về ngôn ngữ, giọng điệu 59
3.2.1. Ngôn ngữ, giọng điệu phê bình, bình luận 60
3.2.2. Ngôn ngữ, giọng điệu trữ tình, lãng mạn 62
3.2.3. Ngôn ngữ, giọng điệu dí dỏm, hài hước 65
3.3. Không gian, thời gian trong tác phẩm kí Hà Minh Đức 69
KẾT LUẬN 74

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Văn học Việt Nam từ sau năm 1975 có nhiều khởi sắc, đổi mới
về cả phương diện nội dung lẫn hình thức biểu hiện. Ở hầu hết các thể loại
đều có những đổi mới, đóng góp vào sự phát triển chung của văn học dân
tộc. Đặc biệt, bối cảnh đất nước đã hoàn toàn giải phóng không có nghĩa
là con người đã hết những mối lo và cuộc sống đã mất đi những điều thú
vị bất ngờ hay những hoàn cảnh éo le tác động đến chính bản thân con
người. Ngược lại, trong hoàn cảnh đặc biệt này, cuộc sống của con người
càng trở nên đa dạng, nhiều màu vẻ. Nếu như trong thời kỳ trước, khi đất
nước còn chìm trong cảnh khói lửa chiến tranh, cả dân tộc đều hướng đến
một mục tiêu cao cả nhất: đấu tranh giải phóng đất nước thì sau khi giải
phóng, mỗi người lại trở về với cuộc sống riêng và những lo toan riêng
của mình. Bởi thế, nhu cầu mọi mặt của xã hội con người đã có nhiều thay
đổi và văn học đã nhanh chóng nắm bắt được sự thay đổi đó.
Đề tài được quan tâm nhất của văn học giai đoạn này chính là đời
sống con người thời kỳ hậu chiến. Những vấn đề về quyền sống cá nhân
và những gì trước đây bị gác lại thì nay đã được các tác giả khơi gợi lại.

Con người lo lắng cho bản thân mình và tự thể hiện mình nhiều hơn. Điều
này đã dẫn đến một yêu cầu tất yếu dành cho nghệ thuật nói chung, đó là
sự phản ánh một cách khách quan, chân thực về cuộc đời. Văn học cũng
không nằm ngoài xu thế chung đó. Đối với văn học, những thể loại có ưu
thế lớn về việc phản ánh một cách khách quan, chân thực về cuộc sống
với tất cả những gì đang diễn ra có cơ hội và điều kiện để phát triển một
cách mạnh mẽ. Và, đây chính là cơ hội cho kí được khẳng định ưu thế
riêng của mình so với các thể loại văn học khác.

2
1.2. Từ trước đến nay, nói đến Hà Minh Đức, bao giờ người ta
cũng nghĩ ngay đến hình ảnh của một nhà nghiên cứu, phê bình văn
học xuất sắc thời hiện đại. Không nhiều người trong chúng ta biết rằng
bên cạnh vai trò là một nhà nghiên cứu, phê bình văn học, ông còn là
một nhà văn, nhà thơ với sức sáng tạo khá dồi dào, tác giả của bốn tập
thơ và năm tập bút kí có giá trị và gây được tiếng vang trên văn đàn
văn học Việt Nam hiện đại. Năm 1999, khi tập kí đầu tiên của ông
mang tên Vị Giáo sư và ẩn sĩ đường ra đời thực sự đã gây được tiếng
vang lớn trong dư luận bởi một giọng văn thâm trầm, sâu sắc, giản dị
và giàu xúc cảm, với những phát hiện tinh tế và những liên tưởng độc
đáo. Các tác phẩm kí tiếp theo ra đời không chỉ đáp ứng được những
nhu cầu của con người trong một xã hội mới mà còn tiếp nối được
những thành công của những tác phẩm đầu tay, ghi dấu ấn tên tuổi tác
giả Hà Minh Đức trên văn đàn với thể loại ký. Đặc biệt, Ba lần đến
nước Mỹ đã được đánh giá là một tác phẩm viết khá thành công ở một
đề tài khó về một đất nước đa dạng, nhiều màu vẻ mà ai cũng có thể
hiểu phần nào, song để nắm bắt được bản chất của nó thì dường như là
điều không phải ai cũng có thể làm được.
Như vậy, có thể nói, không chỉ thành công trên lĩnh vực nghiên cứu
văn học, Hà Minh Đức còn rất thành công trong vai trò là một tác giả sáng

tác. Tuy nhiên, điều này ngoài những người thực sự quan tâm đến văn học
hay nói đúng hơn là ngoài những chuyên gia, những nhà nghiên cứu, ít ai
biết đến. Chính vì vậy, mặc dù có giá trị lớn song các tác phẩm ký của
ông vẫn chưa được nghiên cứu, tìm hiểu và giới thiệu đến bạn đọc một
cách có hệ thống.
Với những lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài Thế giới nghệ thuật
trong ký của Hà Minh Đức với mong muốn đóng góp một phần nhỏ bé

3
của mình vào việc khẳng định những giá trị cơ bản của tác phẩm ký Hà
Minh Đức trong sự vận động, phát triển của thể loại.

2. Lịch sử vấn đề
Những sáng tác kí của Hà Minh Đức thời kỳ này là sự kế thừa, tiếp
nối và góp phần hiện đại hóa một thể loại không còn xa lạ với độc giả nói
chung. Đây cũng là sự so sánh, đối chiếu với các tác giả cùng thời. Đồng
thời, những sáng tác kí của ông đã khắc phục những hạn chế mà thơ ca
hay văn xuôi không đáp ứng được trước những nhu cầu ngày càng đa
dạng của cuộc sống con người.
Mặc dù vậy, như đã nói, các sáng tác kí của Hà Minh Đức còn khá
xa lạ với bạn đọc và các công trình nghiên cứu về các tác phẩm kí của ông
còn rất ít và chưa có tính hệ thống. Hầu hết chỉ là những bài báo mang
tính chất giới thiệu, đánh giá về các tác phẩm khi mới ra đời. Chúng ta có
thể kể ra một số bài báo tiêu biểu đánh giá về các tác phẩm kí của Hà
Minh Đức như:
Bài bình luận của Trần Khánh Thành Bản lĩnh của một ngòi bút
trong Ba lần đến nước Mỹ (Báo Văn Nghệ - tháng 4/2001) về tập Ba lần
đến nước Mỹ. Tác giả khẳng định đây là tác phẩm của một người có bản
lĩnh. Tác phẩm có sức hấp dẫn do tìm được cách tiếp cận vấn đề ở nhiều
góc độ khác nhau hòa trộn với cách viết giàu xúc cảm.

Bài viết Một lần đọc Ba lần đến nước Mỹ của Đỗ Quang Hạnh
(Báo Lao Động - Tháng 10/2000) khẳng định đây là một cuốn sách đáng
đọc. Tác giả đã ghi chép một cách chân thực cảm nghĩ công việc trong
những lần đến với nước Mỹ. Bởi yêu thơ và làm thơ nên mỗi trang viết
của ông đều có chất văn, giàu cảm xúc
Bài viết của Lưu Khánh Thơ về tập Người của một thời đăng trên
báo Công an nhân dân có tính chất giới thiệu về tác phẩm trong lần xuất

4
bản. Tác giả đã đánh giá tập kí này đã hoàn thiện những mục đích ban đầu
được đưa ra, không chỉ tái hiện cuộc sống và những con người một thời
mà còn thể hiện được bản chất cuộc sống.
Bài viết Bút kí và hồi kí thời kỳ đổi mới của Lý Hoài Thu
(vienvanhoc.org.vn) đã xem xét những đặc trưng, những thành tựu của bút
kí và hồi kí văn học trong hoàn cảnh lịch sử mới. Ở đó, tác giả đã dẫn ra
các tập kí của Hà Minh Đức như những dẫn chứng tiêu biểu cho những
giá trị của thể loại trong thời hiện đại.
Ngoài ra còn có thể kể đến các bài viết của Đào Duy Hiệp và một số
tác giả khác mang tính chất giới thiệu về các tập ký khi mới xuất bản.
Như vậy, có thể nói, các bài viết này đã nêu bật được những đặc
trưng tiêu biểu và quan trọng nhất trong các tác phẩm kí của Hà Minh
Đức là đã phản ánh một cách khách quan, chân thực về cuộc đời, nắm bắt
được bản chất của cuộc sống với lối viết giản dị, chân thực nhưng cũng
giàu chất thơ. Tuy nhiên, sự nhìn nhận, đánh giá còn chưa thật cụ thể và
hệ thống.
3. Mục đích và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Với việc chọn đề tài Thế giới nghệ thuật trong ký của Hà Minh
Đức, chúng tôi muốn đi vào việc tìm hiểu cuộc sống, con người được
phản ánh trong các tác phẩm và nghệ thuật viết ký của ông. Từ đó, đóng

góp một phần nhỏ vào việc khám phá một khía cạnh mới của một tác giả
từ lâu đã quen thuộc trên lĩnh vực nghiên cứu, phê bình văn học. Đồng
thời góp phần tìm hiểu một cái nhìn mới về thể loại ký trong cảm quan
của một nhà phê bình văn học. Từ đó, có thể tìm hiểu một cách hoàn thiện
và đầy đủ hơn về thể loại ký trong thời hiện đại.
3.2. Phạm vi nghiên cứu

5
Phạm vi nghiên cứu là các tác phẩm ký của Hà Minh Đức. Tuy
nhiên, có sự so sánh, đối chiếu với các tác giả trước đây và các tác giả
cùng thời để có cái nhìn tổng thể và toàn diện hơn.
Các tập kí của Hà Minh Đức được khảo sát trong luận văn:
- Vị giáo sư và ẩn sĩ đường (NXB Văn Học, 1999).
- Ba lần đến nước Mĩ (NXB Văn Học, 2000).
- Tản mạn đầu ô (NXB Văn Học, 2002).
- Đi một ngày đàng (NXB Văn Học, 2004).
- Người của một thời (NXB Văn Học, 2009).
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Khi tiến hành thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng các phương
pháp nghiên cứu như: Phương pháp phân tích, tổng hợp; Phương pháp
thống kê, phân loại; Phương pháp lịch sử - xã hội.
4.1. Phương pháp phân tích, tổng hợp
Đây là phương pháp quan trọng nhất. Phương pháp này giúp cho việc
nghiên cứu, phân tích các vấn đề, các chi tiết về cả nội dung và nghệ thuật.
Từ đó, khái quát nên những ý nghĩa nhà văn muốn gửi gắm đến bạn đọc.
4.2. Phương pháp thống kê, phân loại
Phương pháp này giúp cho việc tìm hiểu những khía cạnh về cuộc
sống và con người được tác thể hiện trong tác phẩm.
4.3. Phương pháp lịch sử - xã hội
Phương pháp này cho thấy những đặc trưng về nội dung và nghệ

thuật trong các tác phẩm kí Hà Minh Đức có sự kế thừa từ truyền thống và
không nằm ngoài dòng chảy chung của thể loại kí trong văn học hiện đại
Việt Nam.
5. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận, luận văn gồm ba chương:

6
Chương1: Khái lược về ký và hành trình sáng tác ký của Hà Minh
Đức
Chương 2: Cuộc sống và con người trong ký của Hà Minh Đức
Chương 3: Nghệ thuật ký Hà Minh Đức


























7

CHƢƠNG 1
KHÁI LƢỢC VỀ KÍ VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC KÍ
CỦA HÀ MINH ĐỨC

1.1. Khái lƣợc về kí
1.1.1. Khái niệm và những đặc điểm thể loại
Bakhtin từng nói: “Trong văn học, các thể loại luôn được đặt trong
mối quan hệ bình đẳng về giá trị nghệ thuật song mỗi thể loại là sự thể
hiện một thái độ thẩm mỹ với hiện thực, một cách cảm thụ, nhìn nhận,
giải minh thế giới và con người”.
Từ trước đến nay, có rất nhiều quan niệm khác nhau khi xem xét
lịch sử phát triển của văn học. Trong đó, một số ý kiến cho rằng lịch sử
phát triển của văn học chính là lịch sử ra đời của các thể loại. Bởi vì mỗi
thời đại có những đặc điểm lịch sử khác nhau nên cũng đặt ra các yêu cầu
khác nhau với các tác giả sáng tác. Vì thế, không chỉ nội dung phản ánh
mà hình thức của các tác phẩm cũng phải thay đổi để phù hợp với nội
dung, cũng là đáp ứng những nhu cầu khác nhau của thời đại và con
người. Ý kiến trên của Bakhtin cũng có thể nói là sự đồng ý với quan
điểm: lịch sử văn học là lịch sử ra đời của các thể loại. Chính vì vậy,
không thể khẳng định rằng thể loại nào hiện đại và quan trọng hơn thể
loại nào, mà chỉ có thể khẳng định rằng trong một giai đoạn lịch sử nhất
định, thể loại nào phù hợp hơn. Như vậy, có thể nói, mỗi thời đại đã sản

sinh ra dạng thức văn học mang đặc tính của nó. Trong đó, kí văn học là
dạng thức văn học mang đặc tính thời đại của chúng ta: bận rộn, đa dạng
và nhiều biến hoá.

8
Có thể nói, kí là tên một nhóm thể tài nằm ở phần giao thoa giữa
văn học và cận văn học (báo chí, chính luận, ghi chép tư liệu các loại),
chủ yếu là văn xuôi tự sự. Xét về mặt từ vựng, ký là sự ghi chép những
điều trông thấy, những điều được chứng kiến, mắt thấy tai nghe hay
những sự thật, việc thật. Bởi vậy, xét về mặt lịch sử, ký ra đời từ rất sớm.
Trước khi có báo chí đã có các tác phẩm ký, chẳng hạn các tác phẩm ký
của văn học Trung Quốc hay với xã hội Nga vào giữa thế kỉ XIX có nhiều
hỗn loạn, chế độ nông nô sụp đổ, quý tộc suy đồi, tầng lớp hạ lưu bị bần
cùng hoá, ký là một trong những thể loại chủ đạo của văn học. Trong xã
hội Anh đầu thế kỉ XVIII, khi các tạp chí đăng những bài phác họa chân
dung và cảnh sinh hoạt với mục đích châm biếm đã trở thành ngọn nguồn
cho sự nở rộ của thể loại ký. Xã hội càng hiện đại, ký càng trở nên quan
trọng bởi vì nó bắt kịp và đáp ứng được sự thay đổi nhanh chóng, từng
ngày.
Xét về mặt phân loại, có thể chia ký thành nhiều loại khác nhau,
trong đó, các thể loại chính có thể kể đến là: ký sự, hồi ký, bút ký, tuỳ
bút. Trong đó, ký sự là một thể của kí thiên về tự sự, ghi chép các sự kiện
hay kể lại câu chuyện vừa mới xảy ra. Ký sự có cốt truyện hoàn chỉnh
hoặc tương đối hoàn chỉnh, cũng là loại thể có các yếu tố trữ tình xen lẫn
với chính luận, yếu tố phi cốt truyện không nhiều. Ký sự là bức tranh toàn
cảnh trong đó sự việc và con người đan chéo, những gương mặt nhân vật
không thực sự rõ nét.
Bút kí là một thể loại của ký, nằm trung gian giữa ký sự và tuỳ bút.
Bút ký thiên về ghi lại những cảnh vật mà nhà văn mắt thấy tai nghe trong
các chuyến đi. Bút ký tái hiện con người và sự việc một cách phong phú,

sinh động, qua đó, biểu hiện khá trữ tình khuynh hướng cảm nghĩ của tác
giả, có màu sắc trữ tình.

9
Hồi ký là sự ghi lại diễn biến của câu chuyện, nhân vật theo bước đi
của thời gian qua sự hồi tưởng của con người. Hồi ký là những ghi chép
có tính chất suy tưởng của cá nhân về quá khứ. Sự kiện trong hồi ký có
thể do tác giả tưởng tượng thêm.
Tùy bút là một dạng khá đặc biệt của ký. Cũng là sự biểu hiện và
phản ánh hiện thực cuộc đời, đặc biệt là những sự vật, hiện tượng hay
những sự kiện đã và đang diễn ra, song ở thể loại tùy bút, người nghệ sĩ
khá tự do trong việc biểu hiện cái tôi cá nhân riêng biệt và độc đáo của
mình thông qua các thủ pháp nghệ thuật, việc điều chỉnh và sử dụng ngôn
từ. Tùy bút nghiêng hẳn về phía trữ tình với điểm tựa là cái tôi cá nhân
của tác giả.
Như vậy, có thể nói, mặc dù bao gồm nhiều tiểu loại khác nhau
song một điểm chung có thể thấy ở ký đó là những yêu cầu về chất hiện
thực và nhiệm vụ nắm bắt được hơi thở của thời đại.
Trước đây, ký thường bị xem nhẹ. Một số quan niệm cho rằng
những nghệ sĩ không thể sáng tác các thể loại khác thì mới đi vào viết ký.
Tuy nhiên, sự tồn tại và phát triển không ngừng của kí đã khẳng định điều
ngược lại hoàn toàn. Trong quá trình viết ký, để viết được hay là điều cực
kì khó khăn bởi vì tác giả vừa phải phản ánh một cách chân thực về hiện
thực được chứng kiến, vừa phải tạo ra sự lôi cuốn, hấp dẫn cho độc giả.
Về đặc trưng nghệ thuật của ký cũng còn tồn tại nhiều quan điểm
khác nhau. Tuy nhiên, tựu trung lại, ký là một thể loại nằm giữa văn học
và báo chí. Chính vì vậy, nó vẫn bao gồm đặc trưng của cả hai thể loại
này. Có thể nói, ký có mối liên hệ chặt chẽ, sâu xa với hiện thực xã hội.
Nguyên tắc tiếp cận và phản ánh cuộc sống là cơ sở để tìm hiểu đặc điểm
của thể loại ký. Ký quan tâm đến đời sống ở nhiều chiều, nhiều đặc tính.

Nguyên tắc tôn trọng tính xác thực của đối tượng miêu tả là yêu cầu quan

10
trọng của thể loại này. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là kí loại bỏ
hoàn toàn sự hư cấu của tác giả. Ở ký, sự hư cấu cần được kiểm soát và
vận dụng có chừng mực, hợp lí. Giá trị của tác phẩm kí không nằm ở chỗ
tác phẩm đó hư cấu nhiều hay ít mà là việc tác giả vận dụng hư cấu đó
như thế nào để truyền tải tư tưởng đến người đọc, người nghe. Chính vì
những đặc trưng hết sức quan trọng ấy, kí đã vượt qua báo chí, trở thành
một thể loại văn học vừa chính thống, vừa mang tính tư tưởng cho thời
đại. Đọc các tác phẩm kí văn học, chúng ta có thể thu nhận được nhiều
hơn những đặc tính của thời đại, của hiện thực xã hội đang diễn ra bởi
khả năng lôi cuốn và thu hút người đọc của kí là điều không cần phải
khẳng định thêm. Ngay trong ý thức của các nhà văn khi sáng tác bằng
thể loại kí, chắc hẳn đều xác định được điều này bởi nếu không, tác
phẩm kí không hơn gì sự ghi chép một cách đơn thuần về những gì
đang diễn ra xung quanh con người.
Ký cho phép tái hiện những thời đoạn lịch sử đã qua trong tiến trình
phát triển xã hội thông qua những bình diện mà nó đề cập. Có những tác
phẩm chủ yếu miêu tả các phong tục tập quán, có những tác phẩm chú ý
miêu tả những nét tính cách xã hội, có những tác phẩm mang tính triết lý,
có những tác phẩm mang âm hưởng trữ tình. Kết cấu của ký rất đa dạng,
có thể là mô hình người kể chuyện để tạo sự thống nhất cho các thành
phần, câu chuyện trong tác phẩm cũng có thể lấy các đoạn mô tả, các
đoạn bình luận để làm phương tiện ráp nối các sự kiện.
Như vậy, có thể nói, ký là một thể loại văn học gắn liền với sự thay
đổi và những biến động của cuộc sống con người trong những giai đoạn
và hoàn cảnh khác nhau. Với những đặc trưng rất riêng của mình, ký
không chỉ làm phong phú thêm cho các thể loại văn học mà còn ngày càng


11
khẳng định được vai trò và tầm quan trọng của mình trong việc biểu hiện
và phản ánh thế giới.
1.1.2. Thể kí trong văn học Việt Nam
Như trên đã nói, ký xuất hiện từ rất sớm. Và, cũng như các thể loại
khác, qua từng thời kì khác nhau, ký cũng có sự bién đổi để phù hợp hơn
với trước hết là nhu cầu thể hiện và phản ánh của người nghệ sĩ, sau nữa
là đáp ứng những nhu cầu khác nhau của độc giả.
Ở Việt Nam, ký cũng xuất hiện sớm, từ thời kỳ văn học trung đại
dưới sự ảnh hưởng sâu sắc và toàn diện của văn học Trung Quốc. Trong
văn học trung đại Việt Nam, những tác phẩm ký tiêu biểu có thể kể đến đó
là: Thượng kinh kí sự (Hải Thượng Lãn Ông Lê Hữu Trác), Vũ trung tùy
bút (Phạm Đình Hổ)…
Cùng với sự phát triển của văn học qua các thời kì lịch sử của dân
tộc, ký cũng không ngừng phát triển. Với tính chất là một thể loại coi
trọng tính khách quan và khả năng phản ánh hiện thực cuộc sống, một
điều tất yếu là ký luôn luôn gắn liền với những thăng trầm, đổi thay của
lịch sử dân tộc. Thời kỳ 1930 - 1945 đã chứng kiến sự phát triển mạnh
của thể loại phóng sự, đặc biệt là phóng sự về các tệ nạn xã hội. Đó là Tôi
kéo xe (Tam Lang), Cạm bẫy người, Kỹ nghệ lấy Tây (Vũ Trọng Phụng),
Việc làng, Tập án cái đình (Ngô Tất Tố). Đặc biệt là trong hai cuộc
kháng chiến vệ quốc vĩ đại chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, cùng với
các thể loại khác như tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ ca, ký đã tạo nên một
diện mạo mới cho văn học Việt Nam hiện đại, nắm bắt được một cách kịp
thời, chính xác những đổi thay cũng như hơi thở của thời đại. Thời kỳ
này, các tác phẩm ký đã xuất hiện với số lượng lớn, chất lượng cao như:
Ký sự Cao Lạng (Nguyễn Huy Tưởng, 1951), Truyện và ký sự (Trần
Đăng, 1954), Nhật kí Ở rừng (Nam Cao, 1956). Trên văn đàn Văn học

12

Việt Nam thời kỳ này, đã khẳng định tên tuổi Nguyễn Tuân - một tác giả
văn học xuất sắc, một nghệ sĩ ngôn từ. Đặc biệt, ở thể loại tùy bút, những
tác phẩm của ông cho đến nay và mãi về sau này nữa, khó ai có thể vượt
qua được. Từ một nhà văn lãng mạn thời kỳ trước Cách mạng tháng Tám,
sau khi Cách mạng thành công, ông đã tham gia phục vụ kháng chiến với
những tác phẩm xuất sắc, gắn liền với những chuyển biến của lịch sử dân
tộc như: Bút kí Đường vui (1949), Tình chiến dịch (1950), Hà Nội ta
đánh Mỹ giỏi (1972) Sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, các tác
phẩm của Nguyễn Tuân nói chung và các tác phẩm kí của ông nói riêng
cũng đã đi vào việc phản ánh những đổi thay của cuộc sống mới, con
người mới và ông cũng ghi dấu ấn đậm nét với tùy bút Sông Đà bằng
những trang văn hết sức độc đáo.
Từ sau khi đất nước hoàn toàn giải phóng, ký phát triển mạnh mẽ,
có nhiều bước đột phá trong việc phản ánh cuộc sống mới, con người mới.
Và, không phải là ngẫu nhiên khi trong giai đoạn này, kí lại là thể loại có
sức phát triển mạnh mẽ nhất. Điều này có thể lý giải bằng một nguyên
nhân cụ thể, chủ yếu. Đó là trong thời kỳ hòa bình, đời sống xã hội đang
có những biến đổi mạnh mẽ đã tác động trực tiếp đến cuộc sống của
những con người cụ thể. Con người trước đây sống vì cộng đồng, vì dân
tộc với khát vọng cống hiến sức mình cho mục tiêu cao cả mang tầm vóc
quốc gia thì ngày nay, bắt đầu hướng về bản thân mình và hướng tới hiện
thực cuộc sống đang diễn ra xung quanh. Con người muốn có những tác
phẩm văn học phản ánh một cách chân thực và toàn diện về cuộc sống
đang ngày càng có nhiều đổi thay. Với ưu thế xuất phát từ hiện thực và
tôn trọng hiện thực cuộc sống, kí đã phát triển và khẳng định tầm quan
trọng của mình trên văn đàn như một điều tất yếu. Chính vì vậy, thể loại
này đã có những bước phát triển mạnh mẽ hơn nhiều so với các thời kì
trước đó. Từ cuối những năm 80, đầu những năm 90, trên văn đàn văn học

13

Việt Nam đã xuất hiện một số tác phẩm kí có giá trị cả về nội dung và
nghệ thuật như: Các tác phẩm kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường: Rất nhiều
ánh lửa (1979), Ai đã đặt tên cho dòng sông (1984)…
Đây chính là những tư liệu quý giá không chỉ cho việc tìm hiểu một giai
đoạn lịch sử đáng nhớ của dân tộc mà còn đánh dấu cho nhu cầu tự thể
hiện của mỗi người nghệ sĩ.
Trong bước phát triển chung đó của thể loại ký, cho đến cuối những
năm 90 của thế kỷ XX, bút ký và hồi ký lại có bước tiến mạnh mẽ hơn cả.
Sở dĩ như vậy là vì hai tiểu loại này có ưu thế lớn trong việc phản ánh
hiện thực. Với bút ký là sự ghi lại những điều mắt thấy tai nghe của nhà
văn trong những chuyến đi hay những câu chuyện, con người được tiếp
xúc ngay trong cuộc sống thường nhật. Với hồi ký là sự ghi lại những sự
kiện theo bước chuyển của thời gian qua sự hồi tưởng của con người. Các
đề tài được quan tâm đến đó là những đề tài vĩ mô như tái hiện bức tranh
hào hùng của dân tộc qua hai cuộc chiến tranh vĩ đại hoặc ký ức về những
sự kiện, các biến động lớn của các dân tộc nhưng mang tầm vóc và sự ảnh
hưởng đến toàn cầu.
Bên cạnh việc khai thác các đề tài mang tầm vĩ mô về đất nước, dân
tộc, các tác giả đã chuyển sang bám sát và phản ánh cuộc sống vi mô với
muôn mặt đời thường của con người. Chưa bao giờ cuộc sống cá nhân của
con người với những gì bình thường nhất được quan tâm nhiều như lúc
này. Nhà văn đã tái hiện cuộc sống với tất cả những gì ngổn ngang, bề
bộn nhất, bởi đó chính là thực tế mà con người đang phải đối mặt. Điều
này đã dẫn đến một hệ quả tất yếu là các nhân vật trong kí lúc này là
những con người rất đỗi bình thường, quen thuộc trong đời sống mỗi
chúng ta hoặc là những số phận nhỏ bé của cuộc sống thực tại. Có thể
thấy rất rõ điều này trong các tác phẩm tiêu biểu như: Cát bụi chân ai
(Tô Hoài), Chân dung và đối thoại (Trần Đăng Khoa), Từ bến sông

14

Thương (Anh Thơ), Bốn mươi năm nói láo (Vũ Bằng)…Họ là những số
phận, những cá nhân độc lập và mang đậm những nét tính cách riêng biệt,
mang bản sắc cá nhân rất rõ nét. Từ đó, chúng ta có thể có cái nhìn đa
dạng, nhiều chiều hơn về con người và cuộc sống, về những điều tưởng
như đã quá đỗi quen thuộc. Với đề tài này, một điều khá đặc biệt là chúng
ta bắt gặp khá nhiều những tác phẩm viết về những con người hoạt động
trong lĩnh vực văn chương nghệ thuật giống như là việc các tác giả xây
dựng lại những bức chân dung về tri âm, tri kỉ, mang lại những hình ảnh
về họ là những tài năng nghệ thuật nhưng cũng là những con người rất đỗi
bình thường với đời sống tinh thần vô cùng phong phú nhưng cũng hết
sức gần gũi đối với mỗi chúng ta. Đó là những Xuân Diệu, Nguyễn Tuân,
Nguyên Hồng, Hoàng Trung Thông…Việc tái hiện những hình ảnh của họ
trong tác phẩm cũng chính là sự nhớ lại những giai đoạn khó phai mờ
trong lịch sử một thời.
Với những nhu cầu phản ánh đa dạng và phong phú ấy, một hệ
quả đã dẫn đến về mặt tính chất của thể loại kí trong thời kỳ hiện đại đó
là sự giao thoa, gia nhập, pha trộn, chuyển hóa lẫn nhau của các thể
loại. Nói như nhà văn Nguyên Hồng: “Bây giờ, chúng ta có thể đọc một
bài bút kí trong đó không thiếu những đoạn viết theo lối phóng sự lẫn
hồi kí và có cả truyện ngắn” [22; 45]. Điều này đã minh chứng cho sự
phát triển ngày càng linh hoạt và năng động của thể loại ký trong từng
thời điểm khác nhau.
Trong những năm gần đây, đã xuất hiện một số tác phẩm ký gây
được sự chú ý, quan tâm của người đọc. Đó là tập nhật kí của nữ anh hùng
- bác sĩ Đặng Thùy Trâm hay của liệt sĩ Nguyễn Văn Thạc. Những tác
phẩm này đã không chỉ tái hiện một cách chân thực, sinh động một thời
kỳ lịch sử vẻ vang của dân tộc với những hình tượng con người bất khuất,
anh dũng và đầy lý tưởng mà còn giúp thế hệ trẻ ngày nay tự nhìn nhận lại

15

mình trong mối quan hệ và trách nhiệm với quốc gia, dân tộc. Bên cạnh
đó, còn là những tập hồi kí của những người của công chúng cũng gây
được sự tò mò, chú ý cho người đọc như: Lê Vân yêu và sống
Như vậy, có thể nói, ký là một thể loại văn học đặc biệt. Cũng
giống như các thể loại văn học khác, ký xuất phát từ cuộc sống và quay
trở lại phục vụ cuộc đời. Tuy nhiên, điểm đặc biệt khiến cho ký khác với
các thể loại khác đó chính là ký đòi hỏi cao về tính khách quan và khả
năng phản ánh hiện thực. Ký không hẳn hoàn toàn là một thể loại văn học
mà còn có sự giao thoa và mối quan hệ khăng khít với báo chí. Không thể
phủ nhận những ảnh hưởng của báo chí đến ký, nhưng không nên xem ký
là kết quả của sự thâm nhập của báo chí vào văn học. Điểm phân biệt giữa
ký văn học và kí báo chí chính là ở màu sắc trữ tình và sự hư cấu của tác
giả. Tuy nhiên, nói vậy không có nghĩa là ký văn học được quyền hư cấu
một cách thoải mái, tự do. Sự hư cấu này vẫn phải có giới hạn, đảm bảo
đặc trưng riêng của thể loại. Chính vì vậy, việc tìm hiểu ký trong những
sáng tác của một tác giả cụ thể là việc làm cần thiết để mang lại cho
chúng ta cái nhìn toàn diện và đa chiều hơn về thể loại này.
1.2. Hành trình sáng tác kí của Hà Minh Đức
Hà Minh Đức nguyên là viện trưởng Viện Văn học, nguyên chủ
nhiệm khoa Báo chí - Đại học Tổng hợp. Ông sinh ngày 3/5/1935 tại Vĩnh
Lộc - Thanh Hóa.
Ông tốt nghiệp Khoa Ngữ văn - Đại học Tổng hợp (Nay là Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội) năm
1957. Từ năm 1957 đến nay, ông lần lượt đảm nhiệm nhiều chức vụ
quan trọng như: trưởng bộ môn Lý luận văn học, phó chủ nhiệm khoa
Văn học, Chủ nhiệm khoa Báo chí, Viện trưởng Viện Văn học, Tổng
biên tập Tạp chí Văn học. Ông cũng là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam
và hội viên Hội Nhà báo Việt Nam.

16

Từ trước đến nay, Hà Minh Đức luôn được biết đến trong vai trò là
một nhà lý luận, phê bình văn học xuất sắc với các tác phẩm có giá trị lớn,
có vai trò quan trọng đối với những người học tập, nghiên cứu và hoạt
động trong lĩnh vực văn học. Các tác phẩm của ông không chỉ đề cập đến
việc nghiên cứu những vấn đề lý luận chung chung mà còn đề cập đến
việc nghiên cứu, tìm hiểu các trào lưu, tác giả, tác phẩm cụ thể. Từ đó,
không chỉ đưa ra sự định hướng đối với người đọc, người tìm hiểu mà còn
mang đến cái nhìn mới với những đánh giá, nhận xét hết sức tinh tế, sâu
sắc. Một số tác phẩm nghiên cứu tiêu biểu của Hà Minh Đức có thể kể
đến là: Nhà văn và tác phẩm (1971), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt
Nam hiện đại (1974), Nam Cao - đời văn và tác phẩm (1986), Thời gian
và trang sách (1987), Lý luận văn học (1992), Văn chương - tài năng và
phong cách (2001)…
Với tư cách là hội viên Hội nhà văn Việt Nam, hội viên Hội Nhà
báo Việt Nam, Hà Minh Đức còn được biết đến trong vai trò là tác giả của
các tập thơ và kí đặc sắc về cả nội dung và nghệ thuật. Có thể kể đến một
số tập thở tiêu biểu của ông như: Đi hết một mùa thu (NXB Văn học,
1999), Ở giữa ngày đông (NXB Văn học, 2001), Những giọt nghĩ trong
đêm (NXB Văn học, 2002), Khoảng trời gió cát bay (NXB Văn học,
2007). Không chỉ sáng tác thơ, ông còn sáng tác cả ở thể loại ký và đã tạo
nên một phong cách khá độc đáo, mới mẻ. Có thể nói, nếu các tác phẩm
thơ là những cảm xúc trong tâm hồn tác giả trước cuộc đời và con người
với tất cả những gì đang diễn ra thì kí lại là sự ghi nhận, tái hiện của tác
giả về hiện thực cuộc đời. Sự ghi nhận, tái hiện này không đơn thuần là sự
ghi chép một cách đơn giản chung chung mà cao hơn nữa, nó thể hiện sự
chắt lọc từ hiện thực những gì tưởng như bình thường, giản dị, đang hàng
ngày diễn ra để từ đó, tác giả gửi gắm những cảm nhận, suy nghĩ rất riêng

17
và cả những suy tư, trăn trở về cuộc đời và con người. Cho đến nay, tác

giả đã cho xuát bản năm tập ký với những giá trị nội dung và nghệ thuật
lớn. Trước hết là tập ký Vị giáo sư và ẩn sĩ đường (NXB Văn Học, 1999)
chủ yếu viết về kỉ niệm với những người thầy, người bạn thân thiết, gần
gũi bên cạnh tác giả hoặc đã gắn bó với ông trong suốt một thời gian dài.
Đồng thời, tập kí này còn thể hiện cảm nhận về những miền đất đã qua và
những câu chuyện xung quanh những con người tác giả đã gặp và được
tiếp xúc. Nội dung này tiếp tục được triển khai trong các tập kí về sau
như: Tản mạn đầu ô (NXB Văn Học, 2002), Đi một ngày đàng (NXB
Văn Học, 2004), Người của một thời (NXB Văn Học, 2009). Riêng tập
ký Ba lần đến nước Mĩ (NXB Văn Học, 2000), giống như tiêu đề, tập kí
này tái hiện ba cuộc hành trình của tác giả đến nước Mỹ trong thời gian
khoảng 20 năm (1982 - 1999) đồng thời, thể hiện những cảm nhận rất
riêng, tinh tế về đất nước này. Tập bút ký Người của một thời là tập bút
ký mới nhất của tác giả, có sự tập hợp một số bài viết đã đăng trong các
tập sách trước, có sự chỉnh sửa, bổ sung và một số bài viết mới. Chính vì
vậy, có thể nói, đây là sự lắng lòng của tác giả, sự hồi tưởng lại một thời
đã qua giữa cuộc sống hối hả, nhộn nhịp thời hiện đại. Trước khi được in
thành các tập sách, các bài ký của ông đã được đăng rải rác trên các báo
trung ương và địa phương như: báo Văn nghệ, Tạp chí Hà Nội ngày nay,
báo Văn hóa, Tạp chí Văn học, Tạp chí Xứ Lạng Khi tập hợp thành tập
sách, ông đã lựa chọn những tiêu đề phù hợp và rất độc đáo. Có thể nói,
tiêu đề của các tập bút kí của ông đã phần nào thể hiện được những nội
dung chủ yếu được biểu hiện và đề cập đến trong các bài viết. Và, một
điều nữa cần phải khẳng định ở đây chính là những tập kí của Hà Minh
Đức cũng không đi ra ngoài những nội dung chính của kí văn học Việt
Nam thời kỳ hiện đại. Tuy nhiên, các tác phẩm của ông hầu hết tập trung

18
vào đề tài cuộc sống bình dị, quen thuộc với những con người, những câu
chuyện rất đỗi gần gũi và những miền đất đã qua. Đây cũng chính là đề tài

phổ biến hơn cả trong kí văn học thời kỳ này
Trong lời tựa cho tập bút ký Vị giáo sư và ẩn sĩ đường, tác giả đã từng
viết: “Ghi lại chuyện đời thường gần gũi với mình, phải chăng là lặp lại
lần nữa sự buồn tẻ trên trang sách. Tôi không nghĩ thế. Cho dù là những
mảnh nhỏ, mảnh vỡ của cuộc sống, nhưng nếu biết chắp nối lại, theo
dòng kỉ niệm và mạch tình cảm gắn bó, vẫn có thể tìm thấy trong những
góc lãng quên hình bóng chân thực của cuộc đời”. Như vậy, ở đây, Hà
Minh Đức đã khẳng định một cách rõ ràng ký là một thể loại có nguồn
gốc từ hiện thực cuộc đời, từ những điều tưởng như là rất nhỏ bé, vụn vặt.
Nhiệm vụ của người nghệ sĩ là phải phát hiện ra những điều tưởng như là
rất nhỏ bé ấy và tìm thấy trong đó những mối liên hệ nội tại để từ những
điều tưởng như là rất nhỏ bé, vụn vặt ấy, chúng ta có thể tìm thấy “hình
bóng chân thực của cuộc đời”. Đồng thời, đây cũng chính là lời nhận
định của ông về khuynh hướng sáng tác kí của mình, đó là viết về những
điều đơn giản nhất, gần gũi nhất trong đời sống hàng ngày của con người.
Đây không phải là lần đầu tiên ông thể hiện những suy nghĩ, quan điểm
của mình về vấn đề này bởi vì trong cuốn Lí luận văn học (NXB Giáo
dục, 2006) do ông chủ biên, và viết phần chương IV: Các thể kí văn học,
ông đã trình bày rất kỹ càng về thể loại này xét về mặt lí luận. Tuy nhiên,
có thể coi lời tựa cho Vị giáo sư và ẩn sĩ đường là quan điểm sáng tác cụ
thể, ngắn gọn, rõ ràng của Hà Minh Đức và đây cũng chính là sự định
hướng cho chúng ta trong sự tìm hiểu tất cả các tác phẩm kí của ông.
Ngược lại, việc tìm hiểu các tác phẩm kí này cũng chính là sự hiện thực
hóa những vấn đề lí luận mà ông đã nêu trong các công trình nghiên cứu
của mình.

19
Như vậy, tựu trung lại, có thể khẳng định thể loại kí với những tiểu
loại của nó không phải là một thể loại mới trong văn học. Với đặc trưng là
một thể loại đề cao sự khách quan, chính xác trong việc miêu tả và biểu

hiện, dù ở thời kì nào, kí cũng đóng vai trò quan trọng trong việc tìm hiểu
và khám phá cuộc sống con người. Trước đây, chúng ta đã từng quá quen
thuộc với tên tuổi Nguyễn Tuân - người được xem là tác giả xuất sắc nhất
trong thể loại này - với những câu văn điêu luyện, giàu hình ảnh và mang
đậm bản sắc cái tôi cá nhân thì ngày nay, kí cũng ghi dấu ấn của rất nhiều
tác giả với những đặc trưng riêng về phong cách. Trong thời kỳ hiện đại,
cuộc sống càng có nhiều thay đổi, nhu cầu biểu hiện, khám phá và tìm
hiểu ngày càng cao, vai trò của kí ngày càng trở nên quan trọng. Và, hơn
lúc nào hết, những đặc trưng về thể loại càng được chú trọng và nhấn
mạnh, phục vụ cho việc tìm hiểu và khám phá.
Có thể nói, hành trình sáng tác ký của Hà Minh Đức là hành trình
của một người nghệ sĩ tìm đến hiện thực cuộc đời với tất cả những biểu
hiện nhỏ bé, tinh vi của nó. Từ đó, để có cái nhìn hoàn thiện hơn, đa dạng
hơn. Đồng thời, sáng tác dù ở thể loại này hay thể loại khác thì cũng
nhằm đáp ứng một cách tốt hơn nhu cầu được biểu hiện của người nghệ sĩ
trước những điều cảm nhận được từ hiện thực cuộc sống đang diễn ra
xung quanh. Mỗi thể loại đều có những ưu điểm và hạn chế riêng trong
việc đáp ứng những nhu cầu được thể hiện của con người. Điều quan
trọng là mỗi người nghệ sĩ tìm thấy cho mình một hướng đi riêng, thỏa
mãn nhu cầu nội tại của tâm hồn.
Từ hai vấn đề trên, đòi hỏi chúng ta khi tìm hiểu về các sáng tác ký
của Hà Minh Đức không chỉ cần quan tâm đến đặc trưng thể loại mà còn
cần quan tâm đến sự vận động của bản thân tâm hồn người nghệ sĩ trong
quá trình sáng tác.

20
CHƢƠNG 2
CUỘC SỐNG VÀ CON NGƢỜI TRONG KÍ CỦA HÀ MINH
ĐỨC
2.1. Thế giới nghệ thuật và thế giới nghệ thuật ký Hà Minh Đức

Với đề tài Thế giới nghệ thuật trong kí của Hà Minh Đức, khái
niệm đầu tiên cần tiếp cận, tìm hiểu là khái niệm thế giới nghệ thuật và
biểu hiện, cấu trúc của nó trong tác phẩm. Có thể nói, khái niệm thế giới
nghệ thuật xuất hiện lần đầu tiên vào năm 1964 từ bài viết của Likhachôp
do yêu cầu muốn tiếp cận tác phẩm văn học dưới dạng một chỉnh thể.
Từ khi đó cho đến về sau này, có nhiều quan điểm khác nhau về
khái niệm thế giới nghệ thuật. Có ý kiến cho rằng: “Thế giới nghệ thuật
của nhà văn hiểu đúng nghĩa của nó là một chỉnh thể, đã là chỉnh thể
tất phải có cấu trúc nội tại theo những nguyên tắc thống nhất, cũng có
nghĩa là quan hệ nội tại giữa các yếu tố phải có tính quy luật” [29;78].
Trong khi đó, theo quan điểm thi pháp học thì “khái niệm thế giới nghệ
thuật chỉ chỉnh thể của sáng tác nghệ thuật (Một tác phẩm, một loại
hình tác phẩm, sáng tác của một tác giả hay một trào lưu văn học). Thế
giới nghệ thuật nhấn mạnh một thế giới riêng được sáng tạo ra theo
các nguyên tắc tư tưởng và nghệ thuật, khác với thế giới thực tại vật
chất hay thế giới tâm lý của con người mặc dù nó phản ánh thế giới ấy.
Thế giới nghệ thuật có không gian riêng, thời gian riêng, quy luật tâm
lý riêng, quan hệ xã hội, quan niệm đạo đức, những thang bậc giá trị
riêng…chỉ xuất hiện một cách ước lệ trong sáng tác nghệ thuật… mỗi
thế giới nghệ thuật ứng với một quan niệm về thế giới, một cách cắt
nghĩa về thế giới. Như vậy, khái niệm thế giới nghệ thuật giúp chúng ta
hình dung tính độc đáo về tư duy nghệ thuật của sáng tạo nghệ thuật có

21
cội nguồn trong thế giới quan, văn hóa chung, văn hóa mục đích và cá
tính sáng tạo của nghệ sĩ”. [16; 201-202].
Như vậy, có thể nói, thế giới nghệ thuật xét đến cùng chính là thế
giới hình tượng hiện ra như một chỉnh thể sống động, chứa đựng một quan
niệm nhân sinh và thẩm mỹ nào đó, được xây cất bằng vật liệu ngôn từ.
Chính vì vậy, cũng có thể khẳng định rằng cấu trúc của thế giới nghệ

thuật ở tác phẩm văn học chính là quan niệm nghệ thuật về cuộc đời và
con người trong không gian và thời gian đã được tác giả xây dựng. Điều
này cũng đồng nghĩa với việc tìm hiểu thế giới nghệ thuật trong một tác
phẩm văn học chính là tìm hiểu về cuộc sống và con người đã được nhà
văn khám phá và thể hiện. Qua đó, chúng ta cũng có thể có những hiểu
biết nhất định về cái nhìn về cuộc sống hiện thực của tác giả được thể
hiện trong tác phẩm.
Tiếp cận với bất kỳ một tác phẩm văn học thuộc một thể loại bất kỳ,
ta có thể thấy được quan điểm, cách nhìn của nhà văn với những gì
đang diễn ra xung quanh. Với Hà Minh Đức cũng vậy, với quan điểm
ký là sự ghi chép những điều vụn vặt trong đời sống, tiếp cận với ký
của ông, chúng ta có thể thấy một cách rõ ràng hiện thực cuộc sống,
con người đang diễn ra hàng ngày. Đó là những con người, những câu
chuyện mà bất kỳ ai trong chúng ta cũng có thể bắt gặp. Như ở phần
hành trình sáng tác của Hà Minh Đức đã nói, các tập bút kí của ông
mặc dù ra đời trong các khoảng thời gian khác nhau song một đặc điểm
chung có thể nhận thấy là nội dung của các tập kí ấy đều thống nhất ở
một điểm là viết về thầy cô, bạn bè, những người quen thuộc, gần gũi
với ông trong cuộc sống hàng ngày và những câu chuyện đã được
chứng kiến hoặc trải qua với những miền đất thuộc về quê hương hay
những nơi đã in dấu chân ông. Như vậy, tóm lại, trong tác phẩm kí của
Hà Minh Đức, ông tập trung khai thác ở ba đề tài chính: Thứ nhất là đề

22
tài thầy cô, bạn bè, mái trường; Thứ hai là đề tài những miền đất nước
và nước ngoài; Thứ ba là đề tài chuyện đời thường. Qua ba đề tài này,
cuộc sống đã được khái quát lên một cách chân thực, gần gũi và đa
chiều. Như vậy, việc tìm hiểu thế giới nghệ thuật trong các tác phẩm kí
của Hà Minh Đức chính là tìm hiểu về cuộc sống và con người được thể
hiện ở các tác phẩm ấy thuộc ba đề tài đã được đề cập ở trên.


2.2. Đề tài nhà trƣờng, thầy cô, bạn bè
2.2.1. Hình bóng chân thực của con người và của một thời
Có thể nói, trong ba đề tài sáng tác của Hà Minh Đức, đây được
xem là đề tài gần gũi nhất trong cuộc đời tác giả cũng như trog cuộc sống
của mỗi chúng ta. Đối với bất kỳ một tác giả nào khi sáng tác ở thể loại
này, có thể gọi là dạng hồi ức, hồi ký về những ngày đã qua và về những
người thân thiết, gần gũi trong cuộc đời. Tuy nhiên, với tác giả Hà Minh
Đức, đây là một đề tài đặc biệt. Nó đặc biệt ở chỗ ông vốn là một giáo sư,
là một người có uy tín và thâm niên trong lĩnh vực nghiên cứu văn học.
Chính vì vậy, những tác giả, những người thầy, người bạn xuất hiện trong
hồi ức của ông cũng đều là những người đặc biệt quan trọng (Chúng ta có
thể dùng từ ngữ là những người “nổi tiếng”). Bởi vậy, họ không hề xa lạ
với độc giả, thậm chí, nếu chỉ cần đọc qua tác phẩm của Hà Minh Đức
một lần, ta có thể kể lại một cách dễ dàng và trôi chảy tên tuổi của những
nhân vật đã xuất hiện trong các trang viết của ông. Tên tuổi của những
con người ấy, chúng ta có thể bắt gặp hàng ngày trên các mặt báo hay
trong các bài nghiên cứu về văn học. Đặc biệt, với những người tham gia
vào những công việc liên quan đến lĩnh vực văn học, những tư tưởng,
quan điểm của những con người ấy chính là sự định hướng, dẫn đường
cho chúng ta.

×