Tải bản đầy đủ (.pdf) (97 trang)

Chương trình Vietnam online với công tác thông tin tuyên truyền về hoạt động của chính phủ (khảo sát chương trình Vietnam Online từ tháng 5-2008-5-2010.PDF

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 97 trang )


1
MỤC LỤC
MỤC LỤC 1
MỞ ĐẦU 4
1. Tính cấp thiết của đề tài 4
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 6
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 8
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 9
4.1. Đối tượng nghiên cứu 9
4.2. Phạm vi nghiên cứu 9
5. Phương pháp nghiên cứu 9
6. Đóng góp mới, ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận văn 10
7. Cấu trúc của luận văn 11
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ, VAI
TRÒ CỦA BÁO CHÍ TRONG CÔNG TÁC THÔNG TIN TUYÊN TRUYỀN
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
1.1 Quan điểm của Mác, Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về sự lãnh đạo của Đảng đối
với báo chí…………………………………………………………………………….
1.1.1 Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lê-nin về báo chí……………………………
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí………………………………………………
1.2. Sự lãnh đạo quản lý của Đảng, Nhà nước và chỉ đạo điều hành của Chính phủ đối
với hoạt động báo chí……………………………………………………………
1.2.1 Sự cần thiết của công tác lãnh đạo, quản lý, điều hành của Đảng, Nhà nước và
Chính phủ đối với hoạt động báo chí……………………………………………… 22
1.2.2 Vai trò của báo chí trong thông tin tuyên truyền về chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước và chỉ đạo, điều hành của Chính phủ… 22

2
1.3. Thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với báo chí trong công tác thông tin tuyên
truyền giai đoạn hiện nay………………………………………………………….


1.3.1. Bối cảnh trong nước và thế giới ảnh hưởng tới việc thông tin tuyên truyền của
báo chí truyền thông………………. 25
1.3.2. Nhiệm vụ đặt ra đối với báo chí trong công tác thông tin tuyên truyền giai đoạn
hiện nay…………………………………………………………………………… 36
Tiểu kết Chương 1 40
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG NỘI DUNG CHƯƠNG TRÌNH VIETNAM
ONLINE VỚI CÔNG TÁC THÔNG TIN TUYÊN VỀ HOẠT ĐỘNG CỦA
CHÍNH PHỦ (TỪ THÁNG 5/2008 ĐẾN 5/2010) 41
2.1. Quá trình Chính phủ chỉ đạo, điều hành đất nước thể hiện trên Chương trình
Vietnam Online 41
2.1.1. Giới thiệu về Chương trình Vietnam Online 41
2.1.2. Khảo sát Chương trình Vietnam Online từ tháng 5/2008 đến tháng 5/2010. 46
2.2. Đánh giá hiệu quả tuyên truyền của Chương trình Vietnam Online về công tác chỉ
đạo, điều hành đất nước của Chính phủ. 55
2.2.1. Chương trình góp phần định hướng dư luận xã hội, tạo hiệu ứng tuyên truyền
tích cực 55
2.2.2.Chương trình bước đầu thể hiện tính phản biện xã hội cao. 57
2.2.3. Phản ánh tâm tư, nguyện vọng, đóng góp của người dân với quyết sách mới của
Đảng, Nhà nước, Chính phủ. 60
2.2.4. Chương trình kịp thời hướng dẫn thực hiện các chủ trương, chính sách mới của
Đảng, Nhà nước, Chính phủ 65
2.2.5. Một số đổi mới về cách thức thể hiện của Chương trình 67
2.3. Một số hạn chế về nội dung và hình thức của Chương trình Vietnam Online. 69
2.3.1 Về mặt nội dung 69

3
2.3.2 Về mặt hình thức 71
Tiểu kết Chương 2 72
CHƯƠNG 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP VÀ KHUYẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO CHẤT

LƯỢNG CHƯƠNG TRÌNH VIETNAM ONLINE 74
3.1 Khuyến nghị chung nhằm nâng cao chất lượng thông tin về các quyết sách của
Đảng, Nhà nước, Chính phủ giai đoạn hiện nay. 74
3.2. Khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng Chương trình Vietnam Online 80
3.2.1. Về nâng cao chất lượng nội dung chương trình 80
3.2.2. Về nâng cao chất lượng hình thức chương trình. 80
3.2.3. Về tăng cường tính tương tác giữa chương trình với công chúng. 83
3.2.4. Về nâng cao chất lượng đội ngũ phóng viên, biên tập viên của chương trình. 84
3.2.5. Tăng cường các trang thiết bị truyền hình hiện đại, đồng bộ cho Ban biên tập
chương trình 86
Tiểu kết chương 3 88
KẾT LUẬN 90
TÀI LIỆU THAM KHẢO 93

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN


VTC : Tổng công ty truyền thông đa phương tiện
Đài THKTS VTC : Đài truyền hình kỹ thuật số VTC
TTĐT : Thông tin điện tử
CNXH : Chủ nghĩa xã hội
TW : Trung ương
TTg : Thủ tướng Chính phủ
NĐ : Nghị định
CP : Chính phủ
Nxb : Nhà xuất bản



4

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời kì đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, báo chí
Việt Nam đã có sự đổi mới và phát triển đa dạng về mọi mặt, đóng góp to lớn
trong việc tuyên truyền, phổ biến chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước,
trong đó có công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ. Báo chí đã thông tin
nhanh hơn, sâu sát hơn, định hướng thông tin chính trị, xã hội ngày càng tốt
hơn. Đặc biệt, sự hợp tác hiệu quả giữa báo chí và Chính phủ không những
tăng cường vai trò của báo chí mà còn nâng cao hiệu quả, hiệu lực chỉ đạo,
điều hành của Chính phủ, qua đó góp phần thiết thực vào thành tựu chung của
đất nước trên tất cả các lĩnh vực.
Trong giai đoạ n toà n Đả ng , toàn dân ta đang tp trung đẩ y mạ nh công
nghiệ p hó a, hiệ n đạ i hó a, xây dự ng nhữ ng cơ sở nề n tả ng để thự c hiệ n thắ ng
lợ i mụ c tiêu đưa nướ c ta cơ bả n trở thà nh nướ c công nghiệ p theo hướ ng hiệ n
đạ i và o năm 2020, công tá c thông tin tuyên truy ền đã có những đóng góp hết
sức quan trọ ng như v ề cơ bản đã tác động tích cực đến đời sống xã hội, định
hướng chính trị tư tưởng và dư lun, góp phần làm cho nhân dân nhn thức
đúng tình hình, đoàn kết, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của
Nhà nước, điều hành của Chính phủ và xu thế đi lên của đất nước ta. Báo chí
Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ cả về loại hình, nội dung và
hình thức truyền thông. Bên cạnh những loại hình truyền thống, sự phát triển,
tích hợp và hội tụ về công nghệ thông tin và truyền thông đang thúc đẩy sự ra
đời của những loại hình, sản phẩm truyền thông mới trong đó có các kênh

5
truyền thông sử dụng công nghệ online như điện thoại di động, truyền hình,
Internet
Trong khi đó, trước yêu cầu đẩy mạnh sự đổi mới, mở cửa và hội nhp,
việc ứng dụng công nghệ thông tin truyền thông, nhằm tăng cường năng lực
và đa dạng hóa phương thức thông tin, tuyên truyền về chủ trương, chính sách

của Đảng và Nhà nước, công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ và Thủ
tướng Chính phủ đến các tầng lớp nhân dân, doanh nghiệp, bạn bè quốc tế
luôn được Chính phủ quan tâm. Thủ tướng Chính phủ và lãnh đạo các Bộ,
ngành đã cố gắng tạo mọi điều kiện thun lợi để cung cấp thông tin đầy đủ,
kịp thời, giúp báo chí phát huy tốt hơn vai trò, vị trí của mình, đóng góp ngày
càng tốt hơn vào sự phát triển kinh tế - xã hội, mở rộng dân chủ và cải thiện
đời sống nhân dân. Do đó, Vietnam Online là một trong những chương trình
truyền thông được ra đời trong bối cảnh như vy. Ngày 19/9/2007, Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng đã cho phép Cổng thông tin điện tử Chính phủ (Cổng
TTĐT Chính phủ) phối hợp với Đài Truyền hình kỹ thut số VTC (Đài
THKTS VTC) thực hiện chương trình này.
Sau khi đi vào hoạt động, chương trình Vietnam Online đã bước đầu đáp
ứng được yêu cầu nhiệm vụ chính trị được giao, khẳng định tác dụng thiết
thực của một chương trình truyền thông đa phương tiện của Chính phủ, ngày
càng có uy tín đối với người xem cả trong và ngoài nước. Với số lượng khán
giả ngày càng tăng, Vietnam Online đã góp phần quan trọng định hướng đúng
dư lun, tạo ra những hiệu ứng xã hội tích cực, đóng góp thiết thực cho công
tác tuyên truyền hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước và công tác
điều hành của Chính phủ.

6
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đáng ghi nhn mà Vietnam Online
đạt được, hoạt động của chương trình cũng gặp nhiều khó khăn, nảy sinh
không ít vấn đề, đòi hỏi cần tiếp tục được đổi mới nội dung, phương thức hoạt
động, để đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong thời kì đổi mới.
Ngoài ra, đề tài liên quan đến yêu cầu, nhiệm vụ của báo chí truyền
thông trong việc thông tin tuyên truyền về chủ trương, đường lối của Đảng,
Nhà nước và công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ trong giai đoạn hiện
nay tuy đã được đề cp trong một số báo cáo nhưng chưa từng được hệ thống
trong các sách, tạp chí, công trình nghiên cứu về báo chí nào trong thời gian

qua. Chính vì vy, tác giả lựa chọn đề tài “Chương trình Vietnam Online với
công tác thông tin tuyên truyền về hoạt động của Chính phủ - Khảo sát
Chương trình Vietnam Online từ tháng 5/2008 – tháng 5/2010” làm lun văn
Thạc sỹ, chuyên ngành Báo chí học tại Khoa báo chí và Truyền thông,
Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu về lý lun về chức năng, nhiệm vụ và vai trò của báo chí
truyền thông đã được đề cp đến trong một số tài liệu như: “Cơ sở lý luận báo
chí” do tác giả Tạ Ngọc Tấn chủ biên; “Cơ sở lí luận báo chí truyền thông”
của nhóm tác giả Dương Xuân Sơn, Đinh Văn Hường, Trần Quang; “Các thể
loại báo chính luận nghệ thuật” của tác giả Dương Xuân Sơn; “Cơ sở lí luận
báo chí truyền thông” (1995) của nhóm tác giả; “Truyền thông đại chúng”
của tác giả Huỳnh Văn Tòng; “Báo chí: Những vấn đề lí luận và thực tiễn” (5
tp) của nhóm tác giả…

7
Bên cạnh đó, việc nghiên cứu, làm rõ lý lun về báo chí và công tác
thông tin tuyên truyền đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước
cũng là một trong những vấn đề cơ bản của báo chí nước ta, đã ít nhiều được
đề cp trong giáo trình đào tạo ở một số trường đại học chuyên ngành báo chí
như Khoa Báo chí và Truyền thông, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn,
Đại học Quốc gia Hà Nội hay Khoa Báo chí, Học viện Báo chí và Tuyên
truyền…
Trên cơ sở nghiên cứu lý lun và khảo sát thực tiễn, một số đề tài khoa
học và lun văn cũng đã có đề cp đến vai trò, nhiệm vụ của báo chí trên một
số lĩnh vực như: “Vai trò báo chí trong việc góp phần nâng cao hiệu quả chỉ
đạo, điều hành của Chính phủ thời kì đổi mới” - lun văn thạc sĩ của Nguyễn
Sĩ Hùng, (năm 2000); “Vai trò báo chí trong định hướng dư luận xã hội” -
lun án tiến sĩ của tác giả Đỗ Chí Nghĩa, Học viện Báo chí và Tuyên truyền;
“Vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn trên báo in Việt Nam” của tác giả

Đỗ Thái Hà, Khoa Báo chí và Truyền thông, Đại học KHXH&NV, Đại học
Quốc gia Hà Nội; “Báo chí với vấn đề cải cách thể chế hành chính nhà nước
Việt Nam hiện nay (Khảo sát Tạp chí Cộng sản, Tạp chí Quản lý nhà nước,
Tạp chí Tổ chức nhà nước từ tháng 1/2006 đến tháng 6/2010)” của tác giả
Nguyễn Thuỳ Vân Anh, Học viện Báo chí và Tuyên truyền… Tuy vy, hiện
vẫn chưa có một đề tài, lun văn nào đi sâu giải thích, làm rõ các khái niệm
liên quan tới đề tài báo chí, đặc biệt là báo truyền hình với thông tin tuyên
truyền về các chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước và công tác chỉ đạo,
điều hành của Chính phủ.

8
Bên cạnh đó, do là một chương trình truyền hình mới lên sóng từ tháng
5/2008 nên cho đến nay chưa có một công trình nghiên cứu cụ thể nào về
Chương trình Vietnam Online của Đài THKTS VTC. Do đó, lun văn
“Chương trình Vietnam Online với công tác thông tin tuyên truyền về hoạt
động của Chính phủ - Khảo sát Chương trình Vietnam Online từ tháng
5/2008 – tháng 5/2010” sẽ là một công trình khoa học mang ý nghĩa lý lun
và thực tiễn cao.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích:
- Chỉ rõ yêu cầu cấp thiết của việc đổi mới nội dung và hình thức hoạt
động của báo chí truyền thông nói chung, đặc biệt là Chương trình Vietnam
Online đối với công tác thông tin tuyên truyền về chủ trương, chính sách của
Đảng và Nhà nước và hoạt động điều hành của Chính phủ.
- Góp phần cung cấp cơ sở khoa học và thực tiễn để bổ sung, hoàn
thiện các giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của Chuơng
trình Vietnam Online, đáp ứng yêu cầu trong thời kì đổi mới.
Nhiệm vụ:
- Đánh giá vai trò, vị trí, tầm quan trọng của báo chí truyền thông
trong công tác thông tin tuyên truyền về chủ trương, đường lối, chính sách

của Đảng và Nhà nước.
- Nghiên cứu khảo sát Chương trình Vietnam Online (từ tháng 5/2008
đến tháng 5/2010) trong công tác thông tin tuyên truyền về chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và hoạt động chỉ đạo điều hành đất nước

9
của Chính phủ; phân tích nguyên nhân của thực trạng đó; đưa ra một số
khuyến nghị và đề xuất để Chương trình Vietnam Online ngày càng nâng cao
hơn nữa hiệu quả hoạt động trong tình hình mới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý lun và thực tiễn về chức năng, nhiệm vụ và vai
trò của báo chí trong công tác thông tin tuyên truyền về các chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp lut của Nhà nước.
- Nghiên cứu, khảo sát về các chương trình Vietnam Online của Đài
truyền hình KTS VTC với công tác thông tin tuyên truyền về các hoạt động
của Chính phủ đã phát sóng trong thời gian hai năm (từ tháng 5/2008 đến
tháng 5/2010). Đây là thời điểm Đảng, Nhà nước và Chính phủ có nhiều
quyết sách quan trọng trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành các lĩnh vực đời
sống kinh tế, xã hội của đất nước.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu việc đổi mới công tác thông tin tuyên truyền về chủ
trương, chính sách của Đảng, pháp lut của Nhà nước và hoạt động chỉ đạo,
điều hành đất nước của Chính phủ thời gian qua.
- Nghiên cứu về các Chương trình Vietnam Online đã phát sóng trong
thời gian hai năm (từ tháng 5/2008 đến tháng 5/2010).
5. Phƣơng pháp nghiên cứu

10
- Lun văn được thực hiện trên cơ sở lý lun Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư

tưởng Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối và quan điểm, chính sách của
Đảng và Nhà nước Việt Nam.
- Vn dụng những kiến thức về lý lun và thực tiễn để nghiên cứu công
tác thông tin tuyên truyền về các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp lut
của Nhà nước và công tác chỉ đạo, điều hành đất nước của Chính phủ thời
gian qua.
- Phương pháp mô tả: thông qua việc khảo sát các tin, bài, phóng sự đã
phát sóng trên Chương trình Vietnam Online, từ đó thống kê, phân tích, so
sánh, khái quát, tổng hợp để tiến hành nghiên cứu.
- Phương pháp phân tích tài liệu: Thu thp và phân tích các nguồn tài
liệu trong nước và ngoài nước, tài liệu địa phương có liên quan đến vấn đề
nghiên cứu.
- Phương pháp nghiên cứu trường hợp (Case study): lun văn nghiên
cứu, khảo sát về các Chương trình Vietnam Online của Đài truyền hình KTS
VTC với công tác thông tin tuyên truyền về các hoạt động của Chính phủ
trong khoảng thời gian từ tháng 5/2008 đến 5/2010.
6. Đóng góp mới, ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận văn
 Ý nghĩa khoa học
- Góp phần làm rõ thêm một số vấn đề lý lun về vị trí, vai trò đặc
biệt của phương tiện thông tin đại chúng trong công tác thông tin tuyên truyền
về các chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước.
 Ý nghĩa thực tiễn

11
- Góp phần nhn thức đúng đắn hơn nữa về vị trí, vai trò của các
phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là Chương trình Vietnam Online đối
với công tác thông tin tuyên truyền về các hoạt động của Chính phủ.
- Những kết quả nghiên cứu của lun văn đóng góp hữu ích cho việc
đổi mới nâng cao chất lượng, hiệu quả lãnh đạo, chỉ đạo công tác thông tin
tuyên truyền về chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước và công tác chỉ

đạo, điều hành của Chính phủ - trong đó có việc đổi mới, nâng cao hiệu quả
hoạt động của Chương trình Vietnam Online. Lun văn có thể dùng làm tài
liệu tham khảo trong hoạt động nghiên cứu, giảng dạy và lý lun báo chí.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết lun và tài liệu tham khảo, lun văn gồm
có 3 chương:
- Chương 1. Lý lun và thực tiễn về chức năng, nhiệm vụ và vai trò của
báo chí trong công tác thông tin tuyên truyền giai đoạn hiện nay.
- Chương 2. Thực trạng công tác thông tin tuyên truyền về hoạt động
của Chính phủ của Chương trình Vietnam Online (từ tháng 5/2008 đến
tháng 5/2010).
- Chương 3. Một số giải pháp và khuyến nghị nhằm nâng cao chất
lượng Chương trình Vietnam Online.



12
CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHỨC NĂNG, NHIỆM VỤ
VÀ VAI TRÒ CỦA BÁO CHÍ TRONG CÔNG TÁC THÔNG TIN
TUYÊN TRUYỀN GIAI ĐOẠN HIỆN NAY



1. 1 Quan điểm của Mác, Lê-nin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về sự
lãnh đạo của Đảng đối với báo chí.
1.1.1 Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lê-nin về báo chí.
Sự lãnh đạo của Đảng đối với báo chí xuất phát từ vai trò của báo chí
đối với sự nghiệp cách mạng của giai cấp vô sản. Trước khi thành lp các
Đảng cộng sản, nhóm các nhà hoạt động cách mạng đã sáng lp ra các tờ

báo để tuyên truyền chủ trương cách mạng của mình và tp hợp lực lượng.
Khi ra đời, các Đảng đều củng cố tờ báo vì đó là tiếng nói của Đảng, là sợi
dây liên hệ giữa Đảng với giai cấp công nhân và là vũ khí đấu tranh đầu tiên
của giai cấp vô sản trên lĩnh vực chính trị. Vì thế, cả C.Mác và V.I.Lê-nin
đều cho rằng, đối với mỗi Đảng vô sản thì việc lp ra tờ báo hàng ngày là
mốc quan trọng đầu tiên để tiến lên phía trước. Các ông khẳng định đó là
trn địa ban đầu, từ đó Đảng sẽ tiến hành cuộc đấu tranh với giai cấp tư sản.
Tiếng nói của báo chí góp phần thống nhất các chủ trương, phương pháp
hành động khác nhau nhằm đạt được mục đích, khắc phục những thiếu sót
trong hoạt động tư tưởng và thực tiễn của những người cộng sản, làm thức
tỉnh quần chúng. Lê-nin cho rằng, tờ báo không chỉ có vai trò phổ biến tư
tưởng, giáo dục chính trị mà còn là nơi thu hút các đồng minh; tờ báo

13
“không những là người tuyên truyền tập thể và cổ động tập thể mà còn là
người tổ chức tập thể”. [210,49]. Theo Lê-nin, muốn xây dựng các tổ chức
chính trị mạnh mẽ thì không có phương tiện nào khác hơn là một tờ báo cho
toàn nước Nga.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí
Là người sáng lp báo chí cách mạng Việt Nam, ngay từ khi bước vào
hoạt động cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhn thức đầy đủ và sâu sắc
vai trò to lớn của báo chí. Từ một người học viết báo, rồi trở thành người
làm báo vĩ đại, trong sự nghiệp báo chí của mình, Người đã có trên dưới hai
nghìn bài báo. Toàn bộ hoạt động báo chí và bản thân những bài báo đó đã
thể hiện quan điểm của Người về báo chí cách mạng, về quan hệ giữa Đảng
và báo chí.
Kế thừa và phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về báo
chí vô sản, Hồ Chí Minh luôn coi báo chí là một bộ phn của sự nghiệp cách
mạng, là vũ khí sắc bén trong công cuộc đấu tranh giành độc lp cho dân tộc
và xây dựng cuộc sống mới cho nhân dân. Theo Người, báo chí chúng ta chỉ

có một đề tài xuyên suốt là “chống thực dân đế quốc, chống phong kiến địa
chủ, tuyên truyền cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” [419,50]. Để
thực hiện được nội dung đó, báo chí cách mạng phải có tính chiến đấu với
biểu hiện cao nhất là tính Đảng. Điều đó trước hết thể hiện ở đường lối chính
trị của tờ báo. Báo chí thực chất là hoạt động chính trị, thông tin trên báo chí
quan trọng nhất là thông tin chính trị. Báo chí phải biểu thị rõ ràng sự nhiệt
tình ủng hộ hay phản đối một quan điểm, một vấn đề, một sự kiện chính trị,
kinh tế xã hội nào đó khi trong xã hội còn có đấu tranh giai cấp.

14
Trong điều kiện cụ thể cách mạng nước ta những năm đấu tranh giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Báo
chí của ta thì cần phải phục vụ nhân dân lao động, phục vụ chủ nghĩa xã
hội, phục vụ cho đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà, cho hòa bình thế
giới”. Do đó, báo chí của ta phải có đường lối chính trị đúng vì chỉ có nó thì
nội dung và hình thức thể hiện của báo chí mới đúng được. Trên cơ sở đó,
báo chí phải đi tiên phong trong đấu tranh không khoan nhượng với những
gì đi ngược lại quy lut lịch sử, vạch trần tính chất phản động, giả dối, bịp
bợm của kẻ thù dân tộc. Tính chiến đấu không chỉ nhằm tiến công vào kẻ
thù của cách mạng, mà còn biểu dương những tấm gương tiêu biểu trong
chiến đấu và lao động để cổ vũ mọi người hăng hái tham gia cách mạng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhiều lần nhắc nhở những người làm báo,
khi viết phải trả lời rõ: Viết cho ai xem? Viết để làm gì? Vì ai mà viết? Mục
đích viết làm gì? Những câu hỏi người đặt ra chính là đòi hỏi báo chí phải
xác định rõ đối tượng tiếp nhn thông tin. Việc xác định đó nhằm hình thành
phương pháp sáng tạo phù hợp cho nhà báo.
Bên cạnh đó, theo Người, muốn có đóng góp tích cực nhất vào công
cuộc phấn đấu của toàn dân tộc cho mục tiêu cao cả là độc lp dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, báo chí phải tự giác phục tùng và tranh thủ tối đa sự lãnh
đạo của Đảng. Điều đó đảm bảo cho báo chí hoàn thành sứ mệnh của mình

và bản thân Đảng cũng ngày càng trưởng thành hơn trong quá trình lãnh đạo
cách mạng.
Ngược lại, ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã vn dụng sáng tạo quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lê-nin về báo chí cách mạng. Trong suốt quá

15
trình đấu tranh và trưởng thành, Đảng ta luôn đặt báo chí dưới sự lãnh đạo
của mình và coi báo chí là vũ khí tư tưởng sắc bén trong công cuộc đấu tranh
giành độc lp dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Dưới sự lãnh đạo của
Đảng, báo chí mới có thể làm tròn trách nhiệm, làm cho thế giới quan
Mác-Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh giữ vị trí chỉ đạo trong đời sống tinh
thần xã hội, góp phần giữ vững ổn định chính trị và định hướng xã hội chủ
nghĩa, đồng thời báo chí thực hiện được vai trò vừa là tiếng nói của Đảng,
của Nhà nước, của các đoàn thể, vừa là diễn đàn của nhân dân.
Trong giai đoạn mới hiện nay, báo chí là ngọn cờ cách mạng tp hợp,
đoàn kết, cổ vũ toàn thể các tầng lớp nhân dân, đồng bào các dân tộc, các tôn
giáo và cả người Việt Nam định cư ở nước ngoài hăng hái tiến hành thắng
lợi công cuộc công nghiệp hóa – hiện đại hóa nước nhà. Báo chí là lực lượng
xung kích trên mặt trn tư tưởng văn hóa, là công cụ thông tin nhanh nhất,
phổ cp nhất, là phương tiện thường xuyên tiếp xúc với nhân dân và giải đáp
những vấn đề mới do cuộc sống đặt ra, đấu tranh hàng ngày, hàng giờ chống
những âm mưu, thủ đoạn đen tối của các thế lực thù địch, chống các khuynh
hướng tư tưởng sai lầm, góp phần tổ chức, phát động phong trào hành động
cách mạng của nhân dân. Đây vừa là vinh dự, vừa là trách nhiệm của báo
chí. Để xứng đáng với điều đó, báo chí phải hoạt động đúng tôn chỉ, mục
đích của mình, nắm vững quan điểm, đường lối của Đảng và pháp lut của
nhà nước. Hoạt động báo chí phải hướng vào mục tiêu giữ vững ổn định
chính trị, tiếp tục sự nghiệp đổi mới, từng bước xây dựng con người mới, lối
sống mới, làm cho những nguyên lý cách mạng và khoa học của Chủ nghĩa
Mác – Lê-nin và tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh giữ vị trí chủ đạo trong đời


16
sống tinh thần xã hội. Chỉ có hoàn thành chức năng trên, báo chí mới thực sự
xứng đáng là đội quân xung kích trên mặt trn tư tưởng và văn hóa, là chỗ
dựa tin cy của Đảng và của nhân dân.
1.2. Sự lãnh đạo quản lý của Đảng, Nhà nƣớc ta và chỉ đạo điều
hành của Chính phủ đối với hoạt động báo chí.
1.2.1 Sự cần thiết của công tác lãnh đạo, quản lý, điều hành của
Đảng, Nhà nước và Chính phủ đối với hoạt động báo chí.
Trước hết, cần phải khẳng định rằng đây là đòi hỏi mang tính khách
quan từ nhiều phía:
Đầu tiên, đây là yêu cầu của công cuộc cách mạng do Đảng lãnh đạo.
Trong suốt quá trình đấu tranh giành độc lp dân tộc và xây dựng chủ nghĩa
xã hội, báo chí là thứ vũ khí, phương tiện vô cùng lợi hại trong việc truyền
bá tư tưởng, tp hợp lực lượng, động viên, cổ vũ nhân dân tham gia đấu
tranh. Thắng lợi của cách mạng Việt Nam có vai trò to lớn của công tác tư
tưởng của Đảng, trong đó báo chí là một công cụ sắc bén, hữu hiệu.
Ngày nay, Đảng, Nhà nước, Chính phủ và nhân dân ta đang nỗ lực
phấn đấu bảo vệ và xây dựng đất nước Việt Nam theo con đường chủ nghĩa
xã hội. Đây là cuộc cách mạng lớn lao trong lịch sử song đầy khó khăn và
thử thách. Để đạt được mục tiêu, công tác tư tưởng phải đi trước một bước,
trong đó báo chí giữ vai trò xung kích. Nếu báo chí không góp phần đắc lực
vào việc làm cho chủ nghĩa Mác – Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối
quan điểm của Đảng giữ vị trí nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành
động của Đảng và giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của các xã
hội; nếu báo chí không tích cực tham gia vào tổng kết thực tiễn, nghiên cứu

17
lý lun về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, không làm cho cán
bộ, đảng viên và quần chúng tin vào đường lối đổi mới, tin vào sự thắng lợi

tất yếu của chủ nghĩa xã hội thì rõ ràng, báo chí không xứng đáng với niềm
tin của Đảng, Nhà nước, Chính phủ và nhân dân.
Hơn nữa, sự nghiệp đổi mới công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước
là sự nghiệp của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, quản lý
của Nhà nước, chỉ đạo, điều hành của Chính phủ. Vì vy, sự lãnh đạo, quản
lý, điều hành của Đảng, Nhà nước, Chính phủ đối với báo chí là điều kiện
quan trọng để báo chí khơi dy được nhiệt tình cách mạng, sức sáng tạo và
tiềm năng trí tuệ to lớn của nhân dân, tổng kết các kinh nghiệm phong phú,
sinh động từ thực tiễn để góp phần hoàn thiện đường lối, chính sách của
Đảng, thực hiện quá trình “tự giáo dục” của nhân dân. Sự nghiệp đổi mới chỉ
đạt được thắng lợi khi đông đảo quần chúng nhân dân giác ngộ và nhn thức
đầy đủ đường lối của Đảng, chính sách, pháp lut của Nhà nước và hoạt
động chỉ đạo, điều hành của Chính phủ; từ đó được huy động và tổ chức chặt
chẽ hơn nữa trong việc thực hiện các phong trào cách mạng. Điều này phụ
thuộc rất nhiều vào công tác tư tưởng của Đảng, trong đó báo chí giữ vai trò
quan trọng không gì thay thế được. Do đó, Đảng, Nhà nước, Chính phủ lãnh
đạo, chỉ đạo, quản lý báo chí chính là để phát huy vai trò đắc lực của một
công cụ tư tưởng trong sự nghiệp cách mạng.
Hai là, từ yêu cầu xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh và không
ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng. Nếu như trong
quá trình tiến tới thành lp một chính đảng vô sản trước hết phải có một tờ
báo, thì trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của Đảng, báo chí có trách

18
nhiệm và có điều kiện góp phần nâng cao trình độ trí tuệ của Đảng, giữ vững
mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân và làm cho Đảng luôn trong sạch, vững
mạnh. Thực tiễn hoạt động của Đảng ta cho thấy, sự đóng góp của báo chí
trong công tác xây dựng Đảng là hết sức to lớn. Đảng ta chỉ rõ, báo chí đã
góp phần nghiên cứu lý lun, tổng kết thực tiễn, cổ vũ những điển hình tốt,
tham gia tích cực vào cuộc đấu tranh tư tưởng, đấu tranh lý lun, chống âm

mưu và thủ đoạn diễn biến hòa bình của các thế lực thù địch. Đồng thời, với
tư cách là tiếng nói của Đảng, báo chí đã làm cho nhân dân tin vào Đảng và
thực hiện thắng lợi đường lối đổi mới của Đảng.
Ba là, từ nhu cầu của bản thân sự phát triển báo chí. Đảng, Nhà nước,
Chính phủ lãnh đạo, quản lý, điều hành báo chí không phải để hạn chế, trái
lại cốt để báo chí thực hiện và hoàn thành tốt các chức năng của mình. Một
trong những cách thức mà Đảng, Nhà nước, Chính phủ lãnh đạo, quản lý,
điều hành hoạt động báo chí là các đơn vị này cung cấp thông tin xác thực,
toàn diện, cp nht cần thiết cho công tác tuyên truyền trên báo chí. Đây là
yếu tố hết sức cần thiết, bởi nó chính là sức sống của báo chí cách mạng.
Được Đảng, Nhà nước, Chính phủ cung cấp thông tin, báo chí sẽ hoàn thành
tốt các chức năng thông tin và tham gia quản lý xã hội, bởi qua báo chí, quần
chúng nhân dân biết được đúng “ý” của các cấp lãnh đạo, từ đó nghe, tin và
làm theo, đồng thời góp ý kiến để Đảng, Nhà nước, Chính phủ với nhân dân
hòa chung một ý chí, thống nhất trong hành động. Thiếu các thông tin chính
thống do các cấp lãnh đạo cung cấp, báo chí sẽ không nói lên đúng “tiếng
nói của Đảng”, có thể chỉ đưa những tin tức vụn vặt, phiến diện, sai lệch.

19
Bên cạnh đó, công tác tư tưởng của Đảng phải phát huy sức mạnh
tổng hợp của nhiều binh chủng trên mặt trn tư tưởng văn hóa. Báo chí cũng
bao gồm nhiều lực lượng, nhiều kênh truyền thông. Tp hợp, tổ chức tất cả
các lực lượng đó thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền chung và phát huy sức
mạnh của toàn bộ lực lượng báo chí là công việc và là ưu thế của cơ quan
lãnh đạo, quản lý như Đảng, Nhà nước và Chính phủ. Nếu không có sự tổ
chức, phối hợp các loại hình của các cấp lãnh đạo để tạo thành một đội quân
báo chí thống nhất, tuyên truyền cho nhiệm vụ chung sẽ dẫn đến tình trạng
chồng chéo, “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”, hiệu quả tuyên truyền không
những không cao, thm chí còn phản tác dụng. Do đó, sức mạnh của các
kênh thông tin chỉ được cộng hưởng và phát huy tối đa khi tất cả đều có sự

lãnh đạo, quản lý, điều hành của Đảng, Nhà nước và Chính phủ.
Ngoài ra, báo chí chính là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước, Chính phủ với
nhân dân. Nhân dân là “tai mắt”, là nguồn cung cấp thông tin sống động về
mọi mặt cho báo chí. Điều này cho thấy vai trò hết sức quan trọng của báo chí
trong việc tạo lp và thể hiện dư lun xã hội. Xã hội càng hiện đại thì báo chí
càng phát triển mạnh mẽ, vai trò của các cơ quan truyền thông càng quan
trọng hơn bao giờ hết.
1.2.2 Vai trò của báo chí trong thông tin tuyên truyền về chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước và chỉ đạo, điều hành của Chính phủ.
Hệ thống các phương tiện truyền thông đại chúng ở nước ta, mà trung
tâm là hệ thống báo chí hiện nay đang phát triển rất mạnh mẽ và trở thành một
thành tố rất quan trọng của xã hội. Hệ thống này vừa là động lực, vừa là công
cụ trong hoạt động tổ chức, quản lý và nâng cao dân trí trong xã hội. Trong

20
hoạt động của mình, hệ thống truyền thông đại chúng đã thể hiện vai trò cũng
như khả năng tạo sự tương tác xã hội, hướng dẫn, định hướng hành vi hoạt
động trong công chúng. Chính vì vy, truyền thông đại chúng trở thành một
thiết chế xã hội, được coi là tác nhân cơ bản hình thành các liên kết xã hội.
Là một bộ phn của truyền thong đại chúng, báo chí đóng một vai trò
quan trọng trong đời sống xã hội khi không chỉ là kênh chủ yếu cung cấp kiến
thức và thông tin mà còn là một công cụ hữu hiệu để quản lý, điều hành và cải
cách xã hội. Với việc trở thành một phần không thể thiếu trong đời sống của
mỗi cá nhân và toàn xã hội, báo chí đã trở thành một định chế trong xã hội với
những quy tắc và chuẩn mực riêng.
Ở nước ta, mặc dù việc tiếp cn các tiến bộ của khoa học công nghệ về
truyền thông đại chúng chm hơn so với nhiều nước trên thế giới nhưng hiện
nay, báo chí đang có một vị trí vô cùng quan trọng. Báo chí thông qua các
phương tiện truyền thông đại chúng như truyền hình, báo in, phát thanh, báo
mạng điện tử… chính là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước, Chính phủ với nhân

dân. Nói cách khác, báo chí giữ vai trò trung gian tạo diễn đàn cho người dân
bộc lộ những suy nghĩ, quan điểm của mình về các chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước và công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ.
Chính vì báo chí có vai trò đặc biệt như vy nên Đảng, Nhà nước và
Chính phủ cũng như cấp ủy, chính quyền các cấp luôn mong muốn báo chí
chia sẻ trước những khó khăn trong quá trình triển khai thực hiện các quyết
sách của Đảng, Nhà nước và Chính phủ; mong muốn báo chí hiến kế để khắc
phục những hạn chế, khuyết điểm trong quá trình lãnh đạo, điều hành Qua
đó, báo chí góp phần tạo ra tâm lý xã hội tích cực, nâng cao nhn thức của nhân

21
dân trên nhiều lĩnh vực, tạo sự đồng thun xã hội để việc thực hiện các quyết
sách mới của Đảng, Nhà nước và Chính phủ được thun lợi và hiệu quả.
Báo chí nói riêng, các phương tiện truyền thông đại chúng nói chung
thực hiện chức năng quản lý xã hội của mình bằng việc cung cấp thông tin
cho xã hội, hình thành và định hướng dư lun xã hội theo mục đích nhất định
của chế độ, của giai cấp. Ở nước ta, các phương tiện này là kênh thông tin
đăng tải, phổ biến, giải thích đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước và công tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ; góp phần vào
xây dựng và hoàn thiện các quyết sách mang tầm vĩ mô. Đồng thời, Đảng,
Nhà nước và Chính phủ ta coi các phương tiện truyền thông đại chúng là kênh
giám sát, phản biện xã hội qua dư lun xã hội. Dư lun xã hội sẽ giúp các cấp
lãnh đạo hiểu được “tâm trạng” của xã hội, từ đó có những chính sách, hành
động hợp lý, kịp thời.
Trong thời kì đổi mới, đặc biệt là những năm gần đây, dưới sự lãnh đạo
của Đảng, Nhà nước ta, báo chí đã có sự phát triển vượt bc. Hoạt động báo
chí đã phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng, đóng góp tích cực
vào công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Trong đường lối đổi mới
toàn diện, nổi bt lên là vấn đề dân chủ hoá các mặt của đời sống xã hội, thực

tế này đã tạo nên những diễn biến mới mẻ trong hoạt động thông tin báo chí ở
nước ta.
Các loại hình báo chí như: Báo in, Phát thanh, Truyền hình, Internet –
Báo mạng điện tử chính là các bộ phn, các kênh thông tin cơ bản nhất, cốt lõi
nhất, tiêu biểu cho sức mạnh, bản chất và xu hướng vn động của thông tin

22
đại chúng. Các loại hình này đồng thời tồn tại và phát triển, chúng không
những không loại trừ nhau, mà ngược lại còn bổ khuyết, hỗ trợ cho nhau tạo
nên sức mạnh tổng hợp, góp phần thúc đẩy sự phát triển của đất nước. Công
chúng của báo chí có thể tiếp nhn thông tin ở mọi nơi, mọi lúc, mọi thời
điểm khác nhau.
Thêm vào đó, báo chí nước ta hiện nay đã cơ bản hạn chế được hình
thức thông tin một chiều đơn điệu và ngày càng thể hiện được vai trò là cầu
nối giữa Đảng và nhân dân. Thông tin hai chiều được thực hiện trên báo chí
đã tuyên truyền, giải thích đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước và công
tác chỉ đạo, điều hành của Chính phủ đến với công chúng. Mặt khác, nó cũng
phản ánh những nguyện vọng, ý kiến phản hồi của công chúng trong quá trình
thực hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp lut của Nhà nước cũng như
các biện pháp chỉ đạo điều hành đất nước của Chính phủ.
Tuy vy, một số khó khăn hạn chế cơ bản của các loại hình báo chí vẫn còn
tồn tại như: các ấn phẩm báo in khó có khả năng phát hành rộng rãi tới công
chúng ở vùng sâu, vùng xa; Phát thanh, Truyền hình có thế mạnh là nhanh, đồng
thời, rộng khắp, hàng triệu triệu công chúng có thể tiếp nhn thông tin đồng thời
với thời điểm diễn ra sự kiện nhưng hạn chế của hai loại hình này là khả năng
lưu trữ kém, tính thoáng qua, đòi hỏi công chúng phải hết sức tp trung, quá
trình thông tin bị phụ thuộc vào làn sóng.
1.3. Thực trạng và những vấn đề đặt ra đối với báo chí trong công
tác thông tin tuyên truyền giai đoạn hiện nay.
1.3.1. Bối cảnh trong nước và thế giới ảnh hưởng tới việc thông tin

tuyên truyền của báo chí.

23
Thời điểm cuối năm 2007 đầu năm 2008, khủng hoảng tài chính và suy
thoái kinh tế toàn cầu đã tác động mạnh, gây nhiều khó khăn đối với nước ta.
Các cơ quan báo chí, theo đó cũng chịu ảnh hưởng bởi giá giấy và các vt tư,
chi phí tăng trong khi lượng phát hành và nguồn thu giảm. Trong điều kiện
khó khăn đó, hầu hết các cơ quan báo chí vẫn nêu cao tinh thần trách nhiệm, ý
thức chính trị, thực hiện nghiêm túc định hướng của các cơ quan chỉ đạo,
quản lý, cơ quan chủ quản báo chí, tuyên truyền có hiệu quả các chủ trương
chính sách của Đảng, Nhà nước, các giải pháp chỉ đạo, điều hành của Chính
phủ nhằm mục tiêu ngăn chặn suy giảm kinh tế, duy trì tăng trưởng kinh tế ở
mức hợp lý, ổn định kinh tế vĩ mô, đề phòng lạm phát cao, bảo đảm an sinh
xã hội; hỗ trợ các doanh nghiệp, người sản xuất trong nước vượt qua khó
khăn, ổn định và phát triển
Trong hoàn cảnh không thun lợi nhưng các cơ quan báo chí đã cùng cả
nước nỗ lực vượt qua khó khăn chung. Bản thân từng cơ quan báo chí đã có
sự điều chỉnh hoạt động, chi tiêu cho phù hợp với bối cảnh chung. Bởi vy, dù
nguồn thu bị giảm, có những báo lượng phát hành giảm rất lớn, nhưng không
có cơ quan báo chí nào vì khó khăn mà phải đóng cửa hay phải xin ngừng
hoạt động. Không những vy, nhiều cơ quan vẫn tiếp tục phát triển, nhiều tờ
báo vẫn tăng trang, tăng kỳ, có những ấn phẩm mới ra, tạo ra được ảnh hưởng
lớn trong xã hội. Những báo có số lượng phát hành lớn sau một thời gian dao
động, có sự giảm sút đã thay đổi phương thức hoạt động, hình thức thông tin,
trình bày báo, tổ chức lại công tác phát hành và đã duy trì được sự phát triển,
từng bước khôi phục lại, nhất là cuối năm 2009.

24
Các cơ quan thông tấn báo chí đã thực hiện tốt nhiệm vụ tuyên truyền
giáo dục, nâng cao nhậ n thứ c chí nh trị , củng cố niềm tin của nhân dân, độ ng

viên mọ i tiề m năng, sứ c mạ nh củ a toà n dân tộ c thự c hiệ n thắ ng lợ i công cuộ c
xây dự ng và phá t triể n đấ t nướ c dướ i sự lã nh đạ o củ a Đả ng C ộng sả n Việ t
Nam. Đồng thời, báo chí cũng đã v ạch trầ n và là m thấ t bạ i mọ i âm mưu phá
hoại về tư tưởng của các thế lực thù địch , tuyên truyề n quả ng bá văn hó a dân
tộ c, nhữ ng thà nh tự u mọ i mặ t củ a công cuộ c xây dự ng , phát triển đất nước ,
góp phần củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc , sự đồng thun xã hội , sự
hiể u biế t lẫ n nhau giữ a nhân dân cá c nướ c trên thế giớ i.
Bên cạnh đó, báo chí cũng đã tiếp tục phát huy tinh thần năng động, bám
sát thực tiễn, phát hiện những vấn đề cần quan tâm, kịp thời thông tin, phản
ánh, đề xuất kiến nghị các cơ quan chức năng xem xét, xử lý. Nhiều đề xuất,
kiến nghị hợp lý của báo chí và của các tầng lớp nhân dân được phản ánh qua
báo chí đã được các cơ quan chức năng tiếp thu, xem xét, giải quyết một cách
nghiêm túc.
Sự đổi mới, phát triển của báo chí Việt Nam cho thấy không khí xã hội
Việt Nam dân chủ, thông tin được phản ánh đa dạng, nhiều chiều. Góp công
lớn trong việc tạo ra nhn thức và sự đồng thun trong xã hội, báo chí đã trở
thành một công cụ để đấu tranh, phản bác và tạo ra dư lun đồng tình với chủ
trương chính sách của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, sự chỉ đạo, điều hành
của Chính phủ. Báo chí cũng giúp cho các tầng lớp nhân dân nhn thức một
cách đầy đủ vai trò, vị trí, trách nhiệm của mình trong bảo đảm sự ổn định đất
nước. Không chỉ có vy, cần phải khẳng định là báo chí có vai trò không nhỏ
trong tuyên truyền về phục vụ cho nhiệm vụ đối ngoại. Vị thế của Việt Nam

×