Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

thực trạng nhận thức của học sinh trung học cơ sở ở Hà Nội về quyền và bổn phận của trẻ em trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.81 MB, 109 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
**********



PHÍ CÔNG MINH


THỰC TRẠNG NHẬN THỨC CỦA HỌC SINH
TRUNG HỌC
CƠ SỞ Ở HÀ NỘI VỀ QUYỀN VÀ BỔN PHẬN
CỦA TRẺ EM TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY


LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC

CHUYÊN NGÀNH: XÃ HỘI HỌC
MÃ SỐ: 5.01.09

Người hướng dẫn khoa học: TS. Vũ Hào Quang






Hà nội, tháng 4/2003

Phí Công Minh LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC


5
MỤC LỤC
TÊN
TR
Bảng quy ƣớc các từ viết tắt
8
Lời nói đầu
9
PHẦN THỨ NHẤT: MỞ ĐẦU

I. Tính cấp thiết của Đề tài
11
II. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
13
III. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
21
1. Ý nghĩa khoa học
21
2. Ý nghĩa thực tiễn
22
IV. Mục đích nghiên cứu
22
V. Đối tƣợng, phạm vi, mẫu nghiên cứu
22
VI. Phƣơng pháp nghiên cứu
23
VII. Giả thuyết khoa học
24
VIII. Khung lý thuyết
24

PHẦN THỨ HAI: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

Chƣơng I. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu

I. Một số khái niệm công cụ
25
1. Khái niệm nhận thức
25
2. Khái niệm trẻ em
25
3. Khái niệm quyền trẻ em
27
4. Khái niệm bổn phận trẻ em
28
5. Mối quan hệ biện chứng giữa quyền và bổn phận của trẻ em trong
pháp luật Việt Nam
29
II. Những quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về quyền và bổn phận
của trẻ em
34
1. Những quan điểm của Đảng CSVN về công tác bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục quyền và bổn phận của trẻ em
34
2. Những chính sách của Nhà nƣớc về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục

Phí Công Minh LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

6
quyền và bổn phận của trẻ em
35

3. Một số nét về quyền và bổn phận của trẻ em trong Công ƣớc Quốc tế
về quyền trẻ em và Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em

37
Chƣơng II. Thực trạng nhận thức của học sinh THCS ở Hà nội về
quyền và bổn phận

I. Sơ lƣợc một số nét về công tác BV, CS & GD quyền và bổn phận
của trẻ em Hà Nội
43
1. Sơ lƣợc về vị trí kinh tế, chính trị, xã hội của Thủ đô
43
2. Tình hình cơ bản về trẻ em
45
3. Mục tiêu chƣơng trình hành động vì trẻ em Hà Nội giai đoạn 1991-2000
47
4. Kết quả thực hiện quyền và bổn phận của trẻ em ở Hà Nội
48
II. Thực trạng nhận thức của học sinh THCS ở Hà Nội về quyền và
bổn phận của trẻ em
56
1. Thực trạng nhận thức của học sinh về Công ƣớc Quốc tế của LHQ về
quyền trẻ em và Luật BV, CS & GD trẻ em, CS & GD trẻ em
56
2. Nhận thức của học sinh THCS về quyền trẻ em
63
3. Nhận thức và thực hiện bổn phận trẻ em của học sinh THCS Hà Nội
84
III. Những nguyên nhân và dự báo
94

1. Những nguyên nhân có tác động tích cực đến việc nâng cao nhận thức
cho học sinh THCS về quyền và bổn phận của trẻ em
94
2. Những nguyên nhân làm hạn chế đến việc nâng cao nhận thức cho
học sinh THCS về quyền và bổn phận của trẻ em
97
3. Dự báo tình hình nhận thức về quyền và bổn phận của trẻ em học sinh
các trƣờng THCS
99
IV. Vai trò của các cấp uỷ Đảng và chính quyền trong hoạt động
nâng cao nhận thức về quyền và bổn phận cho học sinh trong các
trƣờng THCS ở Hà Nội
99
1. Vai trò của cấp uỷ Đảng và chính quyền cơ sở, nhất là của Chi bộ và
Ban Giám hiệu trƣờng THCS
99
2. Vai trò của chính lãnh đạo xã phƣờng nơi có trƣờng THCS và ngƣời
nuôi dƣỡng các em học sinh

100
3. Vai trò của chính trẻ em về quyền và bổn phận của trẻ em
101
Phí Công Minh LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

7
4. Vai trò của hình thức, biện pháp tuyên truyền giáo dục về quyền và
bổn phận của trẻ em từ phía xã hội

101
PHẦN THỨ 3: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ


I. Kết luận
103
II. Khuyến nghị một số giải pháp
104
1. Nhóm giải pháp về công tác truyền thông
104
2. Nhóm giải pháp về phối hợp hoạt động
105
3. Nhóm giải pháp về cơ chế, chính sách
105
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH
107


Phí Công Minh LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

8
BẢNG QUY ƢỚC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Tt
Từ đầy đủ
Từ viết tắt
1
Liên hợp quốc
LHQ
2
Trung học cơ sở
THCS
3

Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
BV, CS & GD
4
Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng CSVN
5
Xã hội chủ nghĩa
XHCN
Phí Công Minh LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

9
LỜI NÓI ĐẦU

Kể từ năm 1989 là năm Liên hợp quốc cho ra đời Công ƣớc Quốc tế về
quyền trẻ em, đến nay đã có 192 quốc gia ký phê chuẩn Công ƣớc và 150
nƣớc có chƣơng trình hành động quốc gia vì trẻ em. Việt Nam tự hào là nƣớc
thứ hai trên thế giới và là nƣớc đầu tiên ở Đông Nam Á ký phê chuẩn Công
ƣớc và đến năm 1991 Nhà nƣớc Việt Nam đã ban hành Luật Bảo vệ, Chăm
sóc và Giáo dục trẻ em. Vấn đề trẻ em vì thế đã trở thành một trong những
lĩnh vực xã hội đƣợc ƣu tiên hàng đầu. Cũng chính từ đó đã diễn ra nhiều cuộc
Hội thảo, nhiều nghiên cứu khoa học quốc gia và quốc tế tập trung vào vấn đề
trẻ em. Tuy nhiên, cho đến nay, sau gần mƣời lăm năm Công ƣớc quốc tế về
quyền trẻ em và Luật BV, CS & GD trẻ em đi vào cuộc sống, thực tế vẫn cho
thấy rằng việc nhận thức của các nhóm xã hội nói chung, đặc biệt là chính
nhóm trẻ em về quyền và bổn phận của mình, để bảo vệ và làm theo vẫn đang
là một vấn đề lớn cần đƣợc quan tâm. Bởi vì, trong thực tế, những vi phạm về
quyền và bổn phận của trẻ em đang ngày càng có xu hƣớng gia tăng. Điều đó
chứng tỏ rằng, ở đối tƣợng này, việc nhận thức về quyền và bổn phận của
mình đang còn nhiều hạn chế.
Do đó đề tài đƣợc lựa chọn bởi Luận văn xã hội học này tập trung vào

việc tìm hiểu thực trạng nhận thức của trẻ em học sinh trung học cơ sở ở Hà
Nội về quyền và bổn phận của trẻ em qua một cuộc khảo sát 4 trƣờng trung
học cơ sở ở Quận Đống Đa, Hoàn Kiếm và Huyện Từ Liêm, Thành phố Hà
Nội. Một số câu hỏi thuộc về nội dung nghiên cứu mà luận văn đã đặt ra và
giải quyết là:
* Công ƣớc quốc tế về quyền trẻ em và Luật BV, CS & GD trẻ em đã đi
vào cuộc sống gần mƣời lăm năm nay, vậy trẻ em học sinh THCS nhận thức
nhƣ thế nào về quyền và bổn phận của mình?
* Nhà trƣờng, gia đình, Đoàn Thanh niên, Đội Thiếu niên TP Hồ chí
Minh và các tổ chức xã hội khác đã nhìn nhận vấn đề này nhƣ thế nào và đã có
những hoạt động gì để tuyên truyền vận động cũng nhƣ thực hiện quyền
quyền và bổn phận của các em?
Phí Công Minh LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

10
* Những nguyên nhân nào tác động trực tiếp đến thực trạng nhận thức
nhƣ hiện nay? Qua đó có thể rút ra bài học gì và cần phải có biện pháp gì để
cải thiện tình trạng nhận thức này?
Thông tin lƣợng giá những nội dung trên đã đƣợc phối hợp thu thập
thông qua phƣơng pháp thu thập thông tin bằng bảng hỏi, sƣu tầm - phân tích
tài liệu và các phỏng vấn sâu định tính tự do và nửa tự do với các em học sinh,
các cán bộ Đoàn Đội, các cán bộ quản lý, giáo viên và phụ huynh học sinh
(tổng cộng 12 cuộc).
Cuối cùng, tuy nhiên do những hạn chế về thời gian và các nguồn lực,
chắc chắn nghiên cứu mà luận văn thực hiện sẽ không tránh khỏi thiếu sót.
Rất mong nhận đƣợc sự đóng góp ý kiến của các nhà chuyên môn, các
thầy cô giáo và các bạn đồng nghiệp.
Phí Công Minh LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

11

PHẦN THỨ NHẤT: MỞ ĐẦU
I. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Chỉ trong khoảng thời gian gần mƣời lăm năm tính từ năm 1989 là năm
cho ra đời Công ƣớc quốc tế về Quyền trẻ em, (sau đây gọi tắt là Công ƣớc)
đến tháng 5 năm 2002 LHQ đã tổ chức đƣợc hai Hội nghị Thƣợng đỉnh thế
giới về Quyền trẻ em (năm 1990 tại Oslo - NaUy và năm 2002 tại NewYork -
Mỹ). Theo báo cáo của Tổng thƣ ký LHQ - Ông Cofi Annal - đến nay đã có
192 quốc gia ký phê chuẩn Công ƣớc và có 150 nƣớc có chƣơng trình hành
động quốc gia vì trẻ em, đƣa vấn đề quyền trẻ em trở thành lĩnh vực ƣu tiên
trong chƣơng trình nghị sự quốc gia và là một trong những lĩnh vực xã hội
đƣợc ƣu tiên hàng đầu.
Vấn đề trẻ em cũng luôn là mối quan tâm hàng đầu của Đảng, Nhà nƣớc
và nhân dân ta. Chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em chính là tạo dựng cho đất
nƣớc và dân tộc một tƣơng lai tốt đẹp hơn.
Việt Nam tự hào là nƣớc thứ hai trên thế giới và là quốc gia đầu tiên ở
Đông Nam Á ký phê chuẩn Công ƣớc (năm 1989). Đến năm 1991 Nhà nƣớc
Việt Nam đã ban hành Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em (BV, CS &
GD) nhằm thể chế hoá các quyền và bổn phận cơ bản của trẻ em Việt Nam, đồng
thời xác lập các cơ sở pháp lý vững chắc cho công tác BV, CS & GD trẻ em.
Công ƣớc về quyền trẻ em và Luật BV, CS & GD trẻ em với những quy
định cụ thể về quyền và bổn phận của trẻ em đã có những tác động tích cực vào
thực tế cuộc sống gần mƣời lăm năm nay và đã có những đóng góp tích cực
trong việc nâng cao nhận thức của các tầng lớp nhân dân Việt Nam, trong đó có
trẻ em là học sinh các trƣờng trung học cơ sở (THCS) ở các tỉnh, thành phố
trong cả nƣớc. Đối với học sinh các trƣờng THCS, việc nhận thức đầy đủ về các
quyền và bổn phận của mình sẽ góp phần quan trọng làm thay đổi hành vi và
cách xử sự theo đúng những quy định của Công ƣớc và Luật. Đây cũng là cơ sở
thuận lợi cho việc giáo dục quyền và nghĩa vụ công dân của các em sau này.
Tuy nhiên, thực tế cho thấy việc nhận thức đầy đủ các điều khoản quy
định về quyền và bổn phận của trẻ em nói chung và học sinh trong các trƣờng

THCS nói riêng để bảo vệ và làm theo là cả một vấn đề lớn cần phải đƣợc quan
Phí Công Minh LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

12
tâm. Bởi vì, trong thực tế những vi phạm về quyền và bổn phận của trẻ em
trong đối tƣợng học sinh đang ngày càng có xu hƣớng gia tăng. Điều đó chứng
tỏ rằng, ở đối tƣợng này, việc nhận thức về quyền và bổn phận của mình đang
còn nhiều hạn chế.
Ở Việt nam, trƣớc vấn đề này đã có một số hoạt động nghiên cứu về
nhận thức của các tầng lớp nhân dân và dƣ luận xã hội qua 10 năm thực hiện
chƣơng trình hành động quốc gia vì trẻ em Việt Nam do Uỷ ban BV, CS & GD
trẻ em (nay là Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em) tổ chức năm 2001. Đề tài
nghiên cứu dƣ luận trẻ em trên một số điểm đại diện cho ba vùng Bắc - Trung -
Nam Việt Nam về một số lĩnh vực, nhƣ: học tập, văn hoá; về kỳ nghỉ hè của
học sinh tiểu học và THCS của Viện nghiên cứu thanh niên (năm 1999). Mới
đây đáng chú ý có đề tài cấp Viện năm 2002 của Viện Nghiên cứu thanh niên
về “Vai trò của Đội TNTP Hồ Chí Minh trong việc tham gia giáo dục quyền và
bổn phận cho trẻ em”. Các kết quả nghiên cứu nêu trên mới chỉ đánh giá nhận
thức chung chung của trẻ em về Luật BV, CS & GD trẻ em của Việt Nam hoặc
thể hiện nhận thức trên một số mặt đời sống cụ thể. Thảng hoặc có một số đề tài
có nghiên cứu về nhận thức của trẻ em về một số quyền và bổn phận cụ thể
song lại chỉ đi vào tìm hiểu vai trò của Đội TNTP Hồ Chí Minh trong việc giáo
dục quyền và bổn phận cho trẻ em.
Đặc biệt, cho đến nay chƣa có nghiên cứu chuyên biệt nào về nhận thức
của nhóm trẻ em học sinh THCS về quyền và bổn phận của trẻ em trong Luật
BV, CS & GD cũng nhƣ Công ƣớc quốc tế về Quyền trẻ em.
Để góp phần vào việc nghiên cứu thực trạng tình hình nhận thức của trẻ
em về quyền và bổn phận của trẻ em, tác giả luận văn chọn đề tài “Thực trạng
nhận thức của học sinh trung học cơ sở ở Hà Nội về quyền và bổn phận
của trẻ em trong giai đoạn hiện nay”. Kết quả nghiên cứu của đề tài sẽ góp

phần vào việc nghiên cứu lý luận, và đánh giá thực trạng nhận thức của chính
trẻ em về quyền và bổn phận của mình. Trên cơ sở đó đề tài khuyến nghị và
đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao nhận thức của học sinh
THCS về quyền và bổn phận của trẻ em.
II. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Phí Công Minh LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

13
1. Trên thế giới việc nghiên cứu soạn thảo Công ƣớc của LHQ về quyền
trẻ em đƣợc tiến hành trong 10 năm (từ năm 1979 là năm Quốc tế thiếu nhi
đến năm 1989) và căn bản dựa vào Tuyên ngôn của LHQ về quyền trẻ em
năm 1989. Nhóm công tác của LHQ đặc trách công việc nghiên cứu soạn thảo
gồm đại diện của 43 nƣớc thành viên và 50 tổ chức phi chính phủ. Công ƣớc
đƣợc Đại Hội đồng LHQ thông qua ngày 20-11-1989 và mở cho các nƣớc ký
ngày 26-1-1990. Công ƣớc có hiệu lực và là luật quốc tế kể từ ngày 2-9-1990.
Tính đến ngày 10- 5-2002, Công ƣớc đã có 192 quốc gia là thành viên. Đây là
Công ƣớc quốc tế có số nƣớc tham gia lớn hơn bất cứ Công ƣớc nào về quyền
con ngƣời trong lịch sử. Tính ra đã có tới 96% số trẻ em trên thế giới đang ở
những nƣớc đã phê chuẩn hoặc tham gia Công ƣớc. Việt Nam là nƣớc thứ hai
trên thế giới và là nƣớc đầu tiên ở Đông Nam Á ký phê chuẩn Công ƣớc.
Về nội dung, Công ƣớc đƣợc chia làm 3 phần chính:
Phần mở đầu nêu bật những nguyên tắc cơ bản cơ bản của LHQ thể
hiện trong các tuyên ngôn, tuyên bố về quyền con ngƣời. Công ƣớc khẳng
định thực tế trẻ em do dễ bị tổn thƣơng nên cần đƣợc chăm sóc và bảo vệ đặc
biệt.
Phần 1 (gồm 41 điều) quy định các quyền trẻ em và trách nhiệm của các
quốc gia thành viên trong việc thực hiện các quyền này.
Phần 2 (từ điều 41 đến điều 45) và phần 3 (từ điều 46 đến 54) là các
điều khoản nhằm thực hiện Công ƣớc.
Với 54 điều khoản, Công ƣớc về quyền trẻ em ra đời đã bổ sung một

văn kiện vào tập hợp các văn bản của LHQ về quyền con ngƣời. Công ƣớc là
văn bản quốc tế đầu tiên đề cập toàn diện và xác định về mặt pháp lý các
quyền trẻ em theo hƣớng tiến bộ. Công ƣớc đã đƣa ra một định nghĩa về
quyền trẻ em cho tất cả các nƣớc trên thế giới, trong dó không phân biệt hệ
thống chính trị, truyền thống văn hoá, tín ngƣỡng và tập tục xã hội. Công ƣớc
đƣa một tập hợp chuẩn mực đƣợc tất cả mọi ngƣời, mọi quốc gia chấp nhận về
phúc lợi cho trẻ em và tạo một khung pháp lý mà qua đó các quốc gia có thể
đánh giá đƣợc sự tiến bộ của mình trong việc bảo đảm đến mức tối đa sự sống
còn, sự phát triển về thể chất, tinh thần, đạo đức và xã hội cho trẻ em.
Phí Công Minh LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

14
2. Ở Việt Nam, vấn đề trẻ em luôn là mối quan tâm đặc biệt của Đảng,
Nhà nƣớc và nhân dân ta. Chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em chính là ý thức
cách mạng thƣờng trực của Đảng và Nhà nƣớc ta. Vì thế năm 1979 Nhà nƣớc
Việt Nam đã ban hành “Pháp lệnh BV, CS & GD trẻ em. Đến năm 1991 Luật
BV, CS & GD trẻ em ra đời trên cơ sở kế thừa và phát huy những thành quả
10 năm thực hiện Pháp lệnh BV, CS & GD trẻ em (1979 -1989), quán triệt
quan điểm chăm lo, phát triển con ngƣời từ tuổi ấu thơ của Chủ tịch Hồ Chí
Minh, của Đảng và Nhà nƣớc, phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của pháp
luật quốc tế về quyền trẻ em. Luật BV, CS & GD trẻ em có 5 chƣơng thì đã
dành trọn vẹn chƣơng III để nêu bật các quyền cơ bản và bổn phận của trẻ em
Việt Nam, trong đó từ điều 5 đến điều 12 dành nói về quyền, và từ điều 13 đến
điều 15 nói về bổn phận và trách nhiệm của trẻ em.
Trên thực tế, trẻ em còn là đối tƣợng nghiên cứu của nhiều nhà khoa
học thuộc các lĩnh vực khác nhau ở trong nƣớc và trên thế giới nhƣ xã hội học,
tâm lý học, tội phạm học
Trên cơ sở này, nhiều đề tài khoa học, nhiều cuộc hội thảo các cấp đã
đƣợc triển khai. Trong đó, đáng chú ý là:
- Đề tài “Lứa tuổi vị thành niên thực trạng tình hình, các vấn đề xã hội

và giải pháp” do tiến sĩ Chu Xuân Việt làm chủ nhiệm (tháng 4 năm 1996). Đề
tài đã đánh giá đúng thực trạng tình hình lứa tuổi vị thành niên đồng thời kiến
nghị các giải pháp đồng bộ với Đảng, Nhà nƣớc và xã hội nhằm tăng cƣờng
giáo dục, bồi dƣỡng lứa tuổi vị thành niên thành lớp ngƣời mới theo mục tiêu
của Đảng, đáp ứng yêu cầu của đất nƣớc trong giai đoạn mới. Đề tài cũng có
đề cập tới tình hình tệ nạn xã hội trong thanh thiếu niên và vấn đề tội phạm vị
thành niên. Tuy nhiên vấn đề nhận thức quyền và bổn phận của trẻ em chƣa đƣợc
tác giả đề cập tới.
- Trong thời gian qua cũng có nhiều cuộc hội thảo đƣợc tiến hành nhƣ
Hội thảo “Phòng chống buôn bán phụ nữ và trẻ em ở các tỉnh phía Bắc Việt
Nam” do Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam tổ chức (Hà Nội ngày 30/01/1997).
Hội thảo “Phòng chống kinh doanh tình dục trẻ em” do Trung ƣơng Hội Liên
hiệp Thanh niên Việt Nam chủ trì (TP Hồ Chí Minh ngày 14/4/1998).
Phí Công Minh LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

15
- Hội nghị bàn tròn về lao động trẻ em do Chính phủ Hà Lan và ILO (tổ
chức lao động quốc tế) tổ chức tại Amxtecdam trong hai ngày 26 và 27 tháng
2 năm 1997 nhằm thảo luận tập trung vào những hình thức lao động độc hại
và bóc lột nhất với trẻ em là cƣỡng bức lao động nhƣ nô lệ, sử dụng trẻ em
trong mại dâm, buôn bán ma tuý hay bất kỳ hình thức nào khác ảnh hƣởng đến
việc học tập của trẻ em.
- Hội nghị quốc tế về lao động trẻ em do UNICEF (Quỹ nhi đồng LHQ)
và ILO tổ chức tại Na Uy ngày 27/10/1997.
Đây là hội nghị thế giới đầu tiên thảo luận về vấn đề lao động trẻ em và
đồng thời thông qua chƣơng trình hành động toàn diện về lao động trẻ em để
phấn đấu không còn tồn tại vấn đề lao động trẻ em vào thiên niên kỷ tới. Các
Hội nghị và Hội thảo trên tuy đề cập rất nhiều đến vấn đề xâm hại quyền trẻ
em về lao động và tình dục, song chƣa đề cập đến vấn đề nhận thức về quyền
và bổn phận của trẻ em, nhất là chƣa đề cập đến nhận thức của đối tƣợng trẻ

em là học sinh trƣờng THCS.
- Đáng chú ý là ngày 12 tháng 11 năm 2001, Hội thảo khoa học “Mối
quan hệ giữa quyền và bổn phận của trẻ em - Thực trạng và giải pháp” đã
đƣợc tổ chức tại Hà Nội do Uỷ ban BV, CS & GD trẻ em cùng với Viện
nghiên cứu thanh niên chủ trì. Mục đích của Hội thảo khoa học này là nhằm
đánh giá việc thực hiện quyền và bổn phận của trẻ em và làm rõ mối quan hệ
giữa quyền và bổn phận trong quá trình thực hiện Luật. Đồng thời, phân tích
rõ thực trạng và đề ra những giải pháp cụ thể về vấn đề này.
Với 22 báo cáo tham luận tại Hội thảo, các nhà khoa học đã đề cập tới
những khía cạnh lý luận và thực tiễn về mối quan hệ giữa quyền và bổn phận
của trẻ em, những vấn đề đặt ra trong thực tiễn, điều kiện để thực hiện quyền
và bổn phận của trẻ em trong giai đoạn hiện nay.
Trong báo cáo tham luận “Một số suy nghĩ về những điều cần sửa đổi
bổ sung để thực hiện quyền và bổn phận của trẻ em (qua Chương trình hành
động quốc gia vì trẻ em Việt Nam 1991 - 2001 và 2001 -2010)”, TS. Nguyễn
Thị Lan (Uỷ ban BV, CS & GD trẻ em) khẳng định: “Việc quy định về quyền
gắn với bổn phận của trẻ em trong Luật BV, CS & GD trẻ em (1991) là một
Phí Công Minh LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

16
nét phát triển độc đáo giá trị văn hóa Việt Nam trong thực hiện Công ước
quốc tế về quyền trẻ em”.
TS. Nguyễn Thị Lan còn khẳng định, Chƣơng trình hành động quốc gia
vì trẻ em Việt Nam 1991 - 2000 đã cụ thể hoá các điều khoản của Luật BV,
CS & GD trẻ em, nhằm làm cho các quyền và bổn phận của trẻ em đƣợc thực
hiện trong thực tế. Bên cạnh việc đánh giá những thành tựu đã đạt đƣợc trong
10 năm thực hiện Luật, tác giả đã nêu những vấn đề còn tồn tại cũng nhƣ
nhiều vấn đề mới nảy sinh. Tác giả nhận định, quy định của Luật chƣa chặt
chẽ, hầu hết các điều khoản chƣa có các chế tài đảm bảo cho việc thực hiện;
quy định về trách nhiệm của gia đình chƣa đầy đủ; chƣa có cơ chế rõ ràng về

trách nhiệm của chính quyền địa phƣơng đối với việc phòng ngừa và hỗ trợ
các gia đình thực hiện tốt các quyền và bổn phận của trẻ em; vai trò của Nhà
nƣớc còn mang tính bao cấp, chƣa rõ ràng Tác giả còn đề cập đến việc thực
hiện không nghiêm Luật BV, CS & GD trẻ em ở một số nơi. Vấn đề này
không chỉ đối với Luật mà đối với các bộ luật khác có liên quan đến vấn đề
này nhằm đảm bảo quyền và bổn phận của trẻ em cũng có hiện tƣợng này.
Bàn về khía cạnh lý luận của mối quan hệ giữa quyền và bổn phận của
trẻ em, TS. Hoàng Thế Liên và Ths. Hoàng Đức Thắng (Viện nghiên cứu khoa
học Pháp lý - Bộ Tƣ pháp) đã đƣa ra một số nhận định về vấn đề này nhƣ sau:
- Về mặt thuật ngữ: “bổn phận” mà Luật sử dụng có ý nhấn mạnh tính
đạo lý truyền thống hơn là tính pháp lý. Trong mối quan hệ giữa quyền và bổn
phận của trẻ em, nghĩa đạo lý rất sâu sắc. Khi thực hiện bổn phận của mình trẻ
em đã tham gia vào quan hệ mang nặng trách nhiệm đạo lý hơn là trách nhiệm
pháp lý.
- Quyền và bổn phận của trẻ em có tính tƣơng hỗ lẫn nhau.
- Mối quan hệ giữa quyền và bổn phận của trẻ em hiện nay thể hiện đậm
nét tính ƣu việt của chế độ XHCN và truyền thống văn hóa của dân tộc Việt
Nam.
Về mặt thực tiễn, tác giả đã đƣa ra một số ý kiến liên quan đến việc điều
chỉnh pháp lý đối với mối quan hệ giữa quyền và bổn phận của trẻ em nhƣ;
phƣơng thức thực hiện quyền và bổn phận của trẻ em, khi xem xét mối quan
Phí Công Minh LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

17
hệ biện chứng giữa quyền và bổn phận của trẻ em cần chú ý tới sự phát triển
của lứa tuổi, giới tính, hoàn cảnh kinh tế, vị trí địa lý. Cần quan tâm hơn nữa
tới quyền lợi vật chất và quyền lợi tinh thần của trẻ, chú ý tói môi trƣờng để
thực hiện quyền và bổn phận của trẻ em trong điều kiện kinh tế - xã hội
chung
Đặc biệt, Hội thảo lần này còn có gƣơng mặt của 15 đại biểu của trẻ em

đến từ các địa phƣơng khác nhau, có những em là con ngoan trò giỏi nhƣng
cũng có em do hoàn cảnh éo le đã phải bƣơn chải tự lo từng bữa ăn cho bản
thân và gia đình từ nhỏ. Em Phạm Hoàng Anh, học sinh trƣờng bán công Hai
Bà Trƣng, huyện Mê Linh, tỉnh Vĩnh Phúc với báo cáo “Chúng em kính mong
các cấp ủy đảng, nhà nước, các tổ chức xã hội hãy quan tâm đến các bạn còn
gặp hoàn cảnh khó khăn” đã tha thiết mong các tổ chức, cá nhân quan tâm
đến các bạn trẻ là trẻ em khuyết tật, trẻ em cơ nhỡ không nơi nƣơng tựa, trẻ
em bị bóc lột sức lao động. Còn em Phạm Mai Hƣơng - trẻ em lang thang
đƣờng phố Hà Nội, đang theo học lớp dạy nghề ở 42 Hàng Mành, Hà Nội thì
báo cáo “về vấn đề “trẻ em đường phố nghĩ gì về việc thực hiện quyền và bổn
phận trẻ em”. Em nhấn mạnh: còn rất nhiều trẻ em lang thang đƣờng phố, vừa
phải đi làm suốt ngày, không có nơi ngủ trọ phải ngủ ngoài đƣờng, bị bắt nạt
không đƣợc bảo vệ trƣớc các tệ nạn xã hội
Sau khi nghe báo cáo tham luận của các đại biểu xung quanh vấn đề
mối quan hệ giữa quyền và bổn phận trẻ em, những suy nghĩ, bức xúc của trẻ
em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, Hội thảo đã đi đến nhất trí những vấn đề
sau:
- Xã hội cần có sự thống nhất chung về việc nhận thức mối quan hệ
giữa quyền và bổn phận của trẻ em. Cần đánh giá những thành tựu và hạn chế
trong 10 năm thực thi Luật BV, CS & GD trẻ em.
- Cần phải đặc biệt nhấn mạnh tới vai trò của gia đình, coi gia đình là
một nhân tố quan trọng để phát huy quyền và bổn phận của trẻ em, là chỗ dựa
cho việc thực hiện quyền và bổn phận đó. Kiến nghị Đảng và Nhà nƣớc có
chủ trƣơng nâng cao vị trí, vai trò của gia đình.
Phí Công Minh LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

18
- Đề nghị các cấp ủy Đảng, các cấp chính quyền quan tâm hơn nữa đến
trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, trẻ em ở vùng sâu vùng xa, biêu giới
hảo đảo.

- Đặc biệt hội thảo đề nghị cần tăng cƣờng hơn nữa việc tuyên truyền
nâng cao nhận thức về các quyền của trẻ em cho các em biết để có thể tự bảo
vệ mình, trong đó nhấn mạnh đến việc nâng cao nhận thức của trẻ em là học
sinh trong các trƣờng tiểu học và THCS.
Nói về bổn phận của trẻ em, ngƣời xƣa cũng đã biết dạy cho trẻ nhỏ biết
bổn phận và trách nhiệm đối với đất nƣớc, quê hƣơng, làng xóm, đạo ứng xử
trong các mối quan hệ giữa gia đình, nhà trƣờng; quan hệ thầy trò, bè bạn, anh
em. Những bổn phận và trách nhiệm này đƣợc xây dựng thành những nguyên
tắc chung về luân thƣờng đạo lý và lễ nghĩa đời này nối tiếp đời kia làm theo.
Thực tế hiện nay cho thấy, khi chúng ta thực hiện tốt các quyền của trẻ
em thì chúng ta cũng cần phải giáo dục thế nào để trẻ em biết và thực hiện bổn
phận của mình; tạo cho chúng có ý thức quan tâm và sớm nhận thức đƣợc
trách nhiệm dù nhỏ của mình đối với gia đình, cộng đồng và xã hội. Chúng ta
cũng cần phải thống nhất những nội dung tạo thành các quy chuẩn về bổn
phận của trẻ em trong giai đoạn hiện nay. Có thể thấy, trong những điều kiện
của xã hội hiện đại, rất nhiều những giá trị truyền thống vẫn còn tồn tại.
Chẳng hạn nhƣ bổn phận của trẻ em đối vói ông bà, cha mẹ, anh em, bổn phận
với làng xóm quê hƣơng, cộng đồng bổn phận phải học hành chăm chỉ, có ý
thức lao động, phụ giúp công việc gia đình. Qua trao đổi, đa số trẻ em Việt
Nam, đặc biệt là các em sống ở nông thôn, ở vùng sâu vùng xa vẫn thực hiện
tốt bổn phận của mình, nhƣng đời sống xã hội trong giai đoạn phát triển mới
của đất nƣớc cũng làm nảy sinh không ít những trẻ em không biết bổn phận
của mình đối với ông bà, cha mẹ Rất nhiều trẻ em từ khi còn nhỏ tuổi không
đƣợc dạy bảo uốn nắn kịp thời nên đến khi trƣởng thành đã trở thành những
còn ngƣời không có nhân cách, vi phạm đạo đức, gây nhức nhối cho cộng
đồng và xã hội. Đây cũng chính là điều trăn trở của các bậc cha mẹ, các thày
cô giáo và rộng hơn là những ngƣời lãnh đạo đất nƣớc. Vì vậy, chúng ta phải
quan tâm hơn nữa đến việc giáo dục bổn phận cho trẻ em ngay từ khi các em
còn nhỏ tuổi để các em tự ý thức đƣợc trách nhiệm của mình trƣớc gia đình và
Phí Công Minh LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC


19
xã hội. Từ đó, các em sẽ có những suy nghĩ và hành động đúng đắn để trở
thành những ngƣời công dân có ích cho đất nƣớc.
Có thể nói, giải quyết tốt mối quan hệ giữa quyền và bổn phận của trẻ
em là một điều không phải dễ dàng. Sự nhận thức sâu sắc và đầy đủ về trách
nhiệm và bổn phận đối với gia đình, cộng đồng, xã hội sẽ là cơ sở cho những
hành động tự giác của trẻ. Vì vậy, việc giáo dục cho trẻ em về quyền và bổn
phận của chúng chính là việc làm hết sức cần thiết để nuôi dƣỡng và phát triển
nguồn nhân lực cho tƣơng lai của đất nƣớc.
- Toạ đàm về “Đánh giá nhận thức và dư luận xã hội qua 10 năm thực
hiện Luật BV, CS & GD trẻ em”.
Luật BV, CS & GD trẻ em đã đi vào cuộc sống 10 năm và đã có những
tác động tích cực đến sự phát triển toàn diện cho trẻ em Việt Nam. Trung tâm
Truyền thông - vận động xã hội thuộc Uỷ ban Bảo vệ và chăm sóc trẻ em Việt
Nam đã điều tra khảo sát và có kết quả tổng hợp về đánh giá nhận thức và dƣ
luận xã hội qua 10 năm thực hiện Luật BV, CS & GD trẻ em.
Theo kết quả nghiên cứu trong đề tài khoa học “Vị trí, vai trò của gia
đình và cộng đồng trong sự nghiệp BV, CS & GD trẻ em” (GS.TS Phạm Tất
Dong làm Chủ nhiệm), tỷ lệ ngƣời dân biết Luật BV, CS & GD trẻ em là
tƣơng đối lớn, trung bình là 80,6%, trong đó tỷ lệ biết Luật ở miền núi và
trung du cao hơn khu vực đồng bằng và gần đô thị. Điều này cho thấy việc
tuyên truyền, phổ biến về Luật chƣa đựơc thực hiện thƣờng xuyên, liên tục.
Đa số ngƣời đƣợc hỏi đều tiếp nhận Luật qua kênh ti vi, đài và báo chí.
Có thể khẳng định, Luật BV, CS GD trẻ em đã có tác động lớn đến quá
trình nhận thức của các đối tƣợng cán bộ, nhân dân. Đánh giá về mức độ quan
tâm, giáo dục con cái sau khi biết Luật cũng nhƣ mức độ quan trọng của các
điều khoản trong Công ƣớc cho thấy sự nhận biết về các quyền quan trọng và
cơ bản của trẻ em tƣơng đối cao và đồng đều. Các quyền về đƣợc học hành,
đƣợc sống trong môi trƣờng gia đình, đƣợc sống và tồn tại đƣợc đánh giá cao

nhất (trên 70%), đặc biệt là việc học hành (90%). Về việc tham gia các phong
trào, các cuộc vận động xã hội cũng đƣợc quan tâm nhiều hơn kể từ khi có
Phí Công Minh LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

20
Luật, trong đó các phong trào xã hội lại đƣợc chú ý nhiều hơn phong trào kinh
tế.
Nhận thức về quyền đƣợc phát triển của trẻ, phần lớn ngƣời trả lời đã thể
hiện là có sự hiểu biết về quyền và trách nhiệm thuộc nhóm quyền đƣợc đi học
và đi học đúng độ tuổi của trẻ em: 96,69% ý kiến của ngƣời lớn, 95,83% ý kiến
của trẻ em cho rằng lúc 6 tuổi trẻ em phải đƣợc vào học lớp 1; 92,72% ý kiến
của ngƣời lớn, 77,78% ý kiến của trẻ em cho rằng các bậc cha mẹ sẽ là những
ngƣời vi phạm pháp luật nếu trẻ ở độ tuổi 6-14 trong gia đình không đƣợc gia
đình tạo điều kiện để các em đến trƣờng khiến các em không đƣợc đi học.
Đánh giá về tổ chức quan tâm nhiều hơn đến nhu cầu của trẻ em cho
thấy, vai trò của tổ chức Đảng, chính quyền, ban BV, CS & GD trẻ em ở cơ sở
khá cao. Ở khu vực nông thôn, vai trò này đƣợc đánh giá cao hơn so với vai
thành thị. Vai trò của Đảng vẫn đƣợc đánh giá là cao nhất. Ngƣợc lại các tổ
chức đoàn thể, tổ chức quốc tế, các doanh nghiệp lại đƣợc biết đến ở thành thị
nhiều hơn ở nông thôn, trong khi các hoạt động của các chƣơng trình, dự án
trên thực tế lại ƣu tiên nhiều hơn cho khu vực nông thôn. Điều này có nghĩa là
việc tuyên truyền nói chung, tuyên truyền về kết quả, mục tiêu vì trẻ em nói
riêng chƣa đạt hiệu quả cao ở nông thôn.
Theo số liệu khảo sát xã hội học về nhận thức và dƣ luận xã hội qua 10
năm thực hiện Chƣơng trình Hành động quốc gia vì trẻ em Việt Nam (TS.
Trịnh Hoà Bình), lý do trẻ em đƣợc quan tâm chăm sóc là do chủ trƣơng đúng
đắn của Đảng, Nhà nƣớc và sự chỉ đạo sát sao của Uỷ ban các cấp (69,7%), do
các gia đình đã nhận thức đƣợc rõ và sâu sắc yêu cầu của công tác trẻ em
(56,6%), do đời sống kinh tế - xã hội phát triển (55,5%), do công tác tuyên
truyền - vận động xã hội phát huy đƣợc hiệu quả tốt (48,8%).

Tuy nhiên, cũng nhƣ các đề tài, chƣơng trình và dự án khác, kết quả
khảo sát trên đây chỉ tập trung vào các đối tƣợng là bố mẹ trong gia đình chứ
chƣa có điều kiện khảo sát con cái là học sinh nói chung và học sinh các
trƣờng THCS nói riêng.
Nhƣ vậy, sự quan tâm của Đảng, Nhà nƣớc, các đoàn thể và các tổ chức
xã hội đến công tác BV, CS & GD trẻ em trong thời gian qua đã có những kết
Phí Công Minh LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

21
quả đáng khích lệ. Luật BV, CS & GD trẻ em đã đƣợc dƣ luận xã hội đánh giá
cao, có tác động tích cực đến sự phát triển cơ bản của trẻ em Việt Nam cả về
tinh thần và thể chất. Tuy vậy, để Luật BV, CS & GD trẻ em thực sự có ý
nghĩa, thực sự đi vào cuộc sống, chúng ta cần phải tăng cƣờng sự lãnh đạo, chỉ
đạo của các cấp Uỷ Đảng, chính quyền Nhà nƣớc; tăng cƣờng nhận thức trách
nhiệm và kỹ năng của gia đình; lồng ghép các mục tiêu cải thiện cuộc sống,
phát triển trẻ em với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội; duy trì, phát huy,
phát triển kết quả truyền thông, vận động xã hội phải đƣợc coi là các biện
pháp chiến lƣợc để thực hiện quyền trẻ em và Luật BV, CS & GD trẻ em. Bên
cạnh việc tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Bộ luật này, chúng ta còn đạt đƣợc
nhiều tiến bộ trong việc tổ chức thực hiện pháp luật và công tác kiểm tra, giám
sát những vi phạm pháp luật liên quan đến trẻ em; những điều khoản của Luật
và Nghị định 374/HĐBT đã tạo điều kiện thuận lợi để huy động sức mạnh
tổng hợp của Nhà nƣớc, gia đình và xã hội; vì sự nghiệp BV, CS & GD trẻ em
luôn luôn đƣợc coi là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lƣợc của toàn Đảng, toàn
dân. Đặt trọng tâm vào việc phát triển trẻ em toàn diện về thể chất, trí tuệ, đạo
đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc, để các thế hệ tƣơng lai thực sự là chủ
nhân đất nƣớc, là ngƣời thực hiện đầy đủ giấc mơ của cha ông ta từ ngàn xƣa
là xây dựng một đất nƣớc giàu mạnh, bình đẳng và tiến bộ.
Ngoài ra còn nhiều những nghiên cứu khác về trẻ em bị xâm hại, trẻ em
thiệt thòi nhƣ trẻ em lang thang, lao động trẻ em v.v Các nghiên cứu đó đã có

những thành công nhất định trong việc phân tích, đánh giá tình hình trẻ em.
Song thời gian qua những nghiên cứu về quyền trẻ em cũng nhƣ nhận thức của
chính trẻ em về quyền và bổn phận của trẻ em còn chƣa nhiều, nhất là đối với
học sinh các trƣờng THCS. Điều đó đòi hỏi phải có những nghiên cứu sâu về
đối tƣợng này trong giai đoạn hiện nay.
III. Ý NGHĨA KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI
1. Ý nghĩa khoa học
Nhận thức là một quá trình từ thấp đến cao, từ chƣa hoàn thiện đến
hoàn thiện. Nhận thức đúng sẽ có hành vi ứng xử đúng theo các quy định về
quyền và bổn phận của trẻ em. Việc nghiên cứu đề tài này sẽ chỉ ra một cách
Phí Công Minh LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

22
khoa học quá trình nhận thức của học sinh THCS về quyền và bổn phận của
trẻ em. Trên cơ sở đó sẽ đề xuất những giải pháp có tính khoa học nhằm nâng
cao nhận thức của các em về quyền và bổn phận của mình.
2. Ý nghĩa thực tiễn
Việc nghiên cứu đề tài sẽ chỉ ra thực trạng nhận thức của trẻ em học
sinh THCS về quyền và bổn phận của mình và chỉ ra những nguyên nhân cơ
bản dẫn đến thực trạng tình hình đó.
Ngoài ra, nghiên cứu này sẽ đề xuất một số nội dung và hình thức giúp
cho những ngƣời làm công tác truyền thông nói chung và truyền thông trong
nhà trƣờng nói riêng có đƣợc cơ sở thực tế để tuyên truyền đến các tầng lớp
dân cƣ, nhất là trẻ em THCS nhằm nâng cao nhận thức về quyền và bổn phận
của chính các em.
IV. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Mục đích chính của luận văn này là nghiên cứu thực trạng nhận thức
của nhóm trẻ em học sinh THCS về quyền và bổn phận của trẻ em. Trên cơ sở
đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao nhận thức để góp phần thay đổi
thái độ và định hƣớng hành vi của nhóm trẻ em này về quyền và bổn phận.

V. ĐỐI TƢỢNG, PHẠM VI, MẪU NGHIÊN CỨU
1. Đối tƣợng nghiên cứu: Nhận thức của trẻ em học sinh THCS về
quyền và bổn phận của trẻ em.
2. Khách thể nghiên cứu: - Các em học sinh THCS.
- Cán bộ quản lý; Giáo viên THCS.
- Cán bộ phụ trách Đội;
- Phụ huynh học sinh.
3. Phạm vi và địa bàn nghiên cứu: Đề tài tập trung nghiên cứu thực
trạng tình hình nhận thức của học sinh THCS về quyền và bổn phận của trẻ
em tại một số trƣờng THCS trong nội thành và ngoại thành thành phố Hà Nội.
4. Mẫu khảo sát:
- Điều tra bằng bảng hỏi 563 em học sinh đang học trong các trƣờng
THCS ở Hà Nội.
Phí Công Minh LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

23
- Phỏng vấn sâu 12 ngƣời, trong đó có cán bộ quản lý, giáo viên, cán bộ
phụ trách Đoàn Đội; học sinh và phụ huynh học sinh.
VI. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Cơ sở phƣơng pháp luận
Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử đƣợc sử
dụng là phƣơng pháp luận cơ bản dùng để nghiên cứu thực trạng nhận thức
của trẻ em học sinh về quyền và bổn phận của trẻ em.
2. Phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể
2.1. Phương pháp chọn mẫu
Trong luận văn này các bƣớc tiến hành chọn mẫu đƣợc thực hiện nhƣ sau:
Bước 1: Từ đơn vị đầu tiên là các thành phố, thị xã phía Bắc chọn ra
thành phố Hà Nội.
Bước 2: Sau đó chọn tiếp các trƣờng THCS đóng tại đại bàn thành phố
Hà Nội. Từ các trƣờng đó chọn tiếp 4 trƣờng theo các tiêu chí: khu vực nội

thành, khu vực ngoại thành; chọn các trƣờng có phong trào giáo dục đạt tiên
tiến và trung bình. Cụ thể khu vực nội thành chọn hai trƣờng là trƣờng THCS.
Thành Công (quận Đống Đa) và trƣờng THCS Chƣơng Dƣơng Độ (quận
Hoàn Kiếm); khu vực ngoại thành chọn hai trƣờng là THCS Cổ Nhuế và
THCS Xuân Đỉnh thuộc huyện Từ Liêm
Bước 3: Từ các trƣờng THCS lại chọn ra các lớp 7 - 8 - 9.
2.2. Các phương pháp xã hội học
2.2.1. Khảo sát bằng phiếu hỏi với 563 học sinh từ lớp 7 đến lớp 9.
2.2.2. Phỏng vấn sâu, toạ đàm với một số học sinh, cán bộ quản lý, cán
bộ Đoàn, Đội, các phụ huynh học sinh các trƣờng THCS ở Hà Nội.
2.2.3. Phƣơng pháp sƣu tầm, tổng hợp và phân tích tài liệu, tƣ liệu thứ
cấp từ các ban, ngành, cơ quan có liên quan đến công tác giáo dục, chăm sóc
và bảo vệ trẻ em ở Hà Nội.
2.2.4. Phƣơng pháp quan sát: quan sát các hoạt động của các CLB về
quyền trẻ em tại Hà Nội.
Phí Công Minh LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

24
VII. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC
Mặc dù Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em, Công ƣớc quốc tế
về quyền trẻ em và các quy phạm pháp luật khác liên quan đến quyền và bổn
phận của trẻ em đã đƣợc ban hành và đi vào cuộc sống từ nhiều năm nay, song
nhận thức của học sinh THCS về quyền và bổn phận của trẻ em còn có nhiều
hạn chế và chƣa đầy đủ.
VIII. KHUNG LÝ THUYẾT











ĐIỀU KIỆN KINH TẾ - XÃ HỘI
NHÀ TRƢỜNG
GIA ĐÌNH
CỘNG ĐỒNG
NHẬN THỨC CỦA TRẺ EM
VỀ QUYỀN
VỀ BỔN PHẬN
Quyền
đƣợc
sống
còn…
Quyền
đƣợc
tôn
trọng
Quyền
đƣợc
học
tập…
Quyền
đƣợc
vui
chơi…
Quyền
đƣợc

tham
gia…
Yêu
quý,
hiếu
thảo…
Chăm
chỉ học
tập,
rèn…
Tôn
trọng
pháp
luật…
Yêu
quê
hƣơng
, đất…
Không
đánh
bạc,
uống…
Phí Công Minh LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

25
Phần thứ hai
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
Chƣơng I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM CÔNG CỤ
1. Khái niệm nhận thức

Theo từ điển Bách khoa Việt Nam (Hoàng Phê chủ biên) định nghĩa:
- Nhận thức là quá trình hoặc kết quả phản ánh và tái hiện thực vào
trong tƣ duy. Là quá trình con ngƣời nhận biết, hiểu biết thế giới khách quan
hoặc kết quả của quá trình đó
(1)
.
- Là nhận ra và biết đƣợc, hiểu đƣợc về một ai đó, một vấn đề hoặc hiện
tƣợng nào đó.
2. Khái niệm trẻ em
Trẻ em là đối tƣợng của nhiều ngành khoa học khác nhau. Tuỳ theo nội
dung và quan điểm tiếp cận, tuỳ theo góc độ nhìn nhận hay cấp độ đánh giá
mà đƣa ra những định nghĩa hay khái niệm về trẻ em. Có thể có nhiều cách
tiếp cận trên các bình diện khác nhau. Có thể tiếp cận về mặt sinh học, tâm lý
học, y học, xã hội học hoặc tiếp cận về mặt văn hoá, dân tộc, lao động, pháp
lý, v.v Từ những khía cạnh tiếp cận đi đến những khái niệm hoặc định nghĩa
khác nhau về trẻ em và các nhóm trẻ em. Tuy vậy, trong các khái niệm và các
định nghĩa về trẻ em cũng có những điểm chung và thống nhất, đó là đều căn
cứ vào tuổi đời để xác định khái niệm trẻ em và số lƣợng trẻ em.
Theo điều 1 Công ƣớc quốc tế về Quyền trẻ em thì trẻ em đƣợc xác
định “là ngƣời dƣới 18 tuổi, trừ khi pháp luật quốc gia công nhận tuổi thành
niên sớm hơn”. Khái niệm này đã lấy tuổi đời để định nghĩa về trẻ em và lấy
mốc dƣới 18 tuổi. Khái niệm này cũng đƣợc mở rộng để các quốc gia thành
viên có thể quy định mốc tuổi dƣới 18, tuỳ theo đặc điểm kinh tế, văn hoá, xã
hội, tập quán dân tộc của quốc gia đó.
Ở Việt Nam xuất phát từ cách tiếp cận khác nhau của các ngành khoa
học cũng nhƣ từ bản chất chính trị - xã hội và thực tiễn truyền thống văn hoá,

(1)
Từ điển Bách khoa Việt Nam - Hoàng Phê chủ biên - NXB KHXH, Hà Nội - 1999.
Phí Công Minh LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC


26
truyền thống dân tộc và khả năng nguồn lực của Nhà nƣớc mà đƣa ra khái niệm
cụ thể về quyền trẻ em và các nhóm trẻ em. Ví dụ: Tiếp cận từ truyền thống văn
hoá, từ góc độ xây dựng chính sách nguồn lực con ngƣời trong tƣơng lai, Luật
BV, CS & GD trẻ em (1991) quy định “Trẻ em là ngƣời dƣới 16 tuổi”.
Dƣới góc độ nguồn lực lao động Bộ luật lao động (1995) quy định:
những ngƣời từ 15 tuổi trở lên có giao kết hợp đồng lao động gọi là ngƣời lao
động. Dƣới góc độ pháp lý Bộ luật dân sự (1995) quy định: Những ngƣời dƣới
18 tuổi là ngƣời chƣa thành niên. Mới đây nhất tại cuộc Hội thảo liên ngành
về “Cơ sở khoa học và thực tiễn để quy định tuổi trẻ em trong Luật BV, CS &
GD trẻ em” trong tổng số 28 ý kiến tham luận của các Giáo sƣ, Tiến sĩ, các
nhà quản lý, lãnh đạo ở các cơ quan và các ngành khoa học khác nhau thì có 6
ý kiến quan niệm trẻ em là ngƣời dƣới 16 tuổi (chiếm tỷ lệ 21%); 16 ý kiến
quan niệm trẻ em là ngƣời dƣới 18 tuổi (chiếm tỷ lệ 58%). Kết quả cuộc điều
tra xã hội học do phòng Nghiên cứu thiếu nhi, Viện Nghiên cứu thanh niên
tiến hành vào tháng 4 và tháng 5 năm 2002 khi hỏi ý kiến 541 em học sinh
Trung học cơ sở ở 3 tỉnh, Thành phố là: Hà Nội, Hải Dƣơng, Ninh Bình về độ
tuổi trẻ em trong pháp luật Việt Nam và pháp luật quốc tế thì ý kiến trả lời
cũng rất khác nhau: Có 38,1% số em đƣợc hỏi đồng ý trẻ em là ngƣời dƣới 16
tuổi; 61,9% đồng ý dƣới 18 tuổi. Trong cuộc khảo sát gần đây nhất của đề tài
này (tháng 1 và tháng 2 năm 2003) với 563 em là học sinh các trƣờng trung
học cơ sở ở Hà Nội thì thấy: có tới 304 em (chiếm 54%) đồng ý trẻ em là
ngƣời dƣới 16 tuổi; 234 em (chiếm 41,6%) đồng ý dƣới 18 tuổi; có 25 em
(chiếm 4,4%) đề nghị trẻ em là ngƣời dƣới 15 tuổi hoặc dƣới 17 tuổi.
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi thống nhất sử dụng khái
niệm trẻ em trong Luật bảo vệ chăm sóc và giáo dục trẻ em 1991, nghĩa là
“Trẻ em là ngƣời dƣới 16 tuổi”.
Nhƣ vậy, khái niệm trẻ em đƣợc hiểu trƣớc hết đó là một con ngƣời
đƣợc hƣởng mọi quyền lợi và mọi tự do đã đƣợc nêu ra trong Điều 1 Công

ƣớc quốc tế về Quyền con ngƣời mà “không bị bất cứ một sự phân biệt đối xử
nào về chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến, hoặc quan
điểm khác, nguồn gốc dân tộc và xã hội, tài sản, dòng dõi hoặc mối tƣơng
quan khác”.
Phí Công Minh LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

27
Tuy trẻ em là một con ngƣời, song đó là con ngƣời chƣa trƣởng thành
do còn non nớt về thể chất, trí tuệ chƣa phát triển cao, kinh nghiệm sống còn
ít, nên có quyền đƣợc chăm sóc sự sống, sự tồn tại và phát triển, đƣợc bảo vệ,
đƣợc học tập, đƣợc quyền tham gia Trong đó các quyền cơ bản của trẻ em
nhƣ: Quyền đƣợc sống và phát triển; quyền đƣợc khai sinh, quyền đƣợc sống
với cha mẹ, đƣợc đoàn tụ với gia đình, quyền đƣợc tự do tƣ tƣởng, tín ngƣỡng,
tôn giáo; quyền đƣợc bảo vệ đời tƣ, đƣợc tiếp xúc thông tin nhiều nguồn, đƣợc
bảo vệ khỏi bị áp bức bóc lột, tổn thƣơng về thể chất và tinh thần, quyền đƣợc
chăm sóc và nuôi dƣỡng khi bị tƣớc mất môi trƣờng gia đình; quyền đƣợc
hƣởng những sự chăm sóc đặc biệt đối với trẻ em bị khuyết tật về trí tuệ và thể
chất; quyền đƣợc hƣởng an toàn xã hội, đƣợc có mức sống để phát triển về thể
chất, trí tuệ, tinh thần, đạo đức và xã hội, đƣợc giáo dục; đƣợc nghỉ ngơi, giải
trí, vui chơi; đƣợc bảo vệ khỏi bị bóc lột kinh tế và công việc nguy hiểm, độc
hại; đƣợc bảo vệ chống lại việc sử dụng các chất ma tuý và an thần; đƣợc bảo
vệ chống bị bóc lột, cƣỡng bức lạm dụng về tình dục; đƣợc phục hồi về thể
chất, tâm lý và tái hoà nhập xã hội Nhƣ vậy, đòi hỏi cả Nhà nƣớc, cả gia
đình và cộng đồng phải có trách nhiệm đảm bảo những quyền và bổn phận cơ
bản của trẻ em cho trẻ em.
3. Khái niệm quyền trẻ em
Để hiểu khái niệm quyền trẻ em hay quyền của công dân là trẻ em ta đi từ
việc nghiên cứu khái niệm quyền. Từ điển Luật học định nghĩa khái niệm quyền
là: “Những việc mà một ngƣời đƣợc làm mà không bị ai ngăn cản, hạn chế”
(2)

.
Nói đến quyền là nói đến những điều những việc mà pháp luật hoặc xã
hội công nhận cho đƣợc hƣởng, đƣợc làm, đòi hỏi. Vậy quyền của công dân là
trẻ em là những điều, những việc mà pháp luật của Nhà nƣớc Việt Nam bảo
đảm cho mỗi trẻ em của mình đƣợc hƣởng, đƣợc làm, đƣợc đòi hỏi.
Trong phạm vi đề tài này, khái niệm quyền trẻ em có thể hiểu là những
điều những việc mà trẻ em đƣợc làm, đƣợc đòi hỏi theo quy định của Hiến
pháp và pháp luật.
4. Khái niệm bổn phận của trẻ em.

(2)
Từ điển luật học - NXB KHXH - Hà Nội, 1999
Phí Công Minh LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

28
Khái niệm bổn phận của trẻ em đƣợc hiểu nhƣ là nghĩa vụ của trẻ em đối
với Nhà nƣớc, gia đình xã hội. Tuy nhiên trong Luật BV, CS & GD trẻ em
không sử dụng thuật ngữ “nghĩa vụ” mà sử dụng thuật ngữ “bổn phận”. Đây là
nét đặc trƣng mang tính chất nhân đạo, nhân văn của pháp luật nƣớc ta. Xét ở
một khía cạnh nào đó, “bổn phận” hàm chứa tính chất “nghĩa vụ” nhƣng không
mang tính chất bắt buộc nhƣ một nghĩa vụ pháp lý. Thuật ngữ “bổn phận” chứa
đựng tính chất đạo lý, hƣớng thiện, giáo dục những thói quen ứng xử trong các
mối quan hệ cơ bản để hình thành lối sống và nhân cách cho trẻ em.
Điều 13, Luật BV, CS & GD trẻ em quy định; trẻ em có bổn phận:
1. Yêu quý, kính trọng, hiếu thảo với ông bà, cha mẹ, lễ phép với ngƣời
lớn tuổi, thƣơng yêu trẻ nhỏ, đoàn kết với bạn bè, giúp đỡ những ngƣời già
yếu, tàn tật, giúp đỡ gia đình làm nhƣng việc vừa sức với mình.
2. Chăm chỉ học tập, rèn luyện thân thể, tuân theo nội quy của nhà
trƣờng.
3. Tôn trọng pháp luật, thực hiện nếp sống văn minh, trật tự công cộng

và an toàn giao thông, giữ gìn của công, tôn trọng tài sản của ngƣời khác.
4. Yêu quê hƣơng, đất nƣớc, yêu đồng bào, có ý thức xây dựng và bảo
vệ tổ quốc Việt Nam XHCN.
Khoản 1 điều 14 của Luật BV, CS & GD trẻ em nghiêm cấm trẻ em không
được đánh bạc, uống rượu, hút thuốc và dùng các chất kích thích khác có hại cho
sức khoẻ.
Nói về bổn phận của trẻ em, ông cha ta ngày xƣa đã biết dạy cho trẻ nhỏ
biết bổn phận và trách nhiệm đối với đất nƣớc, quê hƣơng, làng xóm, đạo ứng
xử trong các mối quan hệ giữa gia đình, nhà trƣờng, quan hệ thầy trò, bạn bè,
anh em. Những bổn phận và trách nhiệm này đƣợc xây dựng thành những
nguyên tắc chung về luân thƣờng đạo lý và lễ nghĩa đƣợc truyền từ đời này
qua đời khác, con cháu làm theo nhƣ một lẽ đúng ở đời, đây là một nét đẹp
trong truyền thống văn hoá của dân tộc Việt Nam.
5. Mối quan hệ biện chứng giữa quyền và bổn phận của trẻ em
trong pháp luật Việt Nam

×