Tải bản đầy đủ (.pdf) (158 trang)

Báo chí với việc rèn luyện đạo đức của sinh viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.79 MB, 158 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN





TRƯƠNG THỊ TUYÊN






BÁO CHÍ VỚI RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CỦA SINH VIÊN


Chuyên ngành: Triết Học
Mã số : 60.32.01


LUẬN VĂN TH.S TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG




NGƯỜI HƯỚNG DẪN
TS.TRẦN ĐĂNG THAO








HÀ NỘI - 2008



1
MỤC LỤC

Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA BÁO CHÍ VỚI VIỆC RÈN
LUYỆN ĐẠO ĐỨC CỦA SINH VIÊN
7
1.1. Một số khái niệm khoa học
7
1.1.1. Sinh viên
7
1.1.2. Đạo đức
15
1.1.3. Báo chí
20
1.2. Mối quan hệ giữa báo chí và sinh viên
24
1.2.1. Báo chí đã đề cập, cung cấp thông tin tuyên truyền đường lối,
chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, Đoàn
Thanh niên, Hội Sinh viên

25
1.2.2. Sinh viên có thể tìm thấy những thông tin khoa học cập nhật,
những tài liệu liên quan đến chuyên ngành mình học trên các loại hình
báo chí
25
1.2.3. Những thông tin về đời sống văn hóa tinh thần, về những điển
hình tiến tiến, gương người tốt việc tốt đang hàng ngày, hàng giờ
được báo chí phản ánh


26
1.2.4. Báo chí góp phần tuyên truyền tổ chức, hướng dẫn SV tham
gia vào các phong trào thực tiễn chính trị - xã hội
26
Tiểu kết chương 1
30
Chương 2: THỰC TRẠNG BÁO CHÍ VỚI VIỆC RÈN LUYỆN
ĐẠO ĐỨC CỦA SINH VIÊN
32
2.1. Vài nét về hệ thống báo chí cho sinh viên hiện nay
32
2.1.1. Cơ cấu tổ chức hệ thống báo chí dành cho sinh viên hiện nay
32
2.1.2. Khái quát về các báo khảo sát
33
2.1.3. Những nội dung tuyên truyền, giáo dục, rèn luyện đạo đức
cho sinh viên trên các báo
35
2.2. Nội dung chuyển tải
36


2
2.2.1. Giáo dục lý tưởng, truyền thống dân tộc, tình yêu quê hương,
đất nước
38
2.2.2. Giáo dục ý thức tự học tập, tự rèn luyện
55
2.2.3. Giáo dục lòng nhân ái, văn hóa ứng xử, đời sống, pháp luật
65
2.2.4. Giáo dục tình yêu, hôn nhân, gia đình
86
2.3. Hình thức thể hiện
97
2.3.1. Phân bố các thể loại tác phẩm báo chí
97
2.3.2. Tổ chức thông tin chuyên trang, chuyên mục
101
2.3.3. Phương pháp tuyên truyền
105
Tiểu kết chương 2
107
Chương 3: ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT HUY VAI
TRÒ CỦA BÁO CHÍ TRONG VIỆC RÈN LUYỆN ĐẠO ĐỨC CỦA
SINH VIÊN
109
3.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của các giải pháp
109
3.1.1. Dư luận xã hội đánh giá vai trò của báo chí với việc rèn luyện
đạo đức của sinh viên
109

3.1.2. Yêu cầu giáo dục đạo đức cho sinh viên trong thời kỳ mới
116
3.2. Đề xuất một số giải pháp
122
3.2.1. Những giải pháp chung
122
3.2.2. Những giải pháp cụ thể
125
Tiểu kết chương 3
140
KẾT LUẬN
142
TÀI LIỆU THAM KHẢO

PHỤ LỤC








3


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN


CNXH

: Chủ nghĩa xã hội
CNH, HĐH
: Công nghiệp hóa, Hiện đại hóa
ĐH, CĐ
: Đại học, Cao đẳng
GDĐĐ
: Giáo dục đạo đức
GD & TĐ
: Giáo dục & Thời đại
KTTT
: Kinh tế thị trường
KTXH
: Kinh tế xã hội
HSSV
: Học sinh sinh viên
TNCS HCM
: Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh
TNSV
: Thanh niên sinh viên

: Trung ương
PLVN
: Pháp luật Việt Nam
SV
: Sinh viên
SVVN
: Sinh viên Việt Nam
XHCN
: Xã hội chủ nghĩa







4
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Ngay từ thời niên thiếu, Hồ Chí Minh đã thấy rõ sự đóng góp to lớn của
tuổi trẻ Việt Nam trong sự trường tồn và phát triển của dân tộc. Họ là lực lượng
đông đảo nhất, hùng hậu nhất trong các công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, là
lực lượng gánh vác những công việc nặng nề, khó khăn vất vả nhất với tinh thần
xung kích: “Việc gì khó có thanh niên, ở đâu khó có thanh niên” [31, tr. 60].
Từ năm 1986, Việt Nam chính thức bước vào thời kì đổi mới, xóa bỏ chế độ
bao cấp và chuyển sang nền kinh tế thị trường (KTTT) định hướng xã hội chủ nghĩa
(XHCN). Một nền kinh tế mở đang ngày càng đặt dần những bước chân mạnh mẽ
vào quá trình toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế. Đặc biệt năm 2007 đánh dấu sự kiện
Việt Nam chính thức được công nhận là thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương
mại thế giới (WTO). Hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu
đáng tự hào, đời sống nhân dân được nâng lên rõ rệt. Tuy nhiên quá trình mở cửa
nền kinh tế cũng tác động mạnh đến các giá trị tinh thần, đặc biệt là giá trị đạo đức
của con người trên cả hai phương diện tích cực và tiêu cực. Thế hệ trẻ hôm nay
mang nhiều nét của thời đại mới: Thông minh, năng động, ham hiểu biết, dám nghĩ,
dám làm. Bên cạnh đó, trong thanh niên đã xuất hiện những biểu hiện tiêu cực về
đạo đức, lối sống. “Đặc biệt đáng lo ngại là trong một bộ phận học sinh, sinh viên
có tình trạng suy thoái về đạo đức, mờ nhạt về lý tưởng, theo lối sống thực dụng,
thiếu hoài bão lập thân, lập nghiệp vì tương lai của bản thân và đất nước” [43].
1.2. Việc giáo dục thế hệ trẻ nói chung, với sinh viên (SV) nói riêng là một
việc lớn đòi hỏi tất cả các cấp, các ngành, các đoàn thể xã hội cùng tham gia, trong
đó có sự đóng góp của các phương tiện thông tin đại chúng mà báo chí là đội quân

xung kích.
Báo chí là một trong những kênh truyền thông nhạy cảm nhất, nó là nhịp cầu
để thế hệ trẻ tiếp thu nhiều luồng văn hoá trong và ngoài nước. Hiện nay, mỗi cơ
quan báo chí, mỗi sản phẩm báo chí đều dành cho đối tượng thanh niên sinh viên

5
(TNSV) với những tỷ lệ chú ý nhất định. Tuy nhiên nhìn vào sản phẩm báo chí của
chúng ta hiện nay không phải lúc nào cũng phát huy được năng lực và hiệu quả tác
động đến vấn đề giáo dục đạo đức (GDĐĐ) cho SV, thậm chí một số tờ báo có biểu
hiện chạy theo lợi nhuận kinh doanh, bằng mọi cách phát triển doanh số phát hành
và quảng cáo mà không chú ý đến hiệu ứng tiêu cực đối với bạn đọc. Chính vì vậy
việc tìm ra phương thức tác động hợp lý để phát huy vai trò và khả năng to lớn của
báo chí trong việc hướng dẫn, giáo dục lý tưởng đạo đức, xây dựng một lối sống
lành mạnh, tiến bộ cho thế hệ trẻ là một việc làm cần thiết mà xã hội đang quan tâm.
Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết đó, tác giả lựa chọn đề tài của luận văn thạc sĩ
là: “Báo chí với việc rèn luyện đạo đức của sinh viên”.
2. Lịch sử nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong quá trình tìm hiểu thực tế, có nhiều đề tài nghiên cứu xung quanh vấn
đề GDĐĐ cho SV ở các góc độ khác nhau nhưng tác giả chú ý đến các công trình
sau:
- Luận án tiến sĩ: “ Những biện pháp giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho
sinh viên sư phạm trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn
Anh Tuấn (2008), Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Đề tài nghiên cứu những nội dung cơ bản của GDĐĐ nghề nghiệp cho SV sư
phạm, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo giáo viên cho các trường sư phạm.
- Luận án tiến sĩ: “ Xây dựng đội ngũ đảng viên là thanh niên sinh viên ở các
trường Đại học, Cao đẳng trên địa bàn Thành phố Hà Nội trong thời kỳ mới” của
tác giả Nguyễn Thị Mỹ Trang (2001), Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Đề tài lựa chọn đối tượng là TNSV để góp phần phát triển số lượng và nâng
cao chất lượng đội ngũ đảng viên đối với TNSV các trường đại học (ĐH), cao đẳng

(CĐ), đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa (CNH), hiện đại hoá (HĐH) đất
nước.

6
- Luận văn thạc sĩ: “ Tạp chí thanh niên với việc giáo dục thế hệ trẻ nước ta
hiện nay” của tác giả Trần Hương Giang (2004), Học viện Báo chí & Tuyên truyền.
- Luận văn thạc sĩ: “ Khả năng tác động của các phương tiện thông tin đại
chúng đối với việc hình thành lối sống của thanh niên sinh viên hiện nay” của tác
giả Hoàng Thị Xuân Quý (1999), Phân viện Báo chí & Tuyên truyền.
Đề tài đề cập đến những vấn đề làm sáng tỏ mối quan hệ giữa các phương
tiện thông tin đại chúng và việc hình thành lối sống của TNSV, qua đó xây dựng
những giải pháp phát huy tối đa khả năng các phương tiện thông tin đại chúng.
- Luận văn thạc sĩ: “ Báo chí với quá trình hình thành nhân cách của học
sinh sinh viên” của tác giả Lại Thị Hải Bình (2006), Trường ĐH Khoa học xã hội và
Nhân văn. Luận văn đề cập chủ yếu đến tác động của báo chí tới quá trình hình thành
nhân cách của HSSV ở mức độ khái quát.
- Luận văn thạc sĩ: “ Giáo dục nhân cách cho trẻ vị thành niên trên báo chí hiện
nay” của tác giả Trần Thị Dung (2007), Học viện Báo chí & Tuyên truyền. Đề tài tập
trung đưa ra những giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục và định hướng nhân cách cho
trẻ vị thành niên trên báo Thiếu niên Tiền phong và Hoa học trò.
- Khóa luận: “Tác động của nhóm đề tài tình bạn, tình yêu trên báo in đối với
sự phát triển nhân cách của tuổi vị thành niên” của tác giả Trần Thúy Hồng (2007),
Học viện Báo chí & Tuyên truyền. Trong phạm vi khóa luận ngắn gọn, tác giả đưa ra
định hướng thông tin trên báo chí về tình bạn, tình yêu như thế nào để có giá trị giáo
dục tốt nhất cho vị thành niên trong giai đoạn hiện nay.
Các công trình nghiên cứu trên phản ánh ở các giai đoạn khác nhau, đối tượng
khác nhau. Tuy nhiên trên thực tế còn quá ít những công trình nghiên cứu, đánh giá,
tổng kết kinh nghiệm tuyên truyền GDĐĐ cho đối tượng là SV thông qua phương
tiện báo chí, đặc biệt là báo in. Vì vậy nội dung nghiên cứu: “Báo chí với việc rèn
luyện đạo đức của sinh viên” là đề tài mới chưa có công trình nào nghiên cứu.

3. Mục đích nghiên cứu

7
Khảo sát cụ thể ở 4 tờ báo: Thanh niên, Sinh viên Việt Nam (SVVN), Pháp
luật Việt Nam (PLVN), Giáo dục và Thời đại (GD & TĐ) với tất cả những mặt tích
cực và hạn chế, từ nội dung, hình thức đến phương pháp giáo dục nhằm đánh giá
khả năng, vai trò của từng báo trong việc GDĐĐ cho SV. Từ đó xác định những cơ
sở khoa học và thực tiễn để xây dựng giải pháp nâng cao chất lượng tuyên truyền và
GDĐĐ cho SV hiện nay thông qua phương tiện báo chí.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Hệ thống một số khái niệm liên quan đến đề tài.
4.2. Hệ thống những quan điểm lớn của Đảng, Nhà nước về vấn đề GDĐĐ
cho SV.
4.3. Phân tích vai trò của báo chí với việc tuyên truyền gíao dục nhân cách
cho SV.
4.4. Trên cơ sở chọn lọc, khảo sát hệ thống, phân tích để đi đến khẳng định
thế mạnh và hạn chế của các báo trong vấn đề tuyên truyền và GDĐĐ cho SV trong
giai đoạn hiện nay.
4.5. Đề xuất và kiến nghị một số giải pháp nhằm tiếp tục phát huy vai trò báo
chí với việc rèn luyện đạo đức của SV.
5. Phạm vi nghiên cứu
Căn cứ vào nội dung của đề tài và giới hạn thời gian nghiên cứu của luận
văn thạc sĩ, tác giả nghiên cứu trong phạm vi sau:
5.1. Nghiên cứu ấn phẩm báo Thanh niên, SVVN, PLVN, GD & TĐ trong hai
năm 2006-2007 trên các bình diện: Nội dung đề cập, hình thức thể hiện, thể loại được
sử dụng và đánh giá tác động của báo chí đến GDĐĐ SV.
5.2. Khảo sát thăm dò ý kiến đánh giá của SV một số trường ĐH và CĐ khu
vực Hà Nội, Hà Tây (tên gọi cũ) về tác động của báo chí.
6. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu


8
6.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được thực hiện trên cơ sở sử dụng phương pháp luận báo chí Mác
xít, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối chủ trương, chính sách của
Đảng, Nhà nước, Nghị quyết của Đoàn Thanh niên về vấn đề TNSV.
6.2. Phương pháp nghiên cứu
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
+ Nghiên cứu văn kiện
+ Nghiên cứu tài liệu ngành
+ Nghiên cứu sách báo, tạp chí, các công trình sản phẩm liên quan đến đề tài
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Quan sát, trò chuyện
+ Thống kê số liệu, phân tích thực trạng
+ Điều tra cơ bản bằng phiếu hỏi
+ Lấy ý kiến chuyên gia (qua trao đổi, toạ đàm)
+ Phỏng vấn trực tiếp SV.
- Bổ sung vào hai phương pháp trên, tác giả còn sử dụng phương pháp toán
thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp.
7. Những đóng góp mới của luận văn
7.1. Đánh giá một cách cơ bản thực trạng đạo đức SV và vấn đề tác động của
báo chí đối với giáo dục SV.
7.2. Đề xuất một số giải pháp có tính khả thi nhằm phát huy vai trò của báo
chí với việc rèn luyện đạo đức của SV.
8. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
8.1. Ý nghĩa lý luận

9
Đây là công trình nghiên cứu cơ bản thực trạng của công tác tuyên truyền,
giáo dục SV trên 4 tờ báo. Việc quan tâm đến thế hệ trẻ là nhiệm vụ của mọi thời
đại, đặc biệt là trong tình hình xã hội nước ta hiện nay. Đảng, Nhà nước, Đoàn

thanh niên càng quan tâm hơn tới việc giáo dục cho thanh niên nói chung và SV nói
riêng.
Đề tài góp phần làm rõ vai trò của báo chí cách mạng trong công cuộc xây
dựng con người mới. Đề tài chỉ ra rằng: báo chí không chỉ tuyên truyền mà còn
đóng vai trò giáo dục “trường ngoài nhà trường” góp phần giáo dục định hướng
nhân cách cho SV theo những giá trị cuộc sống tốt đẹp, đáp ứng sự nghiệp đổi mới
của đất nước.
8.2. Ý nghĩa thực tiễn
Đề tài góp phần cung cấp các cơ sở khoa học đánh giá nghiêm túc trong việc
GDĐĐ SV để các nhà giáo dục, các nhà hoạch định chính sách quan tâm sâu sắc
hơn đến thế hệ TNSV, phát huy tối đa nguồn nhân lực có thể huy động được, đáp
ứng yêu cầu của đất nước, của thời đại.
Luận văn sau khi hoàn thành xong là tài liệu bổ ích cho các bạn đồng nghiệp
tham khảo, áp dụng vào thực tiễn khi đưa thông tin về giáo dục, định hướng cho
SV.
9. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của báo chí với việc rèn luyện đạo đức sinh viên
Chương 2: Thực trạng báo chí với việc rèn luyện đạo đức của sinh viên
Chương 3: Đề xuất một số giải pháp phát huy vai trò của báo chí trong việc
rèn luyện đạo đức của sinh viên

10
Cuối mỗi chương là phần kết luận tóm tắt nội dung nghiên cứu của từng
chương.






Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA BÁO CHÍ VỚI VIỆC RÈN LUYỆN
ĐẠO ĐỨC SINH VIÊN
1.1. MỘT SỐ KHÁI NIỆM KHOA HỌC
1.1.1. Sinh viên
1.1.1.1. Khái niệm sinh viên
Trong từ điển Oxford (1995), thuật ngữ “Student” được giải thích như sau: “a,
Một người thường ở độ tuổi trên 16, đang theo học ở trường đại học hoặc cao đẳng.
b, Một thiếu niên nam hoặc nữ đang học ở trường phổ thông” [40, tr. 18].
Từ điển Tiếng Việt (2001) xếp SV vào danh từ và định nghĩa là “người học ở
bậc ĐH”. Bậc ĐH ở đây, theo quy định của luật giáo dục, bao gồm ĐH, CĐ [40, tr. 18].
Hiện nay, một định nghĩa về SV được chấp nhận rộng rãi trong khoa học xã
hội là: SV là đại biểu của một nhóm xã hội đặc biệt gồm những người đang trong
quá trình chuẩn bị tri thức để trở thành chuyên gia, hoạt động lao động trong một
lĩnh vực nhất định thuộc các ngành kinh tế, văn hoá, xã hội hoặc SV là những người
đang học tập ở các trường ĐH, CĐ trong và ngoài nước [19, tr. 47]. Từ định nghĩa
này có thể hiểu: Sinh viên là những công dân có độ tuổi từ 18 đến 30 đang học tập
bậc đại học, cao đẳng. Như vậy, theo cách hiểu này TNSV có một số đặc điểm sau:

11
- Là những người đã tốt nghiệp phổ thông trung học, bổ túc trung học hoặc
trung cấp chuyên nghiệp, xuất thân từ các tầng lớp xã hội khác nhau đang trong quá
trình học tập, chuẩn bị nghề nghiệp chuyên môn tại các trường ĐH, CĐ.
- Là lớp người năng động, luôn nhạy cảm và sẵn sàng tiếp thu cái mới.
- “ SV là bộ phận trí tuệ và ưu tú trong các thế hệ thanh niên, là nơi kết tinh
nhiều tài năng sáng tạo, là nguồn lao động có học vấn cao, có chuyên sâu và đại bộ
phận SV sẽ trở thành người trí thức của đất nước”

[32].


1.1.1.2. Đặc điểm của sinh viên
A. Đặc điểm chung của sinh viên
SV là một bộ phận của cơ cấu thanh niên, mang các đặc điểm chung của thanh
niên là thời kỳ phát triển mạnh cả về thể chất và trí tuệ tài năng của con người. Ở tuổi
thanh niên các phẩm chất đạo đức, chính trị, nghề nghiệp được định hình, các kinh
nghiệm sống đang được tích lũy, là thời kỳ chuẩn bị mọi mặt để phát triển đến đỉnh
cao ở tuổi trung niên. Đây chính là giai đoạn thanh niên tự khẳng định vị trí, vai trò
của mình trong xã hội. Tuy nhiên SV lại là một nhóm xã hội đặc thù và có những đặc
điểm riêng rất chú ý.
Thứ nhất, SV là một giới năng động mà thành phần của họ hàng năm thay
đổi. Để đáp ứng yêu cầu của CNH, HĐH đất nước, số lượng SV tăng, tỷ lệ SV ĐH,
CĐ so với độ tuổi từ 18 đến 23 dự báo năm 2020 là 3070 tối thiểu là 300, tối đa là
1481 SV trên 1 vạn dân [25, tr. 19].
Thứ hai, SV là một nhóm xã hội đặc thù - Thanh niên trí thức. Do đó họ vừa
mang đặc điểm của thanh niên lại vừa có đặc tính của trí thức (họ có vị trí “kép” hay
vị trí “song hành” trong xã hội).
Khi xét về cấu trúc của đội ngũ trí thức theo 2 lát cắt : Cắt ngang theo trình
độ chuyên môn và bổ dọc theo trình độ nghề nghiệp đều cho thấy: SV là nguồn đào
tạo trí thức, đội ngũ dự bị của trí thức.

12


















Hình 1.1. Cấu trúc đội ngũ trí thức theo trình độ chuyên môn
D
1. Lực lượng trí thức đầu
ngành tiên tiến nhất
C
2. Lực lượng trí thức
nòng cốt
3. Lực lượng trí thức đông
đảo, ứng dụng, truyền bá
kiến thức
4. Lực lượng SV, nguồn bổ
sung của đội ngũ trí thức
1
2
3
4
A
B. Văn hóa, nghệ thuật
A. Khoa học, công nghệ
Đ
B

D. Quản lý xã hội
C. Quản lý kinh tế
Đ. Quốc phòng, an ninh

13

Hình 1.2. Cấu trúc đội ngũ trí thức theo trình độ nghề nghiệp
“Nguồn: Phạm Tất Dong, 1995”
Là lớp người trẻ tuổi có học thức, SV có nhu cầu to lớn về sự phát triển trí
tuệ, tìm tòi, khám phá, sáng tạo để nâng cao hiểu biết, hình thành niềm tin khoa học.
SV là bộ phận trí tuệ và ưu tú trong các thế hệ thanh niên là nơi kết tinh nhiều tài
năng sáng tạo, là nguồn lao động có học vấn cao, có chuyên sâu và đại bộ phận SV
sẽ trở thành người trí thức. SV thường đại diện cho bộ mặt tinh thần của xã hội,
được xã hội tôn trọng và đề cao. Tuy nhiên ở họ có nhược điểm là nhận thức chưa
đầy đủ, bàng quan, có thể coi thường tất cả những gì vượt ra ngoài phạm vi các khái
niệm khoa học kỹ thuật, nhỏ hẹp, thiếu thực tế
SV được đào tạo cơ bản và hệ thống trong các trường ĐH, CĐ; vốn kiến thức
giúp họ sớm tìm tòi ý nghĩa cuộc sống, thích những cải biến trong xã hội, hình
thành tư tưởng và quan điểm chính trị. Vì thế sự phát triển tư duy lý luận, quan tâm
tới các vấn đề lý luận ở họ hơn hẳn so với các tầng lớp thanh niên khác. Họ quan
tâm tới các vấn đề lý tưởng, lẽ sống, các định hướng giá trị, lựa chọn giá trị trong
cuộc sống, gắn liền với thế giới quan, nhân sinh quan, phát triển các nhu cầu từ





1
2
3


2

4
A
B
C
D
Đ
Đ. Quốc phòng, an ninh
D. Quản lý xã hội
C. Quản lý kinh tế
B. Văn hóa, nghệ thuật
A. Khoa học, công nghệ
4. Lực lượng SV, nguồn bổ
sung của đội ngũ trí thức
3. Lực lượng trí thức đông
đảo, ứng dụng, truyền bá
kiến thức
2. Lực lượng trí thức
nòng cốt
1. Lực lượng trí thức đầu
ngành tiên tiến nhất

14
nhận thức khoa học, động cơ tư tưởng, thái độ chính trị đến ý thức tình cảm và hành
vi đạo đức.
Thứ ba, với SV, lý tưởng về nghề nghiệp thường là một trong những biểu
hiện tập trung cho sự lựa chọn của họ về giá trị cuộc sống, thái độ nhập cuộc với
cuộc sống. Lý tưởng nghề nghiệp, hướng tới những vị trí xã hội trong nghề nghiệp ở

SV cao hơn những thanh niên khác, cùng lứa tuổi. Lý tưởng nghề nghiệp phản ánh
lý tưởng chính trị xã hội, mức độ trưởng thành về đạo đức, văn hóa, thái độ và lập
trường của người SV trí thức.
SV là nhân vật trung tâm, là đối tượng tác động của mọi hoạt động nhà
trường ĐH, CĐ. Cuộc sống tập thể trong môi trường ĐH và hoạt động giao lưu đã
tạo cho họ có một đặc điểm riêng trong phong cách, trong lối sống. Tự nguyện và
tích cực tham gia các hoạt động đoàn thể, hoạt động chính trị xã hội, những hình
thức văn hoá văn nghệ. Ngày nay, sự nghiệp CNH, HĐH tạo ra khả năng thích ứng
nhu cầu phát triển SV, là cơ hội để SV khẳng định khả năng của mình trong xã hội.
Thứ tư, SV là những người được giáo dục đào tạo một cách có hệ thống và
toàn diện hơn cả về tất cả các mặt khoa học, kỹ thuật, chính trị, văn hóa so với bộ
phận thanh niên khác. Họ được các tổ chức Đảng, Đoàn TNCS HCM, nhà trường
quan tâm giáo dục về chính trị, tư tưởng và quản lý khá chặt chẽ. Với nền kinh tế tri
thức, trong điều kiện hội nhập và toàn cầu hóa, tất thảy có nhiều cán bộ chủ chốt
trong các lĩnh vực quan trọng của đất nước là SV.
B. Một số đặc điểm tâm lí nhân cách điển hình của sinh viên
+ Đặc điểm tự ý thức của SV:
Một trong những đặc điểm tâm lí quan trọng nhất ở tuổi SV là sự phát
triển tự ý thức. Sự tự ý thức của SV được hình thành trong quá trình xã hội hoá và
liên quan đến tính tích cực nhận thức của SV. Giúp cho SV có những hiểu biết và
thái độ đối với bản thân mình để chủ động hướng nhân cách theo các yêu cầu của xã
hội. Thực tế cho thấy, những SV có kết quả học tập cao thường chủ động tích cực
trong việc tự giáo dục, giao tiếp hướng vào bạn bè, hướng vào các nguyên tắc hoạt

15
động, tìm tòi những tri thức mới, tích cực hoạt động nhận thức. Còn những SV có
kết quả học tập thấp thường tự đánh giá cao về bản thân, bị động trong việc tự giáo
dục, nhu cầu giao tiếp mạnh hơn hoạt động nhận thức [19, tr. 48-52].
+ Đặc điểm tự đánh giá của SV:
Thành phần có ý nghĩa quan trọng nhất tạo nên sự phát triển tự ý thức của

SV là năng lực tự đánh giá. Tự đánh giá của nhân cách thể hiện ở thái độ đối với
bản thân và kết quả sự biểu hiện các thuộc tính nhân cách và năng lực trong hoạt
động, giao tiếp và tự giáo dục. Tự đánh giá phản ánh mức độ thoả mãn của nhân
cách về bản thân, là mức độ thoả mãn của chủ thể về trình độ phát triển các thuộc
tính của cá nhân. Đó là kết quả đánh giá từ bên ngoài hình thành nên lòng tự trọng
của cá nhân. Chúng bảo đảm cho tính tích cực của nhân cách được thực hiện trong
đời sống với toàn bộ cấu trúc của mối quan hệ liên nhân cách. Các công trình
nghiên cứu về TNSV đã chỉ ra rằng, tự đánh giá có ý nghĩa lớn trong việc hình thành
lòng tự trọng của nhân cách. Học tập và giao tiếp là hai hoạt động tích cực, biểu hiện
trong nhân cách của SV và tự đánh giá các phẩm chất qui định tính cách SV như chủ
thể của lao động học tập và giao tiếp là có ý nghĩa nhất trong cấu trúc tự đánh giá của
nhân cách.
+ Kế hoạch đường đời và xu hướng nghề nghiệp của SV:
Trong quá trình học tập ở ĐH, SV tiếp thu những tri thức từ các môn khoa
học và tham gia vào các hoạt động khác nhau của đời sống xã hội nên xu hướng nghề
nghiệp của SV được hình thành và phát triển. Đó là ý định của cá nhân muốn sử dụng
những tri thức, kinh nghiệm, năng lực của mình vào nghề nghiệp đã chọn. Trong xu
hướng nghề nghiệp của nhân cách thì thái độ tích cực đối với nghề, khuynh hướng và
hứng thú nghề nghiệp, ý muốn hoàn thiện việc chuẩn bị cho nghề nghiệp, muốn
chiếm lĩnh hoạt động trong lĩnh vực nghề nghiệp của mình được thể hiện. Việc thích
ứng tốt là cơ sở cho sự ổn định nghề nghiệp. Nó bảo đảm cho niềm tin vào sự đúng
đắn trong việc chọn nghề, là cơ sở để tự khẳng định nhân cách và củng cố xu hướng
nghề nghiệp của SV.

16
+ Xu hướng phát triển nhân cách của SV:
Nhân cách của SV là nhân cách của con người trẻ đang được chuẩn bị để thực
hiện chức năng người chuyên gia có trình độ nghiệp vụ cao trong một lĩnh vực hoạt
động nào đó của xã hội. Lứa tuổi TNSV là giai đoạn chuyển từ sự chín muồi về thể
lực sang trưởng thành về phương diện xã hội. Trong thời kỳ này, ở SV có sự biến đổi

mạnh mẽ về động cơ, về thang giá trị xã hội có liên quan đến nghề nghiệp. SV xác
định con đường sống tương lai, có kế hoạch cho hoạt động của mình, độc lập trong
phán đoán và hành vi, tích cực nắm vững nghề nghiệp và bắt đầu thể nghiệm mình
trong mọi lĩnh vực của cuộc sống. Tuy nhiên, trong thời kỳ này thế giới nội tâm của
SV có nhiều phức tạp và mâu thuẫn, thể hiện những mâu thuẫn cơ bản sau: mâu
thuẫn giữa ước mơ với khả năng, điều kiện và kinh nghiệm; mâu thuẫn giữa mong
muốn học tập sâu những môn học yêu thích và yêu cầu thực hiện toàn bộ chương
trình học tập; mâu thuẫn giữa số lượng thông tin quá nhiều và thời gian để kịp hiểu
thông tin.
Sự phát triển nhân cách của SV là một quá trình biện chứng của sự nảy sinh
và giải quyết các mâu thuẫn; là quá trình chuyển các yêu cầu bên ngoài thành yêu
cầu của bản thân SV và là quá trình tự vận động và hoạt động tích cực của chính
bản thân họ. Có thể nói trong quá trình học tập ở ĐH, sự phát triển nhân cách SV
được diễn ra theo các hướng cơ bản sau:
- Niềm tin, xu hướng nghề nghiệp và các năng lực cần thiết của người
chuyên gia tương lai được củng cố và phát triển.
- Kỳ vọng đối với nghề nghiệp tương lai của SV được phát triển.
- Các quá trình tâm lí, đặc biệt là quá trình nhận thức được phát triển và có
tính nghề nghiệp.
- Tình cảm nghĩa vụ, tinh thần trách nhiệm, tính độc lập được nâng cao, cá
tính và lập trường sống được bộc lộ rõ nét.

17
- Sự trưởng thành về mặt xã hội, đạo đức, khả năng tự giáo dục của SV được
nâng cao.
- Hình thành những phẩm chất nghề nghiệp và tính sẵn sàng đối với hoạt
động nghề nghiệp tương lai được củng cố.
SV hiện nay đang sống, học tập và rèn luyện trong một bối cảnh đặc thù hết
sức sôi động của thời kỳ đổi mới đất nước, hội nhập kinh tế quốc tế với nhiều thuận
lợi rất căn bản, nhưng cũng không ít khó khăn, thách thức mang tính thời đại. Họ

đang đứng trước những trọng trách nặng nề và vẻ vang của dân tộc giao phó: những
trí thức trẻ tương lai phải trở thành nguồn nhân lực trẻ có chất lượng cao thực hiện
thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Là lớp người có tri thức, năng động, nhạy
cảm, SV có khả năng tiếp nhận nhanh với cái mới, cái hiện đại, có thái độ phê phán
cái sai, cái lạc hậu, bảo thủ; có quan niệm riêng về tự do, dân chủ, bình đẳng, nhân
đạo, về văn hoá và hiện đại.
Ở hầu hết các nước, “ngòi nổ” của các trào lưu tư tưởng, chính trị, lối sống mới,
thường bắt đầu từ SV. Ở Việt Nam trong phong trào cách mạng, SV đã và đang là lực
lượng xã hội - chính trị tích cực. Trong công cuộc đổi mới đất nước, SV tỏ rõ sự nhạy
cảm, năng động đi vào các lĩnh vực khoa học - công nghệ, kinh tế mới và đã mau
chóng hội nhập với thế giới. Hiện nay, trong các ngành chủ đạo của đất nước, như: tin
học, bưu chính viễn thông, vật liệu mới, hàng không, ngân hàng, dầu khí, sinh học
hầu hết lực lượng lao động chủ yếu là những SV mới tốt nghiệp khoảng 5 -10 năm gần
đây.

1.1.1.3. Vai trò của sinh viên
V.I. Lênin rất chú trọng tới phong trào SV, ông nhận thấy rằng sự gắn
bó mật thiết giữa bộ phận ưu tú nhất của SV với giai cấp vô sản cách mạng đã đem
lại sức mạnh to lớn và sự phát triển nhanh chóng của cách mạng. Sự nghiệp của giai
cấp vô sản không thể thiếu được sự tham gia tích cực và tự giác của SV. Những
người trẻ tuổi có học thức sẽ trưởng thành một cách chắc chắn, tích lũy thêm kinh

18
nghiệm và vốn sống thực tiễn và cùng với tri thức mà họ thu hái được, cùng với
nhiệt tình của tuổi trẻ, cùng với thực tiễn đấu tranh chính trị, mà chỉ có thông qua
thực tiễn ấy, tri thức ấy mới biến thành tình cảm, niềm tin và hành động họ sẽ trở
thành người cộng sản giác ngộ. V.I Lênin cho rằng, SV một bộ phận quan trọng của
giới trí thức trẻ, là người bạn đồng minh đáng tin cậy của giai cấp công nhân.
Trong “Nhiệm vụ của Đoàn thanh niên” V.I Lênin nhấn mạnh: người ta chỉ
có thể trở thành người cộng sản khi biết làm giàu trí tuệ của mình bằng tổng số tri

thức của loài người mà nhân loại đã tích luỹ được và thanh niên trở thành người lao
động chân chính khi họ sống và cùng lao động, cùng chiến đấu với công nhân.
Trong cách đặt vấn đề như vậy, V.I Lênin đã đặc biệt chú ý tới tầng lớp SV trí thức.
Vai trò này của họ trong đấu tranh cách mạng và trong phát triển xã hội chỉ có thể
được thể hiện và phát huy khi họ được giáo dục về thế giới quan khoa học, cách
mạng và được tập hợp thành tổ chức, nhờ đó họ hoạt động trong các phong trào
cách mạng, gắn lý luận với thực tiễn.
Với SV hoạt động chính của họ là học tập. Để xứng đáng với niềm tin yêu
của dân tộc, theo tư tưởng Hồ Chí Minh, SV phải xác định được lý tưởng sống của
họ thông qua hoạt động học tập, phải tự trả lời được câu hỏi: học cái gì? học để làm
gì? học để phụng sự ai? Người đã chỉ bảo ân cần SV phải học tập toàn diện (học văn
hoá, khoa học, kỹ thuật, quân sự và chính trị) với phương pháp học hiện đại (học đi
đôi với hành, lý luận gắn liền với thực tiễn) phải có quan điểm thực tiễn trong học
tập (học trong nhân dân dân, trong mối quan hệ với giai cấp cách mạng, tham gia
vào đời sống chính trị, vào các hoạt động xã hội ) có như vậy SV mới trở thành
con người toàn diện có đức, có tài, trở thành một “trí thức hoàn toàn” [27, tr. 235] và
làm tốt được công tác mà Đảng, Đoàn giao phó.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, SVVN luôn luôn là lực lượng hăng hái tham gia
các phong trào cách mạng. Phát huy truyền thống yêu nước của thanh niên Việt
Nam, khi đất nước lâm nguy, nhiều SV đã “xếp bút nghiên lên đường tranh đấu” vì

19
nước quên mình, có người vì hoàn cảnh không được học ở nhà mà phải đi học xứ
người nhưng vẫn giữ nguyên vẹn tấm lòng sắt son.
Nhiều người được Nhà nước tặng danh hiệu anh hùng và các danh hiệu cao
quý khác. Theo lời kêu gọi của Đoàn TNCS HCM, nhiều năm qua hàng ngàn SV tốt
nghiệp đã về nông thôn lập thân, lập nghiệp, góp phần mang tri thức khoa học về
nông thôn, đưa nông thôn từng bước đi vào CNH, HĐH.
Ngày nay khi nhân loại coi tri thức là vốn liếng quý báu của dân tộc, trí tuệ là
nguồn tài nguyên lớn nhất của các quốc gia và vai trò của giới trí thức không ngừng

được tăng lên với tư cách là nguồn lực của phát triển thì SV nguồn bổ sung cho đội
ngũ tri thức có vai trò hết sức to lớn, nhất là trong công cuộc đổi mới đất nước ta
hiện nay. Tại đại hội lần thứ V Hội SVVN (22/11/1993) nguyên Tổng Bí thư Đỗ
Mười khẳng định “sự nghiệp đổi mới đất nước, xây dựng CNXH có thành công hay
không, đất nước ta bước vào thế kỷ XXI có vị trí xứng đáng trong cộng đồng thế
giới hay không, chủ yếu do thế hệ thanh niên hiện nay quyết định, trong đó SV là
bộ phận có vai trò hết sức quan trọng [28, tr. 177].
1.1.2. Đạo đức
1.1.2.1. Khái niệm đạo đức
Đạo đức theo từ điển Anh Việt (1993) được định nghĩa như sau: “1, Những
nguyên tắc xử thế đúng đắn: đạo đức. 2, (Mức độ) phù hợp các nguyên tắc đạo đức,
lòng tốt hay tính đúng đắn; đạo lý, đạo nghĩa. 3 là hệ thống đạo đức riêng: đạo; giáo lý”
[40, tr. 32].
Đạo đức theo tiếng Anh là Morality (từ điển Oxford 1995) giải thích: “1,
những quy tắc liên quan đến đúng và sai, hoặc hành vi tốt hoặc xấu. 2, Mở rộng đối
với những gì là đúng hoặc sai, tốt hoặc xấu. 3. Một hệ thống đặc biệt về các quy tắc”
[40, tr. 32].

20
Đạo đức là một vấn đề dành được sự quan tâm của nhiều lĩnh vực khoa học
và của nhiều nhà khoa học. Mỗi lĩnh vực khoa học, nhà khoa học lại đề cập đến đạo
đức ở những khía cạnh với những phạm vi nội dung khác nhau:
- “Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, là tổng hợp những quy tắc, những
nguyên tắc, chuẩn mực xã hội, nhờ nó con người tự giác điều chỉnh hành vi của
mình sao cho phù hợp với lợi ích, hạnh phúc của con người và tiến bộ xã hội trong
quan hệ giữa con người với con người, giữa cá nhân và xã hội” [10].
- “Đạo đức là toàn bộ những quy tắc, chuẩn mực nhằm điều chỉnh và đánh giá
cách ứng xử của con người với nhau trong quan hệ xã hội và quan hệ với tự nhiên”
[10].
- “Đạo đức là hệ thống những quy tắc, chuẩn mực biểu hiện sự tự giác trong

quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với cộng đồng xã hội, với tự
nhiên và với cả bản thân mình” [10].
- “Đạo đức bao gồm những chuẩn mực hành vi đạo đức của con người theo
hướng thiện, tránh hướng ác. Mỗi một xã hội, mỗi một nhóm xã hội và một cá nhân
có thể lý giải cái thiện và cái ác theo những cách khác nhau tuỳ thuộc vào quan
niệm sống và lợi ích của mình” [24].
Có thể liệt kê ra rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về đạo đức. Nhưng
tựu trung lại, dù theo cách định nghĩa nào thì đạo đức cũng được xem là một
hiện tượng xã hội, thực hiện các chức năng cơ bản sau: chức năng định hướng
giáo dục; chức năng điều chỉnh hành vi và chức năng kiểm tra đánh giá.
Đạo đức còn được xem là một hình thái ý thức xã hội, có quan hệ chặt
chẽ với các hình thái ý thức xã hội khác: chính trị, pháp luật, khoa học, tôn giáo.
Đạo đức thể hiện ở các quan niệm về thiện và ác, hạnh phúc, nghĩa vụ, lương tâm,
danh dự, lẽ công bằng. Những phạm trù này xoay quanh một cái gốc triết học cơ
bản và biểu thị cụ thể thành một hệ thống chuẩn mực đạo đức. Hệ thống quan niệm
về đạo đức thay đổi tuỳ theo chế độ chính trị - xã hội. Tuy nhiên, giữa các hình thái
KTXH, chế độ chính trị - xã hội khác nhau thì vẫn có ít nhiều quan niệm về đạo đức

21
giống nhau, hoặc là về ngôn từ hoặc là cả về nội dung chủ yếu. Về cơ bản, “xã hội
nào thì đạo đức ấy”. Trong đạo đức của của các chế độ chính trị - xã hội khác nhau
cũng có một số vấn đề được gọi là “tính nhân loại phổ biến của đạo đức”. Ví dụ:
lòng nhân ái, lương tâm, lòng tự trọng, khiêm tốn, lễ độ. Hệ thống các quan niệm,
chuẩn mực đạo đức được biểu hiện, tồn tại dưới hình thức những hành vi đạo đức
sống động của những nhân cách cụ thể vận hành ý thức đạo đức ấy và dưới hình
thức tồn đọng trong nền văn hoá - xã hội, đặc biệt là trong lối sống, phong tục tập
quán, nền lý luận, ca dao, tục ngữ, cách đối nhân xử thế [39, tr. 32-33].
Đạo đức của mỗi con người được thể hiện thông qua hành vi đạo đức. Hành
vi đạo đức là một hành động tự giác được thúc đẩy bởi một động cơ có ý nghĩa về
mặt đạo đức. Hành vi đạo đức chịu sự quy định bởi các yếu tố tâm lý: Chủ thể của

hành vi đạo đức (toàn bộ nhân cách cụ thể và GDĐĐ phải thông qua tổ chức cho
người được giáo dục tham gia vào các hành vi đạo đức và giáo dục toàn bộ nhân
cách con người); tính sẵn sàng hành động có đạo đức; niềm tin đạo đức; xu hướng
đạo đức; phẩm chất ý chí và phương thức hành vi. Hành vi đạo đức có mối quan hệ
chặt chẽ với nhu cầu đạo đức. Nhu cầu đạo đức quy định sự bộc lộ hành vi đạo đức,
nhưng hành vi đạo đức cũng tác động trở lại nhu cầu đạo đức làm cho nó biến đổi.
Nhu cầu đạo đức là một bộ phận trong hệ thống nhu cầu của cá nhân. Trong một
điều kiện nhất định, nhu cầu đạo đức sẽ được nổi bật lên và dần xác định được đối
tượng để thoả mãn nhu cầu đó. Khi đối tượng được xác định tức là động cơ đạo đức
được hình thành. Động cơ đạo đức chính là yếu tố thúc đẩy chủ thể tiến hành hành
vi đạo đức. Trong quá trình đó, nhân cách của con người được bộc lộ và hình thành.
Đạo đức được biểu hiện ở cuộc sống tinh thần lành mạnh trong sáng, ở hành
động, góp phần giải quyết hợp lý, có hiệu quả những mâu thuẫn. Đạo đức còn thể
hiện ở hiệu quả hoạt động cá nhân trong việc hoàn thiện nhân cách suốt đời, sự
đóng góp của bản thân vào việc thực hiện nghĩa vụ công dân trong sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước, xây dựng một xã hội công bằng dân chủ, văn minh. Người có đạo
đức là người tự giác, sáng tạo, thực hiện có hiệu quả, có chất lượng cao các nhiệm

22
vụ của bản thân đối với công việc, đối với xã hội, gia đình và ở cộng đồng nơi sinh
sống.
Hiểu theo nghĩa rộng của khái niệm đạo đức, chúng ta thấy đạo đức còn liên
quan chặt chẽ với phạm trù chính trị, pháp luật, lối sống. Đạo đức là thành phần cơ
bản của nhân cách, phản ánh bộ mặt nhân cách của cá nhân. Với tư cách là chủ thể
hoạt động trong các quan hệ xã hội.
Nói đến đạo đức trong xã hội và ở từng con người là nói tới chuẩn mực đạo
đức (hay còn gọi là giá trị đạo đức) là những phẩm chất đạo đức có tính chất chuẩn
mực nhiều người thừa nhận, được dư luận xác định như một đòi hỏi khách quan, là
thước đo giá trị cần có ở mỗi người. Những chuẩn mực đạo đức ấy được coi như
một mục tiêu giáo dục, rèn luyện ở mọi người, nhiều bậc học, cấp học, lứa tuổi,

ngành nghề. Đồng thời chuẩn mực đạo đức đó lại có giá trị định hướng, chi phối,
chế ước quá trình nhận thức, điều chỉnh thái độ, hành vi của mỗi người.
Đạo đức là một “phạm trù lịch sử” [41, tr. 302]. Trong giai đoạn hiện nay,
khi quá trình hội nhập đang diễn ra trên phạm vi toàn cầu, thế giới đang đứng trước
nhiều vấn đề mang tính chất toàn cầu, đòi hỏi phải có sự chung tay của nhân loại
mới có thể giải quyết được. Chính vì vậy, nội dung đạo đức không chỉ là lòng yêu
Tổ quốc, yêu đồng bào, yêu con người, lòng nhân ái nói chung mà còn phải bao
gồm các vấn đề sau: giữ gìn và phát huy truyền thống dân tộc, bảo vệ môi trường,
đấu tranh cho thế giới hòa bình
1.1.2.2. Giáo dục (Rèn luyện) đạo đức sinh viên
GDĐĐ là một bộ phận nền tảng, hợp thành của nội dung giáo dục toàn diện
nhằm giúp thế hệ trẻ hình thành lý tưởng, ý thức và tình cảm đạo đức, tạo nên thế
giới quan, nhân sinh quan và hành vi đạo đức của con người mới XHCN. GDĐĐ
cho thế hệ trẻ là một vấn đề lớn trong Chiến lược con người của Đảng, được toàn xã
hội quan tâm và có vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước
vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công băng, văn minh.

23
Nội dung GDĐĐ có quan hệ chặt chẽ với những yêu cầu đạo đức - xã hội đề
ra cho người công dân trong một xã hội nhất định, thể hiện ở những mối quan hệ
sau: quan hệ với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối xây
dựng phát triển KTXH của Đảng; Tổ quốc; lao động; người khác; bản thân. Để thực
hiện các nội dung trên, GDĐĐ có thể tiến hành thông qua các con đường sau: thông
qua việc dạy học các môn học, việc tổ chức hoạt động ngoài giờ lên lớp, đồng thời
thông qua các loại hình truyền thông báo chí.
Công tác GDĐĐ cho SV hiện nay đang gặp rất nhiều khó khăn. Đặc biệt,
dưới ảnh hưởng tiêu cực của nền KTTT, GDĐĐ càng trở nên phức tạp. Trong tình
hình đó, công tác GDĐĐ SV hiện nay có một số đặc điểm đáng chú ý: GDĐĐ là
nhiệm vụ quan trọng của toàn xã hội; đạo đức của một bộ phận học sinh, SV đang
trên đà suy thoái; nội dung đạo đức hiện nay đang có sự điều chỉnh; sự quản lý và

giáo dục của gia đình ngày càng có ý nghĩa quan trọng.
Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh thì cấu trúc nhân cách được tóm
gọn trong mối quan hệ giữa Đức và Tài. Người luôn khẳng định: “Đạo đức là cái
gốc của con người cách mạng”. “Có đức mà không có tài thì làm việc gì cũng khó,
có tài mà không đức là người vô dụng”, nhiều khi lại hại dân, hại nước. Theo Hồ
Chủ Tịch, đức là yếu tố cơ bản, là thành phần chủ yếu của nhân cách. Muốn có đạo
đức cách mạng phải rèn luyện, học tập tham gia vào hoạt động lao động xã hội, đấu
tranh cách mạng và lao động sản xuất. Vì thế vấn đề cốt lõi của GDĐĐ là tác động
một cách hệ thống giá trị đạo đức, nhân văn đến việc hình thành phát triển, nhân
cách toàn diện cho SV.
Hệ thống giá trị đạo đức, nhân văn là những phẩm chất đạo đức, tư tưởng,
chính trị, cuộc sống tâm hồn và những nét tâm lý, tính cách của mỗi cá nhân. Nó
không phải là những tố chất sinh học di truyền, nhưng có thể kế thừa giữa các thế hệ
trong môi trường sống có truyền thống như gia đình, nhà trường, cộng đồng dân tộc.
Giáo dục hệ thống giá trị đạo đức, nhân văn còn giúp người có nhu cầu, tạo động
lực bên trong của hành động muốn làm điều thiện, điều tốt lành vì danh dự vì lòng

24
tự trọng, vì cái cao thượng, vì mọi người chứ không phải vì quyền lợi ích kỷ cá
nhân. Giáo dục hệ thống giá trị đạo đức nhân văn góp phần tạo ra khả năng điều
chỉnh nhận thức, hoạt động của mỗi cá nhân theo hướng hợp lý, đúng đắn nhất
trong sự phát triển của xã hội.
Vì vậy cần phải thông qua những phương tiện tác động một cách có hệ thống
những nguyên tắc, quy tắc, chuẩn mực và các giá trị đạo đức đến sự phát triển của
trí lực, thể lực (SV) làm cho họ dần có được phẩm chất nhân cách mới do xã hội đề
ra.
SV hiện nay coi trọng chuẩn mực đạo đức trong quan hệ với bạn bè, thầy cô
giáo và những người thân những chuẩn mực thuộc về trách nhiệm của công dân đối
với quê hương, đất nước.
Tóm lại: Đạo đức với những chuẩn mực giá trị đúng đắn, là một bộ phận

quan trọng của nền tảng tinh thần của xã hội. Đạo đức góp phần giữ vững ổn định
chính trị - xã hội, qua đó thúc đẩy sự phát triển của KTXH, xây dựng xã hội “dân
giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”. Đạo đức của mỗi cá nhân SV là
“cái gốc” tạo dựng mô hình nhân cách ở SV. Đánh giá đạo đức là một khâu đánh giá
quan trọng của việc đánh giá nhân cách ở SV [1].
Đạo đức là phẩm chất quan trọng nhất của nhân cách, là nền tảng để xây
dựng thế giới tâm hồn của mỗi con người. Vì vậy ở bất cứ quốc gia nào, thời đại
nào, việc GDĐĐ cho thế hệ đang lớn lên cũng là trung tâm chú ý của các nhà lãnh
đạo, các thành viên xã hội, những người làm công tác trong lĩnh vực truyền thông.
1.1.3. Báo chí
1.1.3.1. Khái niệm báo chí
Báo chí là tên gọi chung đối với các loại hình báo in, báo hình, báo nói, báo
điện tử .
Trong tiến trình phát triển của lịch sử văn hóa nhân loại, báo chí là một hiện
tượng xã hội. Từ khi ra đời hoạt động báo chí đã cung cấp cho công chúng những

×