Tải bản đầy đủ (.doc) (104 trang)

465 Khôi phục sinh kế bền vững cho người dân tái định cư của công trình thuỷ điện Sơn La

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (487.72 KB, 104 trang )

MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu
Cho đến nay, mặc dù Việt Nam vẫn là một nước nghèo nhưng tốc độ tăng
trưởng kinh tế và sự phát triển xã hội đã đạt được nhiều tiến bộ đáng kể. Việc
đầu tư các dự án cơ sở hạ tầng quy mô lớn như những dự án thuỷ điện là những
phần quan trọng cho phát triển kinh tế-xã hội của đất nước trong thời gian dài.
Các công trình thuỷ điện có vai trò vô cùng quan trọng trong sự nghiệp phát triển
kinh tế của đất nước, góp phần đảm bảo nhu cầu năng lượng trong đời sống và
sản xuất của nhân dân. Để xây dựng một công trình thuỷ điện, công tác giải
phóng mặt bằng và tái định cư phải được thực hiện ở giai đoạn đầu tiên.
Mặc dù các dự án thủy điện thường được triển khai xây dựng tại miền núi,
nơi ít có dân cư sinh sống, tuy nhiên không tránh khỏi phải di chuyển những
cộng đồng dân cư sinh sống trong phạm vi lòng hồ thuỷ điện. Những cộng đồng
dân cư này chủ yếu là người dân tộc thiểu số với tập quán sản xuất, sinh hoạt và
nền văn hoá lâu đời. Vì vậy, việc di dời và tái định cư người dân trong các công
trình thủy điện ở miền núi có nhiều khác biệt với các dự án giải phóng mặt bằng
ở miền xuôi. Việc di dời này sẽ khiến cho đời sống của người dân vùng tái định
cư gặp phải nhiều biến động hơn. Do đó rất cần có những chính sách và biện
pháp đặc biệt trong công tác di dân, tái định cư nhằm giảm thiểu tác động tiêu
cực đến tài nguyên, con người, “bảo đảm cho người dân có cuộc sống, nơi ở mới
tốt hơn hoặc bằng nơi ở cũ” như chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước ta
đã xác định [2, trang 26].
Tuy nhiên, việc triển khai xây dựng các công trình xây dựng đã và đang
làm nảy sinh một số vấn đề bất cập về môi trường, văn hoá và đặc biệt là đời
sống của người dân sinh sống ở những vùng lòng hồ thuỷ điện. Công tác đền bù
và tái định cư bắt buộc tuy được chính phủ quan tâm đầu tư nhưng vẫn còn tồn
tại nhiều vấn đề cần giải quyết, trong đó vấn đề khôi phục sinh kế cho những
người dân phải tái định cư đến nơi ở mới thật sự chưa được quan tâm đúng mức
và chưa được thực hiện một cách hoàn chỉnh và bền vững.
Việc khôi phục sinh kế đóng vai trò rất quan trọng trong việc giảm thiểu
nguy cơ rủi ro cho những người phải tái định cư bắt buộc. Bởi vì, đây là những


người bị tước đi những tài sản, lối sống, tập quán sản xuất vốn có của mình... để
chuyển đến một môi trường mới với những điều kiện sản xuất mới, văn hoá mới,
cộng đồng mới. Họ rất dễ bị cô lập hoặc bị nghèo đi so với thời điểm trước khi
phải tái định cư.
Việc xây dựng các công trình thuỷ điện cũng như những công trình quốc
gia lớn khác là không tránh khỏi trong tiến trình phát triển của nền kinh tế Việt
Nam. Điều đó có nghĩa là sẽ vẫn còn những cộng đồng dân cư sẽ buộc phải di
dời để dành mặt bằng cho những công trình đó. Từ đó, vấn đề cần đặt ra là làm
thế nào để giảm thiểu tối đa những tác động không mong muốn đối với người
dân phải tái định cư thông qua việc tạo lập một sinh kế bền vững cho người dân
tái định cư.
Thủy điện Sơn La là công trình thuỷ điện có quy mô lớn nhất Việt Nam.
Đây cũng là công trình có quy mô di chuyển dân để giải phóng mặt bằng rất lớn,
với 18 nghìn hộ, bao gồm hàng chục vạn dân của 160 bản, thuộc 17 xã ở 3 tỉnh
Sơn La, Điện Biên, Lai Châu.
Tuy nhiên, các dự án tái định cư thủy điện trong quá trình thực hiện đã bộc
lộ nhiều khó khăn, vướng mắc. Các đơn vị được lựa chọn chỉ xây dựng hạ tầng
kỹ thuật mà rất ít quan tâm về lĩnh vực quy hoạch dân cư, di dân và tái định cư,
khôi phục sinh kế và các vấn đề xã hội liên quan.
Từ những vấn đề nêu trên, tôi chọn: "Khôi phục sinh kế bền vững cho
người dân tái định cư của công trình thuỷ điện Sơn La" làm đề tài luận văn thạc
sỹ kinh tế.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Hệ thống hoá cơ sở lý luận và thực tiễn về di dân tái định cư và vấn đề sinh
kế bền vững trong các dự án tái định cư của các công trình thuỷ điện.
Đánh giá đúng thực trạng khôi phục sinh kế bền vững trong xây dựng và
triển khai các dự án tái định cư của công trình thuỷ điện Sơn La nói chung, ở các
điểm điều tra sâu nói riêng. Rút ra được các kết quả, những vấn đề đặt ra cần giải
quyết và những nguyên nhân của chúng.
Đề xuất các biện pháp tiếp tục khôi phục sinh kế một cách bền vững cho

người dân tái định cư của công trình thuỷ điện Sơn La dựa trên một số kế hoạch
tái định cư đã và đang triển khai của dự án thuỷ điện Sơn La và kinh nghiệm của
dự án thuỷ điện Hoà Bình.
3. Đối tượng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu đến các vấn đề liên quan đến các vấn đề khôi phục sinh
kế cho những người dân tái định cư của công trình thuỷ điện Sơn La, bao gồm
việc xây dựng và triển khai các dự án tái định cư và các dự án phát triển kinh tế
xã hội khác có liên quan trực tiếp đến kinh tế của các hộ tái định cư thuộc công
trình thuỷ điện Sơn La nói chung, hộ tái định cư ở các khu tái định cư xã Chiềng
Ngàm (huyện Thuận Châu) và xã Nậm Ét (huyện Quỳnh Nhai) nói riêng.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp nghiên cứu chung
Trong triển khai nghiên cứu luận văn, tác giả dùng phương pháp duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử để nhìn nhận, phân tích đánh giá các vấn đề một
cách khoa học và khách quan. Đây cũng là cơ sở của phương pháp luận để vận
dụng các phương pháp chuyên môn được chính xác trong quá trình nghiên cứu
của đề tài.
4.2. Các phương pháp cụ thể
- Các phương pháp thu thập thông tin: Luận văn tiến hành rà soát mọi tài
liệu, văn bản, báo cáo và nghiên cứu hiện có được thu thập tại Việt Nam thông
qua nhiều nguồn khác nhau (Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Phát triển châu Á,
Bộ NNPTNT, các cơ quan trong nước, Internet, các chuyên gia quốc tế tại Việt
Nam,...) nhằm thu được hiểu biết chung về các vấn đề quan tâm và nhiệm vụ
nghiên cứu.
- Phương pháp chuyên gia: Phỏng vấn và trao đổi với các chuyên gia về
lĩnh vực tái định cư nhằm thu được những kinh nghiệm, nhận xét và ý kiến của
họ về vấn đề tái định cư nói chung và các khía cạnh cụ thể (quy hoạch, đền bù,
di dân,...) trong từng tình huống cụ thể tại các dự án phát triển đã và đang thực
hiện.
- Phương pháp tổng hợp: Đề tài thực hiện tổng hợp, phân tích và đánh giá

trên cơ sở tài liệu, thông tin thu được để đưa ra nhận xét, tìm tòi và kết luận về
tác động của hoạt động tái định cư tới người dân bị ảnh hưởng. Đặc biệt, đề tài
nghiên cứu đánh giá dựa trên cơ sở thông tin định lượng, dựa trên thông tin thu
thập từ điều tra khảo sát một nhóm người dân bị ảnh hưởng từ công trình thuỷ
điện Sơn La về tác động của tái định cư đến tài sản, thu nhập, và việc làm.
- Điều tra xã hội học:
+ Lựa chon địa bàn điều tra: Dựa trên tính chất điển hình của các xã tái
định cư của thuỷ điện Sơn La, chúng tôi lựa chọn hai xã Chiềng Ngàm huyện
Thuận Châu và xã Nậm Ét huyện Quỳnh Nhai của tỉnh Sơn La để tiến hành
nghiên cứu tác động của quá trình tái định cư đến sinh kế của người dân. Mỗi xã
điều tra ở 3 bản.
+ Xác định đối tượng điều tra: Các hộ điều tra thuộc nhóm hộ phải di dời tái
định cư đến nơi ở mới thuộc công trình TĐSL của hai xã thuộc địa bàn nghiên
cứu.
+ Kích thước mẫu điều tra: Dựa trên quy mô số hộ của các xã điều tra, chúng
tôi lựa chọ số hộ điều tra. Số hộ điều tra gồm 70 hộ, là những hộ tái định cư của
thuỷ điện Sơn La chia đều cho hai xã thuộc hai huyện của tỉnh Sơn La.
+ Phương pháp điều tra: Phỏng vấn sâu các hộ tái định cư, nhằm thu thập
thông tin từ những cá nhân có vị trí chủ chốt trong cộng đồng như già làng,
trưởng bản, và lãnh đạo chính quyền địa phương.
+ Phương pháp phân tích kết quả điều tra: Số liệu sau khi thu thập được
tổng hợp và xử lý thông qua phần mềm tính toán Microsoft Excel.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Mục lục và Danh mục tài liệu tham khảo, Đề
tài được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về sinh kế và khôi phục sinh kế bền
vững cho người dân tái định cư của các công trình thủy điện.
Chương 2: Thực trạng khôi phục sinh kế bền vững cho người dân tái định
cư của công trình thủy điện Sơn La.
Chương 3: Quan điểm, phương hướng và những giải pháp chủ yếu nhằm

khôi phục sinh kế bền vững cho người dân tái định cư của công trình thủy điện
Sơn La.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ SINH KẾ VÀ
KHÔI PHỤC SINH KẾ BỀN VỮNG CHO NGƯỜI DÂN TÁI ĐỊNH CƯ
CỦA CÁC CÔNG TRÌNH THUỶ ĐIỆN
1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SINH KẾ VÀ KHÔI PHỤC SINH KẾ BỀN
VỮNG CHO NGƯỜI DÂN TÁI ĐỊNH CƯ CỦA CÁC CÔNG TRÌNH THUỶ
ĐIỆN
1.1.1. Khái niệm sinh kế và khôi phục sinh kế bền vững
1.1.1.1. Khái niệm về sinh kế
Khái niệm về sinh kế của hộ hay một cộng đồng là một tập hợp của các
nguồn lực và khả năng của con người kết hợp với những quyết định và những
hoạt động mà họ sẽ thực hiện để không những kiếm sống mà còn đạt đến mục
tiêu đa dạng hơn. Hay nói cách khác, sinh kế của một hộ gia đình hay một cộng
đồng còn được gọi là kế sinh nhai của hộ gia đình hay cộng đồng đó [10, trang
7].
Để duy trì sinh kế, mỗi hộ gia đình thường có các kế sách sinh nhai khác
nhau. Kế sách sinh nhai của hộ hay chiến lược sinh kế của hộ là quá trình ra
quyết định về các vấn đề cấp hộ. Bao gồm những vấn đề như thành phần của hộ,
tính gắn bó giữa các thành viên, phân bổ các nguồn lực vật chất và chi phí vật
chất của hộ. Chiến lược sinh kế của hộ phải dựa vào năm loại nguồn lực (tài sản)
cơ bản sau:
- Nguồn nhân lực: bao gồm kỹ năng, kiến thức, khả năng lao động và sức
khoẻ con người. Các yếu tố đó giúp cho con người có thể theo đuổi những chiến
lược tìm kiếm thu nhập khác nhau và đạt những mục tiêu kế sinh nhai của họ. Ở
mức độ gia đình nguồn nhân lực được xem là số lượng và chất lượng nhân lực có
sẵn.
- Nguồn lực xã hội: là những nguồn lực định tính dựa trên những gì mà con
người đặt ra để theo đuổi mục tiêu kế sinh nhai của họ. Chúng bao gồm uy tín

của hộ, các mối quan hệ xã hội của hộ.
- Nguồn lực tự nhiên: là cơ sở các tài nguyên thiên nhiên của hộ hay của
cộng đồng, được trông cậy vào để sử dụng cho mục đích sinh kế như đất đai,
nguồn nước, cây trồng, vật nuôi, mùa màng...
Trong thực tế, sinh kế của người dân thường bị tác động rất lớn bởi những
biến động của nguồn lực tự nhiên. Trong các chương trình di dân tái định cư,
việc di chuyển dân đã làm thay đổi nguồn lực tự nhiên của người dân và qua đó
đã làm thay đổi sinh kế của họ.
- Nguồn lực vật chất: bao gồm tài sản hộ gia đình hỗ trợ cho sinh kế như
nhà ở, các phương tiện sản xuất, đi lại, thông tin...
- Nguồn lực tài chính: là những gì liên quan đến tài chính mà con người có
được như: nguồn thu nhập tiền mặt, tiền tiết kiệm, tín dụng và các nguồn khác
như lương, bổng, nguồn hỗ trợ, viện trợ từ bên ngoài cho hộ gia đình và cho
cộng đồng.
Mỗi hộ dân là một bộ phận cấu thành nên cộng đồng họ đang sống, các tài
sản và nguồn lực của họ cũng là một phần tài sản và nguồn lực của cộng đồng
đó, vì vậy chiến lược sinh kế của mỗi hộ đều có sự tương đồng và phù hợp với
nhau cũng như phù hợp với chiến lược sinh kế của cộng đồng.
Chiến lược sinh kế cộng đồng cũng dựa trên năm loại nguồn lực trên nhưng
mang ý nghĩa rộng hơn cho cả cộng đồng, đó là số lượng và chất lượng nguồn
nhân lực của cộng đồng; thể chế chính trị, phong tục, tập quán, uy tín của cả
cộng đồng; điều kiện tự nhiên của địa bàn cộng đồng sinh sống; các cơ sở hạ
tầng xã hội hỗ trợ cho sinh kế như giao thông, hệ thống cấp nước, hệ thống ngăn,
tiêu nước, cung cấp năng lượng, thông tin...
1.1.1.2. Khái niệm sinh kế bền vững
Một sinh kế được xem là bền vững khi nó có thể đối phó và khôi phục
trước tác động của những áp lực và những biến động, và duy trì hoặc tăng cường
những năng lực cũng như nguồn lực của nó trong hiện tại và tương lai, trong khi
không làm suy thoái nguồn tài nguyên thiên nhiên [10, trang 9].
Mục tiêu sinh kế bền vững hướng đến một tầm rộng lớn hơn, chú trọng vào

con người và hiểu tầm quan trọng của các quy trình và cấu trúc trong quá trình
xác định cách mà các nguồn lực, tài sản được tạo ra và sử dụng.
Như vậy, để có sinh kế bền vững, trước hết cần phải sử dụng các nguồn lực,
tài sản vốn có một các bền vững lâu dài. Cả hộ gia đình và cộng đồng phải ý
thức được việc không chỉ sử dụng nguồn lực sẵn có mà phải liên tục bổ sung,
tăng cường và phát triển nguồn lực đó để phát triển bền vững sinh kế của mình.
- Để duy trì và tăng cường nguồn lực con người có thể thực hiện cả trực
tiếp lẫn gián tiếp. Trong cả hai cách thực hiện đó kết quả thực sự mang lại chỉ
khi chính bản thân con người sẵn sàng đầu tư cho vốn con người của mình bằng
cách tham gia vào các khoá đào tạo, tiếp cận với các dịch vụ...
Vì vậy, cải thiện phương thức tiếp cận với giáo dục chất lượng cao, thông
tin, công nghệ và đào tạo nâng cao dinh dưỡng và sức khoẻ sẽ góp phần làm phát
triển nguồn nhân lực.
- Duy trì và tăng cường nguồn lực xã hội là tăng cường xây dựng vốn xã
hội, tập trung vào các thể chế địa phương như thông qua việc tạo ra các khả
năng, huấn luyện đào tạo hay phân phối các nguồn lực hoặc thông qua việc tạo
ra một môi trường dân chủ thông thoáng.
Thông thường, những để nguồn lực xã hội cần phải có sự hỗ trợ từ các lĩnh
vực khác, cần gắn chặt trách nhiệm của các tổ chức đoàn thể, xã hội vào nguồn
vốn xã hội.
- Duy trì và tăng cường nguồn lực tự nhiên cần được thực hiện bằng cách
điều chỉnh các phương cách tiếp cận đối cới nguồn lực tự nhiên, cải thiện việc
quản lý các nguồn lực. Việc hỗ trợ nguồn lực tự nhiên có thể thông qua sự
chuyển đổi các tiến trình và cấu trúc tự nhiên đồng thời có sự tái tạo cho nhu cầu
sử dụng trong tương lai.
Một trong những nội dung chính của mục tiêu sinh kế bền vững là theo
đuổi mục tiêu ổn định nhiều loại nguồn lực khác nhau sao cho không ảnh hưởng
đến sự ổn định của môi trường tự nhiên.
- Tăng cường nguồn lực vật chất nhằm giúp người dân tiếp cận cơ sở hạ
tầng thích hợp, những thứ giúp ích cho sinh kế của họ.

Nguồn lực vật chất không chỉ yêu cầu nguồn vốn đầu tư ban đầu mà còn
cung cấp tài chính cho những gì đang diễn ra và nguồn lực con người đáp ứng
những hoạt động và duy trì chi phí cho dịch vụ.
- Tạo nguồn lực tài chính cho người dân không nên hỗ trợ trực tiếp vốn tài
chính mà nên thông qua các trung gian gián tiếp như:
+ Tăng cường hiệu quả tiết kiệm và dòng tài chính.
+ Tăng cường tiếp cận dịch vụ tài chính.
+ Cải thiện môi trường dịch vụ tài chính.
1.1.1.3. Khôi phục sinh kế bền vững
Bản thân mỗi hộ gia đình để tồn tại đều có một sinh kế riêng với cách thức
tổ chức sản xuất, sử dụng nguồn lực và tài sản của mình để kiếm sống. Qua thời
gian, sinh kế của mỗi hộ gia đình có sự tương đồng và liên kết chặt chẽ với nhau
trong mỗi cộng đồng, tạo nên sinh kế của cộng đồng. Những sinh kế này dù ở
những địa phương còn kém phát triển, những cộng đồng dân tộc thiểu số còn gặp
nhiều khó khăn nhưng xét ở khía cạnh tích cực thì bản thân nó đã là một sinh kế
bền vững.
Khi những biến động xảy ra (như một cuộc di dân quy mô lớn) di chuyển
toàn bộ cộng đồng đến một hoặc một vài địa phương khác thì cũng có nghĩa là
có một biến động to lớn đến hoạt động sinh kế của hộ dân cũng như của cộng
đồng bị ảnh hưởng. Việc di chuyển, đặc biệt là di chuyển tái định cư của các dự
án thuỷ điện, sẽ làm thay đổi môi trường sống, tác động mạnh mẽ đến lối sống,
điều kiện sản xuất, sinh hoạt và các nguồn lực, tài sản khác của hộ gia đình và
cộng đồng. Để tồn tại, người dân cũng như cộng đồng đó sẽ phải có những nỗ
lực để duy trì những hoạt động sinh kế cũ cũng như cố gắng tiếp nhận những
cách thức hoạt động sinh kế mới phù hợp với nơi ở mới, đó là những hoạt động
khôi phục sinh kế.
Khôi phục sinh kế bền vững có ý nghĩa đặc biệt quan trọng bản thân hộ gia
đình và cộng đồng chịu tác động khi phải di dân tái định cư quy mô lớn.
Để khôi phục sinh kế, bản thân hộ gia đình phải đặt ra chiến lược sinh kế
riêng cho mình phù hợp với chiến lược sinh kế chung của cả cộng đồng đã bị ảnh

hưởng. Chiến lược sinh kế để chỉ ra phương pháp và mức độ kết hợp các lựa
chọn và quyết định mà con người đưa ra trong việc sử dụng và quản lý các
nguồn vốn nhằm đạt đến mục tiêu và kết quả sinh kế đã được xác định [10, trang
9]. Chiến lược sinh kế bao gồm những lựa chọn và quyết định của con người
như:
- Sử dụng nguồn vốn nào và kết hợp các nguồn vốn và tài sản như thế nào
để đạt hiệu quả cho sinh kế.
- Xác định qui mô của các hoạt động tạo thu nhập.
- Cách thức quản lý như thế nào để bảo tồn các nguồn vốn.
- Cách thức tiếp nhận và áp dụng những kiến thức, kỹ năng tăng cường sinh
kế như thế nào.
- Cách thức đối phó với những cú sốc, những rủi ro hay khủng hoảng... như
thế nào.
- Cách sử dụng nguồn lao động (sức lao động, kỹ năng lao động, thời gian
lao động) như thế nào để làm được những điều trên.
Để khôi phục sinh kế bền vững, hộ gia đình và cộng đồng cần phải có
những chiến lược sinh kế bền vững. Thông thường với những hộ dân bị ảnh
hưởng bởi những biến động to lớn, ảnh hưởng tới hoạt động sinh kế của họ sẽ
lần lượt có chiến lược khôi phục kinh tế theo ba cấp độ chiến lược như sau:
- Chiến lược tồn tại: là chiến lược ngắn hạn, gồm cả các hoạt động tạo thu
nhập chỉ để tồn tại mà không có tích luỹ cho tương lai cũng như không quan tâm
đến môi trường xung quanh.
- Chiến lược tái sản xuất: là chiến lược trung hạn gồm nhiều hoạt động tạo
thu nhập, nhưng ưu tiên có thể nhắm tới hoạt động cộng đồng và an ninh xã hội.
- Chiến lược tích luỹ: là chiến lược dài hạn nhằm hướng tới tăng trưởng và
có thể là kết hợp của nhiều hoạt động hướng tới tích luỹ của cải và giàu có. Đây
chính là chiến lược sinh kế bền vững.
Như vậy, mục tiêu của hoạt động khôi phục sinh kế bền vững là kết quả của
các sinh kế bền vững, bao gồm:
- Tăng cường an ninh lương thực;

- Nâng cao thu nhập và ổn định nguồn thu nhập;
- Nâng cao chất lượng đời sống và giá trị cuộc sống.
- Giảm khả năng tổn thương từ các biến động (như thiên tai, bệnh dịch, thay
đổi môi trường sống, môi trường sản xuất...) và các tác động do mùa vụ gây ra
trong quá trình hoạt động sinh kế;
- Sử dụng bền vững hơn các nguồn tài nguyên thiên nhiên.
Bản thân hộ gia đình và cộng đồng bị ảnh hưởng có thể tự điều chỉnh để
khôi phục sinh kế cho mình nhưng như vậy sẽ phải mất rất nhiều thời gian cũng
như sẽ phải trả những giá rất đắt cho quá trình này. Hơn nữa, những hộ phải tái
định cư của các công trình thuỷ điện thường là người dân tộc thiểu số có trình độ
dân trí thấp và rất chậm thích nghi, vì vậy việc tái định cư nếu không có sự hỗ
trợ từ những người tổ chức tái định cư để cùng với người dân xây dựng chiến
lược khôi phục sinh kế phù hợp, đúng đắn có thể sẽ gây ra những hậu quả
nghiêm trọng cho cộng đồng bị ảnh hưởng cũng như những dự án được triển
khai.
Chính vì vậy, với các dự án buộc phải thu hồi đất và di chuyển người dân
quy mô lớn (như các dự án xây dựng các khu đô thị, khu công nghiệp hay các dự
án thuỷ điện) cần phải có kế hoạch tái định cư và khôi phục sinh kế bền vững
cho người dân phải tái định cư. Các kế hoạch tái định cư này ngoài những hỗ trợ
về xây dựng hạ tầng cơ sở còn cần các kế hoạch tạo sinh kế và chiến lược khôi
phục sinh kế cho người dân bị ảnh hưởng. Do người dân buộc phải tái định cư
một cách không tự nguyện để phục vụ lợi ích kinh tế hay lợi ích quốc gia, vì vậy
đòi hỏi chính phủ hay các tổ chức kinh tế xã hội liên quan phải có những kế
hoạch, những chiến lược phù hợp và mang tính bền vững trong việc khôi phục
sinh kế bền vững cho họ.
1.1.2. Các điều kiện sinh kế bền vững và trường hợp phải khôi phục
sinh kế bền vững
1.1.2.1. Các điều kiện sinh kế bền vững
Như vậy, điều kiện để có một sinh kế bền vững là hộ gia đình và cộng đồng
cần lập ra được một chiến lược sinh kế bền vững để tái tạo và sử dụng các nguồn

lực, tài sản của mình một cách bền vững.
Các chính sách và thể chế là những cơ hội cho chiến lược sinh kế của hộ
gia đình hay cộng đồng được thực hiện một các bền vững. Các chính sách và thể
chế bao gồm những luật lệ, những qui định, những chính sách cụ thể của các tổ
chức các cấp, các tổ chức chính phủ và phi chính phủ liên quan đến hoạt động
sinh kế của người dân và cộng đồng.
Chính sách và thể chế không những tạo ra cơ hội nhằm giúp cho người dân
và cộng đồng thực hiện các mục tiêu đã xác định để nâng cao thu nhập, cải thiện
đời sống trong sinh kế mà còn là cơ hội, là cứu cánh cho người dân và cộng đồng
giảm thiểu được các tổn thương và sử dụng hợp lý bền vững nguồn tài nguyên
thiên nhiên
Tuy nhiên, nếu chỉ có chính sách và thể chế thì chưa thể có một sinh kế bền
vững mà điều kiện quan trọng là khả năng tiếp cận của các chính sách, thể chế
này đến người dân, và khả năng tiếp cận các cơ hội đó của người dân. Vì vậy,
cần khuyến khích, vận động được người dân tích cực tham gia vào mọi quá trình
phát triển, đồng thời huy động sự tích cực tham gia của nhiều bên có liên quan từ
chính quyền các cấp, các tổ chức, đoàn thể...
1.1.2.2. Các trường hợp cần khôi phục sinh kế bền vững
Việc khôi phục sinh kế bền vững chỉ phải thực hiện trong các trường hợp
người dân bị tác động đột biến đến sinh kế và các tác động này ảnh hưởng không
có lợi đến sinh kế của họ [10, trang 10]. Thông thường, sinh kế thường bị ảnh
hưởng bởi các biến động hay các thay đổi của hoàn cảnh kinh tế - xã hội và môi
trường như sau:
* Các loại biến động thường gặp
- Biến động do sức khỏe của con người.
- Biến động kinh tế (làm ăn thua lỗ, mất nguồn thu nhập...).
- Biến động do chiến tranh và xung đột.
- Biến động về mùa màng thất bát (mất mùa).
- Biến động về khủng hoảng gia súc, gia cầm, cây trồng (do dịch bệnh).
- Biến động về thời tiết, khí hậu (do bão lụt, ngập lũ, hạn hán, nóng lạnh),

do môi trường bị phá hoại nghiêm trọng.
* Các thay đổi về kinh tế - xã hội
- Tăng dân số.
- Biến động về lao động (thiếu hoặc thừa lao động).
- Biến động về kinh tế (giá hàng hoá bấp bênh).
- Biến động về chính trị.
- Thay đổi công nghệ (mẫu mã biến đổi, chủng loại mặt hàng thay thế...).
- Biến động về giá cả, thị trường.
- Biến động do phải di chuyển chỗ ở và điều kiện sản xuất (do các dự án di
dân tái định cư). Đây là trường hợp nghiên cứu của luận văn.
1.1.3. Di dân tái định cư trong các công trình thuỷ điện
1.1.3.1. Khái niệm di dân
Biến động dân số bao gồm hai cấu thành cơ bản là tăng tự nhiên và tăng cơ
học. Tăng trưởng tự nhiên của dân số gắn liền với quá trình sinh học sinh ra, tồn
tại và mất đi của con người theo thời gian. Quá trình này thông qua hiện tượng
sinh và chết. Di biến động dân cư còn do tác động cơ học của quá trình di dân.
Trong mọi quốc gia, những luồng di cư tạo nên sự phân bố lại dân cư, đồng thời
làm tăng giảm mật độ dân cư giữa các vùng miền địa lý. Di dân về bản chất
không phải là hiện tượng sinh học như sinh, chết. Di dân có thể diễn ra nhiều lần,
lặp đi lặp lại trong cuộc đời của một cá nhân, trong khi sinh đẻ và tử vong chỉ
diễn ra một lần [1, trang 35].
Di dân là quá trình phân bố lại lực lượng lao động và dân cư, và là nhân tố
quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Di dân và quá trình tập trung dân số
ở địa bàn nơi đến luôn đặt ra những thách thức mới cho sự nghiệp phát triển kinh
tế - xã hội bền vững, đặc biệt trong mối quan hệ với các nguồn lực tự nhiên, môi
trường của các vùng miền đất nước.
Theo nghĩa rộng, di dân là sự chuyển dịch bất kỳ của con người trong một
không gian, thời gian nhất định kèm theo sự thay đổi nơi cư trú tạm thời hay
vĩnh viễn. Với khái niệm này, di dân đồng nhất với sự di động dân cư. Theo
nghĩa hẹp, di dân là sự di chuyển dân dân cư từ một đơn vị lãnh thổ này đến một

đơn vị lãnh thổ khác nhằm thiết lập một nơi cư trú mới trong một khoảng thời
gian nhất định [1, trang 36, 37]. Tóm lại, khái niệm di dân có thể được tóm tắt
theo các điểm chung như sau:
- Người di dân di chuyển ra khỏi một địa dư nào đó đến nơi khác sinh sống.
- Người di chuyển bao giờ cũng có những mục đích, họ đến một nơi nào đó
và định cư tại đó trong một thời gian để thực hiện mục đích đó.
- Di dân gắn liền với sự thay đổi công việc, nơi làm việc, công việc nghề
nghiệp, sở thích, lối sống,...
Có nhiều cách phân loại di dân theo các góc độ khác nhau [1, trang 39 -
41], như:
- Theo khoảng cách di chuyển, gồm có: di dân nông thôn - thành thị, di dân
nông thôn - nông thôn,...
- Theo độ dài thời gian cư trú, gồm có: di chuyển ổn định, di chuyển tạm
thời, di dân mùa vụ,...
- Theo tính chất di dân:
+ Di dân tự nguyện: là trường hợp người di chuyển tự nguyện di chuyển
theo đúng mong muốn hay nguyện vọng của mình.
+ Di dân ép buộc: diễn ra trái với nguyện vọng di chuyển của người dân.
Loại hình di chuyển này thường đem lại những hậu quả không mong muốn cho
xã hội và cần được hạn chế tối đa.
- Theo đặc trưng di dân:
+ Di dân có tổ chức: là hình thái di chuyển dân cư được thực hiện theo kế
hoạch và theo chương trình mục tiêu nhất định do nhà nước, chính quyền các cấp
vạch ra và tổ chức, thực hiện với sự tham gia của các tổ chức đoàn thể xã hội. Về
nguyên tắc, người dân di chuyển có tổ chức được nhà nước và chính quyền địa
phương nơi nhập cư giúp đỡ. Di dân có tổ chức có thể giảm bớt khó khăn cho
những người nhập cư, tăng nguồn lực lao động địa phương, có thể tránh được
việc khai thác tài nguyên thiên nhiên bừa bãi gây ảnh hưởng xấu tới môi trường.
+ Di dân tự phát (tự do): là hình thái di dân mang tính cá nhân do bản thân
người di chuyển hoặc bộ phận gia đình quyết định, không có và không phụ thuộc

vào kế hoạch và sự hỗ trợ của nhà nước và câc cấp chính quyền. Di dân tự phát
phản ánh tính năng động và vai trò độc lập của cá nhân và hộ gia đình trong việc
giải quyết đời sống, tìm công ăn việc làm.
1.1.3.2. Tái định cư
Tái định cư là việc phải di chuyển đến một nơi khác để sinh sống, đây là
thuật ngữ chung liên quan tới bị thu hồi đất, mất đất, mất chỗ ở, mất tài sản, mất
nguồn thu nhập hay mất những phương tiện kiếm sống khác.
Theo khái niệm của Ngân hàng Phát triển châu Á năm 1995 [8, trang 12],
tái định cư được phân loại dựa trên thiệt hại của người tái định cư:
- Thiệt hại về tài sản sản xuất, bao gồm đất đai, thu nhập và đời sống.
- Thiệt hại về nhà ở, có thể là toàn bộ cộng đồng và các hệ thống, dịch vụ
kèm theo.
- Thiệt hại về các tài sản khác.
- Thiệt hại về các nguồn tài nguyên của cộng đồng như môi trường sinh
sống, văn hóa, và hàng hóa.
1.1.3.3. Tái định cư tự nguyện và không tự nguyện
Tái định cư được hiểu là con người tạo dựng cuộc sống ở nơi cư trú mới
sau khi rời khỏi nơi cư trú cũ của họ. Thực tế có nhiều lý do mà người dân phải
tái định cư và có thể chia ra thành hai loại: Tái định cư bắt buộc (do những điều
kiện khách quan như chiến tranh, thiên tai, xây dựng công trình, thu hồi đất,...)
và Tái định cư tự nguyện (do nhu cầu người dân muốn cải thiện cuộc sống).
Thực tế tại Việt Nam có nhiều hình thức tái định cư và được tổng hợp thành
hai hình thức tái định cư phổ biến như sau [7, tramg 8]:
(1) Tái định cư tập trung theo quy hoạch, kế hoạch chung, có tổ chức (còn
gọi là tái định cư bắt buộc):
- Di dân từ các tỉnh miền Bắc và miền Trung vào Tây Nguyên xây dựng các
vùng kinh tế mới. Hình thức này chủ yếu diễn ra trước năm 1990.
- Xây dựng làng thanh niên lập nghiệp và các khu giãn dân.
- Xây dựng các công trình phục vụ lợi ích quốc gia (các công trình thủy
điện tại Tây Nguyên, Sơn La,...).

Tái định cư bắt buộc là việc tái định cư do người dân bị trưng dụng đất để
xây dựng dự án vì lợi ích chung của cộng đồng. Việc tái định cư bắt buộc liên
quan tới tất cả lứa tuổi và giới, những mong muốn của một số người bị ảnh
hưởng có thể không được đáp ứng. Rất nhiều người có thể gặp rủi ro và thiếu
động lực, sáng tạo để di chuyển và tái lập nơi ở mới và thực hiện những định
hướng mới. Phụ nữ và những hộ gia đình do họ đứng đầu thường chịu nhiều thiệt
thòi vì đền bù lại thường chỉ giành cho nam giới, những hộ do phụ nữ đứng đầu
lại thường trong tình trạng kinh tế mong manh, hơn nữa phụ nữ thường bị hạn
chế trong tiếp cận các dịch vụ hỗ trợ. Không có sự giúp đỡ mạnh mẽ, thì những
người bị tái định cư bắt buộc sẽ trở nên nghèo khó. Nếu việc tái định cư bắt buộc
là không thể tránh khỏi thì nó cần được hoạch định và thực thi một cách chu đáo
để kinh tế có thể được tăng trưởng và giảm được nghèo đói, đặc biệt đối với
những người dễ bị tổn thương [7, trang 8].
(2) Di dân tự do (tái định cư tự nguyện): di cư tự phát vào Tây Nguyên từ
các tỉnh miền Bắc và miền Trung, trong đó có cả nhân dân các dân tộc ở miền
núi phía Bắc như Tày, Nùng, Dao, Sán Chỉ, H’Mông. Di dân tự phát diễn ra
mạnh ở một số thời điểm và thường gây áp lực lớn về đất đai.
Những người tái định cư tự nguyện được tự quyết định lựa chọn. Họ
thường là nam giới ở lứa tuổi trẻ hoặc trung niên vì vậy họ khá năng động, sáng
tạo và chấp nhận rủi ro. Chính phủ sẽ tổ chức các chương trình tái định cư được
quy hoạch trước, các chương trình này không chỉ quy hoạch nơi ở mới mà còn
quy hoạch điều kiện sống tại nơi ở mới, cung cấp các dịch vụ xã hội và thậm chí
phục vụ cả nhu cầu văn hóa và tôn giáo [7, trang 9].
1.1.3.4. Di dân tái định cư trong các công trình thuỷ điện
Di dân tái định cư trong các công trình thuỷ điện thường là di dân bắt buộc
để giải phóng mặt bằng, thi công công trình thuỷ điện. Các công trình thuỷ điện
đều mang tính quan trọng quyết định đối với sự phát triển của địa phương, khu
vực và quốc gia. Tuy nhiên, chúng cũng làm nảy sinh mâu thuẫn giữa mục đích
phát triển quốc gia lâu dài với quyền lợi của các cộng đồng và cá nhân - những
người chịu bất lợi trước tiên. Các dự án này đều có thể tác động bất lợi tới những

người đang sử dụng các nguồn tài nguyên như đất đai, nguồn nước, hay các loại
tài nguyên thiên nhiên khác và các phương tiện kinh tế, xã hội, văn hoá và tôn
giáo liên quan.
Điều quan trọng là phải cân nhắc lợi ích đạt được với cái giá phải trả cho
các ảnh hưởng này bằng cách xem xét các phương án triển khai hoặc không phải
di dân, hoặc chỉ gây gián đoạn nhỏ về kinh tế, xã hội và tìm ra cách để hoà hợp
những quyền lợi và mâu thuẫn nói trên. Trường hợp không tránh khỏi tái định
cư, phải tiến hành các biện pháp cụ thể nhằm đạt được các nội dung như sau:
- Bảo vệ quyền lợi và cuộc sống của những người bị di chuyển do dự án;
- Giảm và đền bù những thiệt hại về tiềm năng kinh tế của người bị ảnh
hưởng, của nền kinh tế khu vực và địa phương;
- Hỗ trợ phát triển tiềm năng kinh tế, xã hội và văn hoá cho các cộng đồng
và người bị ảnh hưởng.
1.1.3.5. Đặc điểm của di dân tái định cư trong các công trình thuỷ điện
Các công trình thuỷ điện chủ yếu được đầu tư xây dựng ở bên các con sông
có địa hình đồi núi cao. Mục đích xây dựng nhằm lợi dụng địa thế tự nhiên để
hình thành các hồ chứa nhân tạo. Một nhà máy thuỷ điện không chiếm nhiều
diện tích nhưng hồ chứa nước để đảm bảo vận hành nhà máy chiếm diện tích rất
lớn, từ vài km
2
đến hàng trăm km
2
(diện tích hồ thuỷ điện Hoà Bình là 208 km
2
,
Sơn La là 224 km
2
). Điều đó cũng có nghĩa là có diện tích đất tương ứng bị mất
đi, hơn nữa, đó chủ yếu là diện tích canh tác đã ổng định lâu đời (do điều kiện
đất ở đây gần nguồn nước, trong thung lũng và được canh tác lâu đời chủ yếu là

đất tốt).
Số lượng người dân phải tái định cư và bị ảnh hưởng một phần từ các dự án
thuỷ điện thông thường cũng rất lớn, xem Bảng 2.1. Ảnh hưởng của các công
trình thuỷ điện trên sông Đà.
Bảng 1.1. Ảnh hưởng của các công trình thuỷ điện trên sông Đà
ĐVT: Người
Công trình thuỷ điện Số người bị ảnh hưởng Số người phải TĐC
- Thuỷ điện Hoà Bình - 52.400
- Thuỷ điện Sơn La - 91.000
- Thuỷ điện Lai Châu 42.181 7.049
- Thuỷ điện Bản Chát 74.862 12.397
- Thuỷ điện Huổi Quảng 156.500 5.255
Nguồn: Nghiên cứu về tái định cư ở Tây Bắc Việt Nam (2007).
Đại đa số người dân ở đây rất nghèo, trình độ nhận thức thấp và không đủ
ăn hàng năm. Các dự án tái định cư này sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của các
huyện cũng như của toàn tỉnh và có khả năng sẽ làm cho chính quyền địa
phương gặp khó khăn hơn trong việc đạt được các mục tiêu phát triển đã đề ra.
1.1.4. Sự cần thiết khôi phục sinh kế bền vững của các hộ di dân tái
định cư trong các công trình thuỷ điện
Các dự án thủy điện đa phần đều thuộc địa bàn các tỉnh nghèo miền núi và
phần lớn ảnh hưởng đến đồng bào các dân tộc thiểu số. Trong những năm qua,
Việt Nam đã thực hiện nhiều dự án thủy điện đòi hỏi việc phải xây dựng các hồ
chứa nước, hình thành đập thủy điện, tác động nhiều đến đời sống kinh tế, xã
hội, truyền thống văn hóa của đồng bào các dân tộc. Các công trình thủy điện với
quy mô lớn như: thủy điện Hòa Bình, Sơn La, Tuyên Quang,... đòi hỏi việc di
chuyển hầu hết cộng đồng dân cư, nhiều vùng trong khu vực lòng hồ, người dân
phải di dời, thay đổi nơi cư trú và tái định cư trên nhiều địa bàn mới.
Quá trình thực hiện việc di dân và tái định cư của các công trình thủy điện
đã nảy sinh nhiều vấn đề bất cập, gây ra những khó khăn, cản trở cho công tác
trên.

Hiện nay các chính sách tái định cư của Việt Nam vẫn chưa có sự thống
nhất. Chính phủ ban hành các quyết định riêng cho từng công trình, dự án, mỗi
dự án lại có một mức đền bù, hỗ trợ khác nhau, làm nảy sinh tư tưởng so sánh
quyền lợi trong nhân dân, ảnh hưởng đến vấn đề công bằng xã hội. Mặt khác,
công tác tái định cư còn mang tính áp đặt chủ quan từ các cơ quan chức năng,
nguyện vọng của người dân chưa được nhìn nhận thấu đáo trong quá trình hoạch
định chính sách.
Công tác đền bù, tái định cư mới chỉ dừng lại ở việc đền bù quyền sử dụng
đất và các tài sản thiệt hại trực tiếp. Các thiệt hại gián tiếp và vô hình khác về thu
nhập kinh tế, lợi thế vị trí kinh doanh, đánh bắt cá, sản phẩm rừng... chưa được
tính đến đầy đủ, trong khi đây lại là những điểm rất quan trọng đối với đời sống
người dân và đồng bào dân tộc. Trong thực tiễn, hầu hết người dân tái định cư
được đền bù diện tích đất canh tác hẹp hơn và chất lượng xấu hơn so với nơi
xuất cư. Hậu quả là trong khi quỹ đất cho sản xuất bị thu hẹp, người dân phải
tiếp tục khai thác rừng để bảo đảm nguồn sinh kế, dẫn đến rừng và đất rừng ngày
càng bị thu hẹp với chất lượng xấu.
Việc khôi phục lại đời sống của những hộ dân bị ảnh hưởng từ việc tái định
cư đòi hỏi phải có thời gian lâu dài. Tuy nhiên, chính sách hỗ trợ để khôi phục
thu nhập, ổn định cuộc sống của người dân, nhất là giải quyết việc làm thường là
ngắn hạn, chưa được xem xét với nguồn tài chính bảo đảm trong nhiều năm.
1.1.5. Những nội dung chủ yếu của khôi phục sinh kế bền vững trong
các công trình thuỷ điện
Ở Việt Nam, những người di dời được xem như nhóm chủ yếu của những
người bị ảnh hưởng của dự án.
Trong trường hợp các dự án đầu tư phát triển, nếu như yêu cầu về đền bù,
hỗ trợ tái định cư của bên tài trợ khác nhau, trước khi thoả thuận, cơ quan quản
lý đầu tư dự án phải báo cáo lên Thủ tướng chính phủ để xem xét và ra quyết
định. Ban quản lý dự án cũng phải gửi tờ trình về các thoả thuận với các đối tác
trong việc thực hiện chính sách thực hiện trong kế hoạch tái định cư.
Xét về mặt lợi ích lâu dài điều đáng nói nhất là luật đã thiết lập các nguyên

tắc nhằm ổn định cuộc sống và sản xuất cho người dân bị ảnh hưởng của dự án.
Những nguyên tắc này không chỉ áp dụng trong phạm vi những người bị mất đất
mà còn hướng tới những đối tác khác có tài sản hoặc nguồn sinh sống bị ảnh
hưởng do dự án. Khái niệm về vùng đất tái định cư cần phải "có điều kiện sống
bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ" cũng quan trọng trong vịệc xem xét phát triển cơ sở
hạ tầng ở địa phương.
Những điểm khác biệt với thông lệ quốc tế là các phương pháp áp dụng để
tính toán đền bù. Chẳng hạn như với các dự án do nước ngoài tài trợ, giá thay thế
cho tài sản bị thiệt hại được xác định dựa trên giá thị trường. Chính sách của
Việt Nam, một mặt yêu cầu việc đền bù đất đai bị thiệt hại phải dựa trên mức giá
"gần" với mức giá chuyển nhượng Giấy chứng nhận Quyền sử dụng đất trên thị
trường, mặt khác lại cho phép chính quyền địa phương đặt ra các mức giá cho
các loại đất khác nhau. Các mức giá hành chính kể trên không phản ánh được
các điều kiện thị trường và không được cập nhật thường xuyên. Hướng dẫn của
các nhà tài trợ cũng yêu cầu phải bồi thường đầy đủ khi có thiệt hại về kinh
doanh, tuy nhiên, điều này không được đề cập trong các chính sách của Việt
Nam. Một khác biệt quan trọng nữa là thời gian đền bù. Đối với dự án nước
ngoài tài trợ, việc đền bù phải được hoàn tất trước khi có tái định cư. Trong khi
đó, đối với các dự án có vốn trong nước, thường chỉ sau khi bàn giao mặt bằng
người bị ảnh hưởng mới nhận được hỗ trợ.
Với việc ban hành Luật Đất đai năm 2003 thì nhiều điểm khác biệt giữa các
nguyên tắc quốc tế và các chính sách của Việt Nam đã bị xoá bỏ. Những điểm
khác biệt còn lại là cần phải thông báo và tham khảo ý kiến những đối tượng tái
định cư và để tích cực giúp họ hoà nhập với cộng đồng dân cư nơi ở mới. Trong
khi chính quyền cấp tỉnh có thể áp dụng thêm các biện pháp như thế này nếu
muốn, họ lại không bị yêu cầu phải làm như vậy. Giám sát độc lập việc thực hiện
các kế hoạch tái định cư cũng không nằm trong các chính sách của Việt Nam,
trong khi đây lại thường là yêu cầu của của các dự án do nước ngoài tài trợ.
Các điều khoản về đền bù, hỗ trợ và tái định cư cho các hộ gia đình có đất
đai (và tài sản) do Nhà nước thu hồi để giành cho các dự án thuỷ điện được được

tóm tắt như sau:
- Đền bù bằng đất: Đất đổi đất là khi vẫn còn quyền sử dụng và khu đất mới
có có mục đích sử dụng và giá trị tương đương. Trong trường hợp không còn đất
hoàn trả, việc đền bù tương đương với giá trị quyền sử dụng đất tại thời điểm ra
quyết định thu hồi đất;
- Đền bù tài sản: Việc đền bù dựa trên giá thị trường và được các UBND
tính toán và xác định theo các hướng dẫn của Sở Tài chính (xác định giá trị tài
sản bao gồm nhà cửa, nông trại, mùa màng và các tài sản cố định khác...).
- Hỗ trợ xây dựng lại nơi mới các khoản chi thực tế để chuyển đến một địa
điểm mới và chỗ ở tạm thời trong trường hợp việc định cư bị trì hoãn (ví dụ: hỗ
trợ tiền thuê nhà ở tạm).
- Ổn định cuộc sống: Các hộ nông nghiệp có trên 30% đất nằm trong diện
thu hồi sẽ được nhận hỗ trợ tối đa là trong vòng 12 tháng (mức tối đa áp dụng
với các hộ di chuyển đến nơi mới có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn) và số
ngày cắt giảm thấp hơn cho các đối tượng khác. Mức đền bù bằng tiền cho mỗi
nhân khẩu tương đương với 30 kg gạo, tính theo giá cả trung bình tại từng địa
phương.
- Ổn định sản xuất: Các hộ nông dân có trên 30% đất nông nghiệp bị thu
hồi sẽ nhận được hỗ trợ chuyển đổi việc làm nếu như còn ở trong độ tuổi lao
động, như quy định của UBND cấp tỉnh. Thông thường là hỗ trợ đào tạo việc
làm tại các trung tâm hướng nghiệp dạy nghề.
- Các biện pháp khác cho việc ổn định cuộc sống tại nơi tái định cư: Các
biện pháp này hướng đến cộng đồng tái định cư, bao gồm: hỗ trợ giống cây trồng
và vật nuôi cho vụ sản xuất đầu tiên cũng như hỗ trợ khuyến khích nông nghiệp
và lâm nghiệp và các dịch vụ thú y. Hỗ trợ cũng có thể được đưa ra nhằm tạo ra
buôn bán hàng hoá và việc làm trong vùng tái định cư, phù hợp với người lao
động đặc biệt là lao động nữ.
- Hỗ trợ chuyển đổi nghề nghiệp và tạo việc làm: Theo tuổi lao động, nếu là
hộ nông nghiệp được cho học nghề tại cơ sở dạy nghề tại địa phương. Trường
hợp không có nơi đào tạo nghề hoặc người lao động không muốn học nghề thì

hỗ trợ bằng tiền, mức hỗ trợ các trường hợp do UBND tỉnh quyết định.
- Người dân bị mất vĩnh viễn hơn 20% đất sinh hoạt hay đất sản xuất hoặc
thu nhập khác thì được ưu tiên đào tạo dạy nghề hoặc sẽ được hưởng tiêu chuẩn
bồi hoàn khác. Nếu người dân có nhu cầu chuyển tới nơi ở mới thì sẽ được ưu
tiên theo các điều sau: (i) chi phí vận chuyển (ii) trợ giá xây dựng lại nhà ở (iii)
chi phí đào tạo dạy nghề hoặc một số tiêu chuẩn bồi hoàn khác.
1.1.6. Các điều kiện cần thiết của khôi phục sinh kế bền vững cho
người tái định cư của các công trình thuỷ điện
Để khôi phục sinh kế bền vững cho người dân tái định cư của các công
trình thuỷ điện cần thoả mãn được một số điều kiện như sau:
- Việc lập dự án và triển khai dự án di dân tái định cư cần phân tích được
một cách đầy đủ những tác động của dự án để đảm bảo tính bền vững về sinh kế
của người tái định cư. Các dự án cần khảo sát, nghiên cứu chi tiết về hiện trạng
sinh kế của người dân tái định cư và đặc điểm nơi đến của họ để từ đó xây dựng
lên các hoạt động sinh kế phù hợp và bền vững cho người dân tái định cư tại nơi
ở mới. Đặc biệt, việc lập dự án tái định cư cần tôn trọng bản sắc, phong tục
tuyền thống của người dân và cần để cho những người bị ảnh hưởng có cơ hội
được tham gia, góp ý cho dự án.
- Để khôi phục sinh kế bền vững cho người dân cũng cần tính toán đầy đủ
các nguồn lực có tính hỗ trợ của nhà nước. Dự án cần xây dựng được kế hoạch
sử dụng các nguồn lực này như liệt kê các nguồn lực, người sử dụng nguồn lực,
thời gian sử dụng nguồn lực... Việc sử dụng nguồn lực có tính hỗ trợ của nhà
nước không những để sử dụng nguồn lực này một cách hiệu quả, đúng mục đích
mà còn tránh được những tác dụng không mong muốn của các nguồn vốn hỗ trợ
đến người dân như tính ỷ lại, tính không minh bạch... gây nên những xung đột và
hậu quả sẽ đem lại là tính không bền vững cho quá trình phát triển của cộng
đồng.
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN VỀ SINH KẾ VÀ KHÔI PHỤC SINH KẾ BỀN
VỮNG CHO NGƯỜI DÂN TĐC CỦA CÁC CÔNG TRÌNH THUỶ ĐIỆN
1.2.1. Những chính sách quốc tế về tái định cư bắt buộc

Rất nhiều dự án phát triển đòi hỏi người dân bị bắt buộc phải di dời, nói
chung đã có những tác động môi trường, xã hội và kinh tế bất lợi đối với những
người phải di dời. Sinh kế của người dân tái định cư bị thay đổi hầu như hoàn
toàn. Nhà cửa bị bỏ đi, hệ thống sản xuất bị thay đổi, các tài sản và nguồn thu
nhập bị mất đi. Những người phải di dời có thể phải sống ở nơi mới mà kinh
nghiệm của họ không phù hợp, việc khai thác các nguồn tài nguyên bị hạn chế và
họ có thể không hoà hợp về văn hoá, lối sống với dân cư sở tại. Quá trình tái
định cư có thể phá vỡ cấu trúc cộng đồng đã được hình thành ở nơi ở cũ, các mối
quan hệ xã hội, bản sắc văn hoá có thể bị mất đi. Để tồn tại, những người di dời
cũng có thể khai thác quá mức hệ sinh thái tại nơi ở mới, gây ra tình trạng suy
thoái môi trường. Nếu không có các biện pháp phát triển thích hợp về đền bù, tái
định cư và khôi phục sinh kế cho người dân tái định có thể gây ra sự thiệt hại rất
lớn cho các cộng đồng bị ảnh hưởng, tác động nghiêm trọng tới dân cư sở tại, và
dẫn đến thiệt hại nghiêm trọng về môi trường.
1.2.1.1. Chính sách tái định cư bắt buộc của Ngân hàng Thế giới (WB)
Chính sách tái định cư bắt buộc của Ngân hàng Thế giới [6, trang 32] gồm
các mục tiêu chính:
i) Đảm bảo các hộ bị ảnh hưởng do dự án phải được hưởng lợi từ dự án và
ít nhất cũng khôi phục hoặc cải thiện được cuộc sống, đặc biệt là đối với những
nhóm người dễ bị tổn thương. Đây phải được xem như là kế hoạch phát triển. Kế
hoạch tái định cư không tự nguyện là một phần của dự án;
ii) Cần tránh hoặc giảm thiểu tối đa tái định cư không tự nguyện/bắt buộc
khi có thể; và
iii) Khi không thể tránh được việc di dời, cần phải: cung cấp đầy đủ nguồn
đầu tư và cơ hội chia sẻ lợi ích của dự án cho các hộ bị ảnh hưởng.
Chính sách có những điều khoản chủ yếu được tóm tắt như dưới đây:
- Đền bù đầy đủ theo giá thay thế trước khi trước khi trưng dụng đất.
- Giúp đỡ các hộ bị ảnh hưởng trong thời gian chuyển tiếp ở nơi định cư
mới.
- Giúp đỡ hộ bị ảnh hưởng phục hồi mức sống, tạo thu nhập, tăng cường

năng lực sản xuất hay ít nhất cũng hồi phục lại mức sống của họ như trước khi
có dự án.
- Đặc biệt chú ý đến nhóm người nghèo và dễ bị tổn thương nhất.
- Có sự tham gia của cộng đồng trong quá trình lập và thực hiện kế hoạch
tái định cư.
- Những người tái định cư cần phải được hoà nhập về mặt kinh tế-xã hội
với cộng đồng tiếp nhận. Cần tham vấn với cộng đồng tiếp nhận.
- Các thủ tục pháp lý sẽ không bị cản trở khi xem xét đền bù và phục hồi
cuộc sống. Những người chiếm dụng trái phép sau ngày giới hạn sẽ không được
đền bù.
Kế hoạch tái định cư có mục tiêu phục hồi và cải thiện sinh kế cho các hộ
phải di dời càng nhanh càng tốt. Khi không tránh được số lượng lớn người phải
di dời, cần có kế hoạch đền bù, tái định cư, thời gian và nguồn vốn thực hiện chi
tiết. Kế hoạch tái định cư với chiến lược phát triển và nguồn vốn đầu tư nhằm cải
thiện hoặc ít nhất cũng phục hồi được mức sống cho các hộ bị ảnh hưởng. Chiến
lược tái định cư trên cơ sở đất đền đất cho người dân, nếu không có đất cần tạo
cơ hội để tìm kiếm hoặc tự tạo việc làm cho họ. Kế hoạch tái định cư cần được
lập chi tiết về đền bù, di chuyển, cơ cấu về tổ chức thực hiện, nguồn tài chính và
nhân lực để đạt được mục tiêu về phục hồi thu nhập.
1.2.1.2. Chính sách tái định cư bắt buộc của Ngân hàng Phát triển châu Á
(ADB) [6, trang 33]
Có ba yếu tố quan trọng trong tái định cư bắt buộc, đó là:
(i) Đền bù những tài sản bị mất và những thiệt hại về sinh kế và thu nhập,
(ii) Hỗ trợ di dời bao gồm cung cấp địa điểm di dời với các dịch vụ và
phương tiện thích hợp, và
(iii) Hỗ trợ để khôi phục đạt được ít nhất bằng mức sống trước khi có dự
án.
Đối với những dự án đòi hỏi di chuyển người dân thì tái định cư phải là
phần tổng hợp trong thiết kế dự án và phải được giải quyết từ các giai đoạn đầu
tiên trong chu trình dự án, có nghiên cứu các nguyên tắc sau đây:

- Tránh tái định cư bắt buộc ở những nơi có thể bố trí dân cư tại chỗ.
- Khi không thể tránh khỏi di dân, cần giảm đến mức tối đa việc di chuyển

×