Tải bản đầy đủ (.pdf) (173 trang)

Báo chí với vấn đề nhân tài và sử dụng nhân tài hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.63 MB, 173 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



LÊ QUANG HUY





BÁO CHÍ VỚI VẤN ĐỀ NHÂN TÀI
VÀ SỬ DỤNG NHÂN TÀI HIỆN NAY






LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC BÁO CHÍ












HÀ NỘI – 2007



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN



LÊ QUANG HUY



BÁO CHÍ VỚI VẤN ĐỀ NHÂN TÀI
VÀ SỬ DỤNG NHÂN TÀI HIỆN NAY

Chuyên ngành : Báo chí học
Mã số : 60 32 01



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC BÁO CHÍ



Người hướng dẫn khoa học: TS. Đậu Ngọc Đản






HÀ NỘI - 2007






1
MỞ ĐẦU
Ngày nay, khi nói đến sức mạnh của một quốc gia, mọi người đều
thừa nhận rằng, nguồn nhân lực, nhân tài là yếu tố quan trọng nhất, quyết định
nhất. Trong đú, nhõn tài là bộ phận tinh tỳy, cú giỏ trị nhất của nguồn nhõn
lực quốc gia. Vỡ vậy, việc nghiờn cứu và phỏt triển nhõn tài, đào tạo bồi
dưỡng nhân tài, thu hút và sử dụng nhân tài đó trở thành quốc sỏch của nhiều
quốc gia.
Đảng và Nhà nước ta đang có nhiều chủ trương chính sách để thu hút
người tài phục vụ công cuộc xây dựng đất nước. Trên nhiều lĩnh vực, đã xuất
hiện nhiều tấm gương, cỏc điển hình tiên tiến, cỏc nhõn tài. Họ đó cú những
đóng góp rất đáng kể cho đất nước. Việc cổ vũ các cá nhân, điển hình này là
việc làm rất cần thiết, khơi dậy lòng tự hào dân tộc, sự đam mê nghiên cứu
khoa học, đam mê làm giàu chính đáng, cống hiến sức trẻ cho đất nước.
Tuy nhiên hiện nay, chính sách trọng dụng người tài ở nước ta vẫn
còn rất nhiều bất cập: có lúc, có nơi người tài bị đố kỵ, không được trọng
dụng, không có môi trường làm việc chuyên nghiệp, cỏc ngành, cỏc cấp chưa
có cơ chế thông thoáng, chế độ đãi ngộ cho họ, chính sách thu hút người tài ở
các địa phương chỉ là hình thức, không có thực chất Chính vì vậy, người tài
chưa phát huy được hết sức lực và trí tuệ của mình cho sự nghiệp đổi mới.
Báo chí nước ta, bên cạnh việc nhiều nhiệm vụ tuyờn truyền quan

trọng khác, những năm gần đây, đó cú tiếng núi rất mạnh mẽ trong việc tuyên
truyền về chương trỡnh tuyển chọn, đào tạo, sử dụng và phát huy nhõn tài cho
đất nước. Đó là một mảng đề tài đang được một số tờ báo coi là trọng tâm
hiện nay, nhất là các tờ báo là diễn đàn của thanh niên, sinh viên học sinh
Báo chí đó gúp phần to lớn trong việc tạo ra một nhận thức mới trong xó hội
về vấn đề nhân tài và sử dụng nhân tài, đưa ra nhiều kiến nghị và giải phỏp
cho kế sỏch nhõn tài của Đảng, Nhà nước. Nghiờn cứu về bỏo chớ trong
phạm vi tuyên truyền về vấn đề nhân tài và phát huy vai trò của nhân tài trong


2
cụng cuộc xây dựng đất nước có ý nghĩa thiết thực đối với công tác lý luận,
nghiên cứu báo chí và chính sách đào tạo, trọng dụng nhân tài trong xã hội ta
hiện nay.
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự nghiệp cách mạng nào cũng cần đến những người tài dẫn dắt. Không
có những cá nhân ưu tú, cỏch mạng sẽ rất khó thành công. Chưa có thời đại nào
chỳng ta lại cần cú nhiều nhõn tài và phải trọng dụng nhân tài như ở thời đại
ngày nay. Bởi vỡ chớnh họ, những nhõn tài là những cỗ mỏy cỏi quan trọng nhất
sản xuất ra tri thức và biến tri thức thành của cải vật chất và tinh thần cho toàn
xó hội. Họ có năng lực vượt trội trong việc sử dụng tri thức cho phỏt triển.
Trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay, bên cạnh những thành
tựu đáng mừng trên nhiều lĩnh vực thỡ chỳng ta cũng đang phải đối mặt với
nhiều khó khăn, đặc biệt là nguy cơ bị tụt hậu so với nhiều nước trong khu
vực và trờn thế giới. Lỳc này, việc cần người có tài đem tài năng và tâm huyết
của mỡnh ra phục vụ đất nước, đưa đất nước có những bước nhảy vọt lại càng
quan trọng hơn bao giờ hết. Sự nghiệp đổi mới càng sâu sắc và toàn diện càng
đũi hỏi phải đổi mới tư duy triệt để; muốn vậy phải có tầm trớ tuệ rất cao.
Tầm trớ tuệ cao ấy phải cú sự tham dự của tầng lớp trí thức ưu tú của dân tộc.
Tuy nhiên, như đó núi ở trờn, trong chớnh sỏch trọng dụng người tài ở

nước ta bờn cạnh những thành tựu và tiến bộ vẫn còn nhiều bất cập, khiến
người tài chưa được trọng dụng, chưa phát huy được hết sức lực và trí tuệ của
mình cho sự nghiệp đổi mới.
Thực tế ấy đang là một vấn đề "núng", thu hỳt sự quan tõm của toàn
xó hội. Độ "núng" của nú khụng thua kộm bất cứ đề tài nào như chống tiờu
cực hay cỏc tin tức núng hổi liờn quan trực tiếp đến đời sống người dõn….
Bởi độ "núng" ấy mà trên báo chí nước ta, vấn đề nhân tài và sử dụng nhân tài
được nhiều tờ báo rất chỳ ý và bạn đọc rất quan tâm. Sự quan tõm đặc biệt
của bỏo chớ đối với mảng đề tài này phản ỏnh sự quan tõm chung của toàn xó


3
hội. Thực tế tuyên truyền trên báo chí nước ta những năm gần đây về vấn đề
nhân tài và sử dụng nhân tài đó đặt ra một số yêu cầu cấp thiết. Đó là việc
định hướng tuyên truyền, khẳng định vị trí và tầm quan trọng của việc tuyờn
truyền và nhất là khắc phục nhiều điểm hạn chế của báo chí trong tuyờn
truyền về vấn đề này để tiếp tục đổi mới, nâng cao hơn nữa hiệu quả và chất
lượng tuyờn truyền, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp đổi mới đất
nước.
Điều đó khẳng định ý nghĩa thiết thực cũng như tính cấp thiết của việc
nghiên cứu về báo chí những năm gần đây trong tuyên truyền về vấn đề nhân
tài và phát huy nhân tài đất nước.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Nghiên cứu thực trạng vấn đề nhân tài và sử dụng nhân tài ở nước ta
hiện nay. Qua đó đề xuất những ý kiến đóng góp vào chủ trương, chính sách
đào tạo, đãi ngộ, trọng dụng nhân tài.
- Nghiên cứu các tác động xã hội của việc tuyên truyền trên báo chí
đối với vấn đề phát huy nhân tài đất nước hiện nay.
- Trên cơ sở khảo sát về tần số xuất hiện, nội dung và quan điểm tuyên
truyền của báo chí để từ đó rút ra một số kinh nghiệm, một số biện pháp

chung nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động tuyên truyền về nội dung phát huy
nhân tài đất nước phục vụ công cuộc đổi mới. Kết quả nghiên cứu của đề tài
sẽ mang lại lợi ích về mặt lý luận báo chí cũng như có tính ứng dụng thực tiễn
vào việc nâng cao hiệu quả tuyên truyền trên báo chí về vấn đề nhân tài.
3. Đối tƣợng nghiên cứu
- Nhân tài với tư cách là tài sản quan trọng quốc gia.
- Thực tế vấn đề đào tạo và sử dụng người tài ở nước ta hiện nay.


4
- Những vấn đề đạt được và chưa được trong tuyên truyền về vấn đề
nhân tài và phát huy nhân tài đất nước trên báo chí hiện nay
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Luận văn đi sâu nghiên cứu về công tác tuyên truyền về vấn đề nhân
tài và sử dụng nhân tài đất nước trên 3 tờ báo Tuổi trẻ, Thanh niên và báo
điện tử Vietnamnet. Chọn 3 tờ báo này vì:
- Là 3 tờ báo có lượng độc giả lớn nhất hiện nay, đặc biệt là các độc
giả trẻ.
- Chọn 2 tờ báo viết và 1 tờ báo điện tử để khảo sát nhằm cân đối
giữa các loại hình báo chí.
Trên cơ sở phân tích thực trạng vấn đề tuyên truyền này trên 3 tờ báo trên,
rút ra một số kinh nghiệm trong vấn đề tuyên truyền về nội dung này trên báo chí.
Về thời gian: nghiên cứu các số báo ra trong năm 2005 tới nay.
Đây là 2 tờ báo ra hàng ngày và 1 tờ báo điện tử nên số lượng khảo sát
khá lớn, số lấy mẫu của báo in là gần 2000 số và gần 1000 số báo của báo
Vietnamnet.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Thống kê, tổng hợp, khảo sát, phân tích, đánh giá… là những phương
pháp nghiên cứu được áp dụng để thực hiện luận văn này. Để hoàn thành luận
văn, tác giả phải tiến hành các bước:

- Tập hợp các tài liệu, các văn bản về chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước ta về vấn đề nhân tài, đào tạo và trọng dụng nhân
tài hiện nay.
- Khảo sát tất cả các số báo đã ra trong năm 2005 tới nay của 3 tờ
Tuổi trẻ Thành phố Hồ Chớ Minh, Thanh niên và Vietnamnet. Trên cơ sở đó
để phân tích, khảo sát, đánh giá, rút ra kết luận.


5
- Điều tra xã hội học bạn đọc về vấn đề tuyên truyền về nhân tài và
tác động xã hội của việc tuyên truyền trên báo chí.
- Trên cơ sở những dữ kiện, thông tin thu thập được để phân tích,
đánh giá, rút ra kết luận, đề xuất các giải pháp giải quyết vấn đề.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
nội dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Báo chí với nhiệm vụ tuyên truyền về vấn đề nhân tài và
phát huy vai trò của nhân tài trong xây dựng đất nước.
Chương 2: Thực trạng của việc tuyên truyền về vấn đề nhân tài và sử
dụng nhân tài trên báo chí hiện nay.
Chương 3: Một số biện pháp nâng cao hiệu quả tuyên truyền về vấn
đề nhân tài và sử dụng nhân tài trên báo chí hiện nay.











6
Chương 1
BÁO CHÍ VỚI NHIỆM VỤ TUYÊN TRUYỀN
VỀ VẤN ĐỀ NHÂN TÀI VÀ PHÁT HUY VAI TRÕ CỦA NHÂN TÀI
TRONG XÂY DỰNG ĐẤT NƢỚC

1.1. KHÁI NIỆM NHÂN TÀI VÀ NHỮNG ĐẶC TRƢNG CƠ BẢN CỦA
NGƢỜI TÀI
1.1.1. Khái niệm nhân tài
Cách nay hơn 500 năm, éụng cỏc đại học sĩ Thân Nhân Trung theo chỉ
dụ của vua Lê Thánh Tông, đó viết trờn bia tiến sĩ khoa Nhâm tuất (năm
1442) đặt tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám Thăng Long:
Hiền tài là nguyờn khớ của quốc gia. Nguyờn khớ thịnh thỡ
thế nước mạnh, rồi lờn cao; nguyờn khớ suy thỡ thế nước yếu, rồi
xuống thấp. Bởi vậy các đấng thánh đế minh vương chẳng ai không
lấy việc bổ dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng nguyên khí là
việc đầu tiên. Vỡ thế, cỏi ý tụn trọng họ, thật là vụ cựng
Trải qua bao biến thiờn của lịch sử, vận nước lỳc hựng cường khi suy
vi nhưng bất cứ giai đoạn nào, vai trũ lịch sử của những cỏ nhõn xuất chỳng
bao giờ cũng được khẳng định. Chỉ những con người tài năng, đức độ mới
được tạc ghi vào sử sỏch như những người anh hựng. Họ là những nhõn tài
của đất nước. Chỳng ta luụn núi về những con người ấy với sự kớnh trọng và
tụn thờ những con người đó cú cụng lớn với non sụng, đất nước.
Ngày nay, khi nói đến sức mạnh của một quốc gia, mọi người đều
thừa nhận rằng, nguồn nhân lực, nhân tài là yếu tố quan trọng nhất, quyết định
nhất. Trong đú, nhõn tài là bộ phận tinh tuý, cú giỏ trị nhất của nguồn nhõn
lực quốc gia. Vỡ vậy, việc nghiờn cứu và phỏt triển nhõn tài, đào tạo bồi
dưỡng nhân tài, thu hút và sử dụng nhân tài đó trở thành quốc sỏch của nhiều



7
quốc gia. éể làm tốt được những việc đó, trước hết cần phải hiểu rừ bản chất
của vấn đề nhân tài và phát triển nhân tài.
Theo Từ điển Tiếng Việt (Nxb Khoa học xã hội - 1994, do Văn Tân
chủ biên), Nhân tài được định nghĩa là Người có tài.
Đú là định nghĩa cơ bản nhất nhưng theo cách hiểu đơn giản, nhân tài
là những người có tài năng thực sự trong lĩnh vực hoạt động nào đó. Biểu hiện
cụ thể ai cũng thấy là, họ luôn luôn hoạt động đạt hiệu quả cao, hiệu quả xuất
sắc, xuất chúng trong lĩnh vực hoạt động đó.
Dưới góc độ khoa học, khái niệm nhân tài gắn liền khái niệm năng
lực. Năng lực là một trong những thuộc tính tâm lý cơ bản của nhân cách. éú
là khả năng của con người có thể hoàn thành tốt một lĩnh vực hoạt động nào
đó. Xét về cấu trúc, năng lực là một tổ chức thuộc tính của cá nhân phù hợp
với những yêu cầu đặc trưng của một hoạt động nhất định. Nếu sự phù hợp
càng cao, năng lực càng có điều kiện phát triển cao, con người càng dễ phát
triển tài năng. Có ba mức độ của năng lực:
+ Mức độ 1: Người có năng lực. éú là người luôn luôn hoàn thành tốt
công việc, đảm đương tốt chức trách được giao, là người làm việc có kế hoạch
có sáng tạo ở mức độ nhất định, biết giải quyết vấn đề một cách linh hoạt, là
người có chủ kiến, bản lĩnh và quyết đoán trong mọi tỡnh huống, là người biết
nhỡn xa trụng rộng, cú bản lĩnh, tự tin và thụng minh.
+ Mức độ 2: Con người tài năng. Là con người có những phẩm chất
giống như người có năng lực nhưng ở mức độ cao hơn. Họ luôn hoàn thành
rất xuất sắc công việc, dù bị nhiều khó khăn, trở ngại. Kết quả công việc của
họ thường là rất kiệt xuất, hiếm có, hiệu quả rất cao, ý nghĩa rất lớn, rất sỏng
tạo, ớt người đạt được. Họ là người có tính chiến lược, chiến thuật rất cao
trong hoạt động, say mê, nhiệt tỡnh, tớch cực trong hoạt động đó. Hiệu quả
công việc của họ có ý nghĩa ở tầm cỡ quốc gia, quốc tế, có tác động lớn đến

xó hội.


8
+ Mức độ 3: Con người thiên tài. éõy là mức độ cao nhất của năng
lực. Là người tuyệt vời thông minh tài giỏi, sáng tạo độc đáo, có những phát
minh sáng chế kiệt xuất, có ý nghĩa lớn lao đối với toàn nhân loại trong cả
một giai đoạn lịch sử loài người, tạo nên những sự biến đổi có tính cách mạng
trong đời sống xó hội. Cú thể gọi đó là con người tài năng vĩ đại, hiếm có
trong lịch sử nhân loại. Có những trường hợp, con người chỉ được tôn vinh là
thiên tài khi họ đó mất đi, và ở thế hệ sau loài người mới thấy hết được ý
nghĩa, giỏ trị của những phỏt minh sỏng chế và những cống hiến của họ.
Xét ở mức độ trên của năng lực, có thể nói, nhân tài là những người có
năng lực (ở cả 3 mức độ). Tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng, nhân tài
chỉ là những người có năng lực ở mức độ "con người tài năng", "con người
thiên tài".
Như vậy, xét theo nghĩa hẹp, nhân tài là những con người tài năng,con
người thiên tài. Nhưng theo nghĩa rộng, nhân tài có thể bao gồm tất cả những
người có năng lực, là những người có thể hoàn thành tốt một lĩnh vực hoạt
động nào đó với hiệu quả cao.
Như vậy, có thể khái quát:
- Nhân tài là người làm được những việc mà người khác không làm
được. Với cùng một tỡnh huống trong cuộc sống, người tài sẽ đưa ra cách giải
quyết kịp thời, chính xác, hiệu quả hơn những người khác! Bản chất của tài
năng là sự thông minh hơn người. Lê Quí Đôn đó khẳng định: "Trong cụng
việc, cần nhất sự thụng minh". Người thông minh sẽ biết cách vượt qua những
khó khăn trở ngại mà người khác không vượt qua được. Người tài thường
nhỡn ra những gúc khuất mà người khác không nhỡn thấu, có khả năng đảm
đương được những công việc khó khăn, phức tạp, có khả năng đóng góp được
nhiều cho sự nghiệp chung.

Nhõn tài hiểu một cách bao quát nhất là người tài năng, có những
phẩm chất thiên bẩm, phi thường. Cho dù tiềm năng đó không được khai thỏc,


9
phỏt triển và khụng cú cống hiến cho xó hội thỡ với nền tảng tri thức cơ bản,
tư chất nổi trội hơn người vẫn quan niệm họ là nhõn tài.
Tiêu chí đánh giá một người là nhõn tài rất khú cụ thể húa. Thợ
thuyền cũng cú anh thợ cả, thợ phụ. Một công nhân tinh thụng nghề nghiệp,
thụng minh, sỏng tạo, cú nhiều sỏng kiến trong cụng việc, tiết kiệm hàng chục
triệu đồng cho quốc gia cũng phải được xem là nhõn tài của đất nước. Trong
khi ngài giáo sư khả kính, ăn diện, dáng oai phong, bệ vệ nhưng cả sự nghiệp
khoa học không nghiên cứu được cụng trỡnh nào ứng dụng thực tiễn, làm lợi
cho nhân dân, cho đất nước, không gọi là nhân tài.
Người có tài năng lại có cái tâm và chọn mục đích mang kết quả lao
động của mỡnh ra để phụng sự cho xó hội, cho tiến bộ khoa học, thỡ người đó
có đủ tiền đề để trở thành nhõn tài. Khi những đóng góp chưa có điều kiện
thực hiện, họ vẫn chỉ là người có tài năng, cũn nếu những đóng góp chứng tỏ
giá trị, họ sẽ được công nhận là nhõn tài.
Vậy thỡ, những tài năng và nhõn tài đều có thể có trong mọi thời kỳ,
và tập trung theo ba lĩnh vực gồm:
- Nhõn tài - lónh đạo (tham gia điều hành một tập thể với cỏc chức vị
lónh đạo )
- Nhõn tài - trớ thức (cỏ nhõn theo đuổi chuyên môn tự nhiên và xó
hội: bỏc sĩ, kỹ sư, văn nghệ sĩ )
- Nhõn tài trong lao động- sản xuất (công nhõn, nụng dõn, thợ thủ cụng )
Nguyờn khớ quốc gia phải dựa vào cả ba nguồn nhõn tài trên, trong đó
nhõn tài - lónh đạo đóng vai trũ quyết định nhất đến sự thịnh suy của nguyên
khí này.
Có tài chỉ là điều kiện cần. Có đức là điều kiện đủ. Người lónh đạo

ngày nay phải là người có cả đức và có tài! Như vậy mới hội đủ hết ý nghĩa
của từ "nhõn tài" bởi trong "nhõn tài" cú chữ "nhõn" - thể hiện phẩm chất đạo


10
đức cao quý trong những người tài và cũng là quan niệm của xó hội ta từ ngàn
đời nay đối với người tài thực sự. Sự kết hợp hài hoà giữa đức và tài sẽ làm
nờn một "nhõn tài" theo đỳng nghĩa.
1.1.2. Những đặc trƣng của ngƣời tài
Hiền tài là nguyờn khí của quốc gia. Vì thế người tài thường hiếm.
Để có một người tài phải có quá trình học tập, rèn luyện, bồi dưỡng gian khổ
của bản thân cá nhân đó và của toàn xã hội.
Cú thể khỏi quỏt cỏc đặc trưng của nhõn tài là:
+ Về phẩm chất trí tuệ: Họ thường có sự nhạy bén, sự tinh tế trong tư
duy, sự sâu sắc trong suy nghĩ, họ thường có ý tưởng độc đáo, sáng tạo hơn người
khỏc. Họ luụn luụn tỡm tũi cỏi mới, hoàn thiện hơn, đầy đủ hơn về mọi mặt.
+ Về tỡnh cảm và cỏ tớnh: Họ rất say mờ trong lĩnh vực hoạt động
nhất định liên quan đến tài năng của họ, họ rất tích cực và năng động, say sưa
làm việc, say sưa sáng tạo, tự tin, quyết đoán và kiên trỡ trong cụng việc.
+ Về hoạt động: Họ làm việc rất hiệu quả và luôn luôn quan tâm đến
việc nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động. Họ rất chú trọng sáng tạo cái
mới, chú trọng đến những giá trị về nhiều mặt của kết quả hoạt động. Họ
thường có những kỹ năng, kỹ xảo đặc biệt và giải pháp tối ưu trong công việc.
Nhõn tài trước hết là người có nhân cách nên có một từ được dùng rất
đúng là hiền tài. Nhõn tài đích thực có một số tính cách phổ biến: khiêm tốn,
khiêm nhường và chỉ xuất hiện khi có người trọng dụng.
Người tài muốn phát triển phải có môi trường tốt để họ phát huy hết
khả năng, sở trường của mình. Người tài đều sợ không có chỗ để thi thố tài
năng và sức lực.
Một vài trong những biểu hiện của nhõn tài là tính sáng tạo cao (do

trời phú) và sự đam mê công việc mà mỡnh yờu thớch. Đó là những người có
thể cống hiến cả đời mình cho sự nghiệp, cho ý tưởng mà mình đã theo đuổi.


11
Nhõn tài là những người luôn tạo nên sự khác biệt, làm được những việc họ
muốn làm, luôn lăn xả trong công việc, biết đam mê và có kỹ năng thuần thục
kèm theo tính sáng tạo.
Đọc truyện "Tam quốc" chúng ta đều biết, Lưu Bị ba lần đến lều tranh
mới vời được Khổng Minh ra giúp, hũng khụi phục cơ đồ nhà Hán. Trong khi
đó, Từ Thứ làm tân khách của Tào Tháo nhưng vỡ oỏn Tào giả thư của mẹ dụ
mỡnh về khiến bà phải tự sỏt, dự ở trong quõn Tào được đói đằng trọng thị
vẫn ba năm không hiến một kế. Từ đó có thể hiểu nhõn tài bao giờ cũng lấy
nghĩa khí làm đầu. Nhân tài thường là những người có lòng tự trọng cao.
Tuy nhiên, khi đi tỡm minh chỳa để phũ, những người có tài không
chỉ vỡ muốn thi thố tài năng, mà cũn muốn được vinh hiển, có quyền cao
chức trọng. Nghĩa khí không loại trừ nhu cầu vật chất.
Trong lịch sử đương đại, thế giới chứng kiến nạn chảy máu chất xám.
Cuối những năm 30 thế kỷ trước, nhiều nhà bác học Đức (trong đó có Albert
Einstein) bỏ sang Mỹ để phản đối chủ nghĩa phát xít. Chiến tranh thế giới kết
thúc, người Mỹ dang tay đón thêm các nhà khoa học Đức đó làm ra tên lửa
mang bom V1, V2 cho Hitler đánh phá London. Tiềm lực khoa học của nước
Mỹ tăng lên đáng kể, giúp Mỹ mau chóng hoàn thiện bom A, chế tạo bom H
và đưa lên người mặt trăng. Sau khi Liên xô sụp đổ không ít nhà khoa học
Nga lại sang làm việc ở Mỹ. Đó là ba đợt "di cư" ồ ạt. Cũn dũng chất xỏm của
Ấn Độ, của châu Phi sang phương Tây vẫn đều đều, không ồn ào nhưng
cộng lại số người rời đất nước ra đi không phải nhỏ. Có thể quy các hiện
tượng trên vào mấy nguyên nhân: do ý thức chớnh trị của cỏc nhõn tài; đó là
người có hoài bóo, ai cũng muốn cú đất dụng vừ, muốn tỡm cơ hội thi thố tài
năng; là con người ai cũng cần có cuộc sống thoải mỏi.

Người có tài thường có những ý tưởng và việc làm táo bạo, mới mẻ bị
người xung quanh cho là điên rồ. Tài năng cũn là đối tượng của sự ganh ghét,
sự ganh ghét sẽ trở nên nguy hiểm khi kẻ ganh ghét là cấp trên, là những


12
người có thế lực, có tiền bạc hoặc những kẻ đê tiện lại xảo quyệt, nhiều người
trở nên tuyệt vọng, thoái chí bỏ cuộc. Nhiều tài năng đó thui chột bằng con
đường ấy.
Có những người tài chỉ tập trung đi sâu vào một lĩnh vực chuyên môn,
cũn những lĩnh vực khỏc anh ta tỏ ra chàng màng, ngu ngơ, vụng về. Những
người này nếu được giao làm quản lý thường hay vấp váp. Lại có những
người tài ngoài khả năng chuyên môn của mỡnh, cũn quan tõm nghiờn cứu
nhiều lĩnh vực liờn quan và khụng ớt người thể hiện sự giỏi giang trên nhiều
lĩnh vực. Người tài loại này nếu được giao làm quản lý sẽ rất năng động và
thành cụng.
Người hiền tài thường có phong cách sống độc lập, rất sợ đánh mất
mỡnh. Trong cỏc cuộc họp, anh ta khụng núi dựa, khụng núi leo, khụng a dua
mà chỉ núi đúng những điều mỡnh nghĩ mặc dù điều đó chưa hẳn đó là chõn
lý. Anh ta cú thể dỏm làm những việc mà mỡnh cho là đúng, hữu ích mặc dù
chưa có sự đồng tỡnh của số đông. Như vậy cái sự giữ được bản sắc, không tự
đánh mất mỡnh cụn bao hàm cả lũng qủa cảm nữa.
Người hiền tài có khả năng nắm bắt dự báo những diễn biến của thời
đại, của xó hội mà anh ta đang sống và trong tương lai. Nếu sống trong xó hội
chậm phỏt triển, cú những việc làm chưa chắc đó được thừa nhận ngay, thậm
chí sẽ phải làm việc trong thầm lặng, cô đơn, khắc khoải. Cú khi dự ỏn, cụng
trỡnh, tỏc phẩm của anh ta chỉ được thừa nhận khi anh ta đó từ gió thế giới.
Đó biết trước số phận là thế, anh ta vẫn khụng bỏ cuộc.
Người hiền tài không thể không có một tâm hồn trong sáng và lóng
mạn. Nhõn loại chẳng đó từng cú những cụng trỡnh khoa học vĩ đại, những

tác phẩm văn học nghệ thuật bất hủ được sinh ra từ một bộ óc có trí tưởng
tượng bay bổng và một trái tim nhân hậu đó sao? Xin đừng nghĩ chỉ có những
người hoạt động khoa học xó hội mới cần đến những tố chất bay bổng bờn
trờn hiện thực. Những chiếc máy bay phản lực, máy bay chở khách, những


13
chiếc ô tô du lịch sang trọng, những chiếc tàu thủy đẹp như những tũa biệt thự
nổi trờn biển khụng thể được sản xuất từ những cái đầu trọc phú, mà phải từ
những cái đầu lóng mạn, dư thừa trí tưởng tượng.
Người hiền tài có nhiều đặc điểm hiện diện thế. Nhưng nhận diện ra
người hiền tài và sử dụng được người hiền tài là cả một vấn đề lớn, không
đơn giản chút nào. Bởi trong cuộc sống, người ta dễ nhầm lẫn người chân tài
(thực tài) với kẻ hư tài (bất tài). Người tài thường hiện hữu trước đồng loại
với tất cả những gỡ mỡnh cú. Kẻ bất tài thường tạo ra một cái vỏ bọc mỹ
miều để che đậy sự kém cỏi bên trong. Người tài nói thế nào làm thế ấy. Kẻ
bất tài sống lập lờ, hai mặt nói rất hay ho nhưng làm rất dở. Khi làm dở
thường tỡm cỏch ngụy tạo, đổ lỗi cho người khác. Cấp trên mà bất tài, hư tài
thỡ khú cú thể chấp nhận một người chân tài dưới quyền mỡnh, bởi kẻ bất tài
thường có tầm nghĩ cạn, tầm nhỡn ngắn, cú thúi ớch kỷ, hẹp hũi, đố kị, khó có
thể đồng cảm, đồng điệu, tri âm tri kỷ được với người tài. Hơn nữa, nếu sử
dụng người tài, kẻ bất tài thường lo sợ canh cánh một điều rằng, đến một ngày
nào đó, người tài sẽ ngồi vào chỗ của họ Hiện tượng "ố nhõn thắng ký" này
là một tác nhân kéo lùi bước tiến của lịch sử.
Tài là biểu hiện nổi trội của năng lực, là kết quả tổng hợp của nhiều
yếu tố ưu việt mà chủ yếu là gen dũng giống, ý chớ rốn luyện và mụi trường
giáo dục sinh hoạt thuận lợi. Tài năng rất cần yếu tố thiên bẩm tốt, càng rất
cần sự nỗ lực bản thân, sự tác động giáo dục hiệu lực, môi trường sống và
cụng tỏc thớch hợp.
Càng có tài con người càng nhận thức, một cách sáng sủa, đúng đắn

những vấn đề trong các mối quan hệ, trong cách ứng xử trước mọi tỡnh huống
phức tạp, trong việc trau dồi nhõn cách. Những người xuất chúng như Chủ
tịch Hồ Chí Minh, Đại tướng Vừ Nguyờn Giỏp, nhà chớ sĩ yờu nước Huỳnh
Thúc Kháng những tri thức lớn như: Tạ Quang Bửu, Trần Đại Nghĩa,
Nguyễn Văn Huyên, Hoàng Minh Giám, Phan Anh, Nguyễn Xiển những tài


14
năng chuyên ngành danh tiếng như: Tôn Thất Tùng, Đặng Văn Ngữ, Phạm Ngọc
Thạch, Lương Định Của. Nguyễn Cảnh Toàn, Hoàng Tụy, Nguyễn Văn Hiệu,
Vừ Tuyờn Hoàng với phẩm chất toàn diện của mỡnh, họ đó chứng minh rừ
ràng tài cao phải đi đôi với đức trọng.
Tài năng và đạo đức là hai lĩnh vực độc lập với nhau, nhưng lại có mối
quan hệ rất mật thiết. Một số người nhầm lẫn những yếu tố của tài năng với
phẩm chất của đạo đức. Họ thường cho rằng kiên trỡ, lũng quyết tõm, tớnh
tớch cực trong cụng việc, là những yếu tố được xem xét khi đánh giá tài năng.
Trong thực tế đó là những phẩm chất của đạo đức.
Những yếu tố khả năng về thực chất khác với đạo đức. éú thường là
những phẩm chất của trí tuệ (trí thông minh, khả năng suy xét, phán đoán, trí
nhớ), lượng tri thức, vốn sống, kinh nghiệm, sức làm việc, sức khoẻ, sự khéo
léo, mềm mại, linh hoạt của công tác, những đặc điểm về mặt sinh lý, cơ thể
(như chiều cao, hỡnh thức cơ thể, độ tinh nhạy của ánh mắt, trường lực cơ
bắp, sức bền, độ dẻo dai), những đặc điểm tâm lý tớch cực.
Những phẩm chất của đạo đức và những yếu tố trên thường gắn bó với
nhau, có tác dụng tương hỗ nhau và làm cơ sở cho nhau cùng phát triển.
Những yếu tố của tài năng chịu sự chi phối của đạo đức. Chúng thường hỡnh
thành trong kiờn trỡ tập luyện, trong nỗ lực rốn luyện, trong thái độ trung
thực và tích cực hoạt động. éạo đức tốt sẽ góp phần phát triển những yếu tố
trên, làm cho giá trị mức độ của tài năng ngày càng gia tăng.
Nếu con người có các yếu tố tài năng, có những hiệu quả hoạt động

cao nhưng lại thiếu những phẩm chất đạo đức tốt đẹp của nhân cách hay có
những thói hư tật xấu, tài năng của họ sẽ bị giảm giá trị hoặc bị thoái hoá đi,
hoặc gây ra những hậu quả tai hại cho xó hội. Những người có tài năng cao
mà phẩm chất đạo đức xấu thỡ càng gõy tỏc hại xấu cho xó hội, và càng dễ bị
mọi người lên án. Nếu có tài mà không có đức sẽ vô cùng nguy hiểm cho xó
hội. Trong trường hợp này, họ không được gọi là nhân tài.


15
Một số người tài nhưng đạo đức kém thường dễ mắc một số khuyết
điểm như: kiêu ngạo, vị kỷ cá nhân, bệnh ngôi sao, chủ quan khinh thường
mọi người, dẫn đến sự thui chột dần về tài năng. Tài năng và đạo đức là hai
yếu tố khác nhau nhưng có mối quan hệ mật thiết với nhau, ảnh hưởng lẫn
nhau. Vỡ vậy, khi núi đến nhân tài, người ta thường muốn bao hàm cả ý nghĩa
về đạo đức. Người có tài năng và có cả đạo đức tốt được gọi là bậc hiền tài.
Tuy nhiên, khi đánh giá về tài năng của con người, chúng ta lại cần phân biệt
những yếu tố, những đặc điểm tạo nên tài năng và những yếu tố, những đặc
điểm thuộc về lĩnh vực đạo đức.
Nhiều người cú quan niệm rằng: Tài bao giờ cũng đi cựng với tật, tài
lắm thỡ tật nhiều. Nhưng điều này thực ra hoàn toàn khụng phải là bản chất
của vấn đề. Trong cuộc sống thường nhật ta cũng đó từng thấy cú những
người tài rất dễ thương, dễ mến chứ không phải người tài nào cũng có nhiều
đức tính dễ ghét. Quan niệm tài phải đi liền với tật là một định kiến, là một
nhận định khập khiễng, là sự khái quát từ một tỷ lệ thực tế không nhiều.
Tài năng không bắt nguồn từ những tính cách xấu. Không phải ai kiêu
căng, khinh người là có tài, không phải ai có tài là tất yếu trở thành kẻ vô kỷ luật,
kẻ lập dị. Tài và tật là hai phẩm chất không có cấu trúc liên kết tất yếu. Dĩ nhiên,
không thể phủ nhận hoàn toàn được hiện tượng này tuy nhiờn, có một tỷ lệ nào
đó người có tật kèm theo hoặc tài với tật kết với nhau. Đó là theo sự phát triển đa
dạng của người tài. Có người thấy mỡnh cú tài càng muốn học tập vươn lên

thêm. Song cũng có người thấy mỡnh tài lại sinh ra thỏa món, chây lười.
Rừ ràng phải phõn biệt tinh tế giữa tài và tật, phải hiểu đầy đủ nội hàm
độc lập của nó và mối quan hệ giữa chúng với nhau. Điều kỳ diệu của người
lónh đạo, của cộng đồng là sử dụng được, phát huy được tài mà không khuyến
khích tật, hạn chế tật, xóa bỏ tật mà không bóp chết tài.
Người tài, nói một cách chính xác và công bằng, phải là những người
vừa có tài năng vừa có tư cách đạo đức. Có vậy họ mới có thể cống hiến được


16
nhiều nhất cho đất nước và dân tộc. Dung nạp người hiền tài, làm cho họ
thăng hoa, tỏa sáng, dâng hiến hết mỡnh để phục vụ đất nước, phục vụ nhân
dân là trách nhiệm và nghĩa vụ không chỉ của các cấp lónh đạo.
"Hiền tài là nguyờn khớ quốc gia" - cõu núi của bậc tiền nhõn mói
mói và luụn luụn đúng.
1.2. VAI TRÕ CỦA NHÂN TÀI TRONG CÔNG CUỘC XÂY DỰNG ĐẤT NƢỚC
éụng cỏc đại học sĩ Thân Nhân Trung đó viết: "Hiền tài là nguyờn
khớ của quốc gia. Nguyờn khớ thịnh thỡ thế nước mạnh, rồi lên cao; nguyên
khí suy thỡ thế nước yếu, rồi xuống thấp".
"Chiếu cầu hiền" của Lờ Thỏi Tổ do Nguyễn Trói soạn cú cõu "cỗ xe
cầu hiền cũn chừa bờn phớa tả". Trước mắt nhà vua, có ai tài hơn Nguyễn
Trói và Trần Nguyờn Hón đâu! Vậy mà vẫn ra chiếu cầu hiền! Triều nhà
Nguyễn tồn tại lâu dài (1802-1945) mà không mạnh bởi không hội tụ được
"nguyờn khớ quốc gia" nên đi đến mất nước.
Bác Hồ của chúng ta đó hội tụ được nguyên khí quốc gia khi Đảng ta
chỉ từ hai bàn tay trắng làm nên mới làm nên sự nghiệp rạng rỡ như hôm nay.
Bởi văn hóa Hồ Chí Minh là môi trường cho các nhõn tài như Trường Chinh,
Lê Duẩn, Vừ Nguyờn Giỏp, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Văn Linh, Vừ Văn
Kiệt, Nguyễn Hữu Thọ, Phạm Ngọc Thạch, Trần Đại Nghĩa, Tôn Thất Tùng,
Lương Định Của rộ nở như sao đầu hôm.

Một thế hệ biết đổi vinh hoa phú quí và cả "giang sơn sự nghiệp"
riêng để mưu cầu hạnh phúc cho dân tộc và vinh quang cho đất nước. Thật là
hạnh phỳc cho nhõn dõn ta bởi cú lónh tụ Hồ Chớ Minh mà văn hóa dân tộc
ta mới được tiếp tục phát triển đến đỉnh cao rạng rỡ như vậy.
Bước vào thế kỷ 21 trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế đang phát
triển sâu rộng, những tiến bộ của khoa học kỹ thuật và công nghệ đang diễn ra
với quy mô rộng lớn, đưa loài người tiến vào nền kinh tế tri thức và xó hội


17
thụng tin đó tỏc động sâu sắc đến nền kinh tế, xó hội của cỏc quốc gia và hệ
thống kinh tế toàn cầu. Cho đến nay xó hội loài người đó và đang trải qua ba
thời kỳ kinh tế đó là:
- Thời kỳ kinh tế nụng nghiệp cũn gọi là kinh tế sức người, cách đây
hơn 7000 năm chuyển từ kinh tế tự nhiên sang nền kinh tế nông nghiệp, con
người sáng tạo ra công cụ sản xuất và sở hữu ruộng đất, giá trị của nó đo bằng
công cụ thay thế cho khối lượng lao động của con người.
- Thời kỳ kinh tế cụng nghiệp cũn gọi là kinh tế mỏy múc đó hỡnh
thành và phỏt triển cỏch đây hơn 200 năm, từ giữa thế kỷ 18 với cuộc cách
mạng kỹ thuật đầu tiên chuyển từ nền kinh tế nông nghiệp sang nền kinh tế
cụng nghiệp dựa trên lực lượng sản xuất cơ khí. Thời kỳ này tri thức con
người đó vươn lên với những thành tựu to lớn tạo ra hàng loạt các công cụ
mới như ô tô, tàu hỏa, máy bay, tàu vũ trụ… mà sức lao động cơ bắp không
bao giờ làm được với động lực tạo lợi nhuận và tích lũy tư bản.
- Thời kỳ kinh tế tri thức cũn gọi là kinh tế trớ tuệ xuất hiện vào thập
kỷ 80 của thế kỷ 20 đó tạo điều kiện cho sự ra đời của lực lượng sản xuất mới,
dựa trên tri thức khoa học thay thế cho lực lượng sản xuất cơ khí. Từ sự phỏt
triển kinh tế chỉ vỡ lợi nhuận chuyển sang định hướng phát triển đồng thuận
giữa kinh tế - xó hội - mụi trường.
Ngày nay tri thức có thêm chức năng cực kỳ quan trọng là dùng tri

thức để tạo ra tri thức mới. Thuật ngữ kinh tế tri thức (knowledge based
economyke) đó được tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) gồm trên
30 nước công nghiệp phát triển chính thức sử dụng từ năm 1995 đó là: "Nền
kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản sinh truyền bá và sử dụng tri
thức trở thành yếu tố quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế, nâng cao
chất lượng cuộc sống". Chớnh vỡ vậy nhõn tài và lao động tri thức đó trở
thành một lực lượng sản xuất mới, giữ vai trũ quyết định hơn cả vốn và tài
nguyên. Trên thế giới tài nguyên ngày càng cạn kiệt, cũn tri thức và sức sáng


18
tạo của con người là vô hạn. Tri thức là vốn quý nhất của nền kinh tế tri thức,
tri thức là sản phẩm của trớ tuệ con người. Quốc gia nào có nhiều nhân tài, lao
động tri thức và nguồn nhân lực phát triển thỡ quốc gia đó sẽ có tốc độ phát
triển nhanh và có đủ khả năng xử lý các nguồn thông tin cho đất nước mỡnh
và chiến thắng trong quỏ trỡnh hội nhập quốc tế.
Ngày nay, sau kỷ nguyên Anh quốc, Hoa Kỳ và Nhật Bản là những
quốc gia phát triển rất nhanh chóng, đứng vào hàng ngũ các dân tộc tiên
phong trên thế giới. Ở các quốc gia này, tỷ lệ trí thức trong một triệu dân rất
cao, đặc biệt là các trí thức hàng đầu được giải thưởng Nobel rất được trọng
dụng và ưu đói.
Trong các quốc gia hưng thịnh, tỷ lệ tri thức (kẻ sĩ) cao hơn rất nhiều
so với các quốc gia nghèo khó. Ở đó, người ta cầu hiền như kẻ khát cầu nước,
như kẻ đói cầu ăn. Từ việc hiểu rừ ớch lợi sẽ dẫn đến thái độ tôn trọng lao
động sáng tạo và điều đó tất dẫn đến sự kính trọng trí thức.
Tất cả các quốc gia coi rẻ trí thức đều sớm muộn sẽ đi chung một con
đường và sẽ bị diệt vong bởi họ tự tước bỏ động lực phát triển của chính quốc
gia họ. Rừ ràng là sự hưng thịnh của mỗi quốc gia tuỳ thuộc vào cách dùng trí
thức. Khi kẻ sĩ rũ áo ra đi thỡ cũng là lỳc quốc gia bắt đầu suy yếu rồi dần dà
sẽ bị tiờu diệt.

Chính sách đối với kẻ sỹ là hũn đá thử vàng đối với sự phát triển của
một dân tộc, là môi trường cho hạt giống hưng thịnh của quốc gia nảy mầm
và phát triển. Môi trường trong sạch thỡ kẻ sĩ đầy đàn, quốc gia hưng thịnh;
môi trường ô nhiễm thỡ kẻ sĩ thưa thớt, quốc gia suy vong.
Ba đội ngũ trụ cột cho công cuộc phát triển của một quốc gia là các
nhà lănh đạo, giới doanh nhân và tầng lớp trí thức.
Khỏt vọng, tầm nhỡn và tư duy của ba đội ngũ này có ảnh hưởng
quyết định đến khát vọng, tầm nhỡn và tư duy của dân tộc. Trong mỗi đội ngũ
này, sự đóng góp có tính đột phá của cá nhân có thể tạo nên những bước nhảy


19
vọt cho công cuộc phát triển. Nhà chính trị Đặng Tiểu Bỡnh, với sự đột phá
về tầm nhỡn và tư duy, đó đưa Trung Quốc thoát khỏi vũng tối tăm mê muội
để trở thành một quốc gia có tốc độ đổi thay kỳ vĩ, làm cả thế giới kinh ngạc
và ngưỡng mộ. Các doanh nhân, như Chong Ju-yung (sáng lập hóng Hyundai)
và Lee Byung-chul (sỏng lập hóng Samsung), với ý chớ kinh doanh phi
thường và tinh thần dân tộc cao cả, đó gúp phần đưa Hàn Quốc nhanh chóng
trở thành một cường quốc công nghiệp, đặc biệt trong lĩnh vực đóng tàu và
điện tử. Học giả Fukuzawa Yukuchi thời kỳ Minh Trị của Nhật Bản, đó cú
những đóng góp lớn lao cho công cuộc cải cách, thông qua nỗ lực khai sáng
dân trí và khích lệ người dân nắm bắt đổi thay, tiếp thu tinh hoa thời đại.
Ngày nay, dõn tộc ta khao khỏt biết bao những doanh vừa tài năng vừa cú tinh
thần ỏi quốc như thế!
Thực tiễn đó chứng minh: Sự tăng trưởng của một nền kinh tế - kinh
doanh hiện đại phải có nhiều nhân vật tài năng, trước hết là những nhân tài làm
ra chính sách giỏi (policy makers), kế đó là doanh nhân giỏi (Entrepreneurs);
rồi nhà quản lý giỏi (Managers); tiếp theo, cũn là nhà tài chỏnh giỏi
(Financiers) và cũng rất cần phải có những nhà sáng tạo đổi mới kỹ thuật
(Innovators) để tạo ra mặt hàng mới, thị trường mới (chẳng hạn, việc tạo ra

điện tử, radio, truyền hỡnh, rồi sau này là mỏy tớnh…) thỡ mới cú những
cuộc nhảy vọt về kinh tế như ở thế kỷ 20 vừa qua. Chưa hết, trong thời buổi
bựng nổ thụng tin và khoa học - kỹ thuật của thế kỷ 21 này cũn cần cả những
người có khả năng hỡnh thành những quan điểm mới, ý tưởng mới, khuynh
hướng mới (Opinion Shapers hay Trend Setters) như nghĩ ra các festival, các
game, các thời trang, các loại nhạc cũng như các món ăn mới… để tạo nhu
cầu sôi động và khi đó, kinh doanh mới phong phú được!
Suy cho cùng sự tồn vong của dân tộc phụ thuộc rất nhiều vào cách
sử dụng trí thức. Để tạo điều kiện cho nhõn tài được phát triển, điều đầu tiên
là phải trọng dụng (chính sách chiêu hiền đói sĩ). Trọng dụng trước hết là kính
trọng rồi mới sử dụng. Ngày xưa Lưu Bang lập đài bái kiếm Hàn Tín, Lưu


20
Huyền Đức ba lần cầu Gia Cát Lượng, Lê Thái Tông lập Quốc Tử Giám
(1442) đúc văn bia ghi công trạng kẻ sỹ tại Văn miếu, Nguyễn Huệ thân hành
lên núi thỉnh xin cao kiến La Sơn Phu Tử. Gần hơn, Tiến sỹ (ông Nghè) vinh
quy được áo mũ vua ban, vừng lọng về làng. Lờ Nin chu cấp đầy đủ cho các
nhà khoa học cũn mỡnh hưởng tiêu chuẩn công nhân. Hồ Chí Minh chiêu tập
được rất nhiều trí thức bất kể nguồn gốc xuất thân để tiến hành thành công
kháng chiến và kiến quốc.
Túm lại, sự nghiệp phát triển để chấn hưng đất nước ngày nay của
chỳng ta đũi hỏi nhiều nhất trớ tuệ, cụng sức, ý thức đồng tâm hiệp lực, sự
thực hiện tốt nhất công bằng - dân chủ - văn minh, tất cả để phát huy tối ưu
mọi nguồn lực bên trong và tranh thủ tốt nhất mọi nguồn lực bên ngoài cho
phát triển. Tất cả phải bắt đầu từ phát huy tối ưu khả năng, phẩm chất và
quyền năng của từng con người trong cộng đồng xó hội, để mỗi con người có
thể với tất cả trái tim và khối óc mỡnh đem hết công sức cống hiến cho sự
nghiệp chấn hưng đất nước, vỡ chớnh mỡnh và vỡ đất nước, hài hũa được lợi
ích của chính mỡnh và của đất nước.

1.3. QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƢỚC TA VỀ VẤN ĐỀ NHÂN
TÀI VÀ PHÁT HUY VAI TRÕ CỦA HỌ TRONG SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG VÀ
BẢO VỆ TỔ QUỐC
1.3.1. Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về nhân tài, về đào tạo và sử dụng
nhân tài đất nƣớc
Cách đây hơn 60 năm, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho học sinh cả
nước nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Bức thư của Bác Hồ có đoạn: "Nước nhà trông mong chờ đợi ở các em rất
nhiều. Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam
có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được
hay khụng, chớnh là nhờ một phần lớn ở cụng học tập của cỏc em".


21
Trong bài "Tỡm người tài đức" ngày 20.11.1946 Bác Hồ đó viết
những lời tõm huyết:
Nước nhà cần phải kiến thiết. Kiến thiết cần phải có người
tài. Trong số 20 triệu đồng bào chắc không thiếu người có tài có
đức. E vỡ chớnh phủ nghe khụng đến, thấy không khắp, đến nỗi
những bực tài đức không thể xuất thân. Khuyết điểm đó tôi xin thừa
nhận. Nay muốn sửa đổi điều đó và trọng dụng những kẻ hiền năng,
các địa phương phải lập tức điều tra nơi nào có người tài đức, có
thể làm được những việc ích nước lợi dân thỡ phải bỏo cỏo cho
chớnh phủ biết. Bỏo cỏo phải núi rừ: tờn tuổi, nghề nghiệp, tài
năng, nguyện vọng và chỗ ở của người đó. Hạn trong một tháng,
các cơ quan địa phương phải báo cáo cho đủ.
Chủ tịch Chớnh phủ Việt Nam HỒ CHÍ MINH
(Bỏo Cứu Quốc số 411, ngày 20-11-1946)
Hơn 24 năm trên cương vị Chủ tịch nước, Bác Hồ rất quan tâm tiêu
chuẩn, tư cách đạo đức của người cách mạng. Người thường nói: " đạo đức

cách mạng là cái gốc, cái nền tảng, cái bản chất. Giống như sông phải có
nguồn nước, không có nguồn thỡ sụng khụ cạn. Cõy phải cú gốc rễ, khụng cú
gốc thỡ cõy khụ hộo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức
thỡ tài giỏi cỏch mấy cũng khụng lónh đạo được nhân dân ".
Sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở: Nếu cái gốc của người
cách mạng là đạo đức thỡ cỏi gốc của đạo đức là ở chữ Tâm: "Chữ Tõm kia
mới bằng ba chữ Tài". Bác nhấn mạnh: Có tài mà không có đức thỡ vụ dụng,
cú đức mà không có tài thỡ làm việc gỡ cũng khú; người cách mạng mà
không có đạo đức cách mạng thỡ giỏi đến mấy cũng không lónh đạo được
nhân dân. Không có đạo đức cách mạng, không có "cỏi tõm" thỡ trước sau cái
"đạo đức giả" che giấu đến mấy cũng bị tai, mắt nhân dân phát hiện. Những
người có tài mà không có đức khụng những vụ dụng mà cũn rất nguy hiểm
nếu như họ giữ những chức vụ quan trọng.


22
Rừ ràng, đức và tài luôn gắn bó chặt chẽ với nhau, thống nhất với
nhau trong nhận thức tư tưởng, hoạt động thực tiễn. Mối quan hệ giữa đức và
tài như sự ràng buộc, đi liền nhau: Có cái này phải có cái kia và cái kia chứa
đựng trong cái này. Đức và tài là hai tiêu chuẩn không thể thiếu của người cán
bộ. Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Đào tạo cán bộ là công việc gốc của
Đảng. Cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tự phê bỡnh và phờ bỡnh,
nhất là cuộc vận động học tập và làm theo đạo đức Hồ Chí Minh hiện nay là
tiếp tục bồi dưỡng cái gốc rễ ấy, làm tốt công việc gốc rễ ấy để cuối cùng rèn
luyện cho cán bộ, đảng viên nhân cách và bản lĩnh cộng sản.
Trong mối quan hệ Đức - Tài, Chủ tịch Hồ Chí Minh coi Đức là gốc,
là nền tảng để luyện Tài, để xây dựng con người mới, Người nói: "Sụng cú
nguồn thỡ mới cú nước, không có nguồn thỡ sụng cạn. Cõy phải cú gốc,
khụng cú gốc thỡ cõy hộo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo
đức thỡ dự tài giỏi mấy cũng khụng lónh đạo được nhân dân"; "Mọi việc

thành hay bại, chủ chốt là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay là
không".
Bác yêu cầu người cách mạng phải lấy đức làm gốc, tuy nhiên, tư tưởng
đạo đức của Người rất coi trọng cả đức và tài. Có tài phải có đức, có tài mà
không có đức, tham ô, hủ hóa chỉ có hại cho đất nước. Có đức mà không có tài
chẳng làm gỡ được thỡ khụng giỳp ớch cho ai. Người nêu rừ kiến thiết cần cú
nhõn tài dẫu tại nước ta nhõn tài tuy chưa nhiều lắm nhưng chỳng ta khộo lựa
chọn, khộo phõn phối, khộo dụng thỡ nhõn tài ngày càng phỏt triển thờm
nhiều.
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ coi trọng việc phát triển giáo dục,
đào tạo, phỏt hiện nhõn tài, Người cũn coi trọng chớnh sỏch sử dụng nhõn tài.
Nhờ cú tấm lũng thật sự trọng dụng nhõn tài nên Bác đó tập hợp được đội ngũ
trí thức từ nước ngoài về phục vụ sự nghiệp kiến quốc như: bác sĩ Phạm Ngọc
Thạch, Tôn Thất Tùng, kỹ sư Trần Đại Nghĩa, giáo sư Lê Văn Thiêm, tướng


23
Nguyễn Sơn, Tạ Quang Bửu và nhiều trớ sĩ khác gắn bó, đem hết tài năng
để xây dựng đất nước, phục vụ kiến quốc.
Trong tư tưởng của Hồ chủ tịch, quan trọng nhất là nước phải độc lập,
dân phải tự do. Sức mạnh để dành độc lập tự do là lực lượng của khối đại
đoàn kết dân tộc. Với Hồ Chủ tịch, cỏn bộ có ý nghĩa quyết định với phong
trào, nên Người luôn chọn người có đạo đức, có tư cỏch, cú tài, dù người đó
có là Đảng viên hay không. Nhiều người đó phõn tớch về tài dùng người của
Hồ Chủ tịch khi mới thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hũa.
Ở Trung ương cũng như địa phương, khi sử dụng cán bộ, Hồ Chủ tịch
luôn rất tôn trọng trí thức. Đảng ta là một đảng đạo đức, đảng văn minh, mà
văn minh nghĩa là có trí tuệ, có sáng tạo. Theo Người, một chế độ xó hội mới
là một xó hội thụng thỏi và đạo đức. Thông điệp cô đọng như thế nhưng để
hiểu và làm theo thỡ khụng đơn giản.

Biết huy động đội ngũ, tin vào nhân cách, vào lũng tự trọng con
người, ắt sẽ có sức cảm hóa để quy tụ được người tài theo cách mạng, bất kể
trước đó họ thuộc tầng lớp nào trong xó hội.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, Hồ Chủ tịch thật sự quan
tâm và tin tưởng đội ngũ trí thức - những nhõn tài của đất nước, không chỉ
bằng lời nói mà bằng việc làm cụ thể. Bác cho rằng, để phát huy sự sáng tạo
của trí thức, cần đưa họ vào phong trào cách mạng, đi vào đời sống nhân dân,
coi đó là trường học lớn để học tập, rèn luyện và trưởng thành. Người đũi hỏi
trớ thức cỏch mạng phải là những người vừa có đức, vừa có tài. Cán bộ lónh
đạo và quản lý phải được đào tạo và bồi dưỡng thường xuyên để có tri thức
sõu rộng trờn nhiều lĩnh vực, nhất là lĩnh vực mỡnh đang phụ trách, có như
vậy mới có thể hoàn thành công việc ngày càng tốt. Chính nhờ tư tưởng sáng
suốt của Bác mà đến nay phần lớn con em giai cấp công nhân, nông dân được
đào tạo trở thành những cán bộ lónh đạo, cán bộ khoa học tài năng, đóng góp
xứng đáng cho sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc.

×