Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Tiểu thuyết của Tạ Duy Anh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 108 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





TRẦN THỊ BÍCH THỦY




TIỂU THUYẾT
CỦA TẠ DUY ANH



LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: Văn học hiện đại
Mã số: 60 22 34





Người hướng dẫn: PGS.TS MAI HƯƠNG







Hà Nội, năm 2009

1
MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU 3
1. Lí do chọn đề tài 3
2. Lịch sử vấn đề 5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 15
4. Phương pháp nghiên cứu 15
5. Đóng góp của luận văn 15
6. Cấu trúc luận văn 15
PHẦN NỘI DUNG 16
Chƣơng 1: NHỮNG NỘI DUNG THẨM MỸ CƠ BẢN TRONG TIỂU
THUYẾT TẠ DUY ANH 16
1.1. Nhận thức lại hiện thực lịch sử: 16
1.2. Những vấn đề hiện thực của đời sống hậu chiến: 26
1.3. Cảm quan về cái phi lý: 31
Chƣơng 2: THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT
TẠ DUY ANH 38
2.1. Nhân vật tự ý thức, sám hối: 38
2.2. Nhân vật “thiên thần” và “ác quỷ” 45
2.2.1. Nhân vật “thiên thần”: 45
2.2.2. Nhân vật “ác quỷ”: 47
2.3.Nhân vật cô đơn, phi lý: 51
2.3.1. Nhân vật cô đơn 53
2.4.2. Nhân vật phi lý 55
Chƣơng 3: NGHỆ THUẬT TIỂU THUYẾT TẠ DUY ANH 63

3.1. Không gian, thời gian nghệ thuật 63
3.1.1. Không gian nghệ thuật: 63

2
3.1.1.1. Không gian khép kín, tù đọng… 63
3.1.1.2. …Không gian rộng lớn, lưu chuyển… 66
3.1.1.3. …Và không gian phi lý 73
3.1.2. Thời gian nghệ thuật 75
3.1.2.1. Thời gian lắp ghép phi tuyến tính 75
3.1.2.2. Thời gian phi lý 77
3.2. Nghệ thuật trần thuật: 79
3.2.1. Điểm nhìn trần thuật: 79
3.2.2. Nghệ thuật cấu trúc văn bản: 83
3.2.3. Giọng điệu trần thuật: 86
3.2.3.1. Giọng điệu trữ tình: 86
3.2.3.2. Giọng điệu giễu nhại: 89
3.2.3.1. Giọng điệu triết lý 94
PHẦN KẾT LUẬN 100
THƢ MỤC KHẢO SÁT 102
THƢ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 102













3
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
1.1. Văn học Việt Nam sau 1975, đặc biệt là từ sau 1986, có một sự đổi
mới rõ rệt. “Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn học minh họa” và phải
được “cởi trói, phải đổi gác” đã thành một nhu cầu bức thiết của văn nghệ (8).
Trong đà chuyển đổi chung đó, tiểu thuyết Việt Nam cũng có những đổi mới
đáng kể, trước hết là đổi mới tư duy nghệ thuật tiểu thuyết. Nếu như sau năm
1975, những năm tiền đổi mới, văn học vẫn theo đà quán tính, nghiêng về sự
kiện, tái hiện hiện thực trên một diện rộng, cảm hứng sử thi vẫn chiếm vị trí
đáng kể trong tư duy nghệ thuật của nhà văn, thì sau 1986, với quan niệm mới
về hiện thực, về con người, văn học đã bám sát đời sống, nhìn thẳng vào sự
thật, đánh giá đúng sự thật, bao quát được những vấn đề cơ bản của đời sống
xã hội và số phận con người trong sự vận động và phát triển, đáp ứng những
đòi hỏi bức xúc của công chúng.
Tìm hiểu văn xuôi, đặc biệt là tìm hiểu tiểu thuyết giai đoạn này sẽ giúp
chúng ta có được cái nhìn bao quát về đời sống văn học Việt Nam đương đại.
1.2. Mặc dù không thể phủ nhận ưu thế của thể loại truyện ngắn trong một
xã hội bùng nổ thông tin, nhịp điệu cuộc sống đang chuyển động theo chiều
siêu tốc và mặc dù người ta đã từng tuyên bố về cái chết của tiểu thuyết thì
thể loại này vẫn có một sức sống mãnh liệt. Với đặc thù của đời sống hiện đại
là bề bộn, hỗn loạn, xói mòn, khủng hoảng lòng tin, với những chuyển biến
trong tư tưởng của người cầm bút, thì đây chính là thời của tiểu thuyết - một
thể loại phức hợp để nhận thức cuộc sống. Vì thế, chúng tôi lựa chọn nghiên
cứu về sáng tác tiểu thuyết của một tác giả tiêu biểu để làm bật nổi những đặc
điểm của tiểu thuyết đương đại cùng với những nỗ lực đổi mới, sáng tạo của
một đội ngũ nhà văn thế hệ mới sau 1975, đặc biệt là sau 1986.


4
1.3. Một nền văn học vừa bước ra khỏi chiến tranh, phải đối mặt với nhiều
vấn đề mới nảy sinh, không ít người viết lâm vào tình trạng bối rối, “chông
chênh”, đã gây nên những “khoảng chân không” trong văn học. Nhưng cũng
chính thời gian này đã diễn ra một cuộc vận động nội sinh ở chiều sâu của đời
sống văn học, với những trăn trở, vật vã, tìm tòi thầm lặng mà không kém
phần quyết liệt của một số nhà văn có mẫn cảm với những đòi hỏi của cuộc
sống, có ý thức trách nhiệm cao về ngòi bút của mình. Những tìm tòi đó mở
ra cho văn học hướng tiếp cận mới với hiện thực nhiều mặt, đặc biệt là hiện
thực đời thường với những vấn đề đạo đức – đời tư thế sự đang tồn tại nổi
cộm, đòi hỏi văn học phải luôn nhận thức lại, khám phá lại.
Tạ Duy Anh bước vào làng văn, khi trên văn đàn đã có những bước đột
phá về nhận thức xã hội, quan niệm văn chương, sự đổi mới lối viết cùng các
thể nghiệm hình thức trần thuật với những tên tuổi như: Nguyễn Khải với
Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của người, Một cõi nhân gian bé tí…, Nguyễn
Minh Châu với các truyện ngắn: Bức tranh, Cỏ lau, Phiên chợ Giát…, Ma
Văn Kháng với Mùa lá rụng trong vườn, Đám cưới không có giấy giá thú…,
Lê Lựu với Thời xa vắng, Nguyễn Trọng Oánh với Đất trắng, Nguyễn Mạnh
Tuấn với Cù Lao Tràm, Bảo Ninh với Nỗi buồn chiến tranh… Trước những
thử thách lớn đó đòi hỏi nhà văn phải có sự nỗ lực để tạo ra những bước đi
mới, không lặp lại những người đi trước và không lặp lại chính mình. Tạ Duy
Anh đã làm được điều đó. Ông đã có những đóng góp đáng kể trong dòng
chảy văn học dân tộc nói chung, đặc biệt là sau 1986.
Gần 20 năm cầm bút, Tạ Duy Anh được xem là cây bút sung sức, có nhiều
thể nghiệm văn chương táo bạo trên nhiều thể loại như truyện ngắn, tiểu
thuyết, tản văn và cả trong những đề tài viết cho thiếu nhi… và là một trong
những nhà văn có tác phẩm được đưa vào giảng dạy ở nhà trường phổ thông,
Tạ Duy Anh trở thành một hiện tượng văn học của thời kỳ đổi mới và được


5
đông đảo độc giả quan tâm nghiên cứu. Khởi đầu thành công bằng truyện
ngắn và ngay từ những truyện ngắn đầu tiên, Tạ Duy Anh nhanh chóng thu
hút sự chú ý của công luận và đã đoạt được nhiều giải thưởng. Cùng với
truyện ngắn, tiểu thuyết của Tạ Duy Anh cũng là một thế mạnh. Càng ngày
bản lĩnh của nhà văn càng được khẳng định rõ hơn thông qua các tập tiểu
thuyết: Lão Khổ, Đi tìm nhân vật, Thiên thần sám hối, Giã biệt bóng tối và
sắp tới “Sinh ra để chết”. Từ Khúc dạo đầu chưa mấy thành công, đến Giã
biệt bóng tối là một hành trình dài trong tư duy tiểu thuyết Tạ Duy Anh, ghi
nhận những nỗ lực đổi mới và những đóng góp rất đáng trân trọng của nhà
văn vào cao trào đổi mới văn học nói chung và tiểu thuyết Việt Nam nói
riêng. Tuy nhiên, tiểu thuyết của Tạ Duy Anh, cho đến nay, vẫn chưa được
nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống.
Chính vì thế, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài “Tiểu thuyết của Tạ Duy
Anh”. Qua việc nghiên cứu tiểu thuyết của Tạ Duy Anh, luận văn muốn
hướng tới khẳng định nét riêng trong cá tính sáng tạo tiểu thuyết, thành công
và phần đóng góp của Tạ Duy Anh. Đồng thời, ở một phạm vi nhất định, góp
phần làm sáng tỏ những vấn đề đổi mới của tiểu thuyết Việt Nam đương đại
nói riêng và văn học đổi mới nói chung.
2. Lịch sử vấn đề
Tiểu thuyết Tạ Duy Anh đã tạo được nhiều dấu ấn tốt đẹp trong lòng
bạn đọc. Mỗi cuốn tiểu thuyết khi ra đời đều lập tức gây được tiếng vang và
tạo được một trường công luận khá sôi nổi. Nếu như tiểu thuyết đầu tay Khúc
dạo đầu (1991) xuất bản chưa gây được sự chú ý của dư luận thì đến Lão Khổ
(1992), Tạ Duy Anh đã khẳng định được năng lực sáng tác của mình. Liên
tiếp sau đó, nhà văn lần lượt cho ra đời những cuốn tiểu thuyết lôi cuốn được
độc giả, với nhiều ý kiến khen chê khác nhau và liên tục tái bản như Thiên
thần sám hối, Đi tìm nhân vật, Giã biệt bóng tối… Khảo sát quá trình lịch sử

6

nghiên cứu về sáng tác của Tạ Duy Anh, chúng tôi nhận thấy các dạng ý kiến
đánh giá phổ biến sau: có những bài viết đề cập đến tiểu thuyết Tạ Duy Anh
trong khi đánh giá chung về văn học đổi mới; những bài viết về toàn bộ sáng
tác của nhà văn và dạng bài viết đi sâu phân tích từng khía cạnh vấn đề, từng
tác phẩm cụ thể.
2.1. Những bài viết có đề cập đến tiểu thuyết Tạ Duy Anh trong khi đánh
giá chung về văn học đổi mới
Nguyễn Thị Bình đã có đánh giá về tiểu thuyết Lão Khổ của Tạ Duy
Anh với tư cách là một trong những tiểu thuyết có đóng góp tích cực trong cao
trào đổi mới văn xuôi khi khái quát Tiểu thuyết Việt Nam sau 1975: “Có thể
nói, tiểu thuyết chặng này viết về mọi đề tài nhưng được quan tâm nhất là đề tài
sinh hoat. Đây là nơi giao thoa của nhiều chủ đề, nhiều cảm hứng, nhiều loại
nhân vật, nhiều sắc điệu ngôn ngữ. Không phải sự kiện lịch sử mà chính con
người với số phận cá nhân của nó đóng vai trò chi phối cấu trúc tiểu thuyết. Dù
viết về hiện tại hay quá khứ, về chiến trường hay thương trường, về nông dân
hay trí thức… các tác phẩm đều gửi gắm những câu hỏi nghiêm túc về con
người, về cuộc vật lộn giữa con người với hoàn cảnh để tìm kiếm chính
mình… tại sao con người đánh mất mình? sẽ được lặp lại dưới nhiều cách trả
lời khác nhau” ở từng tác phẩm như: “Chuyện làng ngày ấy, Bến không chồng,
Lão Khổ, Ác mộng, Những mảnh đời đen trắng, Những thiên đường mù…”.
Ngoài ra, tác giả bài viết còn nhận thấy nội lực của một vài tác giả, xuất
hiện từ khoảng đầu thập kỷ 90 đến nay và hình thành nên dòng chính trong văn
xuôi đương đại, trong đó có Tạ Duy Anh, những cây bút này luôn trăn trở tìm
hướng đi mới. “Từ kết cấu trần thuật đến hình tượng, từ nhân vật đến lời văn,
câu văn… tất cả đều nhằm hướng tới những kinh nghiệm đọc mới. Bức tranh
hiện thực đời sống được lắp ghép từ nhiều mảnh vỡ khác nhau, không theo quy
luật nhân – quả, không có tính hoàn nguyên. Tư duy hội họa lập thể kết hợp với

7
bút pháp huyền thoại - trào lộng khiến tác phẩm mang dáng vẻ lạ lẫm với số

đông công chúng Việt Nam… Hướng đi này ngày càng thấy rõ như: Phố Tàu,
Paris 11 tháng 8 (Thuận), Người sông Mê (Châu Diên), Trí nhớ suy tàn, Thoạt
kỳ thủy (Nguyễn Bình Phương), Cơ hội của Chúa, Khải huyền muộn (Nguyễn
Việt Hà), Thiên thần sám hối (Tạ Duy Anh)… [38; tr.51, 52].
Theo Bùi Thanh Truyền, thái độ cổ xúy và trân trọng của các nhà văn đàn
anh như Tô Hoài, Nguyên Ngọc, Nguyễn Khải… đối với sáng tác của các thế hệ
đàn em (Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái…) cũng là
một sự thỏa thuận ngầm, sự mặc nhiên thừa nhận tính tích cực của sự cách tân
hình thức nghệ thuật như các thủ pháp huyền thoại, kì ảo trong việc khám phá
cuộc sống và tạo ra những bước đột phá của văn học giai đoạn này [67, tr.53].
Như vậy, những bài viết này có nhắc đến Tạ Duy Anh, tuy nhiên chỉ
mới dừng lại ở những nhận định rất sơ lược, giới thiệu chung, nghiên cứu tác
giả với tư cách là một nhân tố trong nền văn học đương đại mà chưa xem xét
tác giả với tư cách là một đối tượng nghiên cứu độc lập.
2.2. Những bài viết đánh giá toàn bộ sáng tác của Tạ Duy Anh
Hoàng Ngọc Hiến, một nhà nghiên cứu phê bình đã từng dùng chính
tên tác phẩm của Tạ Duy Anh để đặt tên cho cả một dòng văn học sau đổi mới
“có một dòng văn học bước qua lời nguyền”, cho rằng,tiểu thuyết Lão Khổ đã
“thêm một giả thuyết văn học về bản chất và thân phận người nông dân Việt
Nam. Đây là một cuốn tiểu thuyết quan trọng” (dẫn theo Mai Hương, [49]).
Điều đó chứng tỏ, những thể nghiệm mới mẻ và năng lực sáng tạo của nhà
văn đã được khẳng định.
Tuy nhiên, cũng theo Hoàng Ngọc Hiến, tiểu thuyết của Tạ Duy Anh
vẫn thiên về “lối ghi chép nội dung”. Lối ghi chép nội dung ở đây có nghĩa là
tiểu thuyết này còn mang tính luận đề khá rõ. Nguyên Ngọc cũng ghi nhận
những bước tiến vượt bậc của tiểu thuyết Tạ Duy Anh: “Tôi cứ tưởng sau Bước

8
qua lời nguyền chỉ ở mức trung bình là đã hết vốn”, nhưng những cuốn tiểu
thuyết sau đó của Tạ Duy Anh “đã bước qua được chính anh”[53]. Với sự nỗ

lực làm mới mình cùng ý thức tìm tòi sáng tạo, Tạ Duy Anh đã bước qua chính
mình và đã có được những đóng góp đáng quý trong thời kỳ đổi mới. Mặc dù
vậy, Nguyên Ngọc vẫn có “cảm giác như chính anh là một con ngài được bọc
kén để bay ra nhưng đôi cánh còn ướt nên bay chưa cao lắm”[53]. Nhận xét về
nghệ thuật xây dựng nhân vật trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh, Mai Hương cho
rằng: “Nhà văn luôn đặt nhân vật của mình trong mối quan hệ với lịch sử, thời
đại để xem xét, đánh giá và có xu hướng cắt nghĩa, lí giải mọi sai lầm đã qua
thuộc về những hạn chế không tránh khỏi của lịch sử”. Từ cách nhìn hiện thực
mới, nhà văn đi vào hiện thực, đi vào những góc khuất, những mặt trái của
cuộc sống. Chính nhờ thế, các nhân vật trong tiểu thuyết của Tạ Duy Anh khi
đã trải qua hết thăng trầm, biến cố của một đời, thường có sự bình tâm, chiêm
nghiệm sâu xa, thấm thía và đậm tính nhân văn về cuộc đời và thời cuộc”[49].
Trái với một số ý kiến cho là sắc diện của cái ác tràn ngập trong tiểu
thuyết Tạ Duy Anh thể hiện thái độ bi quan, tàn nhẫn một cách phiến diện khiến
người đọc ghê sợ, Mai Hương lý giải, Tạ Duy Anh “chọn phản ánh cuộc sống từ
phía “khuất lấp”, từ sự chưa hoàn thiện, nhưng cái đích Tạ Duy Anh hướng đến
lại là cái đẹp, cái hoàn thiện. Từ “cái ác” để lay thức “cái thiện”. Điều này lý giải
vì sao hiện thực trong tác phẩm của Tạ Duy Anh thật gai góc, có khi như tàn
nhẫn, lạnh lùng, nhưng người đọc vẫn cảm nhận đằng sau con chữ là những
thông điệp nghệ thuật thấm đẫm chất nhân văn. Và đó cũng là hệ quả tất yếu từ
quan niệm nghệ thuật giàu tính nhân bản của Tạ Duy Anh” [49, tr.14].
Thực ra, Tạ Duy Anh không chỉ viết về cái xấu, cái ác mà thông qua
việc xây dựng những nhân vật phản diện để đối lập với những hình tượng đẹp
đẽ trong sáng đến thánh thiện trong tác phẩm. Đây chỉ là thủ pháp sáng tối
trong điện ảnh để từ đó nhà văn làm bật nổi lên những hiện tượng đời sống

9
hiện thực mang tính thời sự. Từ hiện thực trần trụi đó, nhà văn muốn gióng
lên tiếng chuông cảnh báo, để tránh lặp lại những lối mòn của lịch sử ngay
trong đời sống hiện đại mà nó luôn có nguy cơ lặp lại.

Thu Hà khi suy ngẫm về những tiểu thuyết của Tạ Duy Anh đã nhận ra
tầng sâu của từng câu chuyện: “Sự trong sáng, thánh thiện sống chung với cái
tàn nhẫn, vô lương, bên cạnh những trang viết lạnh lùng, khắc nghiệt là những
dòng chữ tươi trẻ và đầy ắp tình cảm của con người và cuộc sống, Tạ Duy
Anh mang đến một cái nhìn đa chiều về hiện thực” [44]. Từ hiện thực đa
chiều đó, Tạ Duy Anh luôn có mong muốn lay thức phần bản ngã của mỗi
con người trong đời sống hiện đại giữa cái ranh giới thiện ác rất mong manh
mà cái vong bản, đánh mất mình lại luôn rình rập.
Nhìn chung, những bài viết trên chủ yếu đi vào phát hiện một số
phương diện nổi bật trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh để thấy được nét riêng
của tác giả mà chưa có cái nhìn toàn diện, nghiên cứu một cách có hệ thống
để thấy được cá tính sáng tạo của Tạ Duy Anh giữa dòng chung của văn
học đổi mới.
2.3. Những bài viết về từng phẩm
Mỗi cuốn tiểu thuyết của Tạ Duy Anh khi vừa xuất bản đã nhanh chóng
thu hút được sự chú ý của công chúng và những nhà nghiên cứu phê bình.
Đặt tiểu thuyết của Tạ Duy Anh trong dòng mạch tiểu thuyết từ cao trào
đổi mới, Nguyễn Thị Bình cho rằng, “hình thức tiểu thuyết đã trở thành chủ đề
quan trọng với chính nó, và đã có các cuộc thử nghiệm hình thức mà mỗi tác
phẩm có cách trả lời khác nhau, trong đó có Lão Khổ của Tạ Duy Anh”[36].
“Bàn về tiểu thuyết” hôm nay, Bùi Việt Thắng cho rằng: cùng với Lữ
quán của Hà Phạm Phú, Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai thì Lão Khổ của Tạ Duy
Anh đã gây một niềm tin tưởng rằng, văn học như một phương tiện linh diệu
để hiểu rõ con người hơn. “Sau Khúc dạo đầu còn chưa thoát khỏi lối ghi

10
chép tiểu thuyết, Tạ Duy Anh đã cho ra mắt Lão Khổ - một cuốn sách mặn
chát vị đời và lừng lững con người thời đại”[61, tr.16].
Viết về Thiên thần sám hối, Mai Hải Oanh nhận thấy sự độc đáo của Tạ
Duy Anh, khi nhà văn lựa chọn điểm nhìn từ bên trong – hài nhi trong bụng

mẹ: “Toàn bộ câu chuyện được kể từ điểm nhìn của hài nhi và người đọc có
dịp chứng kiến sự tha hóa đáng sợ của con người qua những điều cậu nghe
được” [56, tr.115]. Qua góc nhìn này, nhà văn không cần biện giải, bình luận
hay thêm thắt gì mà tự nhiên cuộc sống đầy rẫy tội lỗi kia cứ hiện lên như
những thước phim tư liệu khách quan.
Phạm Xuân Nguyên đánh giá cao Đi tìm nhân vật và cho rằng, tiểu
thuyết này chưa được coi trọng đúng mức: “Cuốn tiểu thuyết của Tạ Duy Anh
là một cuốn khá, đạt đến tầm cỡ tiểu thuyết nhất định… Nhưng tiểu thuyết đó
đã chưa có được đời sống dư luận văn học của nó, đáng tiếc một cơ hội bị bỏ
qua cho tác phẩm và thể loại”[51].
Đối với một số độc giả, Đi tìm nhân vật là cuốn tiểu thuyết quá khó
đọc, quá phức tạp, rối rắm. Độc giả bị cuốn theo những phán đoán, nghi nghi
hoặc hoặc, chồng chéo lên nhau của nhân vật chính, của đám đông nhân vật
và của chính độc giả, tất cả đều cảm thấy như bị rơi vào cái “bẫy hỏa mù” của
nhà văn. Hơn nữa, những khó khăn khi tác giả xin giấy phép xuất bản, cũng là
một lí do khiến tác phẩm tuy chậm đến với công chúng hơn so với những
cuốn khác, nhưng vẫn tạo được sự hấp dẫn đối với độc giả.
Có thể nói, Tạ Duy Anh luôn làm mới mình. Mỗi cuốn tiểu thuyết là
một sự thể nghiệm mới về hình thức nghệ thuật để khám phá sâu hơn những
góc khuất của con người.
Thụy Khuê đã làm một phép so sánh giữa ba tiểu thuyết Lão Khổ, Đi
tìm nhân vật và Thiên thần sám hối. Theo ông, cả ba tác phẩm đều có sự gắn
bó mật thiết với nhau trong một tương quan chặt chẽ: họ hàng, làng nước. Các

11
nhân vật cùng xuất thân ở làng Đồng, cùng tiềm ẩn hận thù dòng họ, hận thù
giai cấp “Nhưng mỗi tác phẩm có một thực tại khác, một lối viết khác.
Những tác phẩm đến sau, dường như chỉ là để viết lại các chuyện trước một
cách mới hơn, mở hơn, kỹ hơn, rốt ráo hơn và nghệ thuật hơn”[51].
Cùng cách so sánh như vậy, Việt Hoài nhận thấy sự liền mạch trong

tiểu thuyết Tạ Duy Anh: Tiếp tục đề tài trong Bước qua lời nguyền, tiểu
thuyết Lão Khổ “vẫn là chuyện làng quê Bắc Bộ” nhưng “thời gian rộng hơn,
dung lượng tiểu thuyết lớn hơn truyện ngắn và nhân vật cũng già dặn, từng
trải và kỹ thuật hơn, nên Lão Khổ được đồng nghiệp và bạn đọc nhìn nhận là
một bước tiến dài của Tạ Duy Anh”. Nếu Đi tìm nhân vật bị cho là quá khó
đọc thì Thiên thần sám hối đã có một kết cấu rất chặt và ngắn gọn, có thêm sự
uyển chuyển và linh hoạt “khiến ai đọc cũng có thể thấy mình trong đó và
hầu hết giật mình, không tự vấn lương tâm thì cũng tự xấu hổ mà âm thầm đỏ
mặt, nhưng nó không quá nghiệt ngã, ráo riết mà vẫn mở đường cho nhân vật
– người đọc một lối thoát lương tâm”[47].
Trong một bài phỏng vấn Tạ Duy Anh, Lê Thiếu Nhơn nhận xét: “Tuy
ở hai thể loại khác nhau, nhưng yếu tố quyết liệt trong Giã biệt bóng tối cao
hơn Bước qua lời nguyền rất nhiều” [55]. Tạ Duy Anh đã trả lời: “Bước qua
lời nguyền thật hiền lành, giàu tình cảm vậy mà khi ra đời vẫn khiến cho
người ta sợ? Sẽ lại có những người sợ Giã biệt bóng tối”… [55]. Nhà văn dù
đã biết trước sẽ vấp phải dư luận nhưng vẫn dám mạo hiểm, dũng cảm nhìn
thẳng vào sự thật, đối diện với sự thật. Ông cho rằng: nặng, nhẹ, nóng bỏng
hay điềm đạm, đâu chỉ ở mức độ quyết liệt trong ngôn từ, mà là khả năng
xoáy sâu vào tâm can người khác, lời chất vấn về điều mà chúng ta muốn
quan tâm [55]. Chính nhờ quan niệm đó và ý thức trách nhiệm đối với
nghề, mà Tạ Duy Anh đã có được những cuốn tiểu thuyết thành công, ghi
đậm dấu ấn.
Đọc Đi tìm nhân vật, Thụy Khu

12
ê còn cho rằng “nhân vật của Tạ Duy Anh không có sự trung gian, nhờ nhờ,
xam xám về ngoại hình. Nhưng bản chất con người thì luôn luôn ở ranh giới
giữa thiện và ác, nhân vật nào cũng luôn luôn bị đặt trong trạng thái lựa chọn,
đấu tranh với xã hội, với môi trường, với kẻ thù, với người thân và với chính
bản thân mình”[51].

Đọc Thiên thần sám hối, Nguyễn Chí Hoan cảm thấy chưa hài lòng lắm
và nêu ra “hai điều đáng tiếc và một sự cuồng giản thời hiện đại” ở tiểu thuyết
này [48]. Theo tác giả, “Đây là một câu chuyện xuất phát từ một giả thiết
mang tính phi lý. Nhưng cả trong ngôn ngữ và cấu trúc lại chẳng có chút phi
lý nào cả. Câu chuyện ở đây đã cắm đầu chạy tuột một lèo từ cái giả thiết
sáng giá của mình đến cái luận chứng có tính cách chung của mình một cách
giản đơn là vội vàng, như thể cái bào thai chín tháng chín ngày kia đã quá đỗi
tự tin ở tư cách hài nhi của mình” [48]. Nhận xét về kết thúc tác phẩm: hài
nhi chấp nhận chào đời sau khi đã rùng mình chứng kiến những câu chuyện
quái thai trong phòng đẻ, trong tiếng nói của thiên thần và sự hối hận của
người mẹ, tác giả cho đây là một kết thúc gượng, mang nặng tính luận đề.
Điều đáng tiếc thứ hai thể hiện tập trung ở một lớp từ vựng tôn giáo, được vận
dụng ở đây một cách khá tùy tiện. Tập hợp các từ thuộc loại này trong Thiên
thần sám hối trải từ “quả báo, ác nghiệp, cho đến cứu rỗi, ân sủng, nguyền
rủa, tội tổ tông và tất nhiên “sám hối”. Liệu mỗi người đọc hiểu các hàm
nghĩa của từ vừa nêu ra như thế nào?”. Trường từ vựng tôn giáo dày đặc trong
tác phẩm được Tạ Duy Anh sử dụng như một ẩn ý nghệ thuật nhưng Nguyễn
Chí Hoan cho rằng đó là sự lạm dụng chứ chưa đạt được hiệu quả nghệ thuật,
khiến cho độc giả thêm rối rắm, khó hiểu. Tuy nhiên, theo chúng tôi, chính
lớp từ vựng tôn giáo này đã tạo nên phong cách độc đáo, rất riêng của Tạ Duy
Anh. Nhà văn muốn giác ngộ những tâm hồn lạc lối từ bỏ bóng tối, giã biệt
tội ác để bước ra ánh sáng, đi tới cái thiện và khơi dậy tính người đẹp đẽ.

13
Nhìn chung, các nhà nghiên cứu đều cho rằng, Thiên thần sám hối gọn
nhẹ, giản dị về hình thức, bí ẩn của sự tồn tại được đặt ra cùng câu hỏi về thân
phận của thế hệ tương lai trên miệng vực cái ác, chứa đựng những ẩn số lớn
về con người và nhân thế.
Giã biệt bóng tối ra đời đã tạo được sự hào hứng đón nhận của công
chúng. Viện Văn học đã tổ chức một cuộc tọa đàm về tiểu thuyết Giã biệt

bóng tối. Tại buổi Tọa đàm, tuy còn có sự khác biệt, nhưng nhìn chung phần
lớn ý kiến đều đánh giá cao tiểu thuyết của Tạ Duy Anh. Nguyễn Bích Thu
cho rằng: “Giã biệt bóng tối là thành công mới”. Bùi Việt Thắng nêu ra “Ba
cái được của Giã biệt bóng tối”, tạo ra một ma trận về kết cấu và coi Tạ Duy
Anh là người có công khẳng định ưu thế của tiểu thuyết ngắn(300 trang).
Nguyễn Phượng và Nguyễn Thị Bình đều đưa ra những đánh giá sâu sắc,
khoa học và thuyết phục về Giã biệt bóng tối trong bối cảnh tiểu thuyết Việt
Nam đương đại và so sánh với các tiểu thuyết trước đây của Tạ Duy Anh”.
Nguyễn Thị Bình coi Giã biệt bóng tối là “bản tụng ca say đắm về sức mạnh
của lòng khoan dung và tha thứ”. “Trong một kết cấu chặt chẽ, người nọ là
một phần cuộc đời của người kia, tạo ra một xã hội, một vũ trụ thu nhỏ với sự
đối lập tối sáng trong từng con người và sự tha thứ và lòng khoan dung là cơ
may cuối cùng để mọi người có thể sống được với nhau một cách xứng đáng”.
Tác giả nhấn mạnh ý nghĩa thức tỉnh những giá trị người mà nhà văn đã dày
công thể hiện và thể hiện khá thành công để hướng tới cái đẹp [37]. Nguyễn
Thanh Tú có một phát hiện mới về tính nhại ý thức trong Giã biệt bóng tối,
“nơi thế giới bị lộn trái, đổi ngôi, chỉ có quỷ dữ là hiền minh”. Nhân vật bóng
tối thâu tóm, điều khiển hành vi của con người hay nói cách khác, trong mỗi
con người đều có mặt bóng tối và giờ đây bóng tối đang trên đà thắng thế, chế
ngự hành vi suy nghĩ của con người. Tính nhại ý thức đó nhằm khắc sâu hơn
mặt trái cuộc sống mà mỗi người đều có trách nhiệm đấu tranh, loại bỏ nó để
sống có ý nghĩa hơn bằng sự tha thứ và lòng khoan dung”. Phạm Vĩnh Cư cho

14
rằng Giã biệt bóng tối là cuốn tiểu thuyết mang tính luận đề và khẳng định đó
cũng là xu hướng chung của văn học thế giới”. Bởi vì thế giới bận tâm tới
việc đúc kết lịch sử chứ không phải mô tả lịch sử.
Tuy nhiên, bên cạnh những đánh giá cao thành công của cuốn tiểu
thuyết, vẫn còn một số ý kiến chưa thỏa mãn về Giã biệt bóng tối, tức là chưa
đáp ứng những đòi hỏi mà người đọc tin tưởng và mong đợi. Nguyễn Hòa đưa

ra “Bảy nỗi thất vọng về Giã biệt bóng tối” và coi tiểu thuyết này của Tạ Duy
Anh đáng thất vọng về lối viết, khả năng xây dựng nhân vật, tác phẩm, ngôn
ngữ ”. Nguyễn Đăng Điệp nêu ra những vấn đề bất cập của Tạ Duy Anh
như còn lộ vấn đề”. Cũng có một số người còn cho rằng tiểu thuyết của Tạ
Duy Anh vẫn chưa thực sự gây được ấn tượng như truyện ngắn trước đó hoặc
tiểu thuyết Đi tìm nhân vật.
Tuy nhiên, hầu như các nhà nghiên cứu đều thừa nhận, Tạ Duy Anh là
một cây bút văn xuôi có sức viết khỏe, dồi dào và gây được sự chú ý, quan
tâm của rất nhiều nhà nghiên cứu và đông đảo độc giả. Bằng chứng là mỗi
cuốn tiểu thuyết in ra đều bán rất chạy, thậm chí in nối bản, và liên tục nối
bản. Chỉ trong vòng một năm, Tạ Duy Anh đã tái bản và in nối bản liên tục 6
lần như tiểu thuyết Thiên thần sám hối. Trong khi đó, năm 2004 lại là một
năm thất bát, mất mùa của tiểu thuyết. Điều đó chứng tỏ, tiểu thuyết Tạ Duy
Anh có sức thu hút độc giả khá mạnh mẽ không chỉ trong cách đặt vấn đề mới
mà còn ở cách thể hiện mới mẻ, mang tính đột phá.
Qua khảo sát lịch sử nghiên cứu về tiểu thuyết Tạ Duy Anh, chúng tôi
nhận thấy: cho đến nay, vẫn chưa có những công trình nghiên cứu một cách
hệ thống toàn bộ tiểu thuyết của nhà văn. Chọn nghiên cứu đề tài này, luận
văn của chúng tôi sẽ đi sâu khảo sát toàn diện, hệ thống sáng tác tiểu thuyết
của Tạ Duy Anh, từ đó, khẳng định phần thành công, đóng góp của nhà văn
vào sự đổi mới của văn học Việt Nam nói chung và sự đổi mới của tiểu thuyết
Việt Nam đương đại nói riêng.

15
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn chủ yếu tập trung khảo sát toàn bộ tiểu thuyết của Tạ Duy
Anh, bao gồm:
- Khúc dạo đầu, 1991,Nxb Thanh niên.
- Lão Khổ, 1992, Nxb Văn học.
- Đi tìm nhân vật (in trong Trò đùa của số phận), 2008, NXB Đồng Nai.

- Thiên thần sám hối, 2004, NXB Đà Nẵng.
- Giã biệt bóng tối, NXB Hội Nhà văn, 2008
Để có cơ sở so sánh, làm nổi bật những nét đặc sắc của tiểu thuyết của
Tạ Duy Anh, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi cũng khảo sát những sáng
tác truyện ngắn của nhà văn và một số tiểu thuyết tiêu biểu trong thời kì đổi
mới cùng một số tiểu thuyết hiện đại trên thế giới.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để triển khai luận văn, chúng tôi sử dụng những phương pháp nghiên cứu
chủ yếu sau: phương pháp nghiên cứu theo đặc trưng thể loại, Phương pháp phân
tích, Phương pháp hệ thống, tổng hợp, Phương pháp thống kê, so sánh.
5. Đóng góp của luận văn
Luận văn của chúng tôi muốn qua thể loại tiểu thuyết để khẳng định nét
riêng trong cá tính sáng tạo của Tạ Duy Anh, những thành công và phần đóng
góp của nhà văn vào công cuộc đổi mới văn học. Đồng thời, qua đó, ở một
góc độ nhất định, chúng tôi cũng làm sáng tỏ những vấn đề đổi mới của tiểu
thuyết Việt Nam đương đại nói riêng và văn học đổi mới nói chung.
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, mục lục và tài liệu tham khảo, nội
dung chính của luận văn gồm ba chương:
o Chương 1: Những nội dung thẩm mỹ cơ bản trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh
o Chương 2: Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Tạ Duy Anh
o Chương 3: Nghệ thuật tiểu thuyết Tạ Duy Anh

16
PHẦN NỘI DUNG
Chƣơng 1
NHỮNG NỘI DUNG THẨM MỸ
CƠ BẢN TRONG TIỂU THUYẾT TẠ DUY ANH

Cùng với sự chuyển đổi chung của cả nền văn học đổi mới trên mọi

phương diện, sáng tác của Tạ Duy Anh cũng có những đổi mới quan trọng.
Những quan niệm nghệ thuật mới mẻ về hiện thực, về con người, về chức
năng của văn học và vai trò tiếp nhận của công chúng đã chi phối và để lại
dấu ấn rất đậm trong việc khai thác, khám phá và thể hiện hiện thực đời sống
và con người. Khảo sát qua các tiểu thuyết Khúc dạo đầu, Lão Khổ, Đi tìm
nhân vật, Thiên thần sám hối và Giã biệt bóng tối, chúng tôi nhận thấy, tiểu
thuyết của Tạ Duy Anh bao quát những nội dung thẩm mỹ cơ bản như sau:
1.1. Nhận thức lại hiện thực lịch sử:
Một trong những đặc điểm của tư duy văn học mới là yêu cầu “nhận
thức lại, kiến giải lại, đánh giá lại kể cả quá khứ, hiện tại và tương lai”. Vấn
đề nhận thức lại là một trong những xu hướng chung của cả nền văn học đổi
mới hiện nay. Sau chiến tranh, không khí ngợi ca hào khí của cuộc cách mạng
thần thánh của dân tộc đã nhường chỗ cho những vấn đề của đời tư thế sự,
con người trở lại với nhịp sống của đời thường và lúc này, người ta có thời
gian để ngẫm nghĩ, chiêm nghiệm về cuộc đời mình, thế hệ mình và cả những
ẩn khuất âm ỉ trong một thời gian dài.
Giật mình nhìn lại Thời xa vắng (Lê Lựu), người ta cảm thấy xót xa cho
một thời con người cá nhân phải hi sinh lớn cho cộng đồng, hạnh phúc của cá
nhân là những khuôn mẫu do cộng đồng áp đặt. Thân phận tình yêu (Bảo
Ninh) thì mong muốn được tự do khóc cho tình yêu trong trắng bị chối bỏ bởi

17
chiến tranh, hay nói cách khác, chiến tranh không có chỗ cho tình yêu đôi lứa;
phóng chiếu cái nhìn đau đớn vào cuộc chiến tranh nghiệt ngã mà dư âm của
nó vẫn vẳng lên âm điệu rùng rợn của những cái chết và sự cô đơn lạc lõng
của thế hệ bước ra từ chiến tranh. Mong muốn nhìn thẳng vào lịch sử để nói
thật, để lí giải những số phận cá nhân đằng sau bức mành hào quang của lịch
sử, nhân vật trở thành phương tiện để nhà văn nhìn nhận lại lịch sử và nhiều
vấn đề trong đời sống thường nhật của con người.
Tiểu thuyết của Tạ Duy Anh cũng hướng đến nhận thức lại hiện thực

đời sống lịch sử, đặc biệt là những vấn đề của nông thôn trong quá khứ (Lão
Khổ, Bước qua lời nguyền, Luân hồi…). Tuy nhiên, nhà văn không chú mục
và cũng không nhằm tái hiện lại sự kiện lịch sử mà chính là số phận con
người – những dấu ấn của cuộc nhào nặn dữ dằn, nghiệt ngã của lịch sử đã
hằn đọng trên từng bi kịch số phận cuả mỗi con người và từ đó hướng tới
những bài học nhân văn sâu sắc.
Nếu đặt vấn đề nhận thức lại trong mối quan hệ lịch sử thì Lão Khổ là một
trong những tiểu thuyết điển hình của Tạ Duy Anh mà Hoàng Ngọc Hiến đã
từng đánh giá là đã góp “thêm một giả thuyết về bản chất người nông dân” trong
giai đoạn văn học đổi mới. Cuộc đời ông Khổ là sự tổng kết một giai đoạn lịch
sử đầy biến động, và không tránh khỏi những sai lầm, sai lầm lịch sử, sai lầm số
phận “lừng danh một thời, ba đào một thời, lụn bại một thời” [2,tr.11].
Cuộc đời của Lão Khổ làm nên một lịch sử đầy sóng gió mà lịch sử của
cộng đồng là cái phông nền để cho bức tranh về số phận, cuộc đời và bản chất
của người nông dân có tên Tạ Khổ hiện lên. “Đời ông Khổ là một bằng chứng
cho sự long đong của kiếp người…” [2, tr.18]. Sau những chiêm nghiệm về
cái được cái mất, lão Khổ tự tổng kết: “Đời lão xét đến cùng, là hiện thân cho
sự đổ vỡ thảm hại” [2].

18
Tạ Duy Anh không chú trọng đến năm tháng cụ thể, chỉ nêu tên sự kiện
là mốc thay đổi cuộc đời nhân vật. Nghĩa là nhà văn xem xét lịch sử trên
phương diện cá nhân chứ không mô tả diễn biến của sự kiện mang tính lịch sử
của toàn dân tộc. Đời lão từ một thằng đi ở bị bóc lột đến tận xương tủy và
chịu biết bao nhục nhã cùng cực bỗng chốc thăng hoa lên đến đỉnh cao của
quyền lực, được nắm trong tay chức Chủ tịch xã; đang thăng hoa thì đột ngột
từ đỉnh cao lão lại bị rơi xuống đáy sâu của vòng tù tội; khi cải cách ruộng đất
đến, lão bị đưa ra truy tố, thành một thằng Quốc dân Đảng, một tên gián điệp.
Rồi như để sửa sai cho hành động bị bỏ tù 8 tháng ở chuồng trâu, lão được
khôi phục danh hiệu chiến sĩ cách mạng, được cất nhắc làm Chủ tịch xã. Lão

say mê thử nghiệm mô hình cuộc sống mới dẫn đến Thiên Đường, để rồi cuối
cùng lại bị quẳng xuống dưới đáy, bị vò nát tấm lí lịch thành một “kẻ mất hết
khả năng làm công dân”, bị đem ra trước tòa như một tên tội phạm nguy
hiểm. Bàn tay tráo trở của lịch sử có thể đưa người ta “lên voi” nhưng cũng
bất ngờ lật ngược bàn tay, đẩy họ xuống kiếp “chó”, rơi vào những hoàn cảnh
cực kỳ trớ trêu. Lịch sử như một cô nàng đỏng đảnh, đong đưa mà con người
như là con rối trong tay lịch sử, rốt cuộc số phận chỉ là một trò đùa ác nghiệt.
Lịch sử dẫn lão Khổ đến đỉnh vinh quang, nhưng cũng chính lịch sử vứt toẹt
mọi phẩm hạnh, đưa đẩy lão rơi xuống vực thẳm. Qua nhân vật lão Khổ,
chúng ta có thể soi chiếu đến những số phận khác trong tiểu thuyết, trong và
sau Đổi mới, đó là nhân vật Nghĩa, Vạn và Hạnh trong Bến không chồng, là
Phương và Kiên trong Nỗi buồn chiến tranh, và Sài trong Thời xa vắng…
Chừng ấy mẩu cuộc đời đầy bi kịch, sóng gió.
Tuổi trẻ của lão cũng giống như hình ảnh anh nông dân Chí Phèo lương
thiện. Một thanh niên khỏe mạnh với tâm hồn trong trắng, chất phác, hiền
lành bị đánh thức ước mơ hạnh phúc về gia đình đầm ấm khi đứng trước một
người con gái. Giống như một câu chuyện cổ tích thơ mộng, một anh chàng

19
chăn vịt bên lều cỏ bỗng chốc đổi đời sau một đêm dẫn đầu đoàn người vùng
lên lật đổ ách áp bức, bóc lột và nắm lấy chính quyền. Đời lão Khổ phất lên
đến chức Chủ tịch xã đầy uy quyền. Lão mơ màng hoang tưởng tìm cách đưa
mọi người tới Thiên Đường. Lão hăng say làm việc tốt, nhưng cũng không ít
lần lão hành động như một kẻ cố chấp, nuôi dưỡng hiềm thù. Lão ra tay thanh
trừng Tạ Bông. Lão đẩy cả một chi họ của Tư Vọc tan gia bại sản, phải lũ lượt
tha hương, uất ức chờ thời, đợi ngày quay về phục thù, rửa hận. Lão làm cho
Tạ Tự bị cô lập đến mức bị mọi người ruồng bỏ, tẩy chay. Không những thế,
những đứa trẻ vô tội, con cái của kẻ thù, cũng bị Lão khép vào tội “đời cha ăn
mặn”. Lão ức hiếp ngay cả với tuổi thơ của hai đứa bé Hai Duy và bé Tâm.
Lão làm tất cả những việc ấy mà không hề hay biết rằng, chính những việc

làm ấy đang đưa lão trượt dốc xuống địa ngục, tự biến mình thành quỷ dữ.
Lão đã dần đánh mất tình thương và lòng vị tha. Lão trở thành một công cụ
đắc lực của quyền lực, một cái máy cứng nhắc của thể chế mới, với mong
muốn mặc đồng phục cho tất cả mọi người.
Đồng thời với việc nhìn lại lịch sử cuộc đời mình, lão Khổ cũng nhìn
nhận lại những được mất trong cuộc đời chung. Luẩn quẩn với vòng thù hận
cứ truyền từ đời này sang đời nọ, hết thế hệ này sang thế hệ khác, dai dẳng
kéo lê và đày đọa những số phận con người theo những thăng trầm của lịch
sử, lúc lên voi lúc lại xuống chó. Làng Đồng bé nhỏ phải gánh vác sức nặng
của sự chây ì đang cố thủ trong lâu đài định kiến.
“Bước qua lời nguyền” như là một thách thức mà bao đời nay vẫn chưa
vượt qua được. Dường như Lão Khổ là một sự tiếp nối, tập hợp một cách đầy
đủ, triệt để hơn từ những truyện ngắn trước đó. Đó là những lời nguyền dòng
họ, là những lời nguyền truyền kiếp đã đến mức lạc hậu, lỗi thời nhưng vẫn
như một đám mây đen bao trùm lấy cả làng Đồng, tạo nên những huyền thoại

20
về làng Đồng, một thế giới biệt lập tưởng như chỉ có ở thời tiền cổ, với những
tư duy ấu trĩ, cổ hủ tưởng như đã bị đào thải thì nay vẫn đang đè nặng lên vai
những người đang sống, ghì con người xuống sát đất, “sự cắn xé nhau liên
miên, đến nỗi cắn xé như một đặc tính nguyên thủy của đám người khốn khổ
ấy” [2,tr.177]. Những thế hệ thanh niên mới, có những người được học hành tử
tế, thành tài như Hai Duy, cũng có lúc bất lực trước sức mạnh ghê gớm của thế
lực bảo thủ của cái làng Đồng – một thế giới thu nhỏ biệt lập, mà đành phải bỏ đi
biệt xứ. Cuộc cách mạng giành độc lập dân tộc là một cuộc kháng chiến trường
kỳ với biết bao khó khăn gian khổ, đổ cả máu và nước mắt nhưng sức mạnh
cộng hưởng của sự đồng lòng đã vượt lên tất cả làm nên chiến thắng vĩ đại.
Nhưng trong thời bình, cuộc cánh mạng để loại bỏ tàn dư của những quan niệm
ấu trĩ, hủ tục lạc hậu, lỗi thời vẫn tồn đọng trong những ngõ ngách của đời sống
hàng ngày và đang bóp nghẹt sự đi lên của cuộc sống văn minh hiện đại, lại

không hề dễ dàng, không thể một sớm một chiều, một cá nhân riêng lẻ. Mỗi
trang viết của Tạ Duy Anh da diết cảm giác của những hồi ức đau đáu, nhức
nhối, những “vò xé" không ngừng. Và từ đó, khát vọng có thể bước qua những
định kiến chật hẹp, trói buộc, “những cấm đoán phi lý và phi nhân tính được
nhân danh những điều thiêng liêng”, có thể “bước qua lời nguyền”[47,tr.12].
Nếu như nhân vật của Nam Cao được lý giải như là sản phẩm của thời
đại, của hoàn cảnh xã hội thì với Tạ Duy Anh, nhà văn lý giải cuộc đời nhân
vật là những điều trái khoáy, là trò đùa của số phận mà còn có lúc không nằm
cùng chiều với lịch sử cộng đồng. Đây là cái nhìn vượt lên trên lịch sử, dùng
lịch sử để phán xét chính nó, dùng lịch sử để biện minh cho số phận và bản
chất con người, và từ đó nhà văn có cái nhìn về bản chất người đúng đắn hơn.
Sự đưa đẩy của lịch sử khiến cho từ Chánh Tổng đến lão Tạ Khổ đều phải cay
đắng mà cam phận, nhắm mắt mà buông xuôi theo quy luật “sông có khúc,
người có lúc”. Xét đến cùng thì họ cũng chỉ là con người bé nhỏ, là con rối

21
của con Tạo, bị nhào nặn bởi lịch sử và trở thành nạn nhân của lịch sử chứ
không phải là người tạo ra lịch sử.
Cái oái oăm nhất là lịch sử cũng tỏ ra vô nghĩa với chính nó. Lịch sử
chỉ là sự đổi ngôi, là sự thay đổi hình thái xã hội chứ không triệt tiêu được cái
xấu. Lão Khổ bị kẹt giữa hai thể chế. Những tàn dư của thể chế cũ chưa hoàn
toàn bị thay thế, vẫn mang nặng những tư tưởng, định kiến cũ nát, lỗi thời.
Thể chế của thời sau là một mô hình thử nghiệm ở giai đoạn đầu của thời kì
“mở cửa” còn đầy rẫy những tiêu cực mà lão chưa được trang bị kiến thức để
hiểu và để biết “lựa” theo chiều. “Lão long đong vì không biết nói dối” [2,
tr.177], lão cứ sống hồn nhiên với nhân cách, chân lý của riêng mình và tất
yếu cuộc đời đen bạc không thể chấp nhận một nhân cách như thế. Lão Khổ
vừa là nạn nhân của thời cuộc, vừa là nạn nhân của chính mình. Chính vì
thế, lão bị bật ra khỏi guồng máy. Đem thân ra làm bệ phóng cho thời đại
mới, lão sẽ phải chấp nhận cuộc chơi. Những nhân vật như lão Khổ, hoặc

mang bóng dáng của lão Khổ hiện diện khá phổ biến trong sáng tác của Tạ
Duy Anh, bởi lẽ đó là biểu trưng của thời đại, của lịch sử, của số phận trong
sự cảm nhận của Tạ Duy Anh về cõi đời. Lịch sử bi đát ở chỗ là tự nó lấy
mình ra để thể nghiệm.
Từ quan niệm của mình, Tạ Duy Anh để cho nhân vật tự nhận thức lại
hiện thực lịch sử là nhà văn đã có một cách nhìn thẳng thắn, không khoan
nhượng với tất cả những sai lầm, những mặt trái, mặt tiêu cực. Tuy nhiên, nhà
văn luôn đặt tất cả nhân vật của mình trong mối quan hệ với lịch sử, thời đại
để xem xét, đánh giá và có xu hướng cắt nghĩa, lý giải khách quan mọi sai
lầm đã qua thuộc về những hạn chế không thể tránh khỏi của lịch sử. Chính
nhờ thế, các nhân vật của Tạ Duy Anh khi đã trải qua hết thăng trầm, biến cố
của một đời thường có được sự bình tâm, chiêm nghiệm, nhìn nhận lại tất cả.

22
Điều độc giả nhận được từ tác phẩm của Tạ Duy Anh, do vậy là những chiêm
nghiệm sâu xa, thấm thía, đậm tính nhân văn về cuộc đời và thời cuộc. Và từ
đó, là những bài học nhân văn sâu sắc: “hãy tránh sự tái diễn tương tự bởi vì
lịch sử luôn có nguy cơ lặp lại” và hãy biết “đòi cho con người cuộc sống mà
họ xứng đáng được hưởng” [47, tr.13-14]. Tạ Duy Anh đã mang đến một
cách nhìn, cách đánh giá và lý giải mới về hiện thực, góp một tiếng nói mới
vào sự đổi mới của tư duy văn học.
Từ con người trải nghiệm, từ nhân chứng của lịch sử, nhân vật nhận
thức lại lịch sử trên một vị thế mới. Họ đứng cao hơn lịch sử, mà từ chỗ đó họ
nhìn nhận, đánh giá, chiêm nghiệm lại lịch sử. Hầu hết các nhân vật trong tiểu
thuyết của Tạ Duy Anh, sau khi đã nếm trải cay đắng của cuộc đời, đã đi qua
hết vòng trầm luân trần gian, đều tỏ ra khoan dung, vị tha cho cuộc đời với
lão Khổ: “Điều sâu xa hơn chính ở chỗ cuộc đời lão từng cất cánh bay lên từ
những biến cố dữ dội ấy. Lão coi đó như điều khó tránh của lịch sử dù nó
đẫm máu. Vả lại, trong tư tưởng, lão đã có sự dung hòa lớn lao giữa những
mất mát cá nhân với cái điều mà lão cho là “cần thiết” với số đông”… và

“lão không mảy may nghi ngờ tính chất vớ vẩn đong đưa của cuộc đời”…
“bước từ thế giới mịt mùng này sang thế giới mịt mùng khác, như nỗi khổ đau
vĩnh cửu gắn lên số phận con người”. Kẻ thù của lão, Tạ Bông, khi trở về đã
mang theo một cái nhìn rộng lượng hơn: “xét đến cùng thì mọi cái đều vớ vẩn.
Điều khiến bọn mình trở thành đáng thương là chúng ta bị cuốn vào vòng thù
hận…” [2,tr.146].
Nhiều tác phẩm của Tạ Duy Anh, cả truyện ngắn và tiểu thuyết đều có
sự lật lại những ảnh hưởng dai dẳng từ sai lầm trong cải cách ruộng đất,
nhưng trên hết vẫn chủ yếu nhấn vào tính duyên cớ, mà từ đó nuôi dưỡng
lòng thù hận. Ngay từ truyện ngắn đầu tay, nhà văn đã có ý thức muốn phá

23
hủy bức tường kiên cố của định kiến, vượt thoát khỏi sự ràng buộc của truyền
thống với những tư tưởng lạc hậu, bảo thủ, trì trệ còn sót lại trong đời sống
nông thôn. Sự thù hận mù quáng không có chỗ cho tình yêu. Cả một cõi
người chỉ quẩn quanh trong vòng u tối của niềm thù hận dai dẳng, hết kiếp
này đến kiếp khác. Tình yêu của tuổi trẻ thế hệ mới đã tiếp thêm sức mạnh
cho họ để chống đối lại những lời nguyền cay nghiệt. Chúng ta gần như gặp
lại tình yêu của Quý Anh và cậu Tư trong truyện ngắn “Bước qua lời nguyền”
ở hai nhân vật Hai Duy và con Tâm trong tiểu thuyết “Lão Khổ”. Thể hiện sự
chống đối với quá khứ đầy thù hận, người con gái một lòng thủy chung chờ
đợi bất chấp sự nguyền rủa của cả dòng họ, thậm chí bị đẩy ra khỏi rìa làng.
Người con trai nhất quyết bảo vệ tình yêu đến cùng bằng hành động bỏ nhà ra
đi để tỏ thái độ không khoan nhượng, phản ứng kịch liệt, dứt khoát tẩy chay
thể chế xã hội cũ và những cố chấp đã ăn sâu vào căn cốt trong từng con
người, mà Hai Duy cũng là một nhân chứng, để từ đó khẳng định: tình yêu
không thể sống chung với lòng thù hận và lòng thù hận cũng không thể sản
sinh ra sự sống. Từ sự phản ứng chống đối trước cấm đoán vô lý của người
cha, thậm chí là chấp nhận bị cha từ mặt để đến với tình yêu, rồi đành bất lực
bỏ làng ra đi và cuối cùng dũng cảm quay trở về để đối diện, can đảm vạch

mặt thế lực u mê, tăm tối của sự cố chấp và lòng thù hận, giải phóng cho tình
yêu và bảo vệ cho lẽ sống được sinh sôi… thế hệ trẻ như Hai Duy đã làm nên
một cuộc cách mạng, dựng nên một trang sử mới cho làng Đồng. Hai Duy đã
dám chất vấn lại cha trong bức thư: “…Cha hãy trả lời con, giữa tình yêu và
lòng hận thù nên chọn cái nào? Vì sao con sinh ra ở đời này? Con sinh ra
vì trên đời này có một con người hoàn toàn trong trắng, vô tội bị cha ruồng
bỏ. Người ấy cần tình yêu của con. Cha có sức mạnh của quyền lực, nhưng
chúng con có sức mạnh của khao khát tự do và chân lý” [2, tr.116].

24
Trước đây, một phần người ta không có thời gian để ngồi lại ngẫm nghĩ
những được, mất từ những việc đã xảy ra; và vì phải đứng trước lựa chọn một
mất, một còn giữa sự sống và cái chết, tự do và nô lệ; cũng một phần nữa là
do thái độ né tránh của nhà văn trước những vấn đề nhạy cảm, đụng chạm khi
“nhận thức lại". Nhưng từ sau năm 1986, khi nhu cầu phản ánh sự thật đòi hỏi
được lộ diện thì những viện cớ đó không còn phù hợp với thời đại nữa. Sự lật
ngược lại cách nhìn truyền thống về những vấn đề của đời tư thế sự trở thành
một xu hướng tất yếu trong văn học đổi mới.
Nếu như ở Lão Khổ còn in đậm dấu ấn của lịch sử một thời vang bóng,
thì càng những tiểu thuyết về sau, Tạ Duy Anh lại hướng ngòi bút của mình
vào hiện thực đời sống đương đại, hiện thực đang chảy trôi và ở thì hiện tại
chưa hoàn thành. Đây là một bước chuyển biến mạnh mẽ và tích cực của nhà
văn, đã được các nhà văn thế hệ đàn anh, những nhà văn cùng thời và công
chúng đánh giá cao, ghi nhận bước tiến trong nghệ thuật của nhà văn, cùng
với những đóng góp không nhỏ cho phong trào đổi mới văn học nói chung và
tiểu thuyết nói riêng.
Nhận thức lại là một quá trình liên tục để không ngừng hoàn thiện
nhân cách và cũng là giải pháp để con người tránh khỏi lặp lại những sai lầm,
tái phạm, để từ đó không ngừng nuôi dưỡng ý thức cái tôi bản thể, khẳng định
mình. Điều này cho thấy, Tạ Duy Anh không dừng lại sau thành công mở

đường, mà luôn nỗ lực làm mới mình, tìm kiếm những địa hạt mới, tìm tòi
những hình thức mới để khám phá và biểu đạt tối đa hiện thực cuộc sống hiện
đại đầy phức tạp, xô bồ.
Trong Đi tìm nhân vật, Tạ Duy Anh đã kết thúc tiểu thuyết bằng phần
vĩ thanh với bốn câu chuyện cổ tính: Rùa chạy thi với thỏ, Trí khôn của ta
đây, Tấm Cám, Mỵ Châu – Trọng Thủy… Kể bốn câu chuyện là cách để nhà

×