Tải bản đầy đủ (.pdf) (139 trang)

Báo chí với vấn đề bảo hiểm xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (832.5 KB, 139 trang )

















M .01


:




:
PGS.TS. 








- 2008


1

MỤC LỤC
Trang
Lời mở đầu 5
Chƣơng I: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 11
1.1. Cơ sở lý luận về thông tin báo chí 11
1.1.1. Khái niệm thông tin, thông tin báo chí 11
1.1.2. Tiêu chí đánh giá chất lượng thông tin báo chí 16
1.1.3. Nâng cao chất lượng thông tin báo chí 19
1.2. Cơ sở lý luận về Bảo hiểm xã hội 23
1.2.1.Sự cần thiết khách quan của Bảo hiểm xã hội 23
1.2.2. Khái niệm, bản chất, đặc trưng của Bảo hiểm xã hội 26
1.2.2.1. Khái niệm Bảo hiểm xã hội: 26
1.2.2.2. Bản chất của Bảo hiểm xã hội 30
1.2.2.3. Đặc trưng cơ bản của Bảo hiểm xã hội 31
1.2.3. Bảo hiểm xã hội trong hệ thống An sinh xã hội 32
1.2.4. Một số quan điểm về Bảo hiểm xã hội trên thế giới
và ở nước ta 33
1.2.5. Sự ra đời và phát triển Bảo hiểm xã hội ở nước ta 36
1.3. Mối quan hệ giữa Báo chí với Bảo hiểm xã hội 38
1.3.1. Vai trò của Báo chí trong đời sống xã hội 38
1.3.2. Vai trò của Báo chí đối với việc tuyên truyền
về Bảo hiểm xã hội ở nước ta 40
1.4. Phƣơng hƣớng phát triển Bảo hiểm xã hội ở nƣớc ta 44

1.5. Lý do cần tăng cƣờng công tác thông tin tuyên truyền
Bảo hiểm xã hội 47
Tiểu kết Chương 1 51
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG THÔNG TIN VỀ BẢO HIỂM XÃ HỘI

2
TRÊN BÁO CHÍ (qua khảo sát báo Nhân dân, Lao động,
Sức khoẻ & Đời sống năm 2006 -2007) 51
2.1. Tổng quan về 3 tờ báo Nhân Dân, Lao Động
và Sức khỏe & Đời sống 51
2.1.1. Báo Nhân Dân 51
2.1.2. Báo Lao Động 51
2.1.3. Báo Sức khoẻ và Đời sống 52
2.2. Nội dung thông tin về Bảo hiểm xã hội thể hiện
trên 3 tờ báo Nhân Dân, Lao Động, Sức khoẻ & Đời sống 53
2.2.1. Định hướng dư luận về chính sách Bảo hiểm xã hội 53
2.1.2. Tham gia xây dựng Luật Bảo hiểm xã hội 64
2.1.3. Phát hiện, đề xuất giải pháp hoàn thiện chính sách
Bảo hiểm xã hội 68
2.1.4. Phổ biến chế độ, chính sách Bảo hiểm xã hội 76
2.1.5. Giám sát, bảo vệ quyền lợi bảo hiểm xã hội
của người lao động 79
2.1.6. Phê bình, đấu tranh chống tiêu cực trong hoạt động
Bảo hiểm xã hội 86
2.1.7. Thông tin các mặt hoạt động Bảo hiểm xã hội 96
2.3. Một số số liệu thống kê khảo sát 98
2.3.1. Số lượng tác phẩm và nhóm thông tin phản ánh
về Bảo hiểm xã hội trên 3 tờ báo 99
2.3.2. Vị trí tác phẩm về đề tài Bảo hiểm xã hội trên mặt báo 100
2.3.3. Nhóm thông tin theo các chủ đề về Bảo hiểm xã hội trên báo 101

2.3.4.Nhận xét 101
2.4. Hình thức thông tin về Bảo hiểm xã hội trên 3 tờ báo
Nhân Dân, Lao Động, Sức khoẻ & Đời sống 103
2.4.1. Nhóm thể loại thường dùng để chuyển tải

3
thông tin Bảo hiểm xã hôi 103
2.4.2. Những đặc điểm ngôn từ được sử dụng
trong thông tin về Bảo hiểm xã hội 104
2.5.Dƣ luận xã hội đối với các thông tin về Bảo hiểm xã hội
trên báo chí 106
Tiểu kết chương 2 108
Chƣơng 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG THÔNG TIN
BẢO HIỂM XÃ HỘI TRÊN BÁO CHÍ 110
3.2 Nguyên tắc lựa chọn giải pháp 110
3.2.1. Nguyên tắc tính kế thừa 110
3.2.2. Nguyên tắc tính phù hợp 110
3.2.3. Nguyên tắc tính khả thi 111
3.2.4. Nguyên tắc tính thực tiễn 111
3.1.5. Nguyên tắc tính hiệu quả 111
3.2. Những giải pháp chủ yếu 112
3.2.1. Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo công tác thông tin
về bảo hiểm xã hội 112
3.2.3. Nâng cao năng lực cán bộ tổ chức thực hiện
công tác thông tin tuyên truyền về Bảo hiểm xã hội 116
3.2.4. Nâng cao chất lượng nội dung thông tin Bảo hiểm xã hội 118
3.2.5.Nâng cao chất lượng hình thức thông tin
về đề tài Bảo hiểm xã hội 121
3.2.6. Giải pháp về điều kiện thực hiện 125
Tiểu kết chương 3 128

KẾT LUẬN 129
Danh mục tài liệu tham khảo 131
Phụ lục

4

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong một xã hội hiện đại văn minh, sự phát triển của một quốc gia
không chỉ thuần tuý đƣợc đánh giá trên cơ sở sự phát triển kinh tế mà còn căn cứ
vào cách thức mà quốc gia đó "đối xử" với công dân của mình. Một trong những
hình thức cơ bản thể hiện sự chăm sóc của Nhà nƣớc đối với công dân của mình
đó chính là hệ thống các chính sách xã hội. Hay nói một cách khác, ngày nay,
chính sách xã hội là một trong những nhân tố cơ bản thể hiện cho sự văn minh và
phát triển của quốc gia.
Quan điểm xuyên suốt của Đảng ta trong xây dựng thể chế kinh tế thị
trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa nhằm thực hiện mục tiêu "Dân giàu, nƣớc
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh"; thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội ngay trong từng bƣớc và từng chính sách phát triển; phát triển kinh tế đi
đôi với phát triển văn hóa, y tế, giáo dục, bảo vệ và cải thiện môi trƣờng; kết hợp
phát triển kinh tế - xã hội với tăng cƣờng quốc phòng - an ninh , giải quyết tốt
các vấn đề xã hội vì mục tiêu phát triển con ngƣời. Cƣơng lĩnh của Đảng đã chỉ
rõ: "Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát
huy sức sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội"[17,
tr.321]. Với tƣ cách là một bộ phận cơ bản của chính sách xã hội, chính sách
BHXH có vai trò quan trọng, là trụ cột của hệ thống an sinh xã hội, có trách
nhiệm chăm lo cuộc sống, sức khoẻ của ngƣời dân trong cộng đồng.
Lịch sử ra đời và phát triển của BHXH (bao hàm cả BHYT) cho thấy mối
quan hệ mật thiết giữa BHXH với quá trình phát triển xã hội. Quá trình công

nghiệp hóa vào thế kỷ 18 đã dẫn đến việc hình thành và phát triển hệ thống
BHXH ở các nƣớc trên thế giới. BHXH dần dần trở thành một trụ cột cơ bản của

5
hệ thống an sinh xã hội và đƣợc tất cả các nƣớc thừa nhận là một trong những
quyền cơ bản của con ngƣời.
Ở nƣớc ta, BHXH đƣợc coi là trụ cột của hệ thống an sinh xã hội, ngày
càng khẳng định vị trí vai trò quan trọng, một công cụ đắc lực của Nhà nƣớc
nhằm mục đích chăm lo, bảo vệ và phát triển con ngƣời, bảo đảm ổn định chính
trị, an toàn xã hội, phát triển kinh tế - xã hội của đất nƣớc.
Bƣớc vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc và
hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới đã đặt ra những yêu cầu mới cao hơn đối
với chính sách BHXH ở nƣớc ta. Đại hội X của Đảng đã đặt ra nhiệm vụ: "Xây
dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng; phát triển mạnh hệ thống BHXH, BHYT,
tiến tới BHYT toàn dân". Đồng thời yêu cầu phải: "Đổi mới hệ thống BHXH, đa
dạng hóa hình thức bảo hiểm phù hợp với kinh tế thị trường; xây dựng chế độ
bảo hiểm thất nghiệp "
Là một chính sách xã hội lớn của Đảng và Nhà nƣớc ta, với bản chất nhân
ái, nhân văn, vì con ngƣời, vì sự tiến bộ và công bằng xã hội, BHXH là nguồn đề
tài rộng lớn, phù hợp với nguyên tắc hoạt động và nhiệm vụ chính trị của báo chí
cách mạng. Nhờ có báo chí thông tin, xã hội từng bƣớc nâng cao nhận thức, hiểu
biết, cảm thông, chia sẻ và đồng tình ủng hộ chính sách BHXH. Tác động tích
cực của thông tin báo chí là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ
của chính sách BHXH, đóng góp tích cực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nƣớc.
Dƣới tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, cũng nhƣ sự
phát triển nhanh chóng của các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, thông tin báo
chí đã trở thành một lực lƣợng vô cùng quan trọng trong xã hội ngày nay. Nó
làm thay đổi diện mạo cuộc sống hiện đại, ảnh hƣởng đến chất lƣợng sống, lối
sống của từng con ngƣời, tác động đến tất cả các khía cạnh, bình diện của xã hội

và cả tự nhiên xét theo nghĩa rộng.

6
Đất nƣớc ta bƣớc vào thời kỳ mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đã đặt ra những yêu cầu mới đối với công tác
thông tin tuyên truyền về BHXH. Đòi hỏi cần có sự nghiên cứu sâu sắc hơn
những vấn đề lý luận và thực tiễn giữa báo chí với vấn đề BHXH, nhằm đƣa ra
những giải pháp nâng cao hiệu quả thông tin về BHXH, đáp ứng yêu cầu của
thực tiễn.
Với lý do trên, chúng tôi chọn nội dung nghiên cứu "Báo chí với vấn đề
BHXH".
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy việc nghiên cứu về BHXH ở nƣớc ta
còn khá mới mẻ. Hiện tại, một số trƣờng đại học nhƣ Lao động xã hội, Công
đoàn mới đƣa chuyên ngành BHXH vào giảng dạy. Trƣờng đại học Kinh tế quốc
dân, Học viện Tài chính mới sơ khai bộ môn BHXH trong chuyên ngành kinh tế
bảo hiểm. Ngay tại Trung tâm Đào tạo và Bồi dƣỡng nghiệp vụ của BHXH Việt
Nam cũng còn đang nghiên cứu xây dựng giáo trình giảng dạy, bồi dƣỡng về
BHXH cho cán bộ, công chức trong ngành.
Về Báo chí truyền thông, năm 2006, tại Khoa Báo chí của Trƣờng Đại học
Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội mới chỉ có một Luận văn Thạc sĩ Báo chí
của Nguyễn Thị Thu Hƣơng với Đề tài: “Báo chí với vấn đề An sinh xã hội”,
nghiên cứu về mối quan hệ của báo chí với các vấn đề an sinh xã hội nói chung,
trong đó vấn đề BHXH đƣợc đề cập rất ít. Còn trƣớc đó có một vài khoá luận tốt
nghiệp cử nhân báo chí nghiên cứu về mối quan hệ của Báo chí với vấn đề
BHYT, một trong những lĩnh vực hẹp của BHXH.
Tóm lại, về mối quan hệ giữa Báo chí và BHXH từ trƣớc đến nay chƣa có
công trình nào nghiên cứu một cách đầy đủ và hệ thống vấn đề mà Đề tài của
chúng tôi quan tâm. Do đó, Đề tài nghiên cứu mối quan hệ giữa Báo chí và vấn
đề BHXH là độc lập, không trùng lặp với các nghiên cứu trƣớc đây. Tuy nhiên,


7
do tính chất bao trùm, rộng lớn của lĩnh vực truyền thông báo chí và tính trụ cột
của BHXH trong hệ thống an sinh xã hội, nên trong quá trình nghiên cứu, chúng
tôi tham khảo thêm kết quả các nghiên cứu và có những đề xuất mới, phù hợp
với yêu cầu thực tiễn đang đặt ra.
Trong quá trình nghiên cứu, nguồn tƣ liệu trong nƣớc để tham khảo không
nhiều, chủ yếu chúng tôi thu thập đƣợc qua các tài liệu về BHXH nƣớc ngoài,
các văn bản, chính sách của Nhà nƣớc và kết quả khảo sát trên các tờ báo nói
chung và 3 tờ Báo Nhân Dân, Lao động và Sức khoẻ và Đời sống.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích:
- Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và mối quan hệ giữa BHXH và Báo chí,
kết hợp với khảo sát thực tiễn thông tin về BHXH trên báo chí, Luận văn đề xuất
một số giải pháp nhằm nâng cao chất lƣợng thông tin về lĩnh vực này trong thời
gian tới.
3.2. Nhiệm vụ:
Để đạt mục đích trên, Luận văn tập trung làm rõ những nội dung chủ yếu
sau đây:
- Trình bày một cách có hệ thống cơ sở lý luận về thông tin báo chí và
BHXH; mối quan hệ giữa Báo chí với vấn đề BHXH.
- Đánh giá thực trạng thông tin về BHXH trên báo chí, làm cơ sở cho việc
nghiên cứu xây dựng giải pháp phát huy ƣu điểm, khắc phục hạn chế.
- Xây dựng những nhóm giải pháp cơ bản nhằm nâng cao chất lƣợng
thông tin về BHXH trên báo chí, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đang đặt ra.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của Luận văn
- Mở ra một hƣớng nghiên cứu về lĩnh vực truyền thông BHXH, nhằm góp
phần thực hiện tốt định hƣớng của Đảng: "Mở rộng BHXH cho mọi người lao
động và tiến tới BHYT toàn dân".


8
- Qua việc nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tiễn, Luận văn là một tài
liệu tham khảo, góp phần vào hệ thống tƣ liệu khoa học về báo chí truyền thông,
nhằm phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy, học tập về báo chí hiện nay.
- Luận văn cũng mở ra một hƣớng nghiên cứu, tiếp cận đối với lý luận và
thực hành báo chí truyền thông hiện đại nói chung, góp phần nâng cao hiệu quả
truyền thông của báo chí trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nƣớc.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
5.1. Đối tượng nghiên cứu:
- Đối tƣợng nghiên cứu của Luận văn là thông tin của 3 tờ báo về bảo
hiểm xã hội.
5.2. Phạm vi nghiên cứu:
BHXH là một chính sách xã hội lớn của Đảng và nhà nƣớc, công tác tuyên
truyền cổ động cho lĩnh vực này là nhiệm vụ thƣờng xuyên của các phƣơng tiện
thông tin đại chúng, trong khuôn khổ Luận văn, chúng tôi chỉ tập trung nghiên
cứu thông tin về BHXH đƣợc thể hiện trên 3 tờ báo Nhân Dân, Lao động, Sức
khoẻ và Đời sống trong hai năm 2006 và 2007. Đây là những tờ báo có đặc thù
liên quan nhiều đến hoạt động BHXH.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và
tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đƣờng lối, chính sách của Đảng và Nhà
nƣớc về BHXH và sự nghiệp thông tin đại chúng.
- Sử dụng phƣơng pháp nghiên cứu lý luận, khảo sát thực tiễn kết hợp với
các phƣơng pháp lịch sử, lôgíc, thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp, lấy ý kiến
chuyên gia… để làm sáng tỏ vấn đề.

7. Kết cấu của Luận văn

9

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, phần nội dung của
Luận văn gồm có 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
Chƣơng 2: Thực trạng thông tin về Bảo hiểm xã hội trên báo chí
Chƣơng 3: Giải pháp nâng cao chất lượng thông tin Bảo hiểm xã hội trên báo
chí
Chƣơng I
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1. Cơ sở lý luận về thông tin báo chí
1.1.1. Khái niệm thông tin, thông tin báo chí
* Khái niệm thông tin
Trong lịch sử tồn tại và phát triển của mình, con ngƣời thƣờng xuyên cần
đến thông tin. Ngày nay, với sự bùng nổ thông tin, thông tin càng trở thành một
trong những nhu cầu sống còn của con ngƣời và khái niệm "thông tin" đang trở
thành khái niệm cơ bản chung của nhiều khoa học.
Khái niệm "thông tin" đƣợc bắt nguồn từ chữ La tinh informetio, gốc của
từ tiếng Anh information. Hai ông Philipppe Breton và Serge Proulx trong cuốn
sách "Bùng nổ thông tin và sự ra đời một ý thức hệ mới" [35] giải thích rằng:
Khái niệm này có hai hƣớng nghĩa: Thứ nhất là, nói về một hành động cụ thể để
tạo ra một hình thái (frome), thứ hai là, nói về sự truyền đạt một ý tƣởng, một
khái niệm hay biểu tƣợng. Hai hƣớng nghĩa này cùng tồn tại, một nhằm vào sự
tạo lập cụ thể, một nhằm vào sự tạo lập kiến thức và truyền đạt. Nó thể hiện sự
gắn kết của hai lĩnh vực kỹ thuật và kiến thức.
Sau khi nêu ra nghĩa của tiếng Anh, từ nguyên gốc La tinh: information,
đƣợc hiểu = quan niệm, hình ảnh, sự lý giải, bài học; informare = sự tạo hình
thức phản ánh, thuật ngữ thông tin đƣợc tác giả Phạm Thành Hƣng định nghĩa:
“Từ góc độ nhận thức luận, thông tin là kết quả của sự phản ánh hiện thực

10

khách quan, được biểu hiện bằng các hệ thống ngôn từ, ký hiệu, hình ảnh v.v.
Thông tin đồng nghĩa với các hình thái tri thức mới mẻ, có giá trị phát triển sự
hiểu biết của con người. Từ góc độ khoa học kỹ thuật, thông tin là số liệu, dẫn
liệu mà ta có thể lấy ra phân tích, so sánh, phân loại, giải thích, khái quát, tổ
chức lại, từ đó mà rút ra được những ý nghĩa, giá trị nào đó về tính chất, đặc
trưng của các sự vật, hiện tượng nào đó cũng như các quy luật tồn tại và vận
động của chúng”[28]
Theo quan điểm của triết học, thông tin là một hiện tƣợng vốn có của vật
chất, là thuộc tính khách quan của thế giới vật chất. Nội dung của thông tin chính
là những thuộc tính, tính chất vốn có của sự vật với các sự vật hiện tƣợng đƣợc
bộc lộ ra, thể hiện thông qua tác động qua lại của sự vật ấy với sự vật khác.
Thông tin luôn gắn với quá trình phản ánh. Những dấu ấn để lại chính là những
thông tin của hệ thống vật chất này đối với hệ thống vật chất khác. Phản ánh của
vật chất là phản ánh thông tin, không có thông tin chung chung mà thông tin là
thông tin về sự vật này đối với sự vật khác.
Theo các tác giả cuốn “Cơ sở lý luận báo chí”, do Học viện Chính trị
Quốc gia Hồ Chí Minh, Phân viện Báo chí và Tuyên truyền, Nhà xuất bản van
hóa - Thông tin xuất bản năm 1999, từ “Thông tin” đƣợc sử dụng với những ý
nghĩa khác nhau trong các tình huống cụ thể: “Thông tin là một loại hình hoạt
động để chuyển đi các nội dung thông báo. Hoạt động thông tin không chỉ có
trong xã hội loài người. Ngay trong thiên nhiên cũng có những hoạt động thông
tin phức tạp, đa dạng của các loại động vật khác nhau; Thông tin được dùng để
chỉ chất lượng nội dung của thông báo nói chung. Trong trường hợp này, người
ta xem xét chất lượng nội dung thông báo bằng “lượng thông tin” được chuyển
đến đối tượng tiếp nhận”[45, tr.23]
Nhà xã hội học Mỹ, Mác Luhan có quan niệm về thông tin chính là thông
điệp nhƣng giá trị của nó phụ thuộc vào phƣơng tiện chuyển tải: "Thông tin là

11
một thông điệp chỉ có giá trị tuỳ theo loại phương tiện truyền thông đã truyền

đạt nó"[32, tr.12]
Từ điển tiếng Việt định nghĩa: "Thông tin với nghĩa động từ là truyền
tin cho nhau để biết; và với nghĩa danh từ là điều được truyền đi cho biết, tin
truyền đi (ví dụ bài báo có lƣợng thông tin cao)[50] .
Nhƣ vậy, thông tin đƣợc hiểu theo hai nghĩa: Thứ nhất, đó chính là nội
dung thông tin; Thứ hai, đó là phương tiện chuyển tải, thông báo, báo tin.
Chiến lƣợc phát triển thông tin đến năm 2010 của Thủ tƣớng Chính phủ đã
nêu khái niệm: "Thông tin được coi là một nhu cầu thiết yếu trong đời sống xã
hội, là công cụ để điều hành, quản lý, chỉ đạo của mỗi quốc gia, là phương tiện
hữu hiệu để mở rộng giao lưu hiểu biết giữa các quốc gia, dân tộc, là nguồn
cung cấp tri thức mọi mặt cho công chúng và là nguồn lực phát triển kinh tế - xã
hội". Chiến lƣợc phát triển thông tin của Thủ tƣớng Chính phủ đã nhận định: Sự
chênh lệch về trình độ phát triển thông tin giữa các nƣớc là một đặc điểm về quy
mô và trình độ phát triển trong thời kỳ cách mạng khoa học và công nghệ. Nƣớc
nào không vƣợt qua đƣợc những thách thức về thông tin, nƣớc đó mất cơ hội
phát triển và có nguy cơ mất khả năng tự chủ. Thiếu thông tin, sẽ gặp khó khăn
trong việc đƣa ra các quyết định hoặc các quyết định sẽ bị sai lệch, thiếu cơ sở
khoa học, không thực tiễn và trở nên kém hiệu quả.
* Thông tin báo chí
Trong tiến trình phát triển của lịch sử văn hoá nhân loại, báo chí là một
hiện tƣợng xã hội, ra đời do nhu cầu thông tin giao tiếp, giải trí và nhận thức của
con ngƣời. Thông tin là một hiện tƣợng vốn có của thế giới vật chất. Lần đầu
tiên thông tin đƣợc con ngƣời chú ý nghiên cứu về mặt ý nghĩa xã hội của nó và
đƣợc đề cập đến trong lý thuyết báo chí vào những năm 20 - 30 của thế kỷ XX.
Theo cách hiểu kinh điển thì "Thông tin chính là những cái mới khác với những
điều đã biết" [25].

12
Theo tác giả E.P.Prôkhôrốp viết trong cuốn "Cơ sở lý luận của báo chí"
ấn hành năm 2001, hiện đang làm giáo trình giảng dạy cho sinh viên ngành báo

chí của các trƣờng đạo học và cao đẳng ở Nga: "Từ "Thông tin" trong ngành
báo chí cũng được sử dụng theo nhiều nghĩa, từ lâu nó đã được dùng trong ba
nghĩa có quan hệ mật thiết với nhau: đó là các thông báo ngắn không bình chú
về các tin tức nóng hổi của đời sống trong nước và quốc tế; là danh mục nhóm
thể loại tin tức (các loại hình thông tin: tin ngắn, báo cáo, tường thuật, phỏng
vấn); cuối cùng "Thông tin" đôi khi được hiểu là thể loại tin ngắn"[20, tr.26].
Theo quan niệm của tác giả Phạm Thành Hƣng, trong cuốn “Thuật ngữ
Báo chí -Truyền thông”: “Trong báo chí học và nghiên cứu truyền thông, thông
tin đồng nghĩa với những số liệu, kết luận hàm súc, có một hình thức dƣờng nhƣ
không cần bình luận, bàn cãi về các sự kiện, hiện tƣợng, vấn đề xã hội cụ
thể”[28].
Thông tin là chức năng sơ khởi của báo chí, theo nghĩa sử dụng phƣơng
tiện kỹ thuật để phổ biến kết quả lao động sáng tạo của nhà báo. Thực hiện chức
năng thông tin, báo chí cung cấp cho công chúng về tất cả các vấn đề, sự kiện
của đời sống xã hội, đáp ứng nhu cầu khám phá, tìm hiểu thế giới tự nhiên, xã
hội.
Trong một thế giới hiện thực chứa đầy lƣợng thông tin, báo chí có cách
riêng của mình để phản ánh hiện thực với mục đích tác động tới nhiều tầng lớp
xã hội với những mối quan tâm, sở thích và nhu cầu khác nhau. Chính điều đó đã
khiến cho báo chí trở thành một hoạt động thông tin đại chúng rộng rãi và năng
động nhất mà không một hình thái ý thức xã hội nào có đƣợc.
Nhƣ vậy, khái quát lại thông tin báo chí cũng đƣợc hiểu theo hai nghĩa:
Thứ nhất, đó là tri thức, tƣ tƣởng do nhà báo tái tạo và sáng tạo từ hiện
thực cuộc sống. Tất cả những vấn đề, sự kiện, hiện tƣợng trong tự nhiên và xã
hội đƣợc báo chí phản ánh nhằm phục vụ nhu cầu tìm hiểu, khám phá của con

13
ngƣời.
Thứ hai, đó là phƣơng tiện, công cụ chuyển tải tác phẩm báo chí tới công
chúng.

Trong hoạt động báo chí, thông tin là công cụ chủ yếu để nhà báo thực
hiện mục đích của mình. Thông tin trở thành "cầu nối" giữa báo chí và công
chúng. Căn cứ việc phân loại theo phƣơng thức thể hiện, ngƣời ta chia thông tin
báo chí thành các loại hình: Thông tin bằng chữ viết (báo in); thông tin bằng
tiếng nói (phát thanh); thông tin bằng hình ảnh (truyền hình); thông tin trên mạng
internet (đa phƣơng tiện).
Trong thực tiễn báo chí, thuật ngữ "Thông tin" có nhiều cách sử dụng khác
nhau, có khi chỉ là cái tin vắn, tin ngắn, bài bình luận, phóng sự, phỏng vấn, một
chƣơng trình phát thanh, truyền hình, các tiêu đề, vị trí của tác phẩm trên các cột
báo, giọng đọc của phát thanh viên, các cỡ chữ hay cách xếp chữ trên các tờ
báo chúng đều có chứa đựng thông tin.
Thuật ngữ "Thông tin" trong hoạt động báo chí còn có có cách hiểu rộng
hơn, chúng còn đƣợc hiểu nhƣ một danh từ tập hợp. Chúng ta có thể gọi toàn bộ
tác phẩm, hay hệ thống những tin tức là thông tin.
Thông tin báo chí là dạng thông tin xã hội đặc thù, mang tính thời sự, phổ
cập và rất quan trọng về phƣơng diện chính trị - xã hội. Để xã hội loài ngƣời tồn
tại và phát triển, con ngƣời cần nhiều loại hoạt động nhƣ sản xuất của cải vật chất
để duy trì sự sống, sáng tạo nghệ thuật để thỏa mãn tinh thần. Một phần của sự hoạt
động đó là hoạt động báo chí nhằm cung cấp cho công chúng những thông tin, tức
là thông báo cho công chúng biết mọi sự kiện, hiện tƣợng diễn ra hàng ngày trong
đời sống xã hội. "Nhưng thông tin báo chí là những thông tin chính trị - xã hội.
Nghĩa là thông tin báo chí bao giờ cũng chứa đựng những giá trị xã hội hay chính
trị. Thông tin là đặc trưng của ngành truyền thông đại chúng so với các ngành
khác"[43, tr.51,52].

14
Thông tin báo chí đƣợc hiểu theo nghĩa rộng, hàm chứa cả những tin tức về
các lĩnh vực khác của đời sống kinh tế - xã hội. Trong một xã hội có giai cấp, các
quá trình kinh tế, xã hội, tinh thần đều có nội dung giai cấp và đƣợc quản lý với ý
thức về lợi ích của giai cấp thống trị chính trị. Do đó, thông tin về các quá trình đó

cũng mang tính khuynh hƣớng chính trị và đƣợc sử dụng nhƣ một thứ công cụ,
phƣơng tiện nhằm tác động vào xã hội để thực hiện các mục tiêu đã định trƣớc.
Ngày nay ai cũng biết con ngƣời cần thông tin về nhiều mặt, nhiều lĩnh
vực, nhất là thông tin về sự kiện chính trị và kinh tế xã hội. Xã hội có dân trí là
xã hội có thông tin báo chí phong phú. Xã hội hiện đại, dân trí cao, dân chủ tốt
thì tất yếu kinh phí chi cho dịch vụ thông tin báo chí phải chiếm tỷ lệ lớn trong
tổng kinh phí của đất nƣớc. Xuất phát từ quan điểm này, tác giả Nguyễn Uyển đã
viết trong cuốn "Nghề nghiệp và công việc của nhà báo" của Hội Nhà báo Việt
Nam, Hà Nội, 1992": "Dịch vụ thông tin là tối cần thiết, vì ở quốc gia nào cũng
vậy, thông tin là của cải, là tài nguyên, là hàng hoá, là trí tuệ và quyền uy của
Nhà nước. Ai nắm quyền thông tin thì người đó nắm quyền uy".
Đảng và Nhà nƣớc ta hết sức coi trọng và đánh giá cao vai trò của thông
tin. Đây không chỉ là phƣơng tiện cung cấp thông tin, cung cấp tri thức, là một
trong những công cụ giúp cho công tác chỉ đạo, điều hành đất nƣớc mà còn là
nơi để phản hồi những thông tin từ nhân dân đối với đƣờng lối, chủ trƣơng,
chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nƣớc, góp phần quan trọng thực hiện
dân chủ hoá trong đời sống xã hội. Thông tin thực sự là công cụ cung cấp tri
thức, dự báo sự phát triển đồng thời cũng là động lực thúc đẩy sự phát triển. Đời
sống nhân dân đƣợc cải thiện, trình độ dân trí ngày càng đƣợc nâng cao nên nhu
cầu thông tin của nhân dân đòi hỏi ngày càng cao hơn.
1.1.2. Tiêu chí đánh giá chất lượng thông tin báo chí
Chất lƣợng là cái tạo nên phẩm chất, giá trị của một con ngƣời, một sự
vật[50]. Chất lƣợng theo quan điểm của Triết học Mác - Lênin, đó là hai mặt có

15
mối quan hệ biện chứng của mỗi sự vật, hiện tƣợng. Chất là tính quy định vốn có
của các sự vật và hiện tƣợng, là sự thống nhất hữu cơ những thuộc tính, những
yếu tố cấu thành sự vật, nói lên sự vật đó là gì, phân biệt nó với các sự vật và
hiện tƣợng khác. Lƣợng là tính quy định của sự vật và hiện tƣợng về mặt quy
mô, trình độ phát triển của nó, biểu thị con số các thuộc tính, các yếu tố cấu

thành nó. Quá trình thay đổi về của lƣợng tạo điều kiện cho chất đổi và ngƣợc
lại, khi chất mới ra đời, nó lại tạo ra một lƣợng mới phù hợp với nó. Quy luật
những thay đổi về lƣợng dẫn đến những thay đổi về chất và ngƣợc lại là một
trong ba quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Quy luật này nói lên cách
thức của sự vận động và phát triển của sự vật và hiện tƣợng.
Trong hoạt động báo chí, nhận thức về chất lƣợng thông tin song song với
nhận thức về chức năng và đối tƣợng phản ánh của báo chí. Muốn có sự nhận
thức đúng đắn về thông tin, cần xác định đƣợc mục đích hoạt động của báo chí,
đồng thời phải nêu lên định hƣớng có tính nguyên tắc cho những hoạt động thực
tiễn của một nền báo chí. Sự định hƣớng rõ ràng sẽ trang bị cho nhà báo phƣơng
pháp thông tin và biết cách vận dụng thông tin có hiệu quả để thực hiện chức
năng của báo chí. Một hƣớng quan trọng trong cách tiếp cận thông tin báo chí là
mỗi chƣơng trình, mỗi tác phẩm phải đƣợc xem xét kỹ lƣỡng trong hệ thống
những mối quan hệ giữa báo chí và công chúng. Tác phẩm báo chí là điểm trung
gian trong mối quan hệ: Nhà báo - Tác phẩm - Công chúng. Tác phẩm báo chí
khi đƣợc đăng tải, phát sóng, mới chỉ dừng lại ở thông tin tiềm năng, vì thông tin
đó chƣa chắc đã đƣợc công chúng tiếp nhận. Ngƣời làm báo phải tìm mọi cách
biến thông tin tiềm năng thành thông tin hiện thực. Tính chất thực tiễn của thông
tin là tiêu chuẩn để đánh giá giá trị của thông tin cao hay thấp, tức là có mang
đến cho công chúng những thông tin phù hợp với nhu cầu của họ không và có
khả năng chuyển thông tin tiềm năng thành thông tin hiện thực không.
Lý luận báo chí truyền thông đã chỉ ra các tiêu chí đánh giá chất lƣợng

16
thông tin, đó là tính độc đáo, tính đại chúng và tính hợp thời (đúng lúc).
* Tính độc đáo của thông tin, là cái mới mà công chúng chƣa biết. Nhƣng
cái mới không phải là cái duy nhất thể hiện tính độc đáo. Cùng với sự đòi hỏi tất
yếu của cái mới, có thể tái hiện thông tin cũ đã bị lãng quên, giúp cho công
chúng có thêm tƣ liệu để nhận thức tốt hơn sự kiện mới. Tuy nhiên, những thông
tin đƣợc nhắc lại sẽ vô bổ, thậm chí có hại khi cái mới, cái độc đáo bị chìm đi

trong một loạt cái cũ; khi cái cũ không đóng vai trò bổ sung mà lại cản trở việc
nhận thức cái mới.
* Tính đại chúng (dễ hiểu): Để công chúng nhận thức nội dung tác phẩm
tƣơng ứng với ý đồ tác giả, đòi hỏi ngôn ngữ của báo chí (cách viết, cách thể
hiện ) phải đƣợc công chúng nhận thức đầy đủ. Nếu không thực hiện đƣợc
nguyên tắc tính đại chúng của ngôn ngữ sẽ dẫn đến tình trạng là công chúng
không hiểu đƣợc tác phẩm.
* Tính hợp thời (đúng lúc): Những tác phẩm báo chí xuất hiện đúng lúc,
đáp ứng đƣợc nhu cầu của công chúng và sự quan tâm của họ trong thời điểm đó
thì tác phẩm sẽ có giá trị hơn, tạo sự hứng thú, hấp dẫn công chúng. Lƣợng thông
tin còn phụ thuộc vào tính thời điểm của nó. Trong thời đại ngày nay, lƣợng
thông tin phụ thuộc một cách quyết định vào tính kịp thời, đúng lúc, nhanh nhạy.
Báo chí làm đƣợc những điều trên sẽ làm tăng giá trị của thông tin, nếu thông tin
chậm, hiệu quả sẽ ngƣợc lại và lƣợng của nó sẽ bằng không. Là sự phản ánh hiện
thực, thông tin có nội dung khách quan đồng thời lại mang tính chủ quan. Do
vậy, việc sử dụng thông tin vào hoạt động truyền thông đại chúng cũng nhƣ việc
tiếp nhận thông tin ở mỗi ngƣời đều không diễn ra một cách thụ động mà phải có
sự kiểm định, xử lý lại thông tin. Những thông tin chính xác, khách quan, đầy
đủ, trung thực sẽ đƣợc sử dụng, tiếp nhận. Ngƣợc lại, những thông tin giả dối,
ngụy tạo, phiến diện sẽ bị loại bỏ, phủ nhận. Tiêu chí đánh giá một thông tin tốt
là: khách quan, chính xác, đầy đủ, kịp thời, thích hợp và bất ngờ. Trong các tiêu

17
chí đó, kịp thời và bất ngờ là hai yếu tố tạo nên mặt đặc thù của thông tin báo
chí. Yếu tố kịp thời tạo nên tính thời sự. Yếu tố bất ngờ tạo nên sự quý hiếm của
thông tin báo chí. Có nhiều luận thuyết thống nhất cho rằng: giá trị của tin tức tỷ
lệ nghịch với tần số xuất hiện của sự kiện, hiện tƣợng, điều gì càng ít xảy ra, tin
tức về nó càng trở lên quý hiếm, có giá. Lý thuyết này cũng bị bác bỏ, vì nó chỉ
phù hợp nhất với dạng tin giật gân, câu khách trong nghề báo.
Tiêu chí đánh giá tác phẩm báo chí chất lƣợng cao, đƣợc các cơ quan quản

lý nhà nƣớc nghiên cứu quy định cụ thể, đó là: "Những tác phẩm mang lại hiệu
quả thiết thực cho toàn xã hội hoặc một vùng miền, địa phương; có nhiều tìm tòi,
phát hiện những vấn đề mới nảy sinh trong cuộc sống hàng ngày; có nội dung
phù hợp, hấp dẫn người đọc, người nghe, người xem; phù hợp với quan điểm chỉ
đạo, tuyên truyền, đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của
Nhà nước" [30].
Cơ sở lý luận báo chí truyền thông cũng chỉ ra rằng, tác phẩm báo chí là
một chỉnh thể, bao gồm hai yếu tố nội dung và hình thức. Hai yếu tố này có mối
quan hệ biện chứng, gắn bó hữu cơ, chi phối lẫn nhau tạo nên chất lƣợng tác
phẩm báo chí. Tác phẩm báo chí còn đƣợc hiểu rộng hơn, đó là cả trang báo, số
báo, tờ báo, chuyên mục, chƣơng trình phát thanh, truyền hình Do đó tiêu chí
đánh giá chất lƣợng thông tin báo chí phải coi trọng cả hai yếu tố nội dung và
hình thức thông tin.
Hoạt động báo chí là hoạt động có ý thức và mục đích của con ngƣời, bởi
vậy yêu cầu về tính hiệu quả báo chí phải đƣợc đặt lên hàng đầu. Hiệu quả báo
chí là việc vận dụng các quy luật, các nguyên tắc, hình thức, phƣơng thức hoạt
động báo chí giúp cho nó thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình nhằm đạt
mục đích đặt ra. Để báo chí hoạt động hiệu quả, trƣớc hết nội dung phải hay,
phải súc tích và hình thức thể hiện phải hấp dẫn.

18
- Về nội dung phải phong phú, mang lại cho công chúng một lƣợng thông
tin mới, phản ánh đúng, kịp thời, đi vào những vấn đề thiết thực nhất mà công
chúng đang quan tâm hoặc đang thiếu thông tin.
- Về hình thức, phải thỏa mãn nhu cầu mỹ cảm, tác động sâu sắc đến tình
cảm và suy nghĩ của đối tƣợng. Thông tin báo chí phải đƣợc chuyển tải bằng các
hình thức, phƣơng pháp thể hiện thuyết phục, dễ hiểu. Nó không chỉ làm cho
công chúng thích thú mà còn khơi gợi đƣợc sự suy nghĩ theo hƣớng đúng và thúc
đẩy hành động tích cực của họ.
1.1.3. Nâng cao chất lượng thông tin báo chí

Nghiên cứu khái niệm thông tin báo chí đƣợc đặt trong mối quan hệ trực
tiếp với vấn đề hiệu quả báo chí, tức là ảnh hƣởng trực tiếp của thông tin đối với
công chúng, hƣớng dẫn nhận thức để họ có hành động đúng đắn. Nâng cao chất
lƣợng báo chí trong đời sống xã hội, mục tiêu cuối cùng là quan tâm tới tính hiệu
quả của thông tin. Hiệu quả của thông tin báo chí khi đƣợc phát huy sẽ trở thành
một sức mạnh to lớn, góp phần hình thành dƣ luận xã hội, xây dựng hệ tƣ tƣởng
chủ đạo của xã hội, biến nhận thức thành hành động theo chiều hƣớng tích cực
để góp phần cải tạo và xây dựng một xã hội tốt đẹp.
Thực trạng thông tin báo chí ở nƣớc ta trong những năm qua, bên cạnh
những tác dụng tích cực về tính chất, nội dung, hình thức và loại hình, thì tình
trạng thiếu cân đối, vừa có sự chồng chéo về nội dung và phân bố lại vừa có sự
thiếu hụt ở một số lĩnh vực và địa bàn. Nhu cầu thông tin của một bộ phận nhân
dân chƣa đƣợc đáp ứng đầy đủ, mức độ thụ hƣởng thông tin của các tầng lớp
nhân dân không đồng đều. "Ở một số lĩnh vực thông tin còn nặng yếu tố phổ
biến, truyền đạt, tính hai chiều và tính diễn đàn chưa được phát huy. Mặt trái
của cơ chế thị trường đã có những tác động tiêu cực, làm nảy sinh hiện tượng
giật gân, câu khách, không phù hợp với định hướng tư tưởng, chính trị và truyền
thống văn hoá dân tộc" [48].

19
Việc nâng cao chất lƣợng thông tin báo chí xuất phát từ yêu cầu tự thân
của hoạt động báo chí. Đặc biệt yêu cầu này càng thêm bức thiết, nhất là trong
thời đại bùng nổ thông tin và bối cảnh quốc tế và trong nƣớc tạo ra thời cơ lớn,
đồng thời cũng đặt ra những thách thức hết sức gay gắt cho lĩnh vực thông tin
nƣớc ta hiện nay. Chiến lƣợc phát triển thông tin đến năm 2010 ở nƣớc ta đƣợc
Thủ tƣớng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 219/2005/QQĐ - TTg, ngày
9/9/2005 nêu quan điểm định hƣớng quan trọng: Tất cả các loại hình thông tin
báo chí đều hƣớng tới một mục tiêu chất lƣợng cao, coi trọng chất lƣợng chính
trị, chất lƣợng văn hoá, chất lƣợng khoa học và chất lƣợng nghiệp vụ của thông
tin. Thông tin phải đảm bảo tính chân thật, tính giáo dục, tính nhân dân, tính

chiến đấu, phù hợp với lợi ích của đất nƣớc và của nhân dân; phải góp phần quan
trọng trong việc cung cấp tri thức, nâng cao dân trí, hình thành và định hƣớng dƣ
luận xã hội lành mạnh; tăng cƣờng sự đoàn kết, nhất trí về tƣ tƣởng chính trị và
tinh thần trong nhân dân; biểu dƣơng các nhân tố mới điển hình tiên tiến; tích
cực đấu tranh phê phán các quan điểm sai trái, thù địch, đấu tranh chống tiêu
cực, tham nhũng và các tệ nạn xã hội; giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa
dân tộc, tiếp thu văn hoá nhân loại. Thông tin phải thực sự đi trƣớc một bƣớc,
vừa làm tốt việc dự báo, định hƣớng phát triển xã hội, đồng thời phải là nguồn
lực thức đẩy sự phát triển xã hội.
Nhƣ vậy, việc nâng cao chất lƣợng thông tin báo chí là nâng cao chất
lƣợng nội dung, tăng hàm lƣợng thông tin của tác phẩm báo chí, đồng thời đổi
mới mạnh mẽ cách tiếp cận và phƣơng thức thể hiện thông tin.
* Về nội dung:
- Góp phần thực hiện công tác tƣ tƣởng, văn hoá theo đƣờng lối của Đảng,
Nhà nƣớc. Nội dung thông tin phải theo cả hai chiều từ Đảng, Nhà nƣớc, các tổ
chức xã hội đến nhân dân và ngƣợc lại từ nhân dân tới các cấp lãnh đạo, các cơ
quan quản lý, điều hành đất nƣớc.

20
- Các sự kiện, hiện tƣợng, quá trình, nhân vật mà báo chí thông tin đến
công chúng phải thực sự là thông tin cần thiết, có chọn lọc, với số lƣợng và chất
lƣợng thoả đáng, qua đó hƣớng dẫn dƣ luận, thúc đẩy hành động cách mạng của
quần chúng, đáp ứng những yêu cầu theo từng giai đoạn của công tác tƣ tƣởng
của Đảng.
- Góp phần nâng cao năng lực hoạt động thực tiễn của mỗi đối tƣợng tiếp
nhận nhằm thực hiện tốt những nhiệm vụ cách mạng trong từng thời kỳ xây dựng
và phát triển đất nƣớc.
- Giáo dục ý thức xã hội, quan điểm cách mạng theo tinh thần đổi mới của
Đảng, nâng cao tính tự giác, tích cực trong việc xây dựng và cải tạo xã hội, tôn
trọng pháp luật và có lối sống lành mạnh.

- Đẩy lùi, hạn chế tiêu cực, tệ nạn xã hội đấu tranh chống các thế lực thù
địch trong và ngoài nƣớc.
- Làm cho nhân dân thế giới hiểu biết về Việt Nam và ngƣợc lại, thúc đẩy
quá trình hợp tác quốc tế theo hƣớng độc lập dân tộc, dân chủ, hoà bình ổn định,
hợp tác cùng có lợi và tiến bộ xã hội.
* Về hình thức:
- Mỗi cơ quan báo chí cần tạo cho mình một phong cách riêng, một bản
sắc khu biệt với các cơ quan báo chí khác.
- Các yếu tố hình thức nhƣ trình bày, kết cấu, cách sử dụng ngôn ngữ, âm
thanh, hình ảnh, đồ họa, màu sắc, cần đƣợc vận dụng trên cơ sở phù hợp với nội
dung thông tin, để tạo bản sắc và tính hấp dẫn của tác phẩm báo chí.
- Xây dựng hệ thống chuyên mục phù hợp, sử dụng có hiệu quả các thể
loại báo chí để tạo sự phong phú, sinh động, hấp dẫn.
- Kỹ thuật in ấn, phát sóng, trang thiết bị cần hiện đại và đồng bộ; khâu
phát hành đảm bảo nhanh, kịp thời và đúng đối tƣợng phục vụ.
Việc thể hiện bài viết cho sinh động, hấp dẫn không phải chỉ là vấn đề thể

21
hiện, mà có vai trò rất quyết định, có ý nghĩa quan trọng trong việc chuyển tải nội
dung thông tin. Trong thƣ gửi lớp học viết báo Huỳnh Thúc Kháng tháng 5/1949, Hồ
Chủ tịch căn dặn: "Đối tượng của tờ báo là đại đa số dân chúng; một tờ báo không
được đại đa số ham chuộng thì không xứng đáng là một tờ báo. Muốn dân chúng
ham chuộng, coi tờ báo ấy là của mình thì:
Nội dung tức là các bài viết phải giản đơn, dễ hiểu, phổ thông thiết thực hoạt
bát. Và:
Hình thức tức là cách sắp đặt các bài, cách in phải sạch sẽ, sáng sủa"[31,
tr.625, 626].
V.I. Lênin cũng đã chỉ rõ: "Tính chất đơn điệu và sự chậm chễ đều không hợp
với nghề báo"[43, tr.188]. Đây cũng là những nhân tố quan trọng ảnh hƣởng tới sức
lôi cuốn, hấp dẫn của báo chí.

Tóm lại, hiệu quả báo chí phụ thuộc vào việc nâng cao chất lƣợng thông
tin báo chí. Nâng cao chất lƣợng báo chí trong đời sống xã hội, mục tiêu cuối
cùng là tính hiệu quả của thông tin. Muốn nâng cao hiệu quả báo chí phải tăng
cƣờng sự hợp tác giữa các bộ phận, các yếu tố nội dung và hình thức của tác
phẩm báo chí. Hiệu quả báo chí còn phụ thuộc vào sức hấp dẫn của việc truyền
thông tin, cách thể hiện thông tin. Cho nên, bên cạnh việc nâng cao chất lƣợng
nội dung, tăng cƣờng hàm lƣợng thông tin, việc lựa chọn những phƣơng thức
chuyển tải phù hợp và hình thức biểu hiện thông tin một cách sinh động, gây
đƣợc những xúc cảm tốt cũng là yêu cầu cần thiết đối với báo chí, làm cho báo
chí phát huy tác dụng thực sự trong việc hƣớng dẫn dƣ luận và đáp ứng nhu cầu
thông tin của công chúng.
Đầu năm 2008, trong buổi gặp gỡ báo chí nhân dịp đón Xuân Mậu Tý
Thủ tƣớng Chính phủ đã yêu cầu báo chí trong điều kiện cạnh tranh thông tin
quyết liệt phải cố gắng vƣơn lên, cung cấp thông tin mau lẹ, kịp thời, chính xác,
sắc sảo, đáp ứng nhu cầu thông tin của nhân dân, phục vụ sự điều hành của

22
Chính phủ. Thủ tƣớng mong muốn: "Thời gian tới, báo chí nước nhà có nhiều
tin, bài phong phú về thể loại, nội dung có giá trị cao hơn, đi vào lòng người,
góp phần định hướng, điều chỉnh hành vi xã hội của người dân cũng như định
hướng dư luận xã hội. Báo chí phát triển nhanh về số lượng song cũng phải đáp
ứng tốt yêu cầu về chất lượng, đủ sức cạnh tranh và có uy tín trong và ngoài
nước. Báo chí không được tự mãn với kết quả đạt được mà phải không ngừng
nâng cao chất lượng thông tin hơn nữa, có tác dụng chính trị, xã hội tốt hơn"[Bộ
TTTT, Website BCVT & CNTT, ngày 01/02/2008].
1.2. Cơ sở lý luận về Bảo hiểm xã hội
1.2.1.Sự cần thiết khách quan của Bảo hiểm xã hội
Con ngƣời muốn tồn tại và phát triển trƣớc hết phải ăn, mặc, ở và có sức
khoẻ Để thỏa mãn nhu cầu tối thiểu này, con ngƣời phải lao động làm ra những
sản phẩm cần thiết. Của cải xã hội càng nhiều, mức độ thoả mãn nhu cầu càng

cao, có nghĩa là việc thoả mãn nhu cầu phụ thuộc vào khả năng lao động của con
ngƣời.
Trong thực tế cuộc sống, không phải ngƣời lao động nào cũng có đủ điều
kiện về sức khỏe, khả năng lao động hoặc những may mắn khác để hoàn thành
nhiệm vụ lao động, công tác hoặc tạo nên cho mình và gia đình một cuộc sống
ấm no hạnh phúc. Ngƣợc lại, ngƣời nào cũng có thể gặp phải những rủi ro, bất
hạnh nhƣ ốm đau, tai nạn, hay già yếu, chết hoặc thiếu công việc làm do những
ảnh hƣởng của tự nhiên, của những điều kiện sống và sinh hoạt cũng nhƣ các tác
nhân xã hội khác Khi rơi vào các trƣờng hợp đó, các nhu cầu thiết yếu của con
ngƣời không vì thế mà mất đi. Trái lại, có cái còn tăng lên, thậm chí còn xuất
hiện thêm nhu cầu mới. Bởi vậy, muốn tồn tại, con ngƣời và xã hội loài ngƣời
phải tìm ra và thực tế đã tìm ra nhiều cách giải quyết khác nhau.
Để khắc phục những rủi ro, bất hạnh giảm bớt khó khăn cho bản thân và
gia đình thì ngoài việc tự mình khắc phục, ngƣời lao động phải đƣợc sự bảo trợ

23
của cộng đồng và xã hội. Sự tƣơng trợ dần dần đƣợc mở rộng và phát triển dƣới
nhiều hình thức khác nhau. Những yếu tố đoàn kết, hƣớng thiện đó đã tác động
tích cực đến ý thức và công việc xã hội của các Nhà nƣớc dƣới các chế độ xã hội
khác nhau. Trong quá trình phát triển xã hội, đặc biệt là từ sau cuộc cách mạng
công nghiệp, hệ thống BHXH đã có những cơ sở để hình thành và phát triển.
Quá trình công nghiệp hoá làm cho đội ngũ ngƣời làm công ăn lƣơng tăng lên,
cuộc sống của họ phụ thuộc chủ yếu vào thu nhập do lao động làm thuê đem lại.
Sự hẫng hụt về tiền lƣơng trong các trƣờng hợp bị ốm đau, tai nạn, rủi ro, bị mất
việc làm hoặc khi về già , đã trở thành mối đe doạ đối với cuộc sống bình
thƣờng của những ngƣời không có nguồn thu nhập nào khác ngoài tiền lƣơng. Sự
bắt buộc phải đối mặt với những nhu cầu thiết yếu hàng ngày đã buộc những
ngƣời làm công ăn lƣơng tìm cách khắc phục bằng những hành động tƣơng thân,
tƣơng ái (lập các quỹ tƣơng tế, các hội đoàn ); đồng thời, đòi hỏi giới chủ và
Nhà nƣớc phải có trợ giúp bảo đảm cuộc sống cho họ.

Năm 1850, lần đầu tiên ở Đức, nhiều bang đã thành lập quỹ ốm đau và
yêu cầu công nhân phải đóng góp để dự phòng khi bị giảm thu nhập vì bệnh tật.
Từ đó, xuất hiện hình thức bắt buộc đóng góp. Lúc đầu chỉ có giới thợ tham gia,
dần dần các hình thức bảo hiểm mở rộng ra cho các trƣờng hợp rủi ro nghề
nghiệp, tuổi già và tàn tật. Đến cuối những năm 1880, BHXH đã mở ra hƣớng
mới. Sự tham gia là bắt buộc và không chỉ ngƣời lao động đóng góp mà giới chủ
và Nhà nƣớc cũng phải thực hiện nghĩa vụ của mình (cơ chế ba bên). Tính chất
đoàn kết và san sẻ lúc này đƣợc thể hiện rõ nét: mọi ngƣời, không phân biệt già -
trẻ, nam - nữ, lao động phổ thông - lao động kỹ thuật, ngƣời khoẻ - ngƣời yếu
mà tất cả đều phải tham gia đóng góp vì mục đích chung.
Năm 1850, nƣớc Đức dƣới thời Thủ tƣớng Bismark, đã ban hành đạo Luật
BHXH đầu tiên trên thế giới. Theo đạo Luật này, hệ thống BHXH ra đời với sự
tham gia bắt buộc của cả ngƣời làm công ăn lƣơng và cả giới chủ. Nhà nƣớc bảo

24
đảm một số chế độ và giữ vai trò quản lý, đinh hƣớng hoạt động của BHXH. Sau
đó, nhiều nƣớc châu Âu cũng cho ra đời các đạo luật của mình. Mô hình này của
Đức đã lan dần ra châu Âu, sau đó sang các nƣớc Mỹ Latinh, rồi đến Bắc Mỹ và
Canada vào những năm 30 của thế kỷ XX. Sau chiến tranh thế giới thứ hai,
BHXH đã lan rộng sang các nƣớc giành đƣợc độc lập ở châu Á, châu Phi và
vùng Caribê. BHXH dần dần đã trở thành một trụ cột cơ bản của hệ thống an
sinh xã hội và đƣợc tất cả các nƣớc thừa nhận là một trong những quyền con
ngƣời. Có thể nói, qua nhiều thời kỳ, cùng với sự tranh chấp giữa
nhiều vấn đề của giới chủ và giới thợ, cùng với sự đổi mới quá trình phát triển
kinh tế xã hội, cùng với trình độ chuyên môn và nhận thức về BHXH của ngƣời
lao động ngày càng đƣợc nâng cao, cách thức chủ động khắc phục khi có những
sự kiện hoặc không may gặp những rủi ro xảy ra ngày càng hoàn thiện. Tuy
nhiên, chỉ đến khi có sự ra đời của BHXH thì những tranh chấp cũng nhƣ những
khó khăn mới đƣợc giải quyết một cách ổn thoả và có hiệu quả nhất. Đó cũng
chính là cách giải quyết chung nhất cho xã hội loài ngƣời trong quá trình phát

triển, lấy số đông bù cho số ít, chia sẻ rủi ro, tƣơng trợ giúp đỡ lẫn nhau vƣợt qua
hoạn nạn, ốm đau.
Sự xuất hiện của BHXH là một tất yếu khách quan khi mà mọi thành viên
trong xã hội đều cảm thấy sự cần thiết phải tham gia hệ thống BHXH và sự cần
thiết đƣợc BHXH. Vì vậy, BHXH đã trở thành nhu cầu và quyền lợi của ngƣời
lao động và đƣợc thừa nhận là một nhu cầu tất yếu khách quan, một trong những
quyền lợi của con ngƣời đã đƣợc xác định trong Tuyên ngôn nhân quyền của Đại
hội đồng Liên hợp quốc.

1.2.2. Khái niệm, bản chất, đặc trưng của Bảo hiểm xã hội
1.2.2.1. Khái niệm Bảo hiểm xã hội:

×