Tải bản đầy đủ (.pdf) (110 trang)

Thế giới nhân vật trong sáng tác của Tạ Duy Anh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (898.75 KB, 110 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
***





PHẠM QUỲNH DƯƠNG




THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG SÁNG TÁC CỦA
TẠ DUY ANH





LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 34



Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Mai Thị Hương





Hà Nội - 2008


1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Văn học sau 1975 và cách nhìn đổi mới về con người.
Sau năm 1975, nền văn học Việt Nam thực sự có rất nhiều khởi sắc.
Có thể nói, “chưa bao giờ, văn xuôi phát triển mạnh mẽ như bây giờ và cũng
chưa bao giờ, nhà văn được thành thật như bây giờ “.
Trên nền thời đại bộn bề “đa sự, đa đoan ấy, văn chương vẫn hút
nhựa từ cuộc sống để đem lại những sáng tác đa diện nhiều chiều”.
Thế giới nhân vật của một nhà văn được hình thành từ quan niệm
nghệ thuật về con người. Văn học trước 1975 quan niệm con người sử thi,
con người cao cả bách chiến, bách thắng. Sau 1975, con người trở nên phức
tạp, nhiều chiều. Trong tâm hồn mỗi con người luôn diễn ra cuộc đấu tranh
giữa cái cao thượng và thấp hèn, nhân đạo và độc ác, con người làm chủ
hoàn cảnh nhưng có khi lại là nạn nhân của hoàn cảnh.
Một hiện thực đa dạng sau chiến tranh kéo theo hệ thống nhân vật
sinh động hơn. Nhân vật của Nguyễn Minh Châu không phải là “cây đàn độc
điệu” thuần âm vực cao hay thấp, sáng hay tối, trong hay đục, thiện hay ác…
Nhân vật tự vấn, tự soi vào bức tranh tâm hồn nhiều hơn ( Bức tranh, phiên
chợ Giát…). Nhân vật dám chống lại những cấm đoán vô lý của ông cha để
gây dựng tình yêu trên mảnh đất thù hận (Bến không Chồng). Nhân vât coi
chiến tranh là môi trường thử thách nên khi bị mất môi trường sống, bước

2
chân khỏi chiến tranh đã cảm nhận được ngay cái lạc loài thế hệ (Nỗi buồn
chiến tranh).Bị kịch cá nhân đánh mất bản thân mình vì cộng đồng (Thời xa

vắng). Đặc biệt, tiếng nói của nhân vật không còn trùng khít với tiếng nói
của độc giả, có khi hoàn toàn độc lập. Điều này ta thấy ở những nhân vật-
bản năng của Nguyễn Huy Thiệp (Không có vua, những người thợ xẻ…).
1.2. Những sáng tác của Tạ Duy Anh như một “Miền đất hứa”.
Với tiểu thuyết Thiên thần sám hối. Tạ Duy Anh là “một hiện tượng
văn học nổi bật”, gương mặt nhà văn tiêu biểu trong năm 2004. Tác phẩm
này được săn lùng với tốc độ đáng nể: tái bản 5 lần trong năm đó, số lượng
lên đến gần 20000 bản.
Theo đường lan truyền tự nhiên, người ta tìm đến Tạ Duy Anh, cũng
có khi là một cơn sốt thời thượng. Người ta chợt nhớ ra, đây là nhà văn đã
được biết đến khi truyện ngắn “Bước qua lời nguyền” đoạt giải thưởng
trong cuộc thi viết về nông thôn - nông nghiệp do tuần báo Văn nghệ, báo
Nông nghiệp và Đài tiếng nói Việt Nam tổ chức năm 1989.
Giới phê bình và độc giả sành thưởng thức văn chương thì bắt đầu lần
lại những sáng tác của Tạ Duy Anh để tìm hiểu thực chất Tạ Duy Anh là ai
và có gì đáng chú ý? Đây là nhà văn của các tiểu thuyết: Khúc dạo đầu(
1991), Lão khổ(1992), Đi tìm nhân vật(2002), Thiên thần sám hối(2004),
Giã biệt bóng tối(2008), cùng với các tập truyện ngắn liên tiếp được xuất
bản với sự đón nhận nông nhiệt của bạn đọc, Mọi lời bình luận vẫn được tìm
đọc trên các báo và các trang web văn học.

3
Thực tế ấy tạo nên một “miền đất hứa” trong sáng tác của Tạ Duy
Anh, một vùng đất mới trong nghệ thuật tiểu thuyết nhấp nháy tín hiệu và
vẫy gọi khám phá, “miền đất hứa” hiểu theo cả nghĩa: sáng tác Tạ Duy Anh
cho chúng ta niềm hi vọng vào các sáng tác của nhà văn trong tương lai.
1.3. Thế giới nhân vật trong sáng tác của Tạ Duy Anh
Sáng tác Tạ Duy Anh gây hiệu ứng đa chiều ở độc giả. Tất cả tạo nên
những vòng sóng từ trường trong dư luận về nhà văn. Tất nhiên có từ trường
mạnh, có từ trường yếu, cả những từ trường giao đẩy nhau, đặt ra vấn đề cần

phải nhìn nhận một hiện tượng văn học, một tác phẩm văn học như thế nào
cho đúng đắn, đặc biệt là về thế giới nhân vật - một phương diện rất quan
trọng trong một sáng tác nghệ thuật.
Có thể nói, Tạ Duy Anh đã đem đến cho người đọc một cái nhìn đa
diện về con người về cuộc đời để rồi đi vào sáng tác của ông cũng là một thế
giới đầy phức tạp. Thế giới ấy mang tính chiều sâu nhân bản, đem đến cho
cõi đời một tiếng chuông khiến ta phải giật mình. Thế giới bản thể ta chưa
khám phá hết, chỉ cảm nhận rằng có thể nó tồn tại. Và Tạ Duy Anh đã đánh
thức khiến ta giật mình: có thể vì ta mà nó tồn tại.
Vì vậy khám phá thế giới nhân vật trong sáng tác của Tạ Duy Anh là
một điều vô cùng lý thú.
1.4. Kẻ xa lạ đến gần người xa lạ
Nếu xét tương quan giữa tác giả và độc giả, ban đầu là tương quan
không nối kết giữa người xa lạ với một kẻ xa lạ thì hành trình độc giả tìm

4
đến tác giả thông qua tiếp cận tác phẩm là con đường kẻ xa lạ đến gần người
xa lạ. Người viết cũng chỉ là một kẻ xa lạ, đến gần một người xa lạ, vì thứ
ánh sắc chợt loé lên trên văn đàn tiểu thuyết Việt Nam, mong tự giải mã hơn
là phán xét, phê bình. Luận văn này chỉ là một con đường người viết nhận ra
trong muôn vàn con đường khả dĩ tiệm cận được với tác phẩm của nhà văn.
2. Lịch sử vấn đề
Sau năm 1975, Đại hội Đảng VI đã khẳng định: Sự đổi mới trong văn
học diễn ra sôi nổi và mạnh mẽ. Hoà trong dòng chảy chung của văn học, Tạ
Duy Anh đã trở thành một hiện tượng đặc biệt có từ trường mạnh và từ đó,
xuất hiện những ý kiến bàn chung đến sự đổi mới hiện thực của văn xuôi
trong đó có sáng tác của Tạ Duy Anh và những ý kiến bàn riêng về sáng tác
Tạ Duy Anh.
2.1. Những ý kiến gián tiếp có liên quan đến đề tài.
Bài viết Văn xuôi những năm và vấn đề dân chủ hoá nền văn học

có viết “ Nở rộ trong văn xuôi những năm 1980 là những tác phẩm viết về
sự mưu cầu hạnh phúc cá nhân và nỗi khát khao tình yêu đôi lứa Dấu
hiệu chủ yếu của việc dân chủ hoá nền văn học là sự dân chủ hoá trong
quan niệm về con người, trong cách nhìn nhận con người bình thường và
các nhà văn quan tâm là “cốt cách tâm lý, thế giới bên trong, những động
cơ tiềm ẩn cùng những phản ứng trước những biến đổi thời thế “ trong đó “
ý hướng đi vào thế giới nội tâm để khám phá chiều sâu tâm linh nhằm nhận
diện hình ảnh con người đích thực là ý hướng có triển vọng của một nền văn
học dân chủ “.

5
Tác giả bài viết Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật sau 1975
[8] cũng cho rằng: “Nhân vật trong văn xuôi sau 1975 rõ ràng ít tính lí
tưởng, không hoàn hảo, sạch sẽ, không được bao bọc trong bầu không khí
vô trùng”.
2.2. Những ý kiến liên quan trực tiếp đến đề tài:
Lê Đạt nói: “ Chỉ khi nào bắt đầu có môt ngôn ngữ riêng nhà thơ mới
thật sự trở thành trẻ”. Mở rộng ra, điều ấy có nghĩa: khi một nhà văn bắt
đầu được nhận diện bởi thứ ngôn ngữ của mình, lúc ấy anh ta mơí là một
nhà văn trẻ. Trong một khoảng đối sách gần, so với Tô Hoài, Nguyễn Khải,
Ma Văn Kháng, Lê Lựu, Nguyễn Khắc Trường, Nguyễn Huy Thiệp, Dương
Hướng, Bảo Ninh Tạ Duy Anh là một nhà văn trẻ, cùng lứa với Hồ Anh
Thái, Võ Thị Hảo, Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Bình
Phương Nhà văn mới có tên trong chương trình văn học lớp 6 (Bộ sách
giáo khoa thí điểm, NXB giáo dục) với truyện ngắn “Bức tranh của em gái
tôi”. Như vậy với một nhà văn trẻ, dư luận có thể nhiều nhưng lịch sử
nghiên cứu sáng tác của anh ta lại là cuốn sổ còn bỏ ngỏ. Tác phẩm Tạ Duy
Anh chưa được nghiên cứu, phê bình đầy đủ, rộng rãi nhất là chưa được nhìn
nhận đúng mực những đóng góp trong công cuộc làm mới nghệ thuật tiểu
thuyết đang diễn ra ở hầu khắp các nhà văn hiện nay.

Thế giới nhân vật trong sáng tác Tạ Duy Anh chưa phải là một vấn
đề bị bó buộc bởi con mắt soi chiếu của giới phê bình. Có nghĩa, vấn đề này
chưa được hoàn kết bởi một hệ thống đánh giá cố định nào toàn diện, cụ thể
và đến độ soi chiếu về sáng tác Tạ Duy Anh, GS Hoàng Ngọc Hiến đã ghi
nhận với truyện ngắn Bước qua lời nguyền : Ý nghĩa của truyện ngắn không

6
chỉ dừng lại ở giá trị nhân văn mà còn mang tầm vóc lịch sử “Chuẩn bị bước
vào thế kỉ XXI”. “Những lời nguyền nào là đáng nguyên rủa, những lời
nguyền nào nhân loại trước sau phải bước qua? Phải chăng câu hỏi cấp
thiết này được đặt ra cho mỗi người, mỗi quốc gia?”. Truyện của Tạ Duy
Anh là tín hiệu của một dòng văn học mới, “dòng văn học bước qua lời
nguyền”. [5;140]
Tạ Duy Anh là một cây bút viết truyện ngắn nhưng sau thành công
đầu tiên và sau tiểu thuyết Khúc dạo đầu không gây được tiếng vang, nhà
văn lại nổi lên với bộ ba tiểu thuyết : Lão Khổ, Đi tìm nhân vật, Thiên thần
sám hối và mới gần đây là tiểu thuyết Giã biệt bóng tối. GS Hoàng Ngọc
Hiến tiếp tục khẳng định : “ Tạ Duy Anh bước qua lời nguyền để đi đến đi
Lão Khổ. Thêm một giả thiết văn học về bản chất và thân phận người nông
dân Việt Nam . Đây là một cuốn tiểu thuyết rất quan trọng”. [5;140]
Báo thể thao văn hoá số 47 năm 2004 đã đưa ra nhận định: “Có thể
coi ông là nhà văn của đạo đức,văn chương ông có lúc hiện lên bằng một
gương mặt thế sự, đớn đau, riết róng chuyện thánh thiện, tàn ác, liêm sỉ và
vô lương nhưng không phải như những khái niệm truyền bản chết khô, mà
thông qua sự cảm nhận đau đớn về số phận” “mối quan tâm lớn nhất của
Tạ Duy Anh là cái vong bản, đánh mất mình của con người dưới dự giằng
giật xiêu dạt của lịch sử. Trên con đường truy tìm lại mặt mình, cũng như
khả dĩ gương mặt thực của quá khứ, con người vấp phải và bị phong toả bởi
thói gian trá, đớn hèn, vật dụng, tàn ác, kể cả trong mỗi cá nhân. Phúc âm
duy nhất là tình yêu, tình cảm trong sáng bản thể của hiện tại và cái nhìn

trung thực, nhân đạo đối với những vết thương , lỗi lầm của qúa khứ”.

7
Báo Pháp luật số 140 năm 2004 đưa ra nhận định “hầu hết những tác
phẩm của ông (trừ truyện viết cho thiếu nhi và tản văn) đều rất gai về nội
dung thể hiện [21] dưới cái nhìn hiện thực ở góc khuất”. Đi tìm nhân vật là
“Bức tranh hiện thực ngọt ngào của quyền lực, cái chết, sự đồi bại còn
Thiên thần sám hối là một cuốn tiểu thuyết rất hay gần đây viết về nỗi đau
làm người và chưa được làm người qua câu chuyện của một hài nhi đang
lựa chọn có nên làm người hay không” [5;405]. Nhà văn đã cho bạn đọc cái
nhìn thẳng vào sự thật chát chúa “ ông là một tác giả tâm huyết, trăn trở với
số phận con người, nhất là khi họ bị rơi vào tình trạng khủng hoảng nhân
cách. Tạ Duy Anh đã nhìn hiện thực một cách lý trí, lạnh lùng nhưng cũng
đầy thương xót con người”.
Báo giáo dục và thời dại số 80 năm 2004 cũng đặt câu hỏi: “Số phận
con người phải chăng luôn là sự trăn trở, dằn vặt trong ông” và tác giả bài
báo cũng đưa ra câu trả lời: “Nhân vật vào của ông cũng thấp thoáng bóng
dáng của một người sinh ngày 9 tháng 9 tại làng Đồng” [20].
Bài Tạ Duy Anh quả lằn ranh thiện ác [38] gọi tác giả là “nhà văn
của những thời điểm” “đã đưa ra một số cái nhìn cơ bản về quan niệm của
tác giả về con người: “Nhân vật của Tạ Duy Anh không có sự trung gian,
nhờ nhờ, xam xám về ngoại hình. Người xấu thì cực xấu như lão Phụng
người đẹp thì như hoa như ngọc như Quỳnh Anh, bà Ba như những sản phụ
chờ sinh. Nhưng bản chất con người thì luôn luôn ở ranh giới thiện - ác.
Nhân vật nào cũng luôn luôn bị đặt trong trạng thái đấu tranh với xã hội với
môi trường, với kẻ thù, với người thân,với chính bản thân mình . Đã thế nhà
văn lại có cái giọng rất quyết liệt, nhiều hình dung từ và động từ mạnh, chõi

8
nhau ” nhà văn lắm lúc quằn quại rên rỉ vì không ngăn nổi một hành động

ác, cũng có khi “lạnh lùng cố ý trước một sự trả thù”.
Nói về thế giới nhân vật trong sáng tác Tạ Duy Anh, nhà văn Nguyên
Ngọc trong bài viết Văn xuôi Việt Nam hiện nay, lôgíc quanh co của các
thể loại, những vấn đề đặt ra và triển vọng đã nêu nhận định “ Bước qua
lời nguyền của Tạ Duy Anh gói gọn trong nửa trang cả một cuộc đời, một
kiếp sống, mấy kiếp người vừa là tác giả vừa là nạn nhân của những bi kịch
đằng đẵng một thời” (evan.com.vn) Tạ Duy Anh luôn theo đuổi nhân vật
“vừa là tác giả, vừa là nạn nhân của những bi kịch”.
Trong bài viết Tạ Duy Anh - người đi tìm nhân vật Tác giả Thuỵ
Khuê đã nhận thức về nhân vật Tạ Duy Anh với cái nhìn lịch sử: “Những
nhân vật của Tạ Duy Anh qua bao tác phẩm từ hơn mười năm nay vẫn gắn
bó mật thiết với nhau trong một tương quan chặt chẽ, họ hàng, làng nước.
Họ xuất thân cùng ở làng Đồng, họ cùng tiềm ẩn thù hận dòng họ, hận thù
giai cấp ”.
Từ những nhận định trên, sự tìm tòi về thế giới nhân vật trong sáng
tác của Tạ Duy Anh được nhìn nhận trên các phương diện sau.
1. Về nội dung: Tạ Duy Anh đi sâu vào mảng hiện thực của đời sống
hiện đại, đưa ra cái nhìn đổi mới về con người:
“Mối quan tâm lớn nhất của Tạ Duy Anh là cái vong bản, đánh mất
mình của con người, dưới sự giằng giật, xiêu dạt của lịch sử Phúc âm duy
nhất là tình yêu, tình cảm trong sạch bản thể của hiện tại và cái nhìn trung
thực, nhân đạo đối với những vết thương, lỗi lầm của quá khứ. Bí ẩn của sự

9
tồn tại được đặt ra cùng câu hỏi về thân phận của thế hệ tương lai trên
miệng vực cái ác, chứa đựng những ẩn số lớn về con người và nhân thế
[5;374]. Nhân vật văn học là phương tiện tất yếu và quan trọng nhất giúp
nhà văn khái quát các tính cách xã hội và mảng đời sống gắn liền với nó. Tạ
Duy Anh đã cho thấy một khả năng dự cảm chân thật về bản chất hiện tồn
của con người. Qua nhân vật, nhà văn đã kiến giải về con người: Con người

là ai? Vì sao nó đau khổ? Vì sao tha hoá để người đọc có thể tự tìm ra cho
mỗi nhân vật một hướng đi đúng đắn để tồn tại, vươn lên trong thế giới loài
người.
2. Về nghệ thuật: Sự lao động nghiêm túc của nhà văn thể hiện một
nỗ lực tìm tòi đổi mới kỹ thuật viết của mình. Nhà văn đã có những phá cách
về mặt lối viết, cốt truyện tạo dựng không gian, thời gian nghệ thuật làm nền
cho nhân vật với hệ thống ngôn ngữ phong phú đa thanh phức điệu, cách
viết ẩn dụ, ngụ ngôn, hiện thực huyền ảo Tất cả đã thể hiện được phong
cách đổi mới của ông trong cách nhìn nhận, khám phá thế giới nhân vật.
Trong phạm vi nghiên cứu nhà trường, tác phẩm Tạ Duy Anh đã được
tìm hiểu trong một số luận văn thạc sĩ sau:
- Nông thôn trong sáng tác của Tạ Duy Anh (Nguyễn Thị Mai Loan)
- Cảm thức về cái Phi Lý trong sáng tác của Tạ Duy Anh (Cao Tố
Uyên)
- NT kết cấu trong thuyết “Đi tìm nhân vật” của Tạ Duy Anh
(Nguyễn Thị Ninh)

10
- Tạ Duy Anh - từ quan niệm NT đến những đổi mới trong sáng tác
truyện ngắn (Phạm Thị Hương)
- Thế giới nghệ thuật tiểu thuyết Tạ Duy Anh (Bùi Thanh Tùng)…
Với góc độ khám phá riêng biệt, luận văn này muốn tổng hợp lại từ
những nhận định trên để có cái nhìn toàn diện, sâu sắc về thế giới nhân vật
trong sáng tác Tạ Duy Anh đồng thời muốn ghi nhận đóng góp của nhà văn
đối với văn xuôi thời kì đổi mới.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng của luận văn là thế giới nhân vật trong sáng tác của Tạ
Duy Anh
Phạm vi của Luận văn tập trung vào 4 tiểu thuyết của Tạ Duy Anh
1.Lão khổ

2. Đi tìm nhân vật
3. Thiên thần sám hối
4. Giã biệt bóng tối
Và một số truyện ngắn tiêu biểu trong các tập truyện ngắn của Tạ Duy
Anh :Bước qua lời nguyền, Luân hồi, Ba đào kí, Nhân vật


11
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng những phương pháp chủ yếu:
- Phương pháp lịch sử nghiên cứu tiểu thuyết Tạ Duy Anh trong thời
kỳ đổi mới để thấy sự đổi mới trong tư duy nghệ thuật của nhà văn.
- Phương pháp phân tích tác phẩm văn học: Dựa vào đặc trưng thể
loại để làm sáng tỏ nội dung tư tưởng, giá trị nghệ thuật trong tác phẩm của
nhà văn.
- Phương pháp so sánh: So sánh đồng đại và lịch đại so sáng với
những sáng tác khác để tìm ra những nét riêng biệt của Tạ Duy Anh.
- Phương pháp hệ thống: Đề tài được đặt trong hệ thống tác phẩm của
Tạ Duy Anh để xem xét, đánh giá và phát hiện cái nhìn nhận, thể hiện con
người trong quá trình sáng tác của nhà văn.
5. Đóng góp của Luận văn
Nghiên cứu một cách có hệ thống về nhân vật trong sáng tác của Tạ
Duy Anh nhằm khẳng định thành công cũng như hạn chế trong sáng tác của
nhà văn qua đó thấy được sự đổi mới về tư duy nghệ thuật cũng như khẳng
định vị trí của nhà văn trong nền văn xuôi đương đại.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, luận văn dự định triển khai 3 chương:

12
Chương I: Tạ Duy Anh và sự đổi mới sáng tác

Chương II: Thế giới nhân vật trong sáng tác của Tạ Duy Anh
Chương III: Nghệ thuật xây dựng nhân vật của Tạ Duy Anh
Trong quá trình thực hiện luận văn, người viết chủ tâm học tập và
chịu nhiều ảnh hưởng về phương pháp tư duy cùng với cách sử dụng ngôn
ngữ của một số nhà nghiên cứu, các thầy cô và bè bạn, đặc biệt, người trực
tiếp hướng dẫn tôi - cô - Mai Hương.
Vì điều kiện thời gian nghiên cứu không nhiều và kiến thức còn hạn
chế, luận văn khó trách khỏi những thiếu sót và chủ quan khi nhìn nhận vấn
đề. Rất mong nhận được sự góp ý tận tình của thầy cô và các bạn.
Hoàn thành luận văn này tôi muốn gửi lời cảm ơn chân thành tới gia
đình, bè bạn. Và tới sự nhiệt tình, bao dung của cô!

13
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TẠ DUY ANH VÀ SỰ ĐỔI MỚI TRONG SÁNG TÁC
1.1. “Làm mới” như là một xu hướng thể nghiệm của các nhà văn
Việt Nam hiện nay.
Văn chương tự nó là một cách làm mới cuộc sống.
Nhưng làm mới văn chương phụ thuộc vào cách viết của mỗi người.
Nhà văn luôn phải thay đổi, tránh lặp lại mình. “Với tư cách người viết,
những dòng chữ xuất hiện một cách tự phát, hồn nhiên và dễ dãi nhất,
thường là những dòng chữ đáng ngờ vực (ảnh hưởng)” của những người
trước đó. Nói theo bài giảng, phải xoá bỏ những câu thơ “tèm nhem tâm
hồn” ấy, chống lại chính bản thân mình, phải tái tạo chính mình chứ không
chủ đơn giản là thành thật với chính mình [39;61].
Không phải là mạnh mẽ, song văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới đã
có bước chuyển mình so với văn học giai đoạn trước đó. Cú vặn mình có thể
bắt đầu từ Nguyễn Minh Châu với Bức tranh, Phiên Chợ Giát, Người đàn
và trên chuyến tàu tốc hành Nguyễn Khải với Gặp gỡ cuối năm, thời gian
của người đã khiến cho các cây bút giật mình nhận ra “từ nay không còn

có thể viết như trước nữa phải thay đổi phải viết khác đi, “Cần tìm cho
mình một ngôn ngữ nghệ thuật khác”( Nguyên Ngọc). Lê Lựu nói : “Tôi tự
bảo không thể viết như cũ được nữa” Nguyễn Minh Châu:”Hãy đọc lời ai
điếu cho một giai đoạn văn nghệ minh họa”. Đây là một nhu cầu tự thân của
giới văn nghệ sĩ, cũng phù hợp với đường lối đổi mới của Đảng ta được đề
ra từ Đại hội Đảng lần VI: “Đối với nước ta, đổi mới đang là yêu cầu bức

14
thiết của sự nghiệp cách mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn”, phải đổi
mới, trước hết là đổi mới tư duy,chúng ta mới có thể vượt qua khó khăn,
thực hiện được những mục tiêu do Đại hội lần thứ VI đề ra. Nghị quyết 05
của Bộ chính trị khuyến khích văn nghệ đổi mới: “Thực hiện chủ trương đổi
mới của Đảng trong hoàn cảnh cách mạng khoa học kĩ thuật đang diễn ra
với quy mô, tốc độ chưa từng thấy trên thế giới và việc giao lưu giữa các
nước, các nền văn hoá ngày càng mở rộng, văn hoá, văn nghệ nước ta ngày
càng đổi mới, đổi mới mới tư duy, đổi mới cách nghĩ, cách làm”, “Đảng
khuyến khích văn nghệ sĩ tìm tòi sáng tạo, khuyến khích và yêu cầu có những
thể nghiệm mạnh bạo, rộng rãi trong sáng tạo nghệ thuật, phát triển các
loại hình nghệ thuật, các hình thức biểu hiện”. Rồi một loạt những tiểu
thuyết ra đời: Thời xa vắng (Lê Lựu), Thân phận của tình yêu ( Bảo Ninh),
Bên kia bờ ảo vọng (Dương Thu Hương), Bến không chồng, (Dương
Hướng). Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng), Mảnh đất lắm người
nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường)” truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Phan
Thị Hoài, Tạ Duy Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh thơ Lê
Đạt, Dương Tường, Hoàng Cầm đã làm nên một trào lưu có tên là đổi mới
Đổi mới trong văn chương, nói như Nguyên Ngọc. Đó là trào lưu
mạnh dạn phơi bày cái tiêu cực của xã hội, nhận chân lại các giá trị của lịch
sử, “Nói lên sự thật trần trụi, đưa ra khỏi bóng tối, phơi bày ra dưới mắt mọi
người tất cả các mặt tiêu cực của xã hội, của đời sống đất nước sau chiến
tranh, các mặt trước nay vẫn bị dồn nén lại, che giấu cẩn then” [ 31]. Cái

bản ngã, cái cá nhân cá thể muốn được khẳng định lại; một bản lĩnh sáng tạo
có điều kiện được chăm chút hơn với những sự tiếp thu tinh hoa văn học mới
của thế giới dẫn đến những bung phá về nghệ thuật, chảy tràn ngôn ngữ của
“dòng ý thức” những độc thoại nội tâm triền miên, kết cấu tác phẩm hiện

15
đại từ những mảng ghép phi trình tự thời gian theo kiểu vụt hiện chớp
nhoáng trong kĩ xảo điện ảnh vv…Nguyên Ngọc nói: “bản chất của sự đổi
mới bây giờ là phá trói”. Do “sự sống bị dồn nén lâu dài, do sức mạnh nội
sinh tích luỹ, cuối cùng đã phá vỡ làm bật tung những ràng buộc vô lý, phi
tự nhiên. Cuộc sống tự nó phá trói,mở đường đi tới. Những trói buộc bị bật
tung vì chúng không đủ sức kìm hãm nữa. Nói cách khác, sự đi tới của cái tự
nhiên, qua dồn nén lâu ngày, đã mạnh hơn cái phi tự nhiên. Đấy mới chính
là bản chất của Đổi mới”.
Trào lưu ấy nhưng thở mạnh từ 1992
Nhưng trào lưu ấy lại vực tây trong khoảng dăm bảy năm trở lại đây,
chưa phải với khuôn mặt hoàn toàn xa lạ như một cánh rừng nguyên sinh đột
hiện, mà chỉ là sự tân trang của bộ y phục được làm mới. Làm mới, (Thuật
ngữ tiếng Pháp : Rénoven) là bản chất của đổi mới văn học hiện thời. Là
một nỗ lực tự thân của mỗi người cầm bút bị ngợp bởi tốc độ và trình độ của
kỹ thuật văn chương siêu hiện đại, bị uy hiếp bởi cái vực không khoan
nhượng của thời gian trên đó bám đầy rêu của cái cũ, và bị bức bủa của
những vấn đề nhức nhối ngột ngạt thời hiện đại. Xét đến cùng “làm mới”
cũng là một phương cách lạ hoá những gì đã có. Và có thể nói, sự độc chiếm
trong tiểu thuyết đổi mới bây giờ là những thể nghiệm mạnh mẽ về ngôn
ngữ giọng điệu, kết cấu và những điểm nhìn lạ hoá hiện thực dưới nhiều góc
độ khác nhau.
1.2. Cuộc đời và hành trình sáng tác của Tạ Duy Anh

16

Tạ Duy Anh tên thật là Tạ Viết Đăng sinh 09/9/1959 tại thôn Cổ Hiền,
Chương Mỹ - Hà Tây. Ông có nhiều bút danh như Lão Tạ, Chu Quý, Quý
Anh, Bình Tân Tốt nghiệp cử nhân văn chương là hội viên hội nhà văn,
từng giảng dạy ở trường viết văn Nguyễn Du, một thời ông làm gián sát chất
lượng bê tông nhà máy Thuỷ điện Hoà Bình, làm trung sĩ bộ binh ở Lào, giờ
Tạ Duy Anh làm biên tập viên nhà xuất bản hội nhà văn Việt Nam.
Cuộc đời Tạ Duy Anh là một chuỗi những câu hỏi để rồi nhà văn lục
lại qúa khứ và đau đớn. “Tôi sinh ra vào nhữg cơn mưa. Vào một đêm sâu
thẳm nào đó, trong nỗi cô đơn khủng khiếp. Cha tôi lang thang đi tìm Miền
khô ráo. Ông đã nằm mơ thấy trước tất cả những gì sẽ diễn ra. Trong cơn
mưa dập vùi của trời đất, ông thấy tôi mang hình quả cầu lửa. Mẹ tôi khi ấy
giống như cọng cỏ úa vàng vì ẩm ướt đã giơ tay cầu nguyện. Chiếc giường
tre nấc lên bởi cuộc báo thù số phận, bởi nỗi đau đớn triền miên không thể
giải thoát. Bà tiên cảm tới một cuộc sinh nở sẽ rất quằn quại và điều đó bắt
đầu làm nên số phận tôi”. [10;3]
Tôi sinh ra ở một vùng quê hẻo lánh, thấm đẫm không khí thù hận, cơ
thể còi cọc, mặt mũi đen đủi,xấu xí, sống với người cha “rắn như thép”. Tôi
biến thân xác của tôi thành các vỏ ốc để bao bọc toà lâu đài tôI xây bằng trí
tưởng tượng. Và chỉ khi lọt thỏm trong thế giới của tôi, tôi mới không cảm
thấy sợ đủ thứ, không bị ai chòng ghẹo, nhạo báng, vô hiệu hoá mọi lờii
ngăn cấm của cha tôi. Tôi hoàn toàn tự do trong vương quốc do tôi tạo ra”
[6;3].
“Bi kịch lớn nhất đời tôi là sự chối bỏ, từ trong ý thức sâu thẳm vùng
đất mình sinh ra và lớn lên. Tôi chạy trốn nó như chạy chốn cái chết, thường

17
khiến tôi cô đơn ngay từ buổi chưa đi học, khi buổi chiều ảm đạm nào dó,
một ai đó được cả làng đưa ra đồng, vùi xuống ba thước đất và thế là dường
như họ chưa hề có mặt trên cõi đời này.”
“Tôi không được chuẩn bị mảy may để trở thành nhà văn. Trừ cụ nội

bốn đời của tôi có ít chữ nghĩa nhưng lánh tục, còn lại tôi không được thừa
hưởng truyền thống văn chương như mọi người thường hỏi tôi về điều đó.
Thậm chí, tôi còn thừa hưởng cái không ai muốn ấy là sự thất học” [6;174]
“Trước đó cả làng tôi, người ta không tin vào bất cứ ai của làng có
thể làm nên trò trống gì bằng học hành. Chúng tôi lớn lên với nỗi ám ảnh về
một lời nguyền theo đó “Khi nào đá có thể nổi trên mặt nước” thì làng mới
có người đỗ đạt. Tôi chẳng hiểu sao số phận lại chọn tôi, một kẻ còi cọc,
nhút nhát, đầy bệnh tật từ khi ra đời để đương đầu với lời nguyền khủng
khiếp và vô lí đó “ [6;152]
Bước chân dung tự hoạ, những trang tự thuật trên đã cho thấy nhiều
khía cạnh trong con người Tạ Duy Anh mà nét nổi bật là cái “Tôi cô đơn”,
đô độc, cái tôi ấy thường xuyên đối thoại với chính mình và đối đầu với cảm
giác bất ổn của thực tại. Con người “chạy chốn” trong Tạ Duy Anh là biểu
hiện của nõi bất an cô đơn trước hiện tại. Tưởng tượng ra một thế giới khách
để được bình yên từ đó, viết văn bằng những trải nghiệm của mình, Tạ Duy
Anh đến với văn chương nghệ thuật một cách tự nhiên. Ông viết: “Nhà văn
nào cũng tận dụng triệt để tiểu sử của mình khi sáng tác những cuốn sáng về
chính anh ta”[6;187]. Phải chăng mỗi tác phẩm tâm huyết của Tạ Duy Anh
không chỉ là sự thăng hoa của những mặc cảm, những chấn thương từ một

18
tâm hồn yếu đuối, bệnh tật mà còn là sự khúc xạ trang trải, hoài nghi và lo
âu về thân phận và tình trạng tha hoá của con người thời hiện đại?.
Tạ Duy Anh có năng khiếu văn chương rất sớm. Ngay khi học lớp 8,
ông đã viết truyện ngắn đầu tay của mình với đề tập làm văn cô giáo cho.
Em hãy kể lại một kỉ niệm đáng nhớ. Bài văn đạt điểm cao và con đường
đến với văn chương nghệ thuật của Tạ Duy Anh được manh nha từ truyện
bịa đầu tiên ấy. Ông tâm sự, với bài văn ấy “tôi cảm thấy mình bịa được
truyện”.
Là cậu tú tài đầu tiên của làng Đồng, Tạ Duy Anh lên Sông Đà học

lớp chuyên nghiệp giám sát bêtông. Thời gian này ông có viết nhưng như
người làm vườn mới tập gieo hạt, đến mùa thu hoạch ông chẳng gặt hái được
gì. Cho đến năm 1980, khi đi thực tập, trong căn lều heo hút ngọn đèn dầu,
một đêm thấy trong mình “cứ cựa quậy một cái gì đó “ngày càng mãnh
liệt rõ nét thôi thúc ông phải cầm bút. Và truyện ngắn Để hiểu một con
người ra đời. Cái tên Tạ Duy Anh chợt nảy ra, rồi được đề ngay dưới truyện
ngắn. Truyện còn được đăng ở báo Lao động - một tờ báo danh giá thời bấy
giờ. Tạ Duy Anh trở thành bút danh, thành tên gọi quen thuộc đối với công
chúng văn học.
Hai năm 1982, 1983 viết Truyện viết ở công trường, Nắng, Sông Đà
nhưng chính người sáng tác lại không muốn ai tìm đọc vì cảm thấy không tự
tin. Bài học sáng tác đầu tiên mà ông cảm nhận được là không thể viết
những điều không phải là máu thịt của mình.

19
Năm năm sau (1988), trở về làng Đồng sau ngày ra quân, trong một
buổi chiều âm u, cái cảm xúc của tám năm về trước lại rạo rực trong tâm trí
nhà văn, như người đang khao khát kiếm tìm bỗng được gia ân, Tạ Duy Anh
cảm thấy có vốn sống, vốn kí ức vô cùng phong phú, quí báu về làng quê mà
xưa nay mình không nhận ra, cứ thang thang đi tìm ở những đâu. Ông viết
Lũ vịt giời (mới đầu đặt tên là Mưa đá), viết liên tiếp, liền một mạch vào
những vỏ bao thuốc lá, chữ bé li ti, dày ríu rít. Hành trình đến với văn
chương nghệ thuật của Tạ Duy Anh tuy được manh nha từ sớm nhưng chỉ
đến khi viết Lũ vịt trời, ông mới có cảm giác mình hoàn toàn tự tin. Ông bắt
đầu nghĩ nghiêm túc về quê hương mình, hóa ra toàn bộ thế giới này có hết
dưới dạng thu nhỏ ở làng mình. Quá trình “bừng ngộ” đó giúp ông viết
Bước qua lời nguyền (1989) mê mải từ sáng đến tối, mười bảy trang bản
thảo chữ nhỏ li ti. Viết xong, như con tằm nhả tơ, tác giả “cảm thấy không
còn gì để sống nữa, một cảm giác rỗng hết ở trong con người”.
Năm 1989, sự xuất hiện truyện ngắn Bước qua lời nguyền đánh dấu

bước ngoặt thực sự trên hành trình sáng tạo của Tạ Duy Anh. Ở một loạt
truyện tiếp theo được tập hợp trong các tập Luân hồi (1944), Truyện ngắn
Tạ Duy Anh (2003), Bố cục hoàn hảo (2004) , nhà văn vẫn tiếp tục dòng
mạch cảm hứng mà Bước qua lời nguyền đã khơi mở. Chính truyện ngắn
này đã mang lại vinh quang rực rỡ cho Tạ Duy Anh. Với giải nhất cuộc thi
viết về Nông nghiệp - nông thôn do Tuần báo Văn nghệ, báo Nông nghiệp
Việt Nam và Đài tiếng nói Việt Nam tổ chức năm 1989, tên tuổi Tạ Duy
Anh bắt đầu được đông đảo dư luận chú ý. Tác phẩm của ông trở thành
“hiện tượng”, “sự kiện văn học” ở mảng truyện ngắn. Nhà thơ Hoàng Minh
Châu coi Bước qua lời nguyền là một truyện ngắn đã “báo hiệu một tấm
lòng lớn, một tầm nhìn xa và một tài năng trẻ viết về số phận con người”.

20
Còn Hoàng Ngọc Hiến dành hẳn một bài viết về tác phẩm này trên báo
Nông nghiệp số 50, tháng 12-1989. Nhà phê bình khẳng định: “Đọc truyện
của Tạ Duy Anh, một câu hỏi được đặt ra: Giã từ thế kỉ XX bão tạp và máu
lửa này và chuẩn bị bước vào thế kỉ XXI “lí trí nhân bản”, những lời nguyền
nào là đáng nguyền rủa, những lời nguyền nào nhân loại trước sau phải
bước qua? Phải chăng câu hỏi bức thiết này cũng được đặt ra cho mỗi
người, mỗi quốc gia? Phong cách truyện ngắn Tạ Duy Anh là tín hiệu của
một dòng văn học mới, dòng văn học Bước qua lời nguyền”.
Như vậy, có thể thấy Bước qua lời nguyền không chỉ có giá trị nhân
văn mà còn là một tư tưởng có tầm thời đại: nhu cầu tự vấn để phát triển của
mỗi con người, mỗi dân tộc. Tác phẩm không chỉ là khởi đầu tốt đẹp đối với
cá nhân nhà văn mà còn đóng góp to lớn vào công cuộc đổi mới nền văn học
nước nhà. Với khát vọng Bước qua lời nguyền, truyện ngắn của Tạ Duy
Anh tiêu biểu cho tinh thần dân chủ của thời đại và của văn học. Bước qua
lời nguyền là lời tuyên chiến với những định kiến chật hẹp trói buộc con
người, là lời kêu gọi tự do sáng tạo đối với văn nghệ sĩ.
Năm 1991, Tạ Duy Anh thử sức ở mảnh đất rộng lớn, màu mỡ của

tiểu thuyết - thể loại được xem như “máy cái” của một nền văn học hiện đại.
Khúc dạo đầu là thử nghiệm đầu tay nhưng không thành công. Liền sau đó,
năm 1992, Lão Khổ ra đời. Với Tạ Duy Anh, Lão Khổ mở ra một tiềm năng
tiểu thuyết đáng được chờ đợi. Dư luận đánh giá: “đây là cuốn tiểu thuyết
quan trọng”, “thêm một giả thuyết văn học về bản chất và thân phận người
nông dân Việt Nam” (Hoàng Ngọc Hiến). Trước đó, theo “giả thuyết văn
học” của nhà văn Nguyễn Minh Châu (Phiên chợ Giát), người nông dân
vừa là con bò (hiện thân của sức lao động bền bỉ, nạn nhân của cái ác) vừa là

21
tội đồ hung ác, tăm tối, vừa khát khao tự do vừa không dám tự do. Còn Lão
khổ trình bày triết lí về số phận người nông dân trong sự nhào nặn của lịch
sử. Theo giả thuyết văn học của Tạ Duy Anh thì người nông dân vừa là nạn
nhân của thời cuộc, của chính mình, “hiện thân của sự đổ vỡ thảm hại”,
“bằng chứng cho sự long đong của kiếp người” vừa là tội nhân “một cái
máy cứng nhắc của thể chế, “bắt nhân dân ăn thịt nhau vì một cái bánh vẽ”.
Như vậy, nếu ở Phiên chợ Giát, Nguyễn Minh Châu giả định: người nông
dân là một kiếp người - bò thì Lão Khổ của Tạ Duy Anh là sự chứng minh
giả định ấy bằng sự lý giải chi tiết theo cách của tiểu thuyết. Người nông dân
có tên Lão Khổ là một kiếp người thăng trầm bị làm khổ và tự làm khổ,
chống lại cái ác và sản sinh cái ác - đến khi hiểu được mình là ai thì đã
muộn. Nói cách khác, nhân vật lão Khổ của Tạ Duy Anh cùng với các nhân
vật Lão Khúng (Phiên chợ Giát của Nguyễn Minh Châu, Giang Minh Sài
(Thời xa vắng của Lê Lựu), Kiên (Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh)
đang tạo ra một kiểu dạng nhân vật mới: nhân vật lưỡng hóa (mẫu người
đứng trước sự thử thách và lựa chọn trên các cực đối lập).
Được khẳng định là một cuốn tiểu thuyết quan trọng, nhưng Lão Khổ
lại như “bị chìm đi trong dư luận”. Cuốn sách hầu như vắng bóng trong các
công trình nghiên cứu, phê bình và các chuyên luận về văn học Việt Nam
thời kì đổi mới. Lí giải hiện tượng này có thể có những nguyên do sau:

Thứ nhất, tiểu thuyết Lão Khổ ra mắt độc giả năm 1992, sau thời
điểm hoàng kim của văn xuôi (1986 - 1991). Hàng loạt các tác phẩm gây
xôn xao dư luận cả trong nước và ngoài nước, hàng loạt cá tính độc đáo
được khẳng định, trong đó người ta nhắc nhiều đến Nguyễn Huy Thiệp,
Phạm Thị Hoài, Bảo Ninh Đặc biệt, năm 1990 - 1991 cuộc thi truyện ngắn

22
báo Văn nghệ và năm 1991, mùa giải tiểu thuyết của Hội nhà văn đều thành
công vang dội, dư luận bị thu hút nhiều hơn vào những tác phẩm đoạt giải
như Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh, Mảnh đất lắm người nhiều ma
của Nguyễn Khắc Trường, Bến không chồng của Dương Hướng, Người ta
bận tâm tới những tác giả có khả năng gây shock như Nguyễn Huy Thiệp,
Phạm Thị Hoài. Ra đời vào năm 1992, Lão Khổ của Tạ Duy Anh bị cái
bóng của các tên tuổi khác che lấp nhiều.
Thứ hai, từ sau năm 1991, không khí văn học chững lại rất rõ ràng.
Cao trào đổi mới lắng xuống. Giới phê bình trở nên dè dặt hoặc nản lòng mà
vấn đề đặt ra trong Lão Khổ lại thuộc loại vấn đề “nhạy cảm” lúc đó. Tránh
nói đến nó sẽ an toàn hơn.
Thứ ba, xét về phương diện chủ quan thì Lão Khổ không phải là tác
phẩm dễ đọc với chủ đề chìm sâu mang tầm triết lý lịch sử. Thêm nữa, nó có
cái nhược điểm: lối viết nghiêm trang quá, đôi chỗ nặng nề, rậm lời.
Tuy vậy, khi đã có độ lùi thời gian thì những giá trị ẩn chứa trong Lão
Khổ sẽ được nhìn nhận lại. Nói như Hoàng Ngọc Hiến thì đây là một cuốn
sách mà càng ngày người ta sẽ càng phải tìm đọc lại.
Không tự thoả mãn, sau Lão Khổ và hàng loạt truyện ngắn, đầu năm
2002, Tạ Duy Anh lại gây xôn xao dư luận với cuốn tiểu thuyết Đi tìm nhân
vật. “Một lối tìm cách nói khác về xã hội và lịch sử đương đại, Tạ Duy Anh,
tác giả truyện ngắn được coi là có tính chất đánh dấu Bước qua lời nguyền
như muốn xé rách cả tấm màn che phủ lên hiện thực hàng ngày để làm phơi
lộ ra một thực trạng xã hội trong Đi tìm nhân vật” (Dương Hướng). Cuốn


23
tiểu thuyết cho thấy “một Tạ Duy Anh khác nhiều so với Tạ Duy Anh của
Bước qua lời nguyền hay Lão Khổ” [4;141]. Nhà văn đã đạt đến lối viết đa
âm hiện đại: “từ cách đặt vấn đề đầu tiên đến cấu trúc tiểu thuyết, phong
cách ngôn ngữ đều lạ lẫm với những gì chúng ta được biết về dòng tiểu
thuyết non trẻ Việt Nam” (Trần Quang).
Tuy nhiên, cuốn sách sau khi ra đời đã bị thu hồi. Dường như có một
số phận chung cho những tác phẩm của Tạ Duy Anh: được giới nghiên cứu
phê bình đánh giá cao nhưng gặp nhiều khó khăn, rắc rối với nhãn quan
tuyên huấn. Có lẽ một phần do “cái tạng người văn” thích “gây gổ”, hơi
“phá phách” của tác giả. Hiện lên trong tác phẩm là một bức tranh xã hội
ngột ngạt tham vọng quyền lực, những cái chết vô nghĩa, sự đồi bại , được
diễn tả bằng thứ ngôn ngữ khô khốc, bụi bặm, khinh bạc. Vị đắng chát và
nghiệt ngã của nó gây khó chịu và là một cú sốc mạnh đối với thói quen tiếp
nhận của người đọc. Áp lực căng thẳng của cuộc sống hiện đại vốn đã làm
con người mệt mỏi, người ta muốn tìm ở văn chương một sự thư giãn hay
một ảo giác về hạnh phúc. Họ sẽ không tìm được điều đó ở những tác phẩm
như Đi tìm nhân vật hoặc Lão Khổ.
Cuối năm 2004, tiểu thuyết Thiên thần sám hối ra đời, ghi nhận
những nỗ lực không mệt mỏi của tác giả trong việc tìm kiếm các giá trị mới
mẻ cho văn học. Đọc cuốn tiểu thuyết này, ấn tượng mạnh nhất là sự khác lạ.
Tác phẩm thể nghiệm một lối viết hoàn toàn mới, từ việc sáng tạo nhân vật
người kể chuyện phi thực (bào thai) đến lối dẫn truyện, cách thức kết cấu
đều thể hiện rõ tinh thần cách tân của tiểu thuyết hiện đại. Những yếu tố phi
lí, hoài nghi, tra vấn là nét riêng của tác phẩm, để lại nhiều ám ảnh trong
lòng người đọc.

24
Với ba cuốn tiểu thuyết Lão Khổ, Đi tìm nhân vật, Thiên thần sám

hối, Tạ Duy Anh đang được coi là cây bút tiểu thuyết sung sức. Mặc dù có
người xem đây chỉ là những thể nghiệm của nhà văn; nhưng không thể phủ
nhận tác phẩm của ông đã tạo ra một “từ trường” có sức hấp dẫn riêng nhờ
chiều sâu tư tưởng và những phương thức biểu đạt liên thông hết sức ấn
tượng. Hơn nữa, trên hành trình văn chương không mệt mỏi, tác phẩm của
Tạ Duy Anh thể hiện rất rõ sự tự ý thức của chủ thể sáng tạo. Có thể thấy, ở
hai tiểu thuyết sau - Đi tìm nhân vật, Thiên thần sám hối - đã bớt đi những
triết lí lộ liễu, cũng không còn cái sắc thái văn chương quá nghiêm trang như
ở Lão Khổ. Hiện thực nghiệt ngã được nhìn dưới góc độ hài hước, pha chất
giễu nhại, tự hào đã làm nên sự phong phú thẩm mỹ cho ngòi bút Tạ Duy
Anh.
Hơn mười năm với ba tiểu thuyết và chưa đây hai năm kể từ khi xuất
bản Thiên thần sám hối, Tạ Duy Anh cho in cuốn tiểu thuyết đã viết xong:
Giã biệt bóng tối, và chuẩn bị cho in cuốn Sinh ra để chết (còn có tên khác:
Mười bảy dị bản) Mọi đánh giá, bình luận vẫn còn ở phía trước, nhưng
dường như, những gì nhà văn đã trải nghiệm, vốn liếng của đời đọng lại vẫn
còn dồi dào để ông tiếp tục viết thêm nữa.
Tính đến thời điểm hiện nay, ông đã cho in:
- Các tập truyện ngắn: Bước qua lời nguyên (1989), Luân hồi (1994),
Ánh sáng nàng (2000), Ba đào ký (2004), Truyện ngắn chọn lọc Tạ Duy
Anh (2003), Bố cục hoàn hảo (2004), Những truyện không phải trong mơ
(2003).

×