Tải bản đầy đủ (.pdf) (138 trang)

Báo chí với vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.5 MB, 138 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘITRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI
VÀ NHÂN VĂN

KHOA BÁO CHÍ VÀ TRUYỀN THÔNG



TRẦN THỊ THU THỦY






BÁO CHÍ VỚI VẤN ĐỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ Ở CƠ SỞ





LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC BÁO CHÍ















HÀ NỘI, NĂM 2008



ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘITRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI
VÀ NHÂN VĂN

KHOA BÁO CHÍ VÀ TRUYỀN THÔNG



TRẦN THỊ THU THỦY



BÁO CHÍ VỚI VẤN ĐỀ XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ
LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ Ở CƠ SỞ
(Khảo sát tạp chí Cộng sản, Xây dựng Đảng, Tổ chức Nhà nước
từ năm 1997 đến 2007)


CHUYÊN NGÀNH: BÁO CHÍ HỌC
MÃ SỐ: 60.32.01



LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC BÁO CHÍ




Người hướng dẫn khoa học:
TS. NGUYỄN TUẤN PHONG





HÀ NỘI – 2008



MỤC LỤC

MỞ ĐẦU
Trag
1. Lý do chọn Đề tài
1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến Đề tài
2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4
5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu

4
6. Đóng góp mới về khoa học, ý nghĩa lý luận, thực tiễn của Đề tài
6
7. Kết cấu Luận văn.
6
CHƯƠNG 1: BÁO CHÍ VỚI VẤN ĐỀ XÂY DỰNG ĐNCB LĐ-QL Ở
CƠ SỞ
6
1.11.1. Cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở
6
1.1.1. Khái niệm về cán bộ, cán bộ lãnh đạo, quản lý
6
1.1.2. Vai trò, vị trí của cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở
10
1.1.3. Vai trò, vị trí của công tác xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản
ý ở cơ sở
12
1.2. Vai trò của báo chí tuyên truyền về vấn đề xây dựng đội ngũ cán
bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở.
19
1.2.1.Vai trò của báo chí về vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo,
quản lý ở cơ sở
19
1.2.2. Đề tài xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở trên báo
chí nước ta hiện nay.
23
1.2.3. Một vài nhận xét qua tuyên truyền trên báo chí về vấn đề xây dựng
đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở.
28
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TẠP CHÍ CỘNG SẢN, XÂY DỰNG

ĐẢNG, TỔ CHỨC NHÀ NƯỚC TUYấN TRUYỀN VỀ VẤN ĐỀ
XÂY DỰNG ĐNCB LĐ-QL Ở CƠ SỞ
32
2.1.Chức năng, nhiệm vụ của tạp chí Cộng sản, Xây dựng Đảng, Tổ
chức Nhà nước
32
2.1.1. Về tạp chí Cộng sản
34
2.1.2. Về tạp chí Xây dựng Đảng
35
2.2.3. Về tạp chí Tổ chức Nhà nước



35
2.2. Tạp chí Cộng sản, Xây dựng Đảng, Tổ chức Nhà nước tuyên
truyền về vấn đề xây dựng ĐNCB LĐ-QL ở cơ sở.
34
2.2.1. Về số lượng
34
2.2.2. Về nội dung
38
2.2.3. Về hình thức
50
2.2.4. Đội ngũ tham gia tuyên truyền
74
2.3. Một số nhận xét đánh giá về chất lượng và hiệu quả tuyên truyền
về xây dựng ĐNCB LĐ-QL ở cơ sở
75
2.3.1. Ưu điểm

76
2.3.2. Hạn chế
79
2.3.3. Hiệu quả tác động
81
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
TUYÊN TRUYỀN VỀ XÂY DỰNG ĐNCB LĐ-QL Ở CƠ SỞ TRÊN
TẠP CHÍ CỘNG SẢN, XÂY DỰNG ĐẢNG, TỔ CHỨC NHÀ
NƯỚC
96
3.1. Những yêu cầu đặt ra về tuyên truyền về vấn đề xây dựng đội
ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở
86
3.1.1. Yêu cầu đối với cơ quan chủ quản
86
3.1.2. Yêu cầu đối với tạp chí Cộng sản, Xây dựng Đảng, Tổ chức Nhà
nước
87
3.1.3. Yêu cầu của bạn đọc
88
3.2. Một số giải pháp nâng cao chất lượng tuyên truyền về vấn đề xây
dựng ĐNCB LĐ-QL ở cơ sở.
89
3.2.1. Giải pháp về nâng cao nhận thức
89
3.2.2. Xây dựng, nâng cao chất lượng đội ngũ tham gia tuyên truyền
91
3.2.3. Nâng cao chất lượng nội dung và hình thức
102
3.2.4. Nâng cao vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng trong các cơ quan tạp

chí
107
3.2.5. Làm tốt công tác bạn đọc và công tác tuyên truyền cho tạp chí
110
3.2.6. Phương pháp tổ chức, thực hiện khoa học.
114
KẾT LUẬN
118
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
122
PHỤ LỤC
129



CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN
(theo thứ tự ABC)





1. CNH, HĐH: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá.
2. CS : Cộng sản
3. ĐNCB : Đội ngũ cán bộ
4. HĐND : Hội đồng nhân dân
5. LĐ-QL : Lãnh đạo, quản lý
6. UBND : Uỷ ban nhân dân
7. TCNN : Tổ chức Nhà nước
8. XDĐ : Xây dựng Đảng





1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn Đề tài.
Đảng ta luôn xác định: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách
mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất nước và của chế độ, là khâu then
chốt trong công tác xây dựng Đảng” [8, tr.66]. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng
định: “Cán bộ là những người đem chính sách của Chính phủ, của Đoàn thể thi
hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở chính sách hay cũng không thực hiện được”
[29, tập 5, tr.55].
Trong công tác cán bộ và trong xây dựng hệ thống chính trị, Đảng ta luôn coi
trọng cơ sở, hướng về cơ sở. Cơ sở xã, phường, thị trấn (gọi chung là cơ sở) luôn
được coi là bộ phận quan trọng trong toàn bộ cấu trúc của hệ thống chính trị nước
ta. Đây là nơi trực tiếp thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và
mặt khác, chính từ thực tiễn cơ sở Đảng và Nhà nước ta có cơ sở để định ra chủ
trương, chính sách chung của đất nước. Cơ sở muốn vững mạnh phải xây dựng
được ĐNCB cơ sở vững mạnh.
Việc xây dựng ĐNCB cơ sở nói chung, ĐNCB LĐ-QL ở cơ sở nói riêng
vững mạnh, đủ tầm có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Nghị quyết Hội nghị Trung ương
3, khóa VIII (18-6-1997) về “Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước” nhấn mạnh đến vai trò của ĐNCB LĐ-QL từ trung ương đến
cơ sở. Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) trong khi đề cập một cách toàn diện vấn
đề đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở đã nhấn mạnh: Xây
dựng ĐNCB ở cơ sở là nhiệm vụ trọng tâm trong xây dựng hệ thống chính trị hiện
nay. Mới đây, đầu năm 2008, Nghị quyết Trung ương 6 (khoá X) một lần nữa lại

nhấn mạnh đến việc nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của ĐNCB, đảng
viên ở cơ sở.
Trong quá trình xây dựng ĐNCB và ĐNCB LĐ-QL từ trung ương đến cơ sở
có thể nói báo chí có vai trò quan trọng. Ở chỗ, báo chí có thể thông tin kịp thời với
nhiều nội dung phong phú để đưa nghị quyết, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà


2

nước vào cuộc sống, đến với ĐNCB và ĐNCB LĐ-QL ở cơ sở. Qua báo chí, các cơ
sở, ĐNCB và ĐNCB LĐ-QL có thể được tuyên truyền, hướng dẫn, cung cấp kinh
nghiệm nhiều mặt mà bất kỳ một trường học nào hay thực tiễn dù là phong phú đến
đâu ở từng nơi không thể bao quát được.
Tạp chí Cộng sản, Xây dựng Đảng, Tổ chức Nhà nước là cơ quan ngôn luận
của Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Ban Tổ chức Trung ương, Bộ Nội vụ có
chức năng tuyên truyền lý luận, chính trị và hướng dẫn nghiệp vụ công tác tổ chức
cán bộ của Đảng, Nhà nước… Từ năm 1997, khi có Nghị quyết Trung ương 3 (khóa
VIII) về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, cỏc tạp chí trờn đã tích
cực góp phần đưa nghị quyết chuyên về công tác cán bộ vào cuộc sống. Mỗi tạp chí,
theo cách của mình, đều cố gắng phản ánh toàn diện công tác xây dựng đảng, công
tác cán bộ, công tác xây dựng ĐNCB LĐ-QL ở cơ sở. Nhìn chung, các tác phẩm
báo chí trên ba tạp chí đã phản ánh chân thực thực tiễn; thông tin về các vùng miền
của tổ quốc; chú ý đổi mới cách thể hiện tác phẩm báo chí… Tuy nhiên, so với yêu
cầu của thực tiễn, thông tin xung quanh vấn đề xây dựng ĐNCB LĐ-QL ở cơ sở
trên cả ba tạp chí, ở các mức độ khác nhau đều chưa đáp ứng yêu cầu (chưa bám
chắc, phản ánh sâu sắc các góc độ của công tác xây dựng ĐNCB LĐ-QL ở cơ sở;
chưa có nhiều bài viết mang tính tổng kết kinh nghiệm; rất ít bài viết đấu tranh, phê
phán cái xấu, hình thức thể hiện chưa sinh động, hấp dẫn…). Vì vậy, nghiên cứu đề
tài Báo chí với vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở, qua
đánh giá đúng thực trạng chất lượng nội dung và hình thức các tác phẩm báo chí

tuyên truyền về xây dựng ĐNCB LĐ-QL ở cơ sở trên ba tạp chí, tác động của nó
đối với việc xây dựng ĐNCB LĐ-QL ở cơ sở, qua đó rút ra kinh nghiệm, đưa ra
một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tuyên truyền xây dựng ĐNCB LĐ-QL ở
cơ sở là cần thiết, có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến Đề tài.
Trên lĩnh vực báo chí đã có một số công trình như: “Tạp chí Xây dựng Đảng
với việc tuyên truyền, hướng dẫn thực hiện Nghị quyết Trung ương ba (khoá VIII)
về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước” (Khoá luận Cử nhân
báo chí - Trịnh Quỳnh Hoa). “Báo chí tuyên truyền về xây dựng TCCSĐ ở tỉnh Bến


3

Tre” (Luận văn Thạc sĩ báo chí - Vương Thị Đỗ Quyên). “Nâng cao chất lượng
tuyên truyền trên Báo chí về xây dựng cơ sở đảng ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ”
(Luận văn Thạc sĩ Báo chí - Lê Thị Thu Thủy)…
Bên cạnh đó, từ cuối năm 1997, khi có Nghị quyết Trung ương 3, khóa VIII,
nhiều công trình nghiên cứu, khảo sát, tổng kết về công tác xây dựng ĐNCB đã
được triển khai. Như Đề tài KX 01-BĐ.03(1998) của Ban Tổ chức Trung ương
“Điều tra thực trạng đội ngũ cán bộ chủ chốt trong hệ thống chính trị”; đề tài
KHBĐ.05(2002) “Thực trạng và giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý và
tổ chức thực hiện của đội ngũ cán bộ xã, phường, thị trấn ở các tỉnh Tây Nguyên”;
đề tài KHBĐ.09(2004) về “Nâng cao phẩm chất, năng lực của người cán bộ đứng
đầu tổ chức đảng và chính quyền cấp cơ sở theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5,
khóa IX” v.v
Trong các luận văn thạc sĩ báo chí, các công trình nghiên cứu về cán bộ (nêu
trên) đã đề cập đến vai trò của báo chí, thực trạng ĐNCB trong hệ thống chính trị
Tuy nhiên, chưa thấy có đề tài nào nghiên cứu sâu về vai trò của báo chí với vấn đề
xây dựng ĐNCB LĐ-QL ở cơ sở. Do đó, việc nghiên cứu đề tài Báo chí với vấn đề
xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở cơ sở có ý nghĩa về mặt lý luận và

thực tiễn, trên cả lĩnh vực báo chí và công tác xây dựng đảng.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở đánh giá đúng thực trạng công tác tuyên truyền về xây dựng
ĐNCB LĐ-QL ở cơ sở trên ba tạp chí, chỉ ra những ưu điểm, nhược điểm của hoạt
động này. Từ đó, đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền về
xây dựng ĐNCB LĐ-QL ở cơ sở trên ba tạp chí này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản, những quan điểm, chủ trương,
chính sách của Đảng, Nhà nước về xây dựng ĐNCB LĐ-QL ở cơ sở; chủ trương,
chính sách, sự chỉ đạo của Đảng, Nhà nước, các cơ quan LĐ-QL báo chí, cơ quan


4

chủ quản báo chí, các tòa soạn về định hướng tuyên truyền xây dựng ĐNCB LĐ-QL
ở cơ sở.
- Phân tích vai trò, ý nghĩa, tác động của việc truyên truyền xây dựng ĐNCB
LĐ-QL ở cơ sở trên tạp chí Cộng sản, Xây dựng Đảng và Tổ chức Nhà nước.
- Đánh giá thực trạng chất lượng tuyên truyền về xây dựng ĐNCB LĐ-QL ở
cơ sở trên ba tạp chí đã nêu và hiệu quả, tác động của nó đối với việc xây dựng
ĐNCB LĐ-QL ở cơ sở. Qua đó rút ra kinh nghiệm, đề xuất một số giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng tuyên truyền về xây dựng ĐNCB LĐ-QL ở cơ sở.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
- Đối tượng nghiên cứu: Các tác phẩm báo chí trên Tạp chí Cộng sản, Xây
dựng Đảng, Tổ chức Nhà nước (in) tuyên truyền về vấn đề xây dựng ĐNCB LĐ-QL
ở cơ sở (xã, phường, thị trấn).
- Đối tượng khảo sát: Khảo sát nội dung, hình thức của những tác phẩm báo
chí đã in trên tạp chí Cộng sản, Xây dựng Đảng, Tổ chức Nhà nước tuyên truyền về
vấn đề xây dựng ĐNCB LĐ-QL ở cơ sở từ khi có Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy

mạnh CNH, HĐH đất nước (1997) đến 2007.
- Phạm vi nghiên cứu: Khảo sát các chuyên trang, chuyên mục, các tác phẩm
báo chí in trên tạp chí Cộng sản, Xây dựng Đảng, Tổ chức Nhà nước về vấn đề xây
dựng ĐNCB LĐ-QL ở cơ sở từ năm 1997 đến năm 2007.
5. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu.
5.1. Cơ sở lý luận:
- Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm, đường lối chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam về xây dựng
ĐNCB nói chung và ĐNCB LĐ-QL ở cơ sở nói riêng.
- Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và của
Đảng, Nhà nước Việt Nam về vai trò của báo chí.
5.2. Phương pháp nghiên cứu.
- Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiờn cứu lịch sử-lụgic, tổng
hợp, phân tích, khảo sát thực tiễn, thống kê, so sánh, phỏng vấn.


5

6. Đóng góp mới về khoa học, ý nghĩa lý luận, thực tiễn của Đề tài.
- Đưa ra những nhận xét, đánh giá khái quát về tuyên truyền, xây dựng
ĐNCB LĐ-QL ở cơ sở trên tạp chí Cộng sản, Xây dựng Đảng, Tổ chức Nhà nước.
- Làm rõ thêm cơ sở khoa học và tác dụng thực tiễn của việc tuyên truyền
xây dựng ĐNCB LĐ-QL ở cơ sở trong 10 năm qua cũng là sau 10 năm thực hiện
Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước.
- Đề xuất một số giải pháp khả thi góp phần nâng cao chất lượng tuyên
truyền về xây dựng ĐNCB LĐ-QL ở cơ sở trong thời gian tới trên tạp chí Cộng
sản, Xây dựng Đảng, Tổ chức Nhà nước và báo chí của Đảng núi chung.
- Luận văn góp thêm tài liệu tham khảo phục vụ sinh viên báo chí, cán bộ
làm công tác tổ chức xây dựng đảng, tổ chức nhà nước và những người quan tâm

đến lĩnh vực này.
7. Kết cấu Luận văn.
Ngoài các phần Mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
Luận văn được kết cấu làm 3 chương:
Chương 1: Báo chí với vấn đề xây dựng ĐNCB LĐ-QL ở cơ sở.
Chương 2: Thực trạng tạp chí Cộng sản, Xây dựng Đảng, Tổ chức Nhà nước
tuyên truyền về vấn đề xây dựng ĐNCB LĐ-QL ở cơ sở.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao chất lượng tuyên truyền về xây dựng
ĐNCB LĐ-QL ở cơ sở trên tạp chí Cộng sản, Xây dựng Đảng, Tổ chức Nhà nước.











6




CHƯƠNG 1
BÁO CHÍ VỚI VẤN ĐỀ XÂY DỰNG ĐNCB LĐ-QL Ở CƠ SỞ
1.1. CÁN BỘ LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ Ở CƠ SỞ
1.1.1 Khái niệm về cán bộ; cán bộ LĐ-QL.
Khái niệm về cán bộ:

Theo Mác, Ăng-ghen, cán bộ phải là những người “có trí tuệ một chút và
kiến thức rộng”, đó là những người trung thành, tiêu biểu cho lý tưởng và lẽ sống
của giai cấp vô sản, họ “không được mang theo họ bất cứ một tàn tích của thiên
kiến tư sản, tiểu tư sản nào mà phải toàn tâm toàn ý tiếp thu quan điểm vô sản”, họ
không chỉ là những người “giành được cương vị, có tín nhiệm” không chỉ bằng “tài
năng”, bằng “những kiến thức về lý luận”. Họ là những người “đầy tớ luôn luôn có
thể bị bãi miễn , luôn luôn hành động dưới sự kiểm soát của nhân dân,…”.

Như vậy, theo Mác, Ăng-ghen cán bộ là những người không có đặc quyền
đặc lợi, là người “đầy tớ” của nhân dân, có tinh thần cầu thị, biết thừa nhận sai lầm
không phải bằng lời nói mà bằng hành động cụ thể là sửa chữa những sai lầm mắc
phải.
Theo Hồ Chí Minh: “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của
Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình
của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ để đặt chính sách cho
đúng”. “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc. Công việc thành công hoặc thất bại
đều do cán bộ tốt hay kém”[29, tập 5, 269].
Theo từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, năm 2000, cán bộ là: Người làm
công tác có nghiệp vụ chuyên môn trong cơ quan nhà nước (cán bộ nhà nước, cán
bộ khoa học, cán bộ chính trị). Người làm công tác có chức vụ trong một cơ quan,
một tổ chức, phân biệt với người thường, không có chức vụ.


7

Theo pháp lệnh cán bộ, công chức sửa đổi, bổ sung năm 2003, cán bộ là:
Công dân Việt Nam, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước.
Có những cách hiểu khác nhau về khái niệm “cán bộ”. Hiểu chung nhất, cán
bộ là những người LĐ-QL hoặc nhà chuyên môn, nhà khoa học, có thể là công
chức, viên chức làm việc được hưởng lương, phụ cấp từ ngân sách nhà nước hoặc từ

các nguồn khác. Cán bộ được hình thành từ dân cử, bầu cử, tuyển dụng, đề bạt, bổ
nhiệm.
Khái niệm về cán bộ LĐ-QL:
Khái niệm về lãnh đạo: Lãnh đạo là đề ra chủ trương, đường lối và tổ chức,
động viên thực hiện. Hoạt động lãnh đạo chủ yếu là định hướng khách thể thông
qua hệ thống cơ chế, đường lối, chủ trương, chính sách [42, tr.524].
Khái niệm về quản lý: Quản lý là tổ chức và điều khiển các hoạt động theo
những yêu cầu nhất định [42, tr.772].
Hoạt động quản lý mang tính điều khiển, vận hành thông qua những thiết
chế có tính pháp lệnh được quy định từ trước.
Cán bộ LĐ-QL là ai? Theo tư tưởng của C.Mác và Ăng-ghen: Người cán bộ
lãnh đạo hay còn gọi là lãnh tụ cách mạng phải là những người nổi bật với các tiêu
chuẩn sau: Người mang lý tưởng cách mạng sâu sắc, có tri thức toàn diện và uyên
thâm ở trình độ của thời đại mình, thống nhất trong mình cả tư cách nhà khoa học
và tư cách người chiến sĩ cách mạng nhiệt thành. Là “công bộc” của nhân dân, có
nghĩa vụ cao cả trước nhân dân; được nhân dân tín nhiệm.
Theo Lênin cán bộ LĐ-QL có những tiêu chí sau: Là một nhóm ít người, có
tính chất ổn định trong Đảng Cộng sản; là những người có uy tín nhất, có ảnh
hưởng nhất, có kinh nghiệm nhất; được bầu ra từ tổ chức chính trị-xã hội; giữ
những trách nhiệm trọng yếu.
Theo Hồ Chí Minh: Cán bộ lãnh đạo phải làm gương mẫu, phải cải tiến
phương pháp công tác, phải ra sức phát huy trí tuệ và tinh thần sáng tạo của quần
chúng công nhân. Phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng. Cán bộ lãnh đạo phải thật
sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư.


8

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam: ĐNCB LĐ-QL giữ một vị trí quan
trọng,ngoài những tiêu chuẩn chung về phẩm chất, năng lực, phải nhạy bén về chính

trị, tỉnh táo và kiên quyết đấu tranh với những khuynh hướng, quan điểm trái với
đường lối, chính sách của Đảng, vừa có năng lực tổ chức và kiến thức quản lý, biết
phát huy sức mạnh tập thể, phát huy tính tích cực, chủ động của cấp dưới, tập trung
trí tuệ của cán bộ và quần chúng. Phải là những người nhiệt tình, chủ động, quyết
đoán, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm để giải quyết một cách cụ thể, thiết
thực công việc đặt ra trong quá trình LĐ-QL.
Một số định nghĩa khác: Cán bộ lãnh đạo là người đề ra chủ trương, đường
lối, chính sách và tổ chức, động viên người dưới quyền thực hiện nhiệm vụ được
giao theo một mục tiêu đã định. Cán bộ quản lý là những người giữ cương vị chỉ
huy (điều khiển) trong điều hành công việc; là những người được quyền ra các
quyết định quản lý, tổ chức, điều hành những người dưới quyền thực hiện công việc
[45, tr.545].
Như vậy, ĐNCB LĐ-QL có điểm chung: Là những chủ thể ra quyết định
điều khiển hoạt động của một tổ chức do vậy vừa thực hiện chức năng lãnh đạo vừa
thực hiện chức năng quản lý. Tuy nhiên, khái niệm LĐ-QL không hoàn toàn đồng
nhất với nhau. Song, ĐNCB LĐ-QL phải là những người tiêu biểu về tài năng, năng
lực trí tuệ, năng lực tổ chức thực tiễn. Đó là những hiểu biết về lý luận, sự phong
phú về kinh nghiệm thực tiễn, tư duy chiến lược và khả năng tổ chức hành động.
Khái niệm về cán bộ LĐ-QL ở cơ sở:
Cơ sở là gì?: Cơ sở là cấp cuối cùng trong hệ thống hành chính của Nhà
nước Việt Nam (trung ương, tỉnh, huyện và cơ sở). Trong hệ thống chính trị cơ sở là
xã, phường, thị trấn, là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ cấu trúc của hệ thống
chính trị nước ta. Cơ sở là nơi tuyệt đại bộ phận nhân dân cư trú, sinh sống. Đây là
nền tảng, nơi trực tiếp thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước;
mặt khác xuất phát từ thực tiễn cơ sở để xây dựng thành chủ trương, chính sách
chung của đất nước. ‘Xã, phường, thị trấn là nơi thể hiện toàn diện, trực tiếp,
thường xuyên và cụ thể nhất mối quan hệ gắn bó hai chiều giữa Đảng và nhân dân’
[13, tr.166].



9

Cán bộ LĐ-QL ở cơ sở là ai?: Có quan niệm cho rằng cán bộ LĐ-QL ở cơ sở
gồm các chức danh bí thư, phó bí thư, chủ tịch, phó chủ tịch HĐND, chủ tịch, phó
chủ tịch UBND cùng các chức danh chủ tịch Mặt trận Tổ quốc và trưởng các đoàn
thể nhân dân.
Có quan niệm lại cho rằng, cán bộ LĐ-QL là cán bộ chủ chốt gồm các chức
danh bí thư đảng ủy, chủ tịch HĐND và chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn.
Như vậy, quan niệm về cán bộ LĐ-QL ở cơ sở hoặc cán bộ chủ chốt chưa rõ
ràng. Cũng qua tìm hiểu, chưa thấy có văn bản nào mang tính pháp quy, quy định rõ
cán bộ LĐ-QL ở cơ sở gồm các chức danh nào. Song, từ khái niệm về cán bộ LĐ-
QL nói chung, có thể hiểu cán bộ LĐ-QL ở cơ sở là những người giữ vị trí quyết
định trong cơ quan đảng, chính quyền. Trong khuôn khổ, phạm vi đã định, đề tài
xác định đề cập, nghiên cứu đến nhóm cán bộ LĐ-QL ở cơ sở với sáu chức danh
chủ chốt của hệ thống đảng, chính quyền là: bí thư, phó bí thư đảng ủy; chủ
tịch, phó chủ tịch HĐND; chủ tịch, phó chủ tịch UBND xã, phường, thị trấn.
Đây là nhóm cán bộ LĐ-QL giữ cương vị chỉ huy trong điều hành công việc; là
những người được quyền ra các quyết định quản lý, tổ chức, điều hành những người
dưới quyền thực hiện công việc tại cấp xã, phường, thị trấn.
Bí thư đảng ủy: Là người chịu trách nhiệm chính về toàn bộ hoạt động của
đảng bộ.
Phó bí thư đảng ủy: Là người chịu trách nhiệm chính về công tác xây dựng
đảng, một số nơi phó bí thư trực tiếp làm trưởng ban tổ chức, chủ nhiệm uỷ ban
kiểm tra của đảng ủy và phụ trách khối đoàn thể; theo dõi công tác quản lý và phân
công công tác cho đảng viên ở các chi bộ; chỉ đạo công tác văn phòng của đảng ủy,
công tác tài chính của đảng bộ.
Chủ tịch HĐND: Có trách nhiệm nghiên cứu, nắm vững các chỉ thị, nghị
quyết, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, vận dụng vào thực tiễn địa
phương; chủ động đề xuất với ban thường vụ và đảng ủy những chủ trương, biện
pháp thực hiện các nhiệm vụ chính trị, củng cố tổ chức và nâng cao năng lực lãnh đạo

của cấp ủy và đảng bộ; trực tiếp chỉ đạo công tác giáo dục chính trị, tư tưởng; chịu
trách nhiệm chính về công tác cán bộ theo phân cấp quản lý.


10

Phó chủ tịch HĐND: Là người trực tiếp làm công tác thường trực của
HĐND; theo dõi, kiểm tra công tác của các ban HĐND, tổng hợp tình hình hoạt
động của HĐND; giúp chủ tịch HĐND chuẩn bị nội dung, triệu tập các kỳ họp theo
luật định, kiểm tra hoạt động của các tổ hội đồng; tổ chức tiếp xúc cử tri theo đúng
luật.
Chủ tịch UBND: Là người chịu trách nhiệm chính toàn bộ công tác chính
quyền nhà nước ở địa phương. Có trách nhiệm tổ chức thực hiện nghiêm túc các
mặt công tác do cấp trên chỉ đạo, chương trình công tác của đảng ủy về mặt chính
quyền đúng pháp luật; xây dựng kế hoạch công tác của UBND xã, phường, thị trấn
từng thời gian báo cáo cấp ủy và HĐND, phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng thành
viên UBND; chịu trách nhiệm trước đảng bộ, nhân dân và cấp trên về quản lý, sử
dụng tài chính, ngân sách của UBND xã, phường, thị trấn.
Phó chủ tịch UBND: Là người chịu trách nhiệm giúp chủ tịch UBND giải
quyết các công việc thường xuyên của UBND từ văn hóa, xã hội, tư pháp…trên địa
bàn mình.
Trên thực tế, ở nhiều nơi bí thư đảng ủy cơ sở đồng thời là chủ tịch HĐND.
Với mô hình này, thẩm quyền và trách nhiệm của bí thư càng lớn. Ngoài công tác
đảng, bí thư đảng ủy kiêm chủ tịch HĐND còn phải chịu trách nhiệm lãnh đạo
HĐND quyết định những vấn đề lớn của địa phương; duy trì công tác tiếp xúc cử tri
cũng như hoạt động của hội đồng, các tổ hội đồng hiệu quả, đúng luật định. Mô
hình kiêm nhiệm cũng được áp dụng ở nhiều nơi đối với các chức danh phó bí thư
đảng ủy và chủ tịch UBND.
1.1.2. Vai trò, vị trí của cán bộ LĐ-QL ở cơ sở.
Vai trò, vị trí của cơ sở:

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cấp xã là nơi gần gũi nhân dân nhất,
là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi công việc đều xong xuôi”
[29, tr.371]. Xã, phường, thị trấn là cấp cơ sở trực tiếp thi hành đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và địa phương, có chức năng quản lý hành
chính nhà nước trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa-xã hội, an
ninh, quốc phòng.


11

Cơ sở là nơi gần dân nhất, là cầu nối giữa Đảng và Nhà nước với nhân dân,
là cấp tổ chức thực hiện các nghị quyết, quyết định, chỉ thị của cấp trên xuống tận
nhân dân. Hoạt động của xã, phường, thị trấn gắn trực tiếp với nhân dân, chăm lo
đời sống nhân dân về mọi mặt; tăng cường đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền
làm chủ của dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế - xã hội, tổ chức cuộc
sống của cộng đồng dân cư.
Xã, phường, thị trấn được xem như những tế bào quan trọng của hệ thống tổ
chức của Đảng và bộ máy của Nhà nước. Xét về mặt tổ chức đảng, đảng bộ (chi bộ)
đóng vai trò là hạt nhân chính trị ở cơ sở, đảm bảo các hoạt động đi đúng đường lối,
quan điểm của Đảng, Nhà nước. Thông qua các hoạt động của đảng bộ (chi bộ) xã,
phường, thị trấn mà Đảng được dân tin, dân yêu.
Cơ sở hoạt động có hiệu quả, hiệu lực là đảm bảo quan trọng cho hoạt động
của tổ chức Đảng, bộ máy Nhà nước, là điều kiện tiên quyết, bảo đảm phát huy
quyền tự do dân chủ của nhân dân, mở rộng dân chủ ở cơ sở. Xã, phường, thị trấn
có mạnh thì quận, huyện; tỉnh, thành và cả nước mới mạnh.
Vai trò, vị trí của ĐNCB LĐ-QL ở cơ sở:
Lênin khẳng định: “Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp nào giành được
quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh
tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong
trào” [57, tr.473].

Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng ĐNCB ở cơ sở, Người nhấn mạnh: “Cấp
xã là người gần gũi nhân dân nhất, là nền tảng của hành chính”. Cho nên, tại Hội
nghị cán bộ miền núi tháng 9/1962, Bác nhấn mạnh: "Phải ra sức bồi dưỡng cán bộ
địa phương, cán bộ nữ và cán bộ xã về mọi mặt".
Hiệu lực, hiệu quả của toàn bộ hệ thống chính trị nói chung, xét đến cùng
được quyết định bởi phẩm chất, năng lực và hiệu quả công tác của ĐNCB nói
chung, trong đó có vai trò quyết định của ĐNCB LĐ-QL ở cơ sở. ĐNCB LĐ-QL ở
cơ sở là người trực tiếp tổ chức thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà
nước; là cầu nối giữa Đảng, Chính phủ và quần chúng nhân dân. Như Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã nói: “cấp xã làm được việc thì mọi công việc đều xong xuôi”.


12

Như vậy, vai trò, vị trí của ĐNCB LĐ-QL ở cơ sở được thể hiện như sau:
Vai trò của cán bộ LĐ-QL ở cơ sở được thể hiện qua các mối quan hệ: một
là đối với đường lối, chính sách; hai là với bộ máy (các cơ quan, tổ chức lãnh đạo,
quản lý); ba là với công việc; bốn là với quần chúng nhân dân.
Người cán bộ LĐ-QL ở cơ sở chỉ được đánh giá là thực hiện tốt vai trò của
mình nếu hoàn thành nhiệm vụ mà các mối quan hệ đó đặt ra. Thực tế cho thấy sự
mạnh, yếu của hệ thống chính trị và phong trào cách mạng của quần chúng gắn liền
với vai trò của ĐNCB LĐ-QL nơi đây. Đối với bộ máy, cán bộ LĐ-QL là trung tâm
đoàn kết, tổ chức, sắp xếp lực lượng. Họ tác động quyết định đến năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, đến năng lực và hiệu quả quản lý của chính
quyền, lực lượng vũ trang và hoạt động của các đoàn thể quần chúng ở cơ sở.
Cán bộ LĐ-QL là người đại diện của dân trong quản lý nhà nước ở địa
phương, vừa là người trực tiếp lãnh đạo, tổ chức thực hiện quyền hành pháp và
quản lý cũng như tiến hành các chương trình kinh tế - xã hội ở cấp cơ sở mà mình
quản lý.
Cán bộ LĐ-QL cơ sở là người giữ vị trí trung tâm, định hướng trong LĐ-QL,

điều khiển các hoạt động của đảng bộ, chính quyền, có tác động trực tiếp và quyết
định đến sự phát triển trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hoá, giáo dục, an ninh,
quốc phòng Chủ trì toàn bộ các công việc của cấp ủy, HĐND, UBND. Cán bộ
LĐ-QL là trung tâm đoàn kết trong đảng bộ mà trực tiếp là đảng ủy, HĐND,
UBND, đồng thời là nguồn cán bộ bổ sung cho cấp trên trực tiếp.
Cán bộ LĐ-QL được giao những thẩm quyền, trách nhiệm nhất định. Thẩm
quyền càng cao thì trách nhiệm càng nặng nề. Do đó, có thể nói, cán bộ LĐ-QL là
những người đứng mũi chịu sào, những người chèo lái công việc tại cơ sở mình phụ
trách. Thực tế cho thấy, cơ sở nào có ĐNCB LĐ-QL tốt, đủ năng lực điều hành thì
hoạt động mọi mặt của địa phương đạt hiệu quả cao.
1.1.3. Vai trò, vị trí của công tác xây dựng ĐNCB LĐ-QL ở cơ sở.
Vai trò, vị trí:
Trong quá trình hoạt động thực tiễn và nghiên cứu lý luận các nhà kinh điển
chủ nghĩa Mác-Lênin đã đề cập đến các khía cạnh của công tác xây dựng ĐNCB.


13

Các-Mác, Ăng-ghen, Lênin đã khẳng định, muốn có cán bộ tốt phải đào tạo, bồi
dưỡng, giáo dục, rèn luyện, tạo ra những cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có
phẩm chất đạo đức tốt, lối sống lành mạnh, có phong cách làm việc khoa học, có
năng lực công tác tốt để đảm nhiệm trọng trách. Trong điều kiện Đảng cầm quyền,
có nhiều thuận lợi để xây dựng ĐNCB có đức, có tài. Lênin cho rằng, khi đã có
đường lối, nghị quyết đúng, cần đặc biệt chú ý đến việc trọng dụng nhân tài để lựa
chọn, tuyển dụng được nhiều cán bộ tốt. Người cho rằng: "Nghiên cứu con người,
tìm những cán bộ có bản lĩnh. Hiện nay đó là then chốt; nếu không thế thì tất cả mọi
mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy lộn" [57, tr.449]. Để có được những cán
bộ như thế, phải rất công phu, thận trọng và nhẫn nại tìm tòi, thử thách, rèn luyện
cán bộ, sau đó mới đề bạt họ vào cương vị lãnh đạo. Lênin nhấn mạnh: Chúng ta
cần phải lựa chọn cán bộ phụ trách và ở đây không thể là vấn đề không tín nhiệm

đối với một người nào đó đã không được bầu, mà chỉ có vấn đề xét xem việc đó có
lợi cho sự nghiệp không, và người được lựa chọn có xứng đáng với chức vụ người
ấy sẽ đảm nhiệm không.
Kế thừa và phát triển tư tưởng của Lênin, trong quá trình lãnh đạo cách mạng
Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra những việc chủ yếu phải thực hiện để có
những cán bộ tốt, có khả năng hoàn thành suất sắc mọi nhiệm vụ được giao. Trong
tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc" được viết năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu
lên một số nội dung cơ bản trong công tác xây dựng ĐNCB như: huấn luyện cán bộ;
kiểm tra cán bộ; chọn cán bộ; dùng cán bộ; đối đãi với cán bộ Trong đó, Người rất
coi trọng việc "huấn luyện cán bộ" và khẳng định đó là "công việc gốc của Đảng".
Từ khi thành lập đến nay, các văn kiện của Đảng và Nhà nước ta luôn nói rõ
vị trí, vai trò của ĐNCB. Đặc biệt, bước vào thời kỳ đổi mới, cùng với sự khởi động
của công cuộc CNH, HĐH và hội nhập quốc tế, công tác xây dựng ĐNCB càng có ý
nghĩa quan trọng.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Đảng ta đã chỉ ra: Đổi mới ĐNCB
có nghĩa là đánh giá, lựa chọn, bố trí lại, đi đôi với đào tạo, bồi dưỡng để có một
ĐNCB có đủ những tiêu chuẩn về phẩm chất và năng lực LĐ-QL ngang tầm nhiệm
vụ.


14

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng đã chỉ ra phương hướng và
nhiệm vụ của công tác cán bộ: Đảng chăm lo xây dựng ĐNCB, đảng viên trong
sạch, có phẩm chất, năng lực, có sức chiến đấu cao. Mục tiêu của công tác cán bộ là
xây dựng ĐNCB đồng bộ và có chất lượng, mà nòng cốt là ĐNCB chủ chốt của các
ngành, các cấp và cơ sở, trước hết là ĐNCB chiến lược, có đủ phẩm chất và năng
lực, bảo đảm thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ và sự vững vàng của Đảng trước
mọi khó khăn, thử thách, đồng thời tích cực chuẩn bị cán bộ cho những năm tiếp
theo.

Đến Hội nghị Trung ương lần thứ 3 khoá VIII, chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước được xây dựng, trong đó khẳng định: Cán bộ là nhân tố
quyết định sự thành bại của cách mạng, gắn liền với vận mệnh của Đảng, của đất
nước và của chế độ, là khâu then chốt trong công tác xây dựng Đảng. Với nhận thức
sâu sắc về vai trò của ĐNCB và công tác xây dựng ĐNCB cơ sở, Chiến lược cán bộ
của Đảng đã xác định mục tiêu: Xây dựng ĐNCB các cấp từ Trung ương đến cơ sở,
đặc biệt là cán bộ đứng đầu, có phẩm chất và năng lực, có bản lĩnh chính trị vững
vàng trên cơ sở lập trường giai cấp công nhân, đủ về số lượng, đồng bộ về cơ cấu,
đảm bảo sự chuyển tiếp liên tục và vững vàng giữa các thế hệ cán bộ nhằm thực
hiện thắng lợi nhiệm vụ CNH, HĐH giữ vững độc lập tự chủ, đi lên chủ nghĩa xã
hội. Nghị quyết đã đề ra những nhiệm vụ, giải pháp lớn nhằm xây dựng ĐNCB cách
mạng thời kỳ CNH, HĐH đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
Đại hội IX tiếp tục nhấn mạnh: Sau khi có đường lối đúng đắn, phẩm chất và
năng lực của cán bộ là vấn đề có ý nghĩa quyết định, không những quyết định việc
tổ chức thực hiện thành công mà còn quyết định cả mối quan hệ gắn bó giữa Đảng
với nhân dân. Đồng thời đề ra nhiệm vụ; xây dựng ĐNCB, trước hết là cán bộ LĐ-
QL ở các cấp, vững vàng về chính trị, gương mẫu về đạo đức, trong sạch về lối
sống, có trí tuệ, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn, gắn bó với nhân dân.
Cũng trong nhiệm kỳ Đại hội VIII và Đại hội IX của Đảng, nhiều nghị quyết
chuyên đề, các quy định, quy chế về công tác cán bộ và về hệ thống chính trị cơ sở
đã được xây dựng và liên tục bổ sung, hoàn chỉnh nhằm nâng cao tính hiệu quả,
đồng bộ của công tác cán bộ, đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xây dựng ĐNCB của


15

Đảng. Đặc biệt, công tác cán bộ trên các mặt quy hoạch, luân chuyển, đào tạo, đánh
giá, tuyển dụng… đã có nhiều bước tiến mới, thể hiện tính chuyên nghiệp và hệ
thống.
Nghị quyết Đại hội X của Đảng đề ra hệ thống các giải pháp nhằm tiếp tục

đổi mới công tác cán bộ: Xây dựng ĐNCB đồng bộ, có cơ cấu hợp lý, chất lượng
tốt, ĐNCB lãnh đạo kế tiếp vững vàng. Chú ý đào tạo cán bộ nữ, cán bộ các dân tộc
thiểu số, cán bộ xuất thân từ công nhân, chuyên gia trên các lĩnh vực bồi dưỡng
nhân tài theo định hướng quy hoạch. Đặc biệt quan tâm xây dựng ĐNCB lãnh đạo
cấp cao.
Trong Nghị quyết Trung ương 6 (khoá X) về nâng cao năng lực lãnh đạo
của tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên đã nhấn mạnh đến vai trò của ĐNCB cơ sở.
Nghị quyết đã đưa ra chủ trương, đường hướng lớn về xây dựng ĐNCB ở cơ sở.
Đây là nền tảng để thể chế hóa các biện pháp nhằm xây dựng được ĐNCB LĐ-QL
ở cơ sở vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Nội dung xây dựng ĐNCB LĐ-QL ở cơ sở:
Để công tác xây dựng ĐNCB LĐ-QL ở cơ sở có hiệu quả và đặc biệt là đáp
ứng đúng những đòi hỏi của thực tiễn, bản thân công tác này cũng phải được xây
dựng dựa trên những căn cứ khoa học. Căn cứ khoa học của công tác xây dựng
ĐNCB LĐ-QL ở cơ sở chính là những cơ sở lý luận và thực. Để xác định được
những nội dung, quy trình xây dựng ĐNCB LĐ-QL ở cơ sở một cách khoa học và
sát thực, khả thi, có ý nghĩa trong thực tế, phải căn cứ trên những yếu tố sau:
Thứ nhất, vai trò của ĐNCB LĐ-QL ở cơ sở và ý nghĩa công tác xây dựng
ĐNCB LĐ-QL ở cơ sở. Trong thực tiễn hoạt động của cả hệ thống-đây là điểm tạo
nên nhu cầu và ý nghĩa tự thân, tất yếu của công tác xây dựng ĐNCB LĐ-QL đối
với cấp cơ sở.
Thứ hai, phải căn cứ vào nhiệm vụ, trách nhiệm được thể chế hoá của xã,
phường, thị trấn và cán bộ cơ sở - yếu tố giúp xác định được những đòi hỏi về mặt
nguyên tắc đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ sở.
Thứ ba, căn cứ vào những vận động và đòi hỏi của cuộc sống thực tiễn hiện
tại - yếu tố giúp xác định những yêu cầu về mặt thực tiễn đối với cán bộ LĐ-QL cơ


16


sở, từ đó làm căn cứ cho những nội dung của công tác xây dựng ĐNCB LĐ-QL cơ
sở.
Thứ tư, căn cứ vào thực trạng của ĐNCB LĐ-QL ở cơ sở và thực trạng của
công tác xây dựng đội ĐNCB LĐ-QL ở cơ sở hiện nay - yếu tố giúp đánh giá được
những điểm mạnh, điểm yếu, những lợi thế và những tồn tại của ĐNCB LĐ-QL ở
cơ sở và công tác xây dựng ĐNCB LĐ-QL ở cơ sở, từ đó tiếp tục xác định được
phương hướng điều chỉnh và xây dựng những nội dung, quy trình đối với công tác
cán bộ cơ sở.
Từ căn cứ trên, công tác xây dựng ĐNCB LĐ-QL ở cơ sở là toàn bộ hoạt
động của các cấp uỷ đảng, chính quyền, các cơ quan tham mưu và các cơ quan có
liên quan đến các khâu tuyển dụng, đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân
chuyển, đề bạt, sử dụng, quản lý, chế độ chính sách đối với cán bộ. Những mặt đó
được thể hiện cụ thể như sau:
Thứ nhất, cụ thể hóa những tiêu chuẩn chung cho cán bộ cấp cơ sở, đặc biệt
là cán cán bộ LĐ-QL được quy định trong Nghị quyết Trung ương 3 (khóa VIII),
Nghị định 114/2003/NĐ-CP ngày 10/10/2003 của Chính phủ về tiêu chuẩn chung
đối với cán bộ, công chức cấp xã, Quyết định số 04/2004/QĐ-BNV của Bộ Nội vụ
ngày 16/01/2004 về ban hành những tiêu chuẩn cụ thể đối với cán bộ công chức xã,
phường, thị trấn
Xác định được tiêu chuẩn cán bộ một cách đúng đắn mới có thể xây dựng
được một ĐNCB tốt vì tiêu chuẩn cán bộ chính là những quy định chuẩn, là căn cứ
để tiến hành công tác xây dựng ĐNCB LĐ-QL cơ sở ở các khâu: đào tạo, bồi
dưỡng, đánh giá, tuyển chọn, bố trí, đề bạt, luân chuyển v.v.
Thứ hai, tiến hành đánh giá và lựa chọn cán bộ: Đánh giá cán bộ là khâu mở
đầu có ý nghĩa quyết định trong công tác cán bộ. Đối với cán bộ LĐ-QL thì đánh
giá là cơ sở để lựa chọn, bố trí, sử dụng, đề bạt, bổ nhiệm đúng người, đúng việc.
Đánh giá cán bộ đúng mới có thể phát huy được năng lực của từng cán bộ và cả
ĐNCB. Ngược lại đánh giá không đúng sẽ dẫn đến lựa chọn nhầm những cán bộ
không đủ phẩm chất, năng lực để giao việc, dẫn đến hỏng việc, hỏng người, gây tổn
thất cho tổ chức, địa phương, đơn vị, thậm chí ảnh hưởng đến phạm vi cả nước.



17

Lựa chọn cán bộ là khâu kế tiếp của hoạt động đánh giá nhằm tìm kiếm, phát
hiện những cán bộ có đức, có tài, đủ phẩm chất và năng lực phù hợp để đảm nhiệm
trọng trách LĐ-QL. Lựa chọn để bố trí sử dụng, đề bạt và lựa chọn để đưa vào dự
nguồn quy hoạch đảm bảo nguồn cán bộ LĐ-QL kế cận.


Thứ ba, xây dựng quy hoạch cán bộ: Đây là quá trình thực hiện đồng bộ các
chủ trương, biện pháp để tạo nguồn và xây dựng ĐNCB, đặc biệt là cán bộ LĐ-QL
có đủ phẩm chất và năng lực, có bản lĩnh chính trị vững vàng, đủ về số lượng, đồng
bộ về cơ cấu, đảm bảo sự chuyển tiếp liên tục.
Thứ tư, làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng và luân chuyển cán bộ: Trên cơ
sở quy hoạch cán bộ, các cấp ủy phải xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng kể cả
đào tạo lại theo chức danh. Đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ LĐ-QL ở cơ sở phải phù
hợp với thực tiễn, vừa nâng nao trình độ, năng lực LĐ-QL vừa bồi dưỡng phẩm chất
chính trị, đạo đức cho cán bộ. Khuyến khích cán bộ LĐ-QL tự học, tự nâng cao
trình độ. Đồng thời thực hiện đào tạo, bồi dưỡng trước khi bổ nhiệm, đề bạt, khắc
phục tình trạng đắc cử, bổ nhiệm rồi mới đưa đi đào tạo, bồi dưỡng.
Luân chuyển nhằm tạo điều kiện rèn luyện, bồi dưỡng, thử thách cán bộ, nhất
là cán bộ trẻ, có triển vọng đáp ứng nhiệm vụ LĐ-QL. Luân chuyển giúp cán bộ
LĐ-QL nhanh chóng trưởng thành một cách toàn diện. Luân chuyển còn nhằm mục
đích điều chỉnh việc bố trí cán bộ phù hợp giữa các nhiệm vụ được giao với năng
lực, sở trường của cán bộ. Thông qua luân chuyển cán bộ, tạo điều kiện để đánh giá,
xem xét cán bộ chính xác, khách quan. Luân chuyển góp phần khắc phục tư tưởng
cục bộ, khép kín trong hoạt động của cán bộ và công tác cán bộ.
Thứ năm, thực hiện bố trí, sử dụng và quản lý cán bộ: Bố trí, sử dụng cán bộ
phải được thực hiện trên cơ sở quy hoạch cán bộ và đúng với chuyên môn nghiệp

vụ đã đào tạo, kinh nghiệm thực tiễn đã tích lũy. Đề bạt cán bộ vào vị trí LĐ-QL ở
cơ sở phải đảm bảo đúng người, đúng việc, đảm bảo cương vị công tác tương ứng
với phẩm chất đạo đức và tài năng của cán bộ.


18

Thứ sáu, thực hiện tốt các chính sách và chế độ đãi ngộ đối với cán bộ LĐ-
QL cấp cơ sở: Chính sách phải đồng bộ trên tất cả các mặt của công tác cán bộ từ
đào tạo, bồi dưỡng, quản lý, sử dụng, tuyển chọn và chính sách bảo đảm về lợi ích
vật chất, tinh thần. Chính sách phù hợp sẽ tạo ra tính tích cực, hăng hái của ĐNCB
LĐ-QL đương chức trong phấn đấu nâng cao trình độ, đáp ứng yêu cầu công việc.
Đồng thời thu hút nguồn lực cán bộ trẻ, có trình độ là nguồn cán bộ LĐ-QL kế cận.


Như vậy, Chủ nghĩa Mác- Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản
Việt Nam thống nhất quan điểm ở những vấn đề chung nhất về cán bộ, cán bộ LĐ-
QL, cán bộ cơ sở và công tác xây dựng ĐNCB LĐ-QL ở cơ sở, như: Khái niệm về
cán bộ, cán bộ LĐ-QL; vai trò, vị trí của cán bộ LĐ-QL ở cơ sở; ý nghĩa của công
tác xây dựng ĐNCB LĐ-QL ở cơ sở.
Có thể thấy, trong suốt chiều dài lịch sử của mình, Đảng ta luôn coi trọng
công tác cán bộ, rất chú ý đến ĐNCB LĐ-QL, nhất là ở cơ sở. Và trong từng thời
điểm khác nhau, có những chủ trương, chính sách phù hợp để xây dựng ĐNCB LĐ-
QL ở cơ sở vững mạnh: Hội nghị Trung ương 3 (khóa VIII), yêu cầu các toàn Đảng,
toàn dân phải xây dựng được chiến lược về cán bộ đáp ứng thời kỳ đẩy mạnh CNH-
HĐH đất nước, trong đó nhấn mạnh đến ĐNCB cơ sở. Và trong các nghị quyết tiếp
theo của các kỳ Đại hội Đảng đều coi trọng đến công tác xây dựng ĐNCN LĐ-QL ở
cơ sở như Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX), Nghị quyết Trung ương 6 (khóa X)
đã quán triệt cụ thể, rõ ràng những yêu cầu đối với công tác xây dựng ĐNCB ở cơ
sở trong toàn Đảng, toàn dân.

Trong mỗi thời kỳ lịch sử, với những điều kiện khác nhau, yêu cầu khác
nhau, công tác xây dựng ĐNCB LĐ-QL ở cơ sở của Đảng được triển khai với
phương thức, nội dung, mục tiêu cụ thể. Nhưng xuyên suốt yêu cầu xây dựng và bảo
đảm cho cách mạng một ĐNCB vừa hồng, vừa chuyên, giỏi lý luận, thực tiễn, thạo
chuyên môn Thời kỳ đổi mới, công tác xây dựng ĐNCB LĐ-QL ở cơ sở cần phải
dựa trên những nền tảng thực tiễn mới với những yêu cầu, đòi hỏi mới thì mới có


19

thể có một đội ngũ đủ số lượng, mạnh chất lượng, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH
của đất nước.
Quan điểm của Chủ nghĩa Mác, của Tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản
Việt Nam vừa thống nhất ở những vấn đề chung nhất, song cũng đề cập đến những
vấn đề cụ thể, cấp thiết của công tác xây dựng ĐNCB LĐ-QL. Đó là những tiêu
chuẩn đối với một người LĐ-QL. Muốn có ĐNCB LĐ-QL như vậy, các cấp ủy đảng,
các cấp chính quyền cần phải làm tốt những khâu cơ bản trong công tác cán bộ. Có
vậy các cấp ủy, các cấp chính quyền mới xây dựng được ĐNCB LĐ-QL ở cơ sở
vững mạnh, đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ được giao.
1.2. VAI TRÒ CỦA BÁO CHÍ TRONG TUYÊN TRUYỀN VỀ VẤN ĐỀ
XÂY DỰNG ĐNCB LĐ-QL Ở CƠ SỞ.
1.2.1. Vai trò của báo chí trong tuyên truyền về vấn đề xây dựng ĐNCB
LĐ-QL ở cơ sở.
Trong lịch sử, các nhà kinh điển Mác - Lênin đã sớm nhận ra ý nghĩa quan
trọng của việc thông tin về mọi hoạt động của mỗi tổ chức, cá nhân trong phong
trào công nhân trên báo chí và sử dụng báo chí như là một công cụ đắc lực để giúp
nắm thông tin về hoạt động của từng nhóm người, tập hợp người cộng sản trong xã
hội. Năm 1904, trong “Thư gửi các đồng chí” về việc xuất bản tờ báo của phái đa số
trong đảng, Lênin viết: Hãy viết cho chúng tôi biết về tình hình toạ đàm của các
nhóm công nhân, về tính chất của các buổi toạ đàm ấy, về đề mục các buổi học, về

nhu cầu của công nhân, về việc sắp xếp công tác tuyên truyền cổ động, về quan hệ
trong xã hội… về những sự hiểu lầm, về nhu cầu, những kháng nghị của họ… Lần
khác, Lênin lại nhấn mạnh: Vai trò của tờ báo không chỉ đóng khung ở chỗ phổ biến
tư tưởng, giáo dục chính trị tư tưởng và thu hút bạn đồng minh chính trị, tờ báo
không chỉ là người tuyên truyền tập thể và cổ động tập thể mà còn là người tổ chức
tập thể, nhờ có tờ báo và gắn liền với tờ báo sẽ hình thành, nó không những chỉ làm
công tác địa phương mà còn làm những nhân viên của nó quen việc theo dõi chăm
chú những biến cố chính trị, đánh giá ý nghĩa của những biến cố ấy và ảnh hưởng
của những biến cố ấy đến các tầng lớp khác nhau trong nhân dân, vạch cho Đảng
cách mạng những phương pháp hợp lý để tác động đến những biến cố ấy. Rõ ràng,

×