Tải bản đầy đủ (.pdf) (92 trang)

Tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn dưới góc nhìn thể loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (864.24 KB, 92 trang )

1


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN


































: 



m
















-2013
2



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN








































: PGS.TS. 


















-2013
5



MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài…………………………………………………………4
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề……………………………………………….6
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu……………………………………….9
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu……………………………………10
5. Phƣơng pháp nghiên cứu………………………………………………10
6. Kết cấu luận văn……………………………………………………… 11
NỘI DUNG……………………………………………………… 12
Chƣơng 1: TIỂU THUYẾT NGUYỄN BẮC SƠN TRONG DÒNG CHẢY
CỦA TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI
1.1 Cái nhìn chung về tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại…………… 12
1.1.1 Quá trình đổi mới đất nước và đổi mới văn học ……………….12
1.1.2 Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới…………………….………….14
1.2 Tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn - một hiện tƣợng của tiểu thuyết Việt Nam
đƣơng đại …………………………………………………… 21
1.2.1 Cuộc đời………………………………………………………… 21
6

1.2.1 Con đường sáng tạo văn học ………………………………… 21
1.2.3 Đề tài cơ chế và cải cách trong sáng tác của Nguyễn Bắc
Sơn 23
Chƣơng 2: CỐT TRUYỆN VÀ NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT

NGUYỄN BẮC SƠN
2.1 Cốt truyện……………………………………………………………25
2.1.1 Khái lược về cốt truyện…………………………………………… 25
2.1.2 Cốt truyện trong tiểu thuyết Luật đời và cha con, Lửa đắng 26
2.2 Nhân vật …………………………………………………………… 29
2.2.1 Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Luật đời và cha con, Lửa đắng
31
2.2.1.1. Nhân vật tích cực ………………………………………………… 31
2.2.1.2. Nhân vật tiêu cực ………………………………………………… 34
2.2.2. Nghệ thuật khắc họa nhân vật ……………………………………37
2.2.2.1. Miêu tả chân dung nhân vật ……………………………………. 37
2.2.2.2. Miêu tả tâm lí nhân vật qua xung đột………………………… 44
2.2.2.3. Miêu tả tâm lí nhân vật qua độc thoại nội tâm ……………… 48
Chƣơng 3: NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU TRONG TIỂU THUYẾT
NGUYỄN BẮC SƠN
3.1. Ngôn ngữ …………………………………………………………… 53
7

3.1.1 Ngôn ngữ trong tiểu thuyết ……………………………………… 53
3.1.2 Ngôn ngữ trong tiểu thuyết Luật đời và cha con, Lửa đắng ……55
3.1.2.1. Ngôn ngữ chính trị-xã hội………………………………. 55
3.1.2.2. Ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày…………………………. 62
3.1.2.3. Ngôn ngữ hài hƣớc, dí dỏm……………………………… 68
3.2. Giọng điệu ………………………………………………………… 72
3.2.1. Khái niệm và vai trò của giọng điệu ……… …………………. 73
3.2.2. Giọng điệu trong tiểu thuyết “Luật đời và cha con”, “Lửa đắng”
………………………………………………………………………………… 75
3.2.2.1. Giọng “nhại” …………………………………………… 75
3.2.2.2 Giọng văn suồng sã, gần gũi với đời sống hiện
thực……………………………………………………………… 79

KẾT LUẬN…………………………………………………………… 83
TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………………… 86
8

MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Nguyễn Bắc Sơn trở thành một hiện tƣợng văn chƣơng khá đặc biệt khi
cuốn tiểu thuyết đầu tay Luật đời và cha con đƣợc Nhà xuất bản Hội nhà văn
cho ra mắt công chúng vào tháng 8/2005 thì đến tháng 10 năm đó, Nhà xuất bản
Văn học đã tái bản. Sau đó, 16 báo trong đó có báo hình, báo nói, báo điện tử,
báo in có bài giới thiệu, phỏng vấn tác giả, trích đọc tác phẩm. Nhờ đó, ông nổi
tiếng “sớm” so với độ tuổi “muộn” của mình.
Văn chƣơng vốn là cái nghiệp của đời ông. Dù khi đã bƣớc vào cái tuổi
thất thập nhƣng ông vẫn ghi tên mình vào làng văn với hàng loạt tập bút ký nhƣ:
Người dẫn đường trời (1999), Hoa lộc vừng (1999), Hồng Hà ơi (2000), Nghề
đi mây về gió (2001), Đá dậy thì (2004), cùng các tập truyện ngắn: Thực hư
(1998), Quyền không được yêu (2000), Người đàn ông quỳ (2001), Luật đời
(2003)… Qua đó, cho thấy một cây bút Nguyễn Bắc Sơn “chín muộn, nhƣng ào
ạt, dồn dập, tràn đầy sinh lực” (Hoàng Minh Tƣờng).
Nguyễn Bắc Sơn đến với tiểu thuyết khi mái đầu đã điểm bạc. Cuốn tiểu
thuyết Luật đời và cha con xuất bản năm 2005. Đây là cuốn tiểu thuyết đầu tay
với sự dồn nén, tìm tòi, chiêm nghiệm và tâm huyết của một mái đầu bạc trắng
sau hơn 40 năm mê đắm văn chƣơng từ cái thuở đứng trên bục giảng rồi làm
cán bộ quản lý ở trƣờng cấp 3 Chu Văn An. Theo nhà thơ, đạo diễn điện ảnh Đỗ
Minh Tuấn: “Luật đời và cha con là cuốn tiểu thuyết Việt Nam đầu tiên mổ xẻ
sự vận động của toàn xã hội trong quá trình đổi thay cơ chế, một sự vận động
đụng chạm chạm đến từng gia đình, từng số phận”. Tác phẩm đã đƣợc chuyển
thể thành kịch bản phim Luật đời phát sóng trên kênh VTV1 của Đài truyền
hình Việt Nam. Ngay sau khi công chiếu, bộ phim đã thu hút sự quan tâm đông
9


đảo của khán giả và đoạt giải thƣởng cao nhất của Liên hoan phim truyền hình
Việt Nam năm 2007: Phim truyền hình nhiều tập, do khán giả bình chọn.
Năm 2007, ông lại tiếp tục cho ra đời cuốn tiểu thuyết Lửa đắng (cuốn
tiểu thuyết đƣợc cho là tập II của Luật đời và cha con). Lửa đắng tiếp tục xoay
quanh những vấn đề nóng và gai góc của xã hội. Bằng ngòi bút sắc sảo, Nguyễn
Bắc Sơn đã cho tất cả dƣờng nhƣ mặc sức bung phá ra khỏi các giới hạn thông
thƣờng. Ông đi tìm khuôn mặt thật của từng thế giới ngƣời, của cái xã hội đang
bị cuốn mạnh vào vòng xoáy tiền bạc, ham muốn, danh lợi, quyền lực… để từ
đó đƣa ra những dự báo chân thực. Sức nóng, những vấn đề gai góc trong tiểu
thuyết cũng là chính là một nguyên cớ tạo nên hứng thú nghiên cứu tiểu thuyết
Nguyễn Bắc Sơn từ phía chúng tôi.
Luật đời và cha con, Lửa đắng đã cuốn hút ngƣời đọc, trong đó có chúng
tôi bởi những tình tiết và các mối quan hệ phức tạp… hiện hữu trong một thế
giới đầy kịch tính, xen lẫn các yếu tố bi hài làm nổi bật sự đa chiều đa diện của
hiện thực và con ngƣời. Hơn nữa, ngôn ngữ của tác phẩm thân mật, gần gũi,
thậm chí có phần bỗ bã góp phần làm cho những vấn đề của cuộc đời với những
qui luật nghiệt ngã đỡ căng thẳng, nặng nề trong tâm lý tiếp nhận và thƣởng
thức của ngƣời đọc. Không chỉ vậy, sự kết hợp nhiều thể loại trong Luật đời và
cha con, Lửa đắng cùng với giọng điệu trần thuật giàu sắc thái biểu cảm đã làm
nên chất tiểu thuyết, tạo nên sức hấp dẫn của hai tiểu thuyết này.
Chính những lí do đó đã lôi cuốn chúng tôi đến với tiểu thuyết Nguyễn
Bắc Sơn, đến với những trang viết đầy ấp ủ và tâm huyết của ông để có thể nhận
diện tác phẩm một cách đầy đủ hơn, cụ thể hơn và cũng chân thực hơn về những
suy nghĩ, tâm tƣ của ông trƣớc sự chuyển đổi cơ chế xã hội từ bao cấp sang thị
trƣờng - một giai đoạn đầy biến động của xã hội Việt Nam đƣơng đại.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
10

Ngay từ khi bộ tiểu thuyết Luật đời và cha con và Lửa đắng xuất hiện trên

văn đàn đã thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu, phê bình và ngƣời đọc.
Xung quanh 2 tiểu thuyết này đã có gần 30 bài phê bình, bài phỏng vấn và 2
cuộc tọa đàm. Một do báo Văn nghệ tổ chức ngày 26/12/2005 với Luật đời và
cha con và một do Hội nhà văn tổ chức 9/ 2011 với Lửa đắng, sau khi nó đƣợc
nhận giải ba cuộc thi tiểu thuyết (Hội nhà văn tổ chức trong 2 năm 2008 –
2910).
2.1 Các ý kiến nhận xét về tiểu thuyết “Luật đời và cha con”:
Trên báo Văn nghệ, Văn nghệ trẻ, Tuổi trẻ, Lao động ,Thể thao và Văn
hóa, Hà Nội mới, Người Hà Nội, An ninh Thủ đô cuối tuần, Tạp chí Nhà văn …
nhƣ: Luật đời và cha con (Đỗ Minh Tuấn), Luật đời và cha con (Hoàng Minh
Tƣờng), Cái nhìn hiện thực và con người trong tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn
(PGS.TS Nguyễn Bích Thu) hay Đi qua ranh giới để tồn tại (PGS.TS Nguyễn
Đăng Điệp), Một cuốn tiểu thuyết về đổi mới (Nguyễn Chí Hoan), Một bức
tranh sống động (Công Minh), Chuyện không chỉ của thời nay (Phạm Xuân
Nguyên)… Do giới hạn dung lƣợng và sự chi phối của mục đích nghiên cứu nên
chỉ đi sâu một khía cạnh nào đó liên quan tới nội dung và hình thức nghệ thuật
của tiểu thuyết.
Bài viết của Nguyễn Đăng Điệp đánh giá: “Chính việc biết tạo nên nhiều
sắc thái giọng điệu khác nhau đã khiến cho tác phẩm không rơi vào đơn điệu.
Ngôn ngữ Nguyễn Bắc Sơn là thứ ngôn ngữ gần gũi với cuộc sống. Ông sử
dụng khá nhiều khẩu ngữ, xây dựng nhiều tình tiết mang tính kịch và biết gia
tăng chất giọng hài hƣớc, dí dỏm… Vì thế, khi đọc Luật đời và cha con, ngƣời
đọc nhƣ đƣợc tiếp xúc trực tiếp với những luồng điện nằm sẵn trong đời, đƣợc
thấy phù sa đời sống chạm vào xúc giác của mình, đƣợc hít thở vị mặn của cuộc
sống đang diễn ra trƣớc mắt ta từng phút giây”.
11

Trên báo Người Hà Nội, số ra ngày 31/03/2006, Nguyễn Chí Hoan đã chỉ
ra những đổi mới trong tiểu thuyết Luật đời và cha con: “Cuốn tiểu thuyết này
đặt trọng tâm và dựa cả vào nhân vật và cốt truyện, trong đó phần của các nhân

vật có vai trò lấn át. Phần cốt truyện đƣợc bố cục theo sự xuất hiện của các nhân
vật. Một sự khác biệt nữa so với hình mẫu ngôn ngữ tiểu thuyết “hiện thực”
truyền thống là ở chỗ trong cuốn tiểu thuyết này không có một nhân vật “mang
vấn đề” mà có cả một lớp, một loạt”.
Phạm Xuân Nguyên cũng đồng tình với Nguyễn Đăng Điệp ở chỗ:
“Nguyễn Bắc Sơn là ngƣời viết có giọng kể và ở nhiều chỗ, nhiều đợt cái sự kể
lại hấp dẫn, lại chuyển tải đƣợc vấn đề. Ƣu điểm lớn nhất của Luật đời và cha
con là cái ý vị hài hƣớc, cái “humour”, nhẹ nhàng, hóm hỉnh, có khi thêm chút
châm biếm, giễu cợt, nó làm cho câu chuyện dễ khô khan, căng thẳng thành ra
thú vị, gây khoái cảm trong suy nghĩ khi đọc sách”.
Bài viết của Bích Thu chứa đựng sức bao quát lớn hơn cả với nhiều đánh
giá về kết cấu, nhân vật, điểm nhìn trần thuật… Tuy nhiên, nhƣ đã nhận định
ban đầu, các bài viết cơ bản mới chỉ dừng lại trong phạm vi khái quát chung
chung chứ chƣa đi sâu phân tích, lí giải chi tiết và tỉ mỉ do sự chế ƣớc của nhiều
yếu tố chi phối. Luận văn của chúng tôi sẽ đi vào những “khoảng trống” ấy.
Một số bài nghiên cứu về tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới có đề cập
đến Luật đời và cha con của Nguyễn Bắc Sơn, tuy nhiên không đi sâu mà chỉ
lấy làm dẫn chứng cho những luận điểm mà các tác giả muốn trình bày. Chẳng
hạn, Bích Thu trong Một cách tiếp cận tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới
đăng trên Nghiên cứu văn học số 11 năm 2006 đánh giá: Luật đời và cha con
cùng với Đi về nơi hoang dã ( Nhật Tuấn), Ngoài kia miền đất hứa (Nguyễn
Quang Thân), Cơn giông (Lê Văn Thảo), Sóng lừng (Triệu Xuân) là những tác
phẩm mang tính “dự báo của lƣơng tri” trong một xã hội còn nhiều bất an và
khiếm khuyết. Đi tìm đặc điểm thi pháp thể loại từ góc độ xây dựng nhân vật,
12

tác giả bài viết cho rằng: Luật đời và cha con đã đi sâu vào con ngƣời thân phận
với những khát vọng riêng tƣ gắn liền sự nghiệp chung của đất nƣớc, tạo mối
liên hệ mật thiết giữa con ngƣời cá nhân và con ngƣời xã hội.
2.2 Các ý kiến nhận xét về tiểu thuyết “Lửa đắng”:

Từ lúc Lửa đắng ra đời, đã có hơn 20 đơn vị báo chí phỏng vấn, viết bài
giới thiệu. Thêm vào đó là một số bài nghiên cứu, phê bình trên báo Văn nghệ,
Công lí, Nhà báo và công luận …
Vũ Duy Thông trong bài Thay lời giới thiệu cho cuốn tiểu thuyết Lửa
đắng nhận định: Lửa đắng là cuốn tiểu thuyết viết về ngày hôm nay, ở ngay
dòng chảy chính của hiện thực, trực tiếp có mặt ở những va đập kiến tạo ra nó,
cả những đổ vỡ hào sáng, cả những kết tụ phũ phàng. Thành công đầu tiên của
Nguyễn Bắc Sơn trong Lửa đắng là đã xây dựng đƣợc một dàn nhân vật là
những ngƣời phần nhiều có chức, có quyền không phải là những hình nộm khô
khan minh họa cho một triết lý sống; không phải là những hình kỷ hà trống rỗng
để tác giả trút vào đó quan niệm của mình về họ. Các nhân vật của ông tồn tại
nhƣ ngƣời đang sống quanh ta, bởi thế, có lẽ là đầu tiên một cách có hệ thống,
trong tiểu thuyết đƣơng đại, ngƣời đọc đƣợc hé mở tấm màn của chủ nghĩa sơ
lƣợc để tiếp cận với lớp ngƣời vẫn thƣờng đƣợc gọi là “quan” trong xã hội với
tấm chân dung chân thực của nó.
Đánh giá về tiểu thuyết Lửa đắng, Lê Thành Nghị cho rằng: Đây là một
cuốn tiểu thuyết thế sự - đạo đức bởi nó viết một cách trực diện về hiện thực
nóng bỏng của đất nƣớc hôm nay, hiện thực nhọc nhằn của công cuộc đổi mới,
hiện thực của cái cũ, lạc hậu với những kìm hãm ghê gớm đầy quyền lực, đầy
thủ đoạn của nó và cái mới, cái tốt đẹp, cái hợp quy luật, hợp lòng ngƣời quyến
rũ nhƣng mong manh Về nghệ thuật thể hiện, Lê Thành Nghị nhận xét: Lửa
đắng chọn lối kể chuyện cổ điển, một văn phong giản dị, ít bay bƣớm, văn hoa,
13

một giọng điệu mang tính thông tấn, báo chí tƣơng đối nhanh và hiệu quả.
Nhiều chỗ là dòng ý thức của tác giả, của nhân vật làm tăng chiều kích của tâm
trạng, của tâm lý và vì vậy tăng thêm tính chân thực nghệ thuật. Nhiều chỗ là
những bình luận, những trang chính luận sâu sắc. Tác giả không hề tả cảnh,
không hề cài đặt huyền ảo sống sít, nhƣng lại có ý thức đa chất hài (đầy màu sắc
chợ búa) vào đúng chỗ cần thiết (trong cuộc trƣng cầu ý kiến các hộ buôn bán

trƣớc khi xây chợ).
Sau thành công của hai cuốn tiểu thuyết Luật đời và cha con và Lửa
đắng, đã có một số luận văn thạc sỹ viết về hai cuốn tiểu thuyết này. Đó là: luận
văn Đặc sắc tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn của tác giả Đào Thị Mỹ Dung, luận
văn Tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn của tác giả Phạm Lê Hoa.
Những ý kiến và nghiên cứu của ngƣời đi trƣớc là những gợi dẫn quý báu
để chúng tôi tiếp cận đề tài và tìm hiểu sâu hơn vào thế giới nghệ thuật của tác
phẩm.
Luận văn của chúng tôi là một công trình đầu tiên nghiên cứu tƣơng đối
cụ thể và toàn diện tiểu thuyết của Nguyễn Bắc Sơn dƣới góc nhìn thể loại.
3. Đối tƣợng nghiên cứu, phạm vi, giới hạn của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Từ góc nhìn thể loại, đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề
thuộc phạm trù thể loại của tiểu thuyết nhƣ: nhân vật, cốt truyện, phƣơng thức
trần thuật ngôn ngữ, giọng điệu. Đây là những vấn đề nổi bật trong tiểu thuyết
Nguyễn Bắc Sơn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
14

- Luận văn tập trung khảo sát, tìm hiểu tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn dƣới
góc nhìn thể loại qua hai cuốn tiểu thuyết: Luật đời và cha con (2005), Nxb Văn
học, Hà Nội; và Lửa đắng (2007), Nxb Lao động, Hà Nội, trên cơ sở so sánh
với một số tiểu thuyết cùng thời.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1 Mục đích nghiên cứu
Luận văn mong muốn làm sáng rõ tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn dƣới
góc nhìn thể loại. Thông qua đó, hiểu thêm về nghệ thuật trần thuật của nhà văn
và đặt tác phẩm của ông trong dòng chảy của tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại.
4.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc những mục đích đó, luận văn triển khai những nhiệm vụ cụ

thể sau:
- Đƣa ra một cái nhìn tổng quát về tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn trong mối
quan hệ với các xu hƣớng sáng tác tiểu thuyết giai đoạn hiện nay.
- Chỉ ra những nét nổi bật trong thi pháp thể loại của tiểu thuyết Nguyễn
Bắc Sơn về cốt truyện, nhân vật, ngôn ngữ, giọng điệu.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng các phƣơng pháp nghiên cứu sau:
Phƣơng pháp loại hình, phƣơng pháp hệ thống, phƣơng pháp phân tích,
phƣơng pháp so sánh, và phƣơng pháp tiếp cận thi pháp học.
6. Cấu trúc của luận văn:
15

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn gồm
3 chƣơng. Cụ thể nhƣ sau:
Chƣơng 1: Tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn trong dòng chảy của tiểu thuyết
Việt Nam đương đại.
Chƣơng 2: Cốt truyện và nhân vật trong tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn.
Chƣơng 3: Ngôn ngữ và giọng điệu trong tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn.
16

NỘI DUNG
Chƣơng 1
TIỂU THUYẾT NGUYỄN BẮC SƠN TRONG
DÒNG CHẢY CỦA TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƢƠNG ĐẠI
1.1. Cái nhìn chung về tiểu thuyết Việt Nam đƣơng đại
1.1.1. Quá trình đổi mới đất nước và đổi mới văn học
Chiến dịch Hồ Chí Minh kết thúc với đại thắng mùa xuân năm 1975 đã
mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc. Trong chiến tranh, đất nƣớc ta
đã phải gồng mình chuẩn bị sức ngƣời, sức của cho tiền tuyến. Hậu quả để lại
thật nặng nề. Vì vậy, ta phải dồn sức để khôi phục lại cuộc sống sau chiến tranh.

Sau năm 1986, đất nƣớc ta vẫn kiên trì con đƣờng tiến lên chủ nghĩa xã hội
nhƣng đã bắt đầu gặp phải nhiều khó khăn và khiếm khuyết. Bởi trƣớc đó, ta đã
phải trải qua một thời gian dài chiến tranh, lại gần mƣời năm bao cấp. Điều đó
đã khiến cho kinh tế không phát triển, đời sống nhân dân nghèo nàn, lạc hậu.
Trong văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã thể hiện
chủ trƣơng đổi mới: “Đối với đất nƣớc ta, đổi mới có ý nghĩa sống còn”, “phải
đổi mới, trƣớc hết là đổi mới tƣ duy, chúng ta mới có thể vƣợt qua khó khăn,
thực hiện đƣợc những mục tiêu do Đại hội Đảng lần thứ VI đề ra”.
Cùng với sự đổi mới của đất nƣớc, văn học cũng có bƣớc chuyển mình
đáng kể. Bởi một trong những chức năng của văn học phản ánh hiện thực. Nếu
ngòi bút của nhà văn không bắt rễ từ hiện thực thì không thể có sức sống bền bỉ,
lâu dài. Tuy nhiên, sự phản ánh hiện thực của văn học không phải là sự rập
khuôn, máy móc. Đời sống vận động không ngừng, ngòi bút phản ánh của nhà
văn theo đó cũng phải biến chuyển linh hoạt, đa dạng qua mỗi giai đoạn, thời kì
17

khác nhau với những khuynh hƣớng sáng tác khác nhau. Quan niệm văn học
phản ánh hiện thực cũng có những biến đổi nhiều chiều cho phù hợp với yêu
cầu đổi mới luôn thƣờng trực trong sáng tác.
Có thể thấy công cuộc đổi mới của văn học đƣợc đặt ra nhƣ một nhu cầu
bức thiết trƣớc những thay đổi của lịch sử xã hội. Đúng nhƣ GS. Phong Lê nói:
“Văn chƣơng cần tự đổi mới, và đổi mới trở thành nhu cầu tự thân. Nó không
hoàn toàn chỉ vì một đòi hỏi, một sức ép từ ngoài. Hoặc nếu có sức ép thì cũng
phải tìm thấy sự thống nhất hoặc thông qua đòi hỏi bên trong. Và nhƣ vậy, với
công cuộc đổi mới đất nƣớc, văn học đang đứng trƣớc nhu cầu mạnh mẽ của sự
biến đổi”.
Những tín hiệu đổi mới trong văn học đƣợc bắt đầu từ những năm 80 và
đổi mới mạnh mẽ từ Đại hội VI của Đảng và sau đó là Nghị quyết 05 của Bộ
Chính trị. Vào cuối năm 1987, Tổng Bí thƣ Nguyễn Văn Linh đã có cuộc gặp
gỡ với giới văn nghệ sĩ. Cuộc gặp gỡ đã tác động mạnh mẽ tới tƣ tƣởng nghệ

thuật của giới văn nghệ sĩ. Nếu nhƣ văn học trong giai đoạn trƣớc chủ yếu phục
vụ cho mục tiêu chung của cách mạng thì giai đoạn này, văn học bám sát quá
trình xây dựng và phát triển đất nƣớc nhƣng cần nhấn mạnh ở sự phản ánh hiện
thực và vai trò dự cảm, dự báo.
Trong thời bình, con ngƣời trở lại với cuộc sống thƣờng nhật với biết bao
những vấn đề xã hội nhƣ: hôn nhân, gia đình, tôn giáo, sự thức tỉnh cá nhân,
phụ nữ…. Và văn học phải có trách nhiệm giải quyết những vấn đề còn đang
tồn đọng này trong xã hội.
Có thể khẳng định rằng, văn học đã bắt kịp quá trình đổi mới của đất
nƣớc. Chính vì vậy, nó đa dạng về đề tài, phong phú về thể loại, nhiều sáng tạo
về nghệ thuật….
18

1.1.2. Tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới
Thực tiễn văn học từ sau thời kỳ đổi mới cho thấy có hàng loạt cuốn tiểu
thuyết ra đời, trong đó có sự góp mặt của các tác giả hải ngoại. Nhƣ vậy tiểu
thuyết không rơi vào tình trạng đáng phải lo ngại mà với sự hiện diện ngày càng
nhiều của nó, tiểu thuyết vẫn ngự trị văn đàn, vẫn tỏ rõ vị thế cũng nhƣ “giá trị
tiềm ẩn” của thể loại trong tƣơng lai.
Trong thực tiễn sáng tác văn học nghệ thuật, Việt Nam cũng nhƣ ở nƣớc
ngoài luôn song hành các tác phẩm viết theo thi pháp truyền thống và hiện đại.
Mỗi xu hƣớng sáng tác đều có chủ thể sáng tạo và chủ thể tiếp nhận của riêng
mình cũng nhƣ đều có những thành công và hạn chế. Do vậy không vì cổ xuý
cách tân mà khƣớc từ truyền thống và cũng không vì truyền thống mà dị ứng
với cái mới. Xét cho cùng, khi viết theo thi pháp truyền thống ngƣời viết cũng
đã nỗ lực đổi mới về nội dung cũng nhƣ ở nghệ thuật trần thuật. Nhìn chung,
những tiểu thuyết viết theo thi pháp truyền thống phản ánh một cách đầy đủ và
trung thực những trải nghiệm của đời sống con ngƣời. Về mặt tự sự, nó hấp dẫn
ngƣời đọc trƣớc hết bằng nội dung chuyện kể, bằng những diễn biến đời sống
của một nhân vật mang tính cách giống hay khác với họ. Tính thẩm mỹ của tiểu

thuyết bộc lộ ở sự hài hòa, nhất quán của tổng thể và các phân đoạn khiến câu
chuyện mạch lạc, lôi cuốn. Về cấu trúc, tiểu thuyết truyền thống dựa trên một
cốt truyện, thu hút sự chú ý của ngƣời đọc và câu chuyện phải đi tới một kết
thúc có hậu, trả độc giả về với “trật tự quen thuộc của đời sống”.
Với những tiểu thuyết viết theo hƣớng hiện đại đã cho thấy hiện thực là
phong phú, phức tạp và không thể hoặc khó có thể “kể lại” đƣợc. Ở đây, tiểu
thuyết không làm sứ mệnh cung cấp một bức tranh hiện thực về xã hội mà phải
“phát minh ra các hình thức”. Mối quan hệ giữa tác phẩm văn học và những gì ở
ngoài văn học bị cắt đứt hoặc bị lui lại phía sau; và chỉ còn lại hai mối quan hệ
chính: quan hệ giữa tác phẩm văn học với chính nó và quan hệ giữa tác phẩm
19

văn học này với những tác phẩm văn học khác. Tiểu thuyết viết theo xu hƣớng
này có thể còn xa lạ, đánh đố, thậm chí “gây hấn” với độc giả nhƣng nó đã mở
ra một triển vọng mới cho tiểu thuyết và cho sự tiếp nhận mới của ngƣời đọc
hiện đại.
Sự mở rộng biên độ, đa dạng hóa trong cái nhìn thế giới và con ngƣời là
một trong những thành tựu nổi bật của tiểu thuyết từ sau 1986 đến nay. Thực tế
cuộc sống ở một thời kỳ mới đã dẫn đến sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về
hiện thực. Một tƣ duy văn học mới đƣợc hình thành và nhu cầu về đổi mới văn
học nói chung và tiểu thuyết nói riêng trở nên bức thiết. Xã hội hiện đại đề cao
vai trò của cá nhân và thúc đẩy sự thức tỉnh của ý thức cá nhân. Cái tôi trỗi dậy
đòi hỏi đƣợc quan tâm đúng mức. Tiểu thuyết trở về với con ngƣời, thay đổi
quan niệm nghệ thuật về con ngƣời, bảo tồn giá trị của con ngƣời trƣớc sự lãng
quên của xã hội. Con ngƣời cô đơn, con ngƣời thân phận trở thành mối quan
tâm hàng đầu của các tiểu thuyết gia đƣơng đại. Có thể nói, tiểu thuyết là “công
cụ hữu hiệu” của văn học để tái hiện lịch sử theo nhãn quan ngƣời viết và tiểu
thuyết suy cho cùng vẫn là miêu tả số phận con ngƣời. Không phải ngẫu nhiên
mà nhiều nhà tiểu thuyết đã khắc hoạ khá đầy đặn về lịch sử của một gia đình,
một dòng tộc hay một đời ngƣời gắn với những biến động của lịch sử, với

những thăng trầm của đời sống xã hội: Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn
Khắc Trƣờng), Bến không chồng, Dưới chín tầng trời (Dƣơng Hƣớng), Dòng
sông mía (Đào Thắng), Cõi người (Từ Nguyên Tĩnh), Bến đò xưa lặng lẽ (Xuân
Đức), Trăm năm thoáng chốc (Vũ Huy Anh), Cánh đồng lưu lạc (Hoàng Đình
Quang), Cõi mê (Triệu Xuân), Luật đời và cha con, Lửa đắng (Nguyễn Bắc
Sơn), Tấm ván phóng dao (Mạc Can), Thượng đế thì cười (Nguyễn Khải), Gia
đình bé mọn (Dạ Ngân), Mẫu thượng ngàn, Đội gạo lên chùa (Nguyễn Xuân
Khánh), Ba người khác (Tô Hoài), Một mình một ngựa (Ma Văn Kháng)… Các
nhà văn đã có một cái nhìn soi thấu một đời ngƣời, một thân phận trong hành
trình của thế kỷ XX gắn với chiều dài lịch sử qua bao cuộc “bể dâu”. Mỗi tiểu
20

thuyết là một cách khai thác sâu hơn về cõi ngƣời, cõi đời để đạt đƣợc một tầm
sâu cho nhận thức về cõi nhân sinh.
Các tiểu thuyết nói trên đều hƣớng tới hệ quy chiếu, đó là thế giới riêng
của những con ngƣời chịu nhiều nếm trải cay đắng, thấm đẫm sắc thái bi hài của
số phận. Hơn nữa, tiểu thuyết còn có thêm mảng đề tài về cuộc sống con ngƣời
Việt Nam ở hải ngoại: Chinatown, Paris 11 tháng Tám, T. mất tích (Thuận),
Tìm trong nỗi nhớ, Trên đỉnh dốc (Lê Ngọc Mai), Gió từ thời khuất mặt (Lê
Minh Hà), Thảo (Võ Hoàng Hoa), Và khi tro bụi (Đoàn Minh Phƣợng), Quyên
(Nguyễn Văn Thọ) Sự góp mặt đó làm giàu có hơn đời sống của thể loại, làm
cho diện mạo tiểu thuyết phong phú và đa dạng hơn đồng thời tiếng nói về cuộc
đời và con ngƣời trong tiểu thuyết cũng giàu sắc điệu và đa nghĩa hơn.
Hiện thực đời sống con ngƣời với những tâm tƣ, khát vọng, những bi
kịch riêng tƣ chồng chất, những trào lộng, giễu nhại bi hài đƣợc các cây bút tiểu
thuyết khám phá đến tận cùng, đẩy tác phẩm chạm đến một chiều sâu mới.
Trong những năm gần đây nhiều tiểu thuyết mang tính tự truyện đã thu hút độc
giả: Nỗi buồn chiến tranh (Bảo Ninh), Tấm ván phóng dao (Mạc Can), Thượng
đế thì cười (Nguyễn Khải), Đời thường (Phùng Khắc Bắc), Gia đình bé mọn
(Dạ Ngân), Một mình một ngựa (Ma Văn Kháng). Tìm đến chất liệu cái tôi, các

nhà văn nhƣ trở về với chính mình. Với tiểu thuyết tự truyện, cốt truyện đƣợc
xây dựng trên cơ sở của sự kiện chính về cuộc đời, về con ngƣời tác giả. Điều
đáng nói ở đây là trí nhớ, sự hồi tƣởng, ký ức không lấn át yếu tố hƣ cấu. Với
loại hình tiểu thuyết này, việc đảm nhiệm chức năng tái tạo lại một đoạn đời của
ngƣời viết đƣợc tổ chức theo nhiều kiểu kết cấu khác nhau, đặc biệt đi sâu vào
khai thác dòng ý thức mà thành công nổi bật ở Nỗi buồn chiến tranh (Bảo
Ninh).
Có thể nói, tiểu thuyết tự truyện không có gì mới lạ với văn học thế giới
nhƣng là một loại hình khá mới mẻ với văn học Việt Nam, và nó đã gây đƣợc
21

tiếng vang với ngƣời đọc. Đây là xu hƣớng đƣợc nhận định là sẽ phát triển, nhƣ
một ý kiến cho rằng: “Tiểu thuyết tự thuật đã và đang đăng đàn, rồi sẽ chiếm
một ngôi vị đáng kể trong nền tiểu thuyết đƣơng đại nƣớc nhà”.
Bên cạnh những tiểu thuyết viết theo thi pháp truyền thống là những tác
phẩm viết theo thi pháp hiện đại: Thiên sứ (Phạm Thị Hoài), Thoạt kỳ thuỷ,
Ngồi (Nguyễn Bình Phƣơng), Chinatown, Paris 11 tháng Tám, T. mất tích
(Thuận), Người sông mê (Châu Diên), Khải huyền muộn (Nguyễn Việt Hà),
Giữa vòng vây trần gian, Giữa dòng chảy lạc (Nguyễn Danh Lam), Cơn giông
(Lê Văn Thảo), Mười lẻ một đêm (Hồ Anh Thái), Đi tìm nhân vật, Thiên thần
sám hối (Tạ Duy Anh), Kín, Nháp (Nguyễn Đình Tú), 3.3.3.9 - những mảnh hồn
trần (Đặng Thân)… Ấn tƣợng rõ rệt nhất khi đọc các tiểu thuyết này là sự khác
lạ, là sự “gây hấn” với truyền thống. Dƣờng nhƣ nhà văn không phải đang tái
hiện bức tranh hiện thực mà đang trình bày cách thức họ làm ra các kiểu kết cấu
nghệ thuật nhƣ thế nào. Với những kiểu kết cấu thể hiện tinh thần chối bỏ
truyền thống, vƣợt qua mô thức kết cấu quen thuộc, tiểu thuyết sau 1986 đã xác
lập mối quan hệ mới giữa văn chƣơng với hiện thực. Các tác phẩm kể trên đã
mở ra những thử nghiệm kiếm tìm hình thức mới cho tiểu thuyết khá phong phú
và đang còn tiếp diễn. Quan niệm truyền thống về tiểu thuyết đang mờ dần đi.
Với ý thức cách tân quyết liệt và mạnh mẽ, các cây bút kể trên đã góp phần xoá

bỏ khoảng cách tƣ duy nghệ thuật giữa văn học Việt Nam và những nền văn học
tiên tiến của nhân loại. Bao trùm trong các tiểu thuyết của Nguyễn Bình
Phƣơng, Nguyễn Danh Lam, Thuận là một thế giới vô hồn, một thế giới
“mờ”, khó tìm thấy một gƣơng mặt chính thống. Ngƣời đọc thấy ở các tiểu
thuyết Thoạt kỳ thủy, Ngồi, Giữa vòng vây trần gian, T. mất tích, Kín, Nháp…
sự “hồ nghi tồn tại nhƣ một loại hình tâm trạng làm nên cảm quan của thời đại
mới. Các nhà nghiên cứu gọi đó là “dấu hiệu cảm quan hậu hiện đại” (Lã
Nguyên).
22

Các tiểu thuyết theo hƣớng hiện đại đã tạo nên cảm giác về sự trôi dạt của
thân phận con ngƣời. Các thủ pháp nghệ thuật nhƣ đồng hiện, kỹ thuật dòng ý
thức, độc thoại nội tâm, môtíp giấc mơ, ký ức, vọng niệm đã tỏ ra có hiệu lực
bộc lộ những miền sâu kín và bí ẩn của con ngƣời. Ở đây xu hƣớng tự do,
phóng khoáng trong các kiểu diễn ngôn, sự co giãn, mềm dẻo của kết cấu, sự
không liên tục của ý tƣởng, chối bỏ sự trau chuốt mang tính tu từ đã góp phần
tạo nên giọng điệu mới với các sắc thái thẩm mỹ đa dạng. Tất cả đã nói lên một
cái gì đó về một tâm thức đã xuất hiện nhƣng không dễ phát hiện trong đời sống
hôm nay: tâm thức hậu hiện đại.
Bằng những “âu lo”, “bất ổn” trên bề mặt giọng điệu, nhà tiểu thuyết
hƣớng độc giả đến những “bất ổn”, “lo âu” ở đáy sâu đời sống hiện thực, khiến
họ phải trăn trở nhiều hơn, nghĩ ngợi nhiều hơn trƣớc những gì đƣợc viết ra. Ở
đó hàm chứa một thái độ “kép”, mâu thuẫn và phức hợp; cƣời cợt, giễu nhại cái
cũ song cũng chƣa tạo đƣợc một niềm tin bền chắc vào cái mới. Đó là thái độ
tìm kiếm hơn là khẳng định. Từ đó, giọng điệu ngả sang phía cật vấn, hoài nghi
nhƣ một hệ quả tất yếu: các nhân vật thƣờng xuyên đặt câu hỏi với chính mình,
với những nhân vật khác, với cả chính ngƣời viết và ngƣời đọc. Trong các tác
phẩm Tấm ván phóng dao, Thoạt kỳ thủy, T. mất tích, Giữa vòng vây trần
gian hầu nhƣ đều là những câu hỏi còn bỏ ngỏ về thân phận và cuộc đời con
ngƣời, là những cuộc tìm kiếm bản ngã và cá tính, hạnh phúc và bình yên, niềm

tin và lẽ sống còn dở dang, đầy bất an, chƣa đến hồi kết thúc.
Sự nhoè mờ ranh giới thể loại, sự xâm nhập của các thể loại khác vào cấu
trúc nội tại của tiểu thuyết cũng là một nét nổi bật đáng ghi nhận của tiểu thuyết
hôm nay. Nhƣ Bakhtin đã nhận định: “Nòng cốt thể loại của tiểu thuyết chƣa hề
rắn lại và chúng ta chƣa thể dự đoán đƣợc hết những khả năng uyển chuyển của
nó”. Khả năng phối kết, thu hút các thể loại khác khiến cho tiểu thuyết luôn có
xu hƣớng đổi mới cả về khả năng lẫn nhu cầu khai thác tiềm năng của chính nó.
23

Từ trƣớc đến nay, dung lƣợng của tiểu thuyết vẫn đƣợc coi là một trong những
tiêu chí cơ bản để phân biệt nó với các loại hình văn xuôi nhƣ truyện ngắn,
truyện vừa Nhƣng có một hiện tƣợng mà ngƣời đọc dễ nhận ra là có khá nhiều
tiểu thuyết ngắn xuất hiện ở những năm đầu thế kỷ XXI. Phần lớn các tiểu
thuyết đã thu gọn cái “thân xác bề thế” của nó. Từ phía ngƣời sáng tác, Tạ Duy
Anh, tác giả của các tiểu thuyết ngắn đã nhận định: “Xu hƣớng ngắn, thu hẹp bề
ngang, vừa khoan sâu chiều dọc, đa thanh hóa sự đối thoại, nhiều vỉa ý nghĩa, bi
kịch thời đại đƣợc dồn nén trong một cuộc đời bình thƣờng, không áp đặt chân
lý là dễ thấy. Tiểu thuyết ít mô tả thế giới hơn là tạo ra một thế giới theo cách
của nó. Ở con ngƣời có thể chiêm ngƣỡng mình từ nhiều chiều hơn là chỉ thấy
cái bóng của mình đổ dài xuống lịch sử”. Mặt khác sự thu hẹp dung lƣợng của
tiểu thuyết còn phụ thuộc vào sự tƣơng ứng giữa hình thức nghệ thuật với tinh
thần của cái hiện thực mà nó phản ánh. Đó là cái hiện thực rời rạc, phân mảnh
mà các tiểu thuyết gia hôm nay tìm thấy nơi ẩn náu phù hợp với các mảnh tự sự
rời rạc tựa nhƣ các truyện ngắn riêng rẽ đƣợc lắp ghép thành một sinh thể tiểu
thuyết. Trong đó, mảnh này suy tƣ, liên tƣởng về mảnh kia, đoạn này chồng
chéo lên đoạn kia tạo nên sự pha trộn, xâm nhập của truyện ngắn kịch, tiểu luận
triết học, thơ ca, báo chí, nhật ký, huyền thoại vào tiểu thuyết, tạo nên cấu trúc
phức hợp. Ở đây vấn đề “thay đổi dung lƣợng” cũng liên quan mật thiết với vấn
đề xâm nhập của các thể loại khác vào cấu trúc nghệ thuật của tiểu thuyết.
Trong các tiểu thuyết Tấm ván phóng dao, Trí nhớ suy tàn, Thoạt kỳ thủy,

ngƣời đọc nhận ra chất thơ thẩm thấu vào cơ cấu bên trong của tác phẩm. Sự
xâm nhập của tiểu luận triết học trong tiểu thuyết Đức Phật, nàng Savitri và tôi
của Hồ Anh Thái khiến tác phẩm mang một giọng điệu trầm tƣ, giàu suy ngẫm,
kích thích cảm hứng đồng liên tƣởng, sáng tạo của chủ thể tiếp nhận.
Sự làm mới cách thức thể hiện tiểu thuyết với hiện tƣợng liên văn bản
xuất hiện một cách thƣờng xuyên ở nhiều cấp độ và dạng thức khác nhau tạo
24

nên kiểu kết cấu truyện lồng truyện. Hình thức văn bản trong văn bản góp phần
tạo nên những tiếng nói khác nhau, mở rộng trƣờng nhìn, đa dạng hóa cấu trúc
của tiểu thuyết. Với hình thức này, tác phẩm sẽ tạo nên sự liên thông giữa thế
giới thực và thế giới ảo (Đi tìm nhân vật, Thoạt kỳ thủy ) và nhân vật trong tiểu
thuyết sẽ “đƣợc sống lập thể” ở nhiều thế giới khác nhau, nhập nhiều vai khác
nhau, các giới hạn không gian, thời gian do vậy đƣợc mở ra đến vô hạn (Paris
11 tháng Tám, Và khi tro bụi, Đức Phật, nàng Savitri và tôi ).
Từ sau thời kỳ đổi mới và nhất là trong những năm gần đây, đổi mới tƣ
duy tiểu thuyết ở các nhà văn đã dẫn đến những cách tân quan trọng trên cả
phƣơng diện nội dung và hình thức, đặc biệt ở hình thức, ở quan niệm về chất
liệu, làm mới ngôn ngữ tiểu thuyết hƣớng tới tính hiện đại, thậm chí hậu hiện
đại của văn học thế giới. Tác động của các tiểu thuyết hƣớng tới sự cách tân
triệt để đã ảnh hƣởng không nhỏ đến vấn đề tiếp nhận văn học của độc giả
đƣơng đại. Với ngƣời đọc nói chung, các tiểu thuyết viết theo lối mới, đặc biệt
những tác phẩm có sự kết hợp hiệu quả của cách thức diễn đạt với nội dung
mang tính nhân văn sâu sắc đã tạo ra một “trào lƣu văn hóa đọc” khá sôi nổi
trong công chúng (Giàn thiêu - Võ Thị Hảo, Mẫu thượng ngàn - Nguyễn Xuân
Khánh, Mười lẻ một đêm - Hồ Anh Thái, Tấm ván phóng dao - Mạc Can, Dưới
chín tầng trời - Dƣơng Hƣớng, Thượng đế thì cười - Nguyễn Khải). Chính điều
này sẽ góp phần nâng cao thị hiếu thẩm mỹ và “tầm đón đợi mới” với thể loại
của ngƣời đọc, rút ngắn khoảng cách đẳng cấp của ngƣời đọc. Tuy nhiên có một
vấn đề đặt ra ở đây là không phải tiểu thuyết cách tân nào cũng có độc giả. Trên

thực tế, đã có không ít tác phẩm “gây sốc” với “tầm đón đợi truyền thống” của
ngƣời đọc. Do cái mới không dễ đƣợc chấp nhận, do một số thể nghiệm còn rơi
vào cực đoan, ngƣời đọc nhƣ lạc vào mê cung của các con chữ.
Có thể nói bên cạnh những thành tựu mà tiểu thuyết đạt đƣợc cũng đồng
thời có những giới hạn của nó ở cả tiểu thuyết theo hƣớng cách tân và theo thi
25

pháp truyền thống. Ở tiểu thuyết cách tân nhìn chung có sự hấp dẫn vì yếu tố lạ
và mới, đặc biệt là về kỹ thuật nhƣng đọc không dễ. Ở tiểu thuyết theo hƣớng
truyền thống có những tiểu thuyết hay, đƣợc độc giả ƣa thích nhƣ Hồ Quý Ly,
Mẫu thượng ngàn… nhƣng cũng không thể không nói đến những cuốn còn
nghiêng về tái hiện hiện thực theo hƣớng “nệ thực”, ở một góc độ nào đó đã
“bật đèn đỏ”, không tạo điều kiện cho các nhà văn có thể phát huy sức mạnh
của trí tƣởng tƣợng, của hƣ cấu nghệ thuật, đem đến cái nhìn nhiều chiều kích
của không gian, thời gian về lịch sử và con ngƣời. Vấn đề của tiểu thuyết không
chỉ là kỹ thuật, cái mới, không chỉ là tái hiện hiện thực một cách sinh động và
chân thật. Tiểu thuyết vẫn cần những tác phẩm có giá trị tƣ tƣởng và nghệ thuật,
phù hợp và đáp ứng tầm đón đợi của ngƣời đọc đƣơng đại.
1.2. Tiểu thuyết Nguyễn Bắc Sơn - một hiện tƣợng của tiểu thuyết Việt
Nam đƣơng đại
1.2.1 Cuộc đời
Nguyễn Bắc Sơn (tên thật là Nguyễn Công Bác). Ông tốt nghiệp khoa
Văn, trƣờng ĐHSP Hà Nội năm 1962. Sau đó, trở thành thầy giáo dạy văn 10
năm liền. Năm 1972, ông gia nhập quân ngũ, khi đất nƣớc giải phóng, ông lại
trở về với bục giảng. Từ năm 1982-1992, ông giữ chức Phó hiệu trƣởng trƣờng
THPT Chu Văn An (Hà Nội).
Ông đƣợc đề bạt lên làm Hiệu trƣởng trƣờng học danh tiếng bậc nhất Thủ
đô này nhƣng ông đều từ chối. Ông bảo, ông không thích cấp trƣởng. Bởi lẽ làm
quản lý trong một guồng máy thời bao cấp, hơn ai hết ông rất hiểu sự ràng buộc,
sự nhiêu khê của công tác quản lý, tổ chức v.v… nên khi đƣợc mời về làm

Trƣởng phòng quản lý báo chí, xuất bản, Sở Văn hoá - Thông tin Hà Nội thì ông
nhận lời ngay. Ông bảo, không vì cái chức trƣởng mà ông ham đâu, cái quan
trọng là về đây làm sẽ “thỏa chí tang bồng” với sự viết lách của ông hơn thôi.
26

1.2.1 Con đường sáng tạo văn học
Vốn là ngƣời thích tìm tòi, sáng tạo nhƣng thời gian và công việc không
cho phép sáng tác, giờ đƣợc làm ở mảng báo chí. Ông sẽ tha hồ “thỏa chí tang
bồng. Giờ đƣợc làm bên mảng báo chí, xuất bản thì ông sẽ có điều kiện tiếp xúc
nhiều hơn, học hỏi và cập nhật đƣợc nhiều thông tin hơn. Ở đây, Nguyễn Bắc
Sơn mới có thể rời thế giới mô phạm để thực sự đƣợc cọ xát với đời sống, thực
tế. Chính trong khoảng thời gian này, ông đã có hàng loạt bút ký và truyện ngắn
nhƣ “Hoa lộc vừng”, “Hồng Hà ơi”, “Thực hư”, “Quyền không được yêu”…
đồng thời, ông cũng đã có nhiều công trình nghiên cứu rất ấn tƣợng.
Là ngƣời đam mê tìm tòi, những gì với ông cần đƣợc lý giải thì ông phải
tìm bằng đƣợc cách lý giải. Trƣớc đó, ông là ngƣời có hai bút ký trƣờng thiên
về cầu Long Biên và Sông Hồng đƣợc in trong “Bộ tổng tập tạp văn và ký Hà
Nội ngàn năm” và 2 cuốn sách khác. Ông cũng có những kiến giải rất hay về
các vấn đề lịch sử ví nhƣ bài “Trận địa cọc Bạch Đằng đƣợc thi công nhƣ thế
nào”, “Vì sao một số ít ngƣời thuận tay trái, vì sao đa số rẽ ngôi tóc bên trái”,
“Bàn tính gảy Trung Quốc đã ra đời nhƣ thế nào?” .v.v.
Có lần đi máy bay, ông cũng tò mò ngƣời ta làm cái nghề này nó nhƣ thế
nào, thú vị hay không? Cứ nhƣ vậy, tập sách viết về lao động đặc thù của những
ngƣời “Đi mây về gió” ra đời… Rồi khi làm ở Phòng Quản lý báo chí, xuất bản
ông cũng là ngƣời góp ý, sửa đổi mấy văn bản quyphạm pháp luật liên quan đến
ngành của mình.
Sống hết mình, làm việc cũng hết mình, dù ở vị trí nào, với ông cũng phải
làm cho tốt. Tuy nhiên, trong thời gian làm ở đây, ông cũng nhận thấy rằng, khi
mà cơ chế thị trƣờng đang dần xuất hiện, nhiều giá trị bị đảo lộn thì đời sống
con ngƣời, tƣ duy và bản lĩnh của nhiều ngƣời cũng phức tạp và đổi thay để

thích ứng với thời cuộc, vì thế có biết bao bi kịch đau đớn trong đời sống xã hội.
27

Trăn trở là vậy, nhƣng khi đã về hƣu, Nguyễn Bắc Sơn mới nghĩ đến
những “điều lớn lao” cho mình, đó là viết. Ông dùng những tƣ liệu đã tích lũy,
nghĩ suy làm chất liệu để sáng tác. Ông lại có cái nhìn chính trị khá sắc bén, tƣ
duy chặt chẽ, sắc sảo, tinh tƣờng nên mới thành công ngay từ bộ tiểu thuyết đầu
tiên Luật đời và cha con.
Bắt tay vào viết tiểu thuyết, ông cũng không nghĩ tác phẩm mình sẽ thành
công, nhƣng ông vẫn tự tin viết. Ông chọn cho mình một đề tài ở Việt Nam
chƣa có ngƣời động đến - chính trị.
1.2.3 Đề tài cơ chế và cải cách trong sáng tác của Nguyễn Bắc Sơn
Các nhà văn cùng thời với Nguyễn Bắc Sơn đều chọn cho mình một lối đi
khá bằng phẳng. Trong khi đó, Bắc Sơn lại lựa chọn một đề tài khá gai góc
trong xã hội - chính trị. Câu chuyện về cơ chế và cải cách cơ chế có lẽ sẽ vẫn là
cái vòng luẩn quẩn mà theo Nguyễn Bắc Sơn cần phải cải tiến nhiều hơn nữa.
Để viết đƣợc về nó chắc không khó nhƣng để viết hay và sâu thì có lẽ sẽ đòi hỏi
nhiều yếu tố: khách quan có, chủ quan có.
Bằng sự từng trải và khả năng học tập của bản thân: 10 năm dạy học, đi
bộ đội, quản lý giáo dục, làm quản lý báo chí, bao nhiêu năm trải mình trong
hàng trăm thứ bề bộn của cuộc sống, lại là ngƣời chịu quan sát, nghĩ suy, ông đã
tích lũy cho mình một vốn sống, một kiến thức vững vàng về chính trị, xã hội.
Chính vì lẽ đó, trong hai cuốn tiểu thuyết của Nguyễn Bắc Sơn phản ánh rất
chân thực hiện thực đời sống với nhiều số phận khác nhau, nhiều con ngƣời khá
nhau. Bên cạnh đó, niềm khao khát đƣợc thể hiện những thứ đó bằng một cuốn
tiểu thuyết là ƣớc mơ của ông.
Đọc những tác phẩm của Nguyễn Bắc Sơn, ngƣời ta thấy những hạn chế,
những bảo thủ của thể chế hành chính hiện nay dƣờng nhƣ vẫn tồn tại. Đó là

×