Tải bản đầy đủ (.pdf) (205 trang)

Nâng cao hiệu quả truyền thông của báo chí về an toàn giao thông, đường bộ trên địa bàn Hà Nội (Khảo sát VOV Giao thông, VTV, Hà Nội mới 2008 - 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.06 MB, 205 trang )


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN







NGUYỄN THỊ THU THUỶ







NÂNG CAO HIỆU QUẢ TRUYỀN THÔNG
CỦA BÁO CHÍ VỀ AN TOÀN GIAO THÔNG ĐƯỜNG
BỘ TRÊN ĐỊA BÀN HÀ NỘI
(Khảo sát VOV Giao thông, VTV, Hà Nội Mới 2008 – 2010)


LUẬN VĂN THẠC SỸ

Chuyên ngành: Báo chí học










Hà Nội, tháng 9 - 2011

Luận văn Thạc sỹ ngành Báo chí học

1
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU 4
1. Lý do chọn đề tài 4
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 5
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 7
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 7
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 8
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn 9
7. Cấu trúc luận văn 9
PHẦN NỘI DUNG 10
- Chương 1: Truyền thông về an toàn giao thông và vai trò của báo chí… 10
1.1. Truyền thông về an toàn giao thông……………………………… 10
1.1.1. Khái niệm ……………………………………………………………………10
1.1.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước và Thành phố về công tác truyền
thông an toàn giao thông…….……………………………………………….…… ….11
1.1.3. Mục tiêu của công tác truyền thông về ATGT đường bộ …………… 14
1.1.4. Một số tiêu chí đánh giá hiệu quả công tác truyền thông ATGT đường
bộ……………………………………………………………………… … 15
1.1.5. Các hình thức truyền thông về ATGT đường bộ trên địa bàn Hà

Nội…………………………… 16
1.1.6. Các yếu tố trong quá trình truyền thông…………………………… 17
1.1.7. Quá trình truyền thông……………………………………………….19
1.1.8. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả truyền thông về ATGT đường bộ……20
1.1.9. Sự tiếp nhận thông tin của công chúng………………………………23
1.2. Vai trò của báo chí trong công tác truyền thông về an toàn giao
thông ………… 28
1.2.1. Báo chí là kênh tạo lập, định hướng và hướng dẫn dư luận về an toàn
giao thông………………………………………………………………… 28
1.2.2. Báo chí là kênh cung cấp kiến thức, thông tin hữu hiệu, về tình hình
ATGT …………………………………………………………………………… 30
1.2.3. Báo chí là công cụ quản lý xã hội về ATGT………………………… 31
- Chương 2: Thực trạng công tác truyền thông của báo chí về an toàn giao
thông đường bộ trên địa bàn Hà Nội………………………… ……………….34
2.1. Đặc điểm tình hình chung giao thông đường bộ trên địa bàn Thủ đô
Hà Nội ………………………………………………………………………… 34
Luận văn Thạc sỹ ngành Báo chí học

2
2.2. Khái quát về bốn báo… ……………… ……………….……………36
2.2.1. Báo in Hà Nội Mới và Báo điện tử Hà Nội Mới…………… … 36
2.2.2. Kênh VOV Giao thông…………………………………………………….36
2.2.3. Chuyên mục "Tin tức giao thông" - VTV1……………………………37
2.3. Nội dung truyền thông chủ yếu về an toàn giao thông đường bộ của
bốn báo … ………………………………………………………………………38
2.3.1. Phổ biến, giáo dục pháp luật, xây dựng văn hoá giao thông……… 39
2.3.2. Vấn đề tai nạn giao thông; ùn tắc giao thông………………… …46
2.3.3. Xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông………………………………… 50
2.3.4. Công tác quản lý phương tiện, bến bãi và người lái…………………53
2.3.5.Công tác thiết lập trật tự, kỷ cương và tổ chức, điều hành giao thông.56

2.4. Hình thức phản ánh các vấn đề an toàn giao thông 61
2.4.1. Thể loại……………………………………………………………….61
2.4.2. Ngôn ngữ thể hiện……………………………………………………68
2.4.3. Cách trình bày……………………………………………………… 70
2.5. Phương thức truyền thông, đặc thù của mỗi báo và sự tiếp nhận
thông tin của công chúng về vấn đề an toàn giao thông đường bộ ………… 72
2.5.1. Phương thức truyền thông, đặc thù của mỗi báo………………….…72
2.5.2. Sự tiếp nhận thông tin của công chúng … 82
- Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả truyền thông của báo chí về
an toàn giao thông đường bộ trên địa bàn Thành phố Hà Nội…………… 96
3.1. Xu hướng của báo chí và công chúng……………………………… 96
3.2. Xu hướng phát triển giao thông đường bộ Hà Nội…………………97
3.2.1. Về phát triển giao thông đường bộ trên địa bàn Thành phố Hà Nội.100
3.2.2. Về thay đổi phương thức quản lý nhà nước đối với trật tự an toàn giao
thông đường bộ trên địa bàn Thành phố Hà Nội ……………………… 100
3.3. Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả truyền thông của báo
chí về an toàn giao thông đường bộ trên địa bàn Hà Nội……………………101
3.3.1. Đối với Bộ Giao thông vận tải, Uỷ ban an toàn giao thông Quốc gia,
Ban Tuyên giáo Trung ương……………………………………………… ……… 101
3.3.2. Đối với Thành uỷ, Uỷ ban nhân dân Thành phố, Ban Tuyên giáo Thành ủy Hà
Nội…………………………………………………………………….…………103
3.3.3. Đối với Sở Giao thông Vận tải, Ban An toàn giao thông, Công an Thành phố 104
3.3.4. Đối với các cơ quan báo chí……………………………………… 105
KẾT LUẬN…………………………………………………………………… 121
Tài liệu tham khảo 124
Phụ lục
Luận văn Thạc sỹ ngành Báo chí học

3
DANH MỤC CÁC BẢNG



Trang
01.
Bảng [2.1]: Các ấn phẩm của Báo Hà Nội Mới
36
02.
Bảng [2.2]: Một vài nét về Kênh VOV Giao thông FM91MHZ
37
03.
Bảng [2.3]: Khung Chương trình trên Kênh VOV Giao thông
78
04.
Bảng [2.4]: Mức độ theo dõi thông tin ATGT trên báo chí của công chúng
82
05.
Bảng [2.5]: Đánh giá của công chúng về nội dung thông tin ATGT
trên báo

83
06.
Bảng [2.6]: Đánh giá của công chúng về tính chính xác, kịp thời của
thông tin ATGT trên báo

83
07.
Bảng [2.7]: Đánh giá của công chúng về sự hấp dẫn của thông tin
ATGT trên báo

84

08.
Bảng [2.8]: Mức độ tác động của thông tin ATGT trên báo đối với
công chúng

85
09.
Bảng [2.9]: Sự phản hồi của công chúng
86
10.
Bảng [2.10]: Mức độ hài lòng của công chúng
87
11.
Bảng [2.11]: Thống kê phương tiện quản lý và kết quả xử lý vi phạm
91
12.
Bảng [2.12]: Thống kê tai nạn giao thông đường bộ từ năm 2006 -
2010 tại Hà Nội

92
DANH MỤC CÁC BIỂU
01.
Biểu [2.1]: Sơ đồ biên tập, truyền tải, phát hành Báo in và điện tử Hà
Nội Mới
73
02.
Biểu [2.2]: Sơ đồ khối quy trình sản xuất chương trình truyền hình
75
03.
Biều đồ [2.3]: Số lượng thính giả gọi về VOV Giao thông mỗi ngày
80

04.
Biểu đồ [2.4]: Miêu tả mức độ quan tâm của thính giả gọi tới VOV
Giao thông

81

Luận văn Thạc sỹ ngành Báo chí học

4
PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Thủ đô Hà Nội "là trái tim của cả nước, đầu não chính trị - hành chính quốc gia,
trung tâm lớn về văn hoá, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế”. [11, tr.3]
Nhằm tạo thêm thế và lực cho Thủ đô Hà Nội, Quốc hội nước Cộng hoà Xã
hội chủ nghĩa Việt Nam (khoá XII) đã thông qua Nghị quyết số 15 về mở rộng địa
giới hành chính Thành phố Hà Nội. Từ ngày 01/8/2008, Nghị quyết chính thức có
hiệu lực, đánh dấu mốc quan trọng trong quá trình xây dựng, phát triển của Thủ đô.
Là một trong số ít Thủ đô nghìn năm tuổi, hiện nay, Hà Nội là 1 trong 17 thủ
đô và thành phố có diện tích lớn nhất thế giới, với 3.344,7 km2; 29 đơn vị hành
chính cấp huyện, 577 đơn vị cấp xã; là một đô thị có mật độ dân số cao, tổng dân số
hơn 6,5 triệu người. Trong quá trình xây dựng, phát triển, bên cạnh những thành tựu
to lớn đã đạt được, Hà Nội cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức do quá
trình đô thị hoá, trong đó, có vấn đề về an toàn giao thông còn nhiều bất cập: Hạ
tầng giao thông của Hà Nội còn yếu kém, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của Thủ
đô; diện tích đường giao thông mới chiếm khoảng 7% - 8% diện tích đất đô thị; hệ
thống cầu vượt dành cho người đi bộ qua đường còn quá ít; số lượng phương tiện
giao thông cá nhân gia tăng quá nhanh (khoảng 12% - 15%/năm); mật độ giao thông
của các phương tiện trên đường lớn, nhiều chủng loại phương tiện cùng tham gia
trên đường, trong đó, lượng xe máy chiếm tỷ lệ tới 62%; công tác quản lý về trật tự

giao thông cũng còn một số thiếu sót, khuyết điểm. Đặc biệt, ý thức chấp hành pháp
luật của người tham gia giao thông còn hạn chế, ảnh hưởng rất lớn đến công tác bảo
đảm trật tự an toàn giao thông trên địa bàn Thành phố.
Thời gian qua, các cấp, các ngành của Thành phố, trong đó có các cơ quan báo
chí đã nỗ lực triển khai thực hiện các biện pháp bảo đảm trật tự an toàn giao thông
nói chung, giao thông đường bộ nói riêng. Tuy nhiên, tình hình trật tự an toàn giao
thông, nhất là giao thông đường bộ trên địa bàn vẫn còn phức tạp: Hạ tầng giao
thông chưa đồng bộ, còn thiếu và yếu. Tình trạng tai nạn giao thông, ùn tắc giao
Luận văn Thạc sỹ ngành Báo chí học

5
thông từng bước được kiểm soát và có xu hướng giảm, song, vẫn tiềm ẩn nguy cơ
gia tăng, gây nhức nhối, bức xúc cho xã hội, Điều này không chỉ gây ảnh hưởng
tới tình hình an ninh trật tự xã hội mà còn gây ảnh hưởng nặng nề tới sự phát triển
kinh tế - xã hội của Thủ đô. Một trong những nguyên nhân hạn chế cần khắc phục,
đó là công tác truyền thông an toàn giao thông chưa phong phú, hiệu quả chưa cao.
Trong đó, công tác truyền thông trên báo chí chưa thường xuyên, còn mang tính
thời vụ, chất lượng tuyên truyền chưa sâu, đôi khi mang tính hình thức, chưa tương
xứng với tính chất nghiêm trọng của vấn đề, chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn, đòi
hỏi phải có sự đột phá trong công tác truyền thông nói chung và trên báo chí nói riêng.
Thời gian qua, Đài Truyền hình Việt Nam, Đài Tiếng nói Việt Nam, Báo in và
điện tử Hà Nội Mới đã tích cực tham gia công tác bảo đảm an toàn giao thông trên địa
bàn Thành phố. Là những cơ quan báo chí của Trung ương và Thành phố có phạm vi
phát sóng, phát hành rộng rãi, có uy tín, vị thế và ảnh hưởng khá lớn đối với cả nước
nói chung, công chúng Thủ đô nói riêng. Với phương thức, đặc trưng riêng, các báo
trên đã có tác động hữu ích trong công tác truyền thông an toàn giao thông của Thành
phố. Tuy nhiên, công tác truyền thông của các báo trên về vấn đề an toàn giao thông
nói chung và giao thông đường bộ nói riêng vẫn còn một số hạn chế nhất định, chưa
phát huy hết tiềm năng, lợi thế của mỗi báo, ảnh hưởng đến hiệu quả truyền thông.
Vì vậy, tác giả chọn đề tài “Nâng cao hiệu quả truyền thông của báo chí về an

toàn giao thông đường bộ trên địa bàn Hà Nội” (khảo sát Kênh VOV Giao thông,
Chuyên mục “Tin tức giao thông” - kênh VTV1 Đài Truyền hình Việt Nam, Báo Hà
Nội Mới điện tử, Báo in Hà Nội Mới, trong thời gian từ năm 2008 – 2010). Thông qua
khảo sát, đánh giá, chúng tôi hy vọng sẽ rút ra được những giải pháp nâng cao hiệu quả
truyền thông của báo chí về an toàn giao thông đường bộ trên địa bàn Hà Nội.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Có thể nêu một số khoá luận về đề tài báo chí với vấn đề an toàn giao thông
phạm vi cả nước như:
- Báo chí với việc tuyên truyền thực hiện Nghị định 36CP, năm 1996 của tác
giả Phạm Minh Dương (khảo sát Báo Nhân dân từ 5/1995 - 5/1996).
Luận văn Thạc sỹ ngành Báo chí học

6
- Báo chí với vấn đề trật tự an toàn giao thông đường bộ, năm 2003 của tác giả Ngô
Thị Bích Thao (khảo sát Báo Giao thông vận tải, Bạn đường từ năm 2000 - 3/2003).
- Báo Tuổi trẻ Thành phố Hồ Chí Minh và báo Lao động với vấn đề trật tự an
toàn giao thông đường bộ, năm 2004 của tác giả Phùng Minh Tuấn (khảo sát từ năm
2001 - 4/2004).
- Vai trò của báo chí trong công tác bảo đảm trật tự an toàn giao thông đường
thuỷ nội địa, năm 2005, Luận văn Thạc sỹ của tác giả Hà Thị Hồng Vân, Học viện
Báo chí và Tuyên truyền (khảo sát Báo Lao động, Tuổi trẻ Thành phố Hồ Chí Minh, Bạn
đường, Cà Mau và Tạp chí Cánh buồm, từ năm 2003 - 2004).
Về an toàn giao thông trên địa bàn Hà Nội có một số đề tài:
- Báo Hà Nội Mới với công tác tuyên truyền về Nghị định 36 CP, năm 1996
của tác giả Hồ Trí Dũng (khảo sát Báo Hà Nội Mới và Hà Nội Mới chủ nhật năm
1/8/1995 - 1/8/1996).
- Báo Nhân dân và Hà Nội Mới với việc thực hiện Nghị định 36CP của Chính
phủ về lập lại trật tự đô thị và an toàn giao thông trên địa bàn Hà Nội, năm 2006 của
tác giả Vũ Thị Xuân Sinh (khảo sát năm 1995 - 1996).
- Báo chí với vấn đề trật tự an toàn giao thông trên địa bàn Hà Nội hiện nay,

năm 2002 của tác giả Nguyễn Minh Thu (khảo sát Báo Hà Nội Mới, Giao thông vận
tải, Bạn đường, từ năm 2000 - 3/2002).
- Báo chí với vấn đề giao thông đô thị Hà Nội hiện nay, năm 2005 của tác giả
Trịnh Trọng Đảng (khảo sát Báo Tiền phong năm 2004 - 2005).
Về an toàn giao thông trên địa bàn khác, có đề tài:
Báo chí Nghệ An với vấn đề trật tự an toàn giao thông, năm 2000 (khảo sát
Báo Nghệ An và Báo Công an Nghệ An, từ 1997 - 2000).
Một số tài liệu khác:
- Kỷ yếu Hội thảo khoa học và thực tiễn “Nâng cao hiệu quả công tác tuyên
truyền về an toàn giao thông”, năm 2005 của Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung ương,
Uỷ ban An toàn giao thông Quốc gia.
Luận văn Thạc sỹ ngành Báo chí học

7
- “Xây dựng văn hoá giao thông Hà Nội” của Ban An toàn giao thông thành phố Hà
Nội, Ban Tuyên giáo Thành uỷ Hà Nội, Nhà xuất bản Giao thông vận tải, Hà Nội - 2009.
Có thể nói, báo chí với an toàn giao thông là phạm vi đề tài quen thuộc của
khá nhiều khoá luận tốt nghiệp của sinh viên Đại học Quốc gia Hà Nội, Học viện
Báo chí và Tuyên truyền. Tuy nhiên, chưa có khoá luận, luận văn nào đặt vấn đề
nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống, cụ thể về kết quả đạt được, hạn chế của
báo chí nói chung (bao gồm cả báo hình, báo nói, báo in, báo điện tử) về vấn đề an
toàn giao thông đường bộ trên địa bàn Hà Nội; nêu lên được hệ thống giải pháp toàn
diện để nâng cao hiệu quả tuyên truyền của báo chí về vấn đề này, nhất là từ sau khi
Hà Nội mở rộng địa giới hành chính đến nay, tình hình giao thông Hà Nội có một số
thay đổi và yêu cầu mới. Bài toán giao thông, đặc biệt là giao thông đường bộ ở Hà
Nội đã và đang đặt ra cho Thủ đô nhiều vấn đề cần phải tiếp tục giải quyết cấp bách
và lâu dài.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Công tác truyền thông về an toàn giao thông đường
bộ, hiệu quả công tác truyền thông về an toàn giao thông đường bộ của báo chí.

- Phạm vi nghiên cứu: Công tác truyền thông, hiệu quả truyền thông về an
toàn giao thông đường bộ của: Kênh VOV Giao thông, Chuyên mục “Tin tức giao
thông” - kênh VTV1 Đài Truyền hình Việt Nam, Báo Hà Nội Mới điện tử, Báo in
Hà Nội Mới (sau đây gọi tắt là bốn báo).
Thời gian từ năm 2008 - 2010.
Không gian: Trên địa bàn Thủ đô Hà Nội
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
4.1. Mục đích nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu, tìm hiểu công tác truyền
thông, hiệu quả công tác truyền thông về an toàn giao thông đường bộ của bốn báo
trên địa bàn Hà Nội.
Mục đích trọng tâm và quan trọng nhất của luận văn là từ những vấn đề mang
tính lý luận soi vào thực tiễn nhằm phân tích hiệu quả truyền thông và đề xuất giải
Luận văn Thạc sỹ ngành Báo chí học

8
pháp nâng cao hiệu quả công tác truyền thông của báo chí về an toàn giao thông
đường bộ ở Thủ đô Hà Nội.
Qua đó, luận văn mong muốn được gửi đến đội ngũ lãnh đạo các cơ quan
quản lý, cơ quan báo chí, đội ngũ biên tập, phóng viên theo dõi lĩnh vực giao thông
nói chung và đường bộ nói riêng những thông tin tham khảo để trong thời gian tới
có thể nâng cao hơn nữa hiệu quả công tác truyền thông của báo chí về an toàn giao
thông đường bộ trên địa bàn Hà Nội; đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu thông tin của
công chúng và công tác lãnh đạo, quản lý của các cấp uỷ, chính quyền thành phố Hà Nội
về an toàn giao thông đường bộ.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích trên, luận văn triển khai
những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Sưu tầm, khái quát tất cả những tin, bài liên quan đến vấn đề an toàn giao thông
đường bộ trên địa bàn Hà Nội của bốn báo trong thời gian từ tháng 01/2008 đến
12/2010.
- Nhận xét, đánh giá về nội dung, hình thức truyền thông an toàn giao thông

đường bộ của các báo này với những kết quả, đóng góp và hạn chế.
- Điều tra xã hội học, phỏng vấn công chúng và một số cơ quan báo chí, cơ
quan chủ quản về vấn đề an toàn giao thông đường bộ trên bốn báo.
- Đề xuất một số giải pháp để góp phần nâng cao hiệu quả truyền thông của
báo chí về an toàn giao thông đường bộ trên địa bàn Hà Nội.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu:
5.1. Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa
Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, dựa trên đường lối, chính sách, quan điểm
của Đảng, Nhà nước CHXH Chủ nghĩa Việt Nam về chức năng, nhiệm vụ của báo
chí, đồng thời, kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan
đã được công bố.
5.2. Phương pháp nghiên cứu: Luận văn dựa trên phương pháp luận khoa học
của Chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn, lô-gic và lịch
sử, phân tích và tổng hợp, điều tra xã hội học.
Luận văn Thạc sỹ ngành Báo chí học

9
Luận văn khảo sát có hệ thống cách thức thông tin, phản ánh; cách thức tổ chức
truyền thông của các báo trên về an toàn giao thông đường bộ trên địa bàn Hà Nội. Luận
văn còn huy động nhiều biện pháp tiếp cận thực tế, phỏng vấn trực tiếp một số
chuyên gia, nhà quản lý, nhà báo.
Ngoài ra, luận văn còn thực hiện phương pháp điều tra xã hội học đối với công
chúng báo chí, thu thập, nghiên cứu, đối chiếu, so sánh, tổng hợp, phân tích ý kiến
của họ để góp phần nâng cao hiệu quả công tác truyền thông của báo chí về an toàn
giao thông đường bộ.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
- Ý nghĩa khoa học: Luận văn làm rõ một số lý luận về vấn đề truyền thông,
hiệu quả truyền thông an toàn giao thông đường bộ ở Hà Nội; về vai trò của báo chí
trong công tác truyền thông an toàn giao thông nói chung, đường bộ nói riêng.
- Ý nghĩa thực tiễn: Trên cơ sở khảo sát, đánh giá về hiệu quả cũng như những

hạn chế trong công tác truyền thông an toàn giao thông đường bộ trên địa bàn Hà
Nội của bốn báo, luận văn góp thêm tiếng nói, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả công tác truyền thông của báo chí về vấn đề này trong thời gian tới.
Luận văn sẽ có thể trở thành tài liệu tham khảo cho các cơ quan chức năng,
nhà quản lý báo chí, các cơ quan báo chí, các nhà báo, các bạn sinh viên và những
người quan tâm đến đề tài này.
7. Cấu trúc của luận văn: Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo
và Phụ lục, luận văn gồm 3 chương:
- Chƣơng 1: Truyền thông về an toàn giao thông và vai trò của báo chí
- Chƣơng 2: Thực trạng công tác truyền thông của báo chí về an toàn giao
thông đường bộ trên địa bàn Hà Nội
- Chƣơng 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả truyền thông của báo chí về
an toàn giao thông đường bộ trên địa bàn Hà Nội
Luận văn Thạc sỹ ngành Báo chí học

10
Chƣơng 1:
TRUYỀN THÔNG VỀ AN TOÀN GIAO THÔNG
VÀ VAI TRÕ CỦA BÁO CHÍ

1.1. Truyền thông về an toàn giao thông
1.1.1. Khái niệm:
- Truyền thông: Từ tiếng Anh: Communication, có nghĩa là sự truyền đạt,
thông tin, thông báo, giao tiếp, trao đổi, liên lạc, giao thông…
Thuật ngữ Truyền thông có nguồn gốc từ tiếng Latinh “Commune”, có nghĩa
là chung hay cộng đồng. Nội hàm của nó là nội dung, cách thức, con đường,
phương tiện để đạt đến sự hiểu biết lẫn nhau, giữa cá nhân với cá nhân, cá nhân với
cộng đồng, xã hội.
Có nhiều khái niệm, định nghĩa về truyền thông, nhưng có thể hình thành
khái niệm chung về Truyền thông, đó là:

Truyền thông là một quá trình liên tục trao đổi hoặc chia sẻ thông tin, tình
cảm, kỹ năng nhằm tạo ra sự liên kết lẫn nhau để dẫn tới sự thay đổi trong hành vi
và nhận thức. [48, tr. 13]
- Hiệu quả (danh từ): Hiệu: có công dụng; quả: Kết cục. Kết quả chắc chắn
và rõ ràng. Hiệu quả (tính từ): Có kết quả chắc chắn và rõ ràng [36, tr. 5]
Hiệu quả (danh từ): Kết quả đích thực. [59, tr. 806]
Hiệu quả: kết quả như yêu cầu của việc làm mang lại. [41 , tr. 424]
Ngoài ra, ở góc độ khác, hiệu quả còn được hiểu là “kết quả thực hiện một
chủ trương, chính sách được xác định qua việc so sánh các kết quả đạt được với
toàn bộ các nguồn lực đã sử dụng. Hiệu quả thể hiện ở kết quả đạt được tối đa, chi
phí tối thiểu”. [35, tr.312]
- Nâng cao: Làm cho cao hơn trước. [36, tr. 1228]
Như vậy, nâng cao hiệu quả truyền thông về an toàn giao thông (ATGT)
đường bộ là làm cho hiệu quả truyền thông về ATGT đường bộ đạt kết quả thực tế
cao hơn và kết quả đạt được trong công tác truyền thông về giao thông là tối đa, chi
Luận văn Thạc sỹ ngành Báo chí học

11
phí tối thiểu về các nguồn lực. Điều đó có nghĩa là, truyền thông phải góp phần
quan trọng cải thiện tình trạng giao thông; nhất là ý thức chấp hành pháp luật của
người dân; ý thức, trách nhiệm của các cấp, các ngành và các tầng lớp nhân dân
trong công tác bảo đảm trật tự ATGT, nhằm hướng tới một xã hội an toàn, văn minh
và trách nhiệm; đồng thời, giảm được tối đa các chi phí về nguồn lực (con người, tài
chính,…).
Nâng cao hiệu quả truyền thông về ATGT là một yêu cầu tất yếu, khách
quan của sự phát triển xã hội, góp phần thực hiện tốt công tác quản lý xã hội của
nhà cầm quyền
Hiệu quả truyền thông không thể tự sinh ra. Để đạt hiệu quả truyền thông
ATGT, nhà quản lý phải huy động được sức mạnh tổng hợp của các cấp, các ngành,
các tổ chức và các tầng lớp nhân dân. Công tác truyền thông phải được xác định là

một nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài. Giải pháp nâng cao hiệu quả truyền thông
không chỉ đơn lẻ mà nằm trong một tổng thể có tính thống nhất, đồng bộ, có liên
quan chặt chẽ và tác động qua lại với nhau.
Tóm lại, hiệu quả truyền thông là kết quả của một chu trình khép kín, trong
đó, các yếu tố truyền thông liên quan chặt chẽ với nhau, không thể tách rời, không
thể xem nhẹ yếu tố nào. Muốn truyền thông ATGT đạt hiệu quả cao, cần phải nắm
vững các bước, các khía cạnh và các yếu tố, phát huy khả năng, lợi thế của các yếu
tố trong quá trình truyền thông, phải có phương thức truyền thông khoa học, hợp lý
để đạt được hiệu quả tối đa, trong khi chi phí tối thiểu.
1.1.2. Quan điểm của Đảng, Nhà nước và Thành phố về công tác truyền
thông an toàn giao thông đường bộ
Trong quá trình phát triển, Hà Nội đã và đang phải đối mặt với khó khăn rất
lớn, ảnh hưởng tới sự phát triển, đó là tình trạng ùn tắc và tai nạn giao thông. Hàng
năm, tai nạn giao thông làm chết và bị thương hàng chục nghìn người, gây thiệt hại
lớn về tài sản của Nhà nước và nhân dân, ảnh hưởng không nhỏ đến phát triển kinh
tế - xã hội, thu hút đầu tư nước ngoài, an sinh xã hội và để lại hậu quả hết sức
nghiêm trọng, lâu dài cho nhiều gia đình và xã hội.
Luận văn Thạc sỹ ngành Báo chí học

12
Một trong những giải pháp quan trọng mà Đảng, Nhà nước ta đã và đang chỉ
đạo quyết liệt để kiềm chế tình trạng ùn tắc và tai nạn giao thông, đó là đẩy mạnh
công tác truyền thông, phổ biến giáo dục pháp luật về ATGT tới các cấp uỷ Đảng,
chính quyền và tới các tầng lớp nhân dân, nhất là những người tham gia giao thông
nhằm nâng cao ý thức chấp hành luật giao thông của người tham gia giao thông và
nâng cao vai trò, trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền, toàn xã hội đối với
công tác này. Như vậy, công tác truyền thông, giáo dục, phổ biến về ATGT có vai
trò hết sức quan trọng.
Công tác truyền thông, giáo dục, phổ biến pháp luật về ATGT đường bộ là
nhiệm vụ quan trọng được Đảng, Nhà nước đề cấp, quán triệt trong nhiều văn bản.,

như: Chỉ thị số 22 - CT/TW, ngày 24/2/2003 của Ban Bí thư Trung ương Đảng “Về
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác bảm đảm trật tự an toàn giao
thông” , trong đó, yêu cầu: “Công tác giáo dục an toàn giao thông phải đến từng hộ
gia đình và xem đây là một nội dung quan trọng của phong trào xây dựng nếp sống
văn hoá mới hiện nay”.
Nghị quyết số 32/2007/NQ-CP, ngày 29/6/2007 của Chính phủ “Về một số
giải pháp cấp bách hành nhằm kiềm chế tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông”,
nhấn mạnh: “Giáo dục, tuyên truyền, phổ biến pháp luật trật tự ATGT cho mọi đối
tượng tham gia giao thông để mọi người tự giác chấp hành là biện pháp quan trọng
hàng đầu”.
Nghị quyết số 16/2008/NQ- CP, ngày 31/7/2008 của Chính phủ “Về từng
bước khắc phục ùn tắc giao thông tại thành phố Hà Nội và thành phố Hồ Chí
Minh”, nêu rõ, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Ủy ban nhân dân thành phố Hồ
Chí Minh, các bộ, ngành tập trung thực hiện 4 nhóm giải pháp lớn, trong đó có giải
pháp: “Tuyên truyền phổ biến pháp luật, tổ chức cuộc vận động xây dựng “văn hóa
giao thông” và “văn minh đô thị”, tăng cường cưỡng chế thi hành pháp luật về trật
tự ATGT và trật tự đô thị”.
Có thể nói, việc truyền thông, giáo dục, phổ biến pháp luật về ATGT được coi
là một trong những giải pháp quan trọng, cấp bách nhằm giảm nhanh tai nạn giao
Luận văn Thạc sỹ ngành Báo chí học

13
thông và ùn tắc giao thông, nhất là trong bối cảnh cơ sở hạ tầng giao thông còn
chậm phát triển, có nhiều yếu kém, hạn chế.
Đối với Hà Nội, trong quá trình lãnh đạo, điều hành thực hiện nhiệm vụ
chính trị của Thành phố, Thành ủy, Ủy ban nhân dân Thành phố luôn quan tâm chỉ
đạo, lãnh đạo công tác tuyên truyền ATGT.
Chỉ thị số 18 – CT/TU, ngày 16/8/2007 của Ban Thường vụ Thành ủy Hà
Nội về việc tăng cường các biện pháp bảo đảm trật tự ATGT trên địa bàn Thành
phố đã nhấn mạnh: “Tổ chức phát động phong trào “Xây dựng văn hoá giao thông

của người Hà Nội hướng tới kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội”, với mục
tiêu mọi công dân Thủ đô chấp hành tốt luật lệ giao thông”.
Kế hoạch số 62/KH-UBND, ngày 13/8/2007 của Ủy ban nhân dân thành phố
Hà Nội triển khai thực hiện Nghị quyết 32/2007/NQ-CP của Chính phủ về một số
biện pháp cấp bách nhằm kiềm chế tai nạn giao thông và ùn tắc giao thông trên địa
bàn thành phố Hà Nội, nêu ra bảy nhóm nội dung và giải pháp chính. Trong đó, nêu
rõ: Chú trọng tuyên truyền, giáo dục trong các tổ chức đoàn thể chính trị, xã hội, cơ
quan, đơn vị, trường học và gia đình, nhằm tạo sự chuyển biến sâu sắc về ý thức tự
giác chấp hành pháp luật ATGT, tích cực tham gia bảo đảm trật tự ATGT, tạo thành
phong trào toàn dân xây dựng “Nếp sống văn minh đô thị” và “Văn hóa giao thông
của người Hà Nội”, lập lại trật tự ATGT trên địa bàn Thành phố một cách bền vững,
thiết thực hướng tới kỷ niệm 1000 năm Thăng Long - Hà Nội.
Triển khai thực hiện Nghị quyết 16/2008/NQ-CP, ngày 31/7/2008 của Chính
phủ, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội đã ban hành Kế hoạch số 30/KH-UBND,
ngày 03/12/2008 “Về từng bước khắc phục tình trạng ùn tắc giao thông trên địa
bàn Thành phố”. Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội cũng đã ban hành văn bản số
2841/UBND yêu cầu Ban ATGT Thành phố, các sở, ngành và quận, huyện, thị xã
tăng cường tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật về giao thông đường bộ. Sở
GTVT có trách nhiệm chủ trì xây dựng kế hoạch và triển khai thực hiện tuyên
truyền, phổ biến Luật Giao thông đường bộ và Nghị định số 34/2010/NĐ-CP của
Chính phủ; đồng thời phối hợp với Công an Thành phố rà soát, lập kế hoạch thực
Luận văn Thạc sỹ ngành Báo chí học

14
hiện luật và các văn bản liên quan phù hợp với đặc điểm, tình hình giao thông Thủ
đô; Ban ATGT Thành phố chủ trì, phối hợp với Ban Tuyên giáo Thành ủy, Sở
Thông tin và Truyền thông… tổ chức tuyên truyền pháp luật về giao thông theo
hướng dẫn của Bộ GTVT và Ủy ban ATGT quốc gia. Các quận, huyện, thị xã tổ
chức phát động phong trào thực hiện nếp sống văn hóa giao thông và gương mẫu
thực hiện các quy định, quy tắc về giao thông khi tham gia giao thông trong toàn thể

cán bộ, viên chức, sinh viên, học sinh và nhân dân.
Những quan điểm, chủ trương, kế hoạch của Đảng, Nhà nước, Thành phố
về truyền thông, giáo dục, phổ biến pháp luật về ATGT đường bộ cả nước nói
chung, Hà Nội nói riêng là cơ sở quan trọng, định hướng cho công tác truyền
thông về ATGT của báo chí.
1.1.3. Mục tiêu công tác truyền thông về an toàn giao thông đường bộ
Truyền thông là hoạt động quan trọng, phục vụ công tác quản lý, điều hành
xã hội của tổ chức cầm quyền. Truyền thông về ATGT cũng là một trong những
hoạt động không thể thiếu của nhà cầm quyền. Mục tiêu chủ yếu của truyền thông
ATGT đó là:
Nhằm tuyên truyền, giáo dục, phổ biến sâu rộng trong các tầng lớp nhân dân
về các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về ATGT. Thông
qua đó, nhằm nâng cao nhận thức, ý thức tự giác chấp hành pháp luật về trật tự
ATGT của mọi người dân khi tham gia giao thông, từ đó thay đổi hành vi theo định
hướng của cơ quan chức năng, như: thông tin cho mọi người về những điều chưa
biết (như những chủ trương, chính sách pháp luật mới hoặc những thay đổi về luật
pháp liaan quan đến giao thông,…); nhắc nhở mọi người về những gì đã biết nhưng
có thể sẽ quên nếu không được nhắc nhở (như không đi nhanh khi trời mưa, không
đi sai làn,…); khuyến khích mọi người làm những việc bình thường họ không muốn
làm (như đội mũ bảo hiểm xe máy cho đúng); khuyến khích mọi người ngừng làm
những việc theo thói quen xấu (như phóng nhanh, vượt ẩu,…).
Thông qua truyền thông, nhằm vận động các tầng lớp nhân dân tích cực tham
gia bảo đảm trật tự ATGT, có thái độ phê phán, đấu tranh với những hành vi vi
Luận văn Thạc sỹ ngành Báo chí học

15
phạm pháp luật của người tham gia giao thông; tạo

ra động lực thi đua chấp hành
pháp luật về an toàn giao thông ở các cấp, các ngành và nhân dân, góp phần ngăn

chặn và đẩy lùi được tình trạng ùn tắc và tai nạn giao thông hiện nay,…
Thông qua truyền thông còn nhằm mục đích nâng cao trách nhiệm, hiệu quả
công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, công tác quản lý nhà nước của chính quyền
các cấp trong việc tổ chức thực hiện các biện pháp bảo đảm ATGT, có biện pháp
hữu hiệu chỉ đạo quyết liệt, thường xuyên, liên tục theo lĩnh vực, nhiệm vụ được
phân công.
Tóm lại, mục đích truyền thông ATGT trước tiên là nâng cao sự hiểu biết
pháp luật về trật tự ATGT, hình thành lòng tin vào sự cần thiết đối với pháp luật.
Thứ hai là hình thành tình cảm tôn trọng pháp luật; thái độ không khoan nhượng đối
với các hành vi vi phạm trật tự ATGT; thói quen ứng xử theo các quy định của pháp
luật và nâng cao trách nhiệm của các cấp, các ngành trong công tác bảo đảm trật tự
ATGT. Qua đó, góp phần thực hiện mục tiêu quan trọng là: Giảm trên cả 3 tiêu chí:
số vụ tai nạn giao thông, số người chết, người bị thương vì giao thông, tiến tới một
xã hội không còn tai nạn và ùn tắc giao thông; lập lại trật tự ATGT một cách bền
vững.
1.1.4. Một số tiêu chí đánh giá hiệu quả truyền thông của báo chí về an
toàn giao thông đường bộ
Trên thực tế, việc đánh giá hiệu quả truyền thông về ATGT nói chung và
ATGT đường bộ của báo chí nói riêng rất khó khăn, phức tạp, liên quan đến nhiều
lĩnh vực; vừa phải đánh giá định tính khi xem xét sự cải thiện của tình hình ATGT,
sự tuân thủ pháp luật của người tham gia giao thông, vừa phải đánh giá định lượng
khi xét giá trị bằng tiền chi phí, đầu tư cho công tác tuyên truyền (bóc tách chi phí
đầu tư, phân bổ cho công tác truyền thông), mức độ hài lòng của công chúng đối với
tờ báo, hay chương trình…
Mặt khác, việc lượng hoá hiệu quả truyền thông về ATGT đường bộ không
phải lúc nào cũng đánh giá, định lượng được bằng con số cụ thể, chính xác tuyệt đối
hoặc lượng hóa bằng tiền. Kết quả có thể thể hiện trực tiếp hay gián tiếp. Ví dụ:
Luận văn Thạc sỹ ngành Báo chí học

16

truyền thông góp phần giảm 03 tiêu chí số người bị tai nạn, số người bị chết và bị
thương trong một khoảng thời gian nhất định - đây là hiệu quả trực tiếp; còn hiệu
quả gián tiếp lại là sự tác động nhiều chiều của công tác quản lý trật tự ATGT tới
đời sống chính trị- xã hội, tư tưởng của cộng đồng và toàn xã hội tham gia giao
thông.
Có thể nêu một số tiêu chí đánh giá hiệu quả truyền thông ATGT của báo chí
như sau: Trước hết, công chúng nắm bắt được chính xác, kịp thời thông tin về tình
hình giao thông, để chủ động lộ trình giao thông hợp lý; được giáo dục, phổ biến, tư
vấn pháp luật giao thông và thay đổi hành vi khi tham gia giao thông theo định
hướng tích cực.
Thứ hai, mức độ hài lòng của công chúng đối với báo chí trong công tác
truyền thông về ATGT.
Thứ ba, hiệu quả công tác truyền thông ATGT đường bộ phải thể hiện ở việc
báo chí góp phần tác động tích cực tới cơ quan quản lý (trong việc ban hành các
chính sách về ATGT một cách khoa học, hợp lý; đồng thời, điều chỉnh giải pháp
quản lý, chính sách cho phù hợp thực tiễn,…).
Thứ tư, truyền thông của báo chí góp phần làm giảm 3 tiêu chí về ATGT
(giảm số vụ tai nạn giao thông, số người chết, người bị thương), tiến tới không còn
xảy ra ùn tắc, tai nạn giao thông; trật tự ATGT được bảo đảm.
Thứ năm là chất lượng, hiệu quả của truyền thông cao hơn so với chi phí đầu
tư cho công tác truyền thông.
1.1.5. Các hình thức trưyền thông về an toàn giao thông đường bộ trên địa
bàn Hà Nội
Hiện nay công tác truyền thông về ATGT nói chung, đường bộ nói riêng
trên địa bàn Hà Nội được thực hiện chủ yếu thông qua các kênh: Hệ thống truyền
thông đại chúng Trung ương và Thành phố (báo chí, điện ảnh, sách, đài truyền
thanh quận, huyện, xã, phường, thị trấn…); đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên giáo
của Thành phố (trực tiếp tham gia tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật giao
thông); thông qua các hoạt động giáo dục trong nhà trường và ở khu dân cư; thông
Luận văn Thạc sỹ ngành Báo chí học


17
qua các chiến dịch truyền thông, các hoạt động về giao thông như: “Tháng an toàn
giao thông”, hoặc thông qua các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội (căn cứ
nhu cầu, nguyện vọng, đặc điểm của các đoàn viên, hội viên, các tổ chức đoàn thể
tổ chức truyền thông ATGT phù hợp với tâm lý của từng loại đối tượng của tổ chức
mình).
Các hoạt động truyền thông ATGT ngày càng phong phú. Mỗi loại hình đều
có ưu điểm, thế mạnh riêng, góp phần nâng cao hiệu quả công tác truyền thông nói
chung về ATGT. Báo chí là một trong những hình thức truyền thông được thành
phố Hà Nội quan tâm, đánh giá cao. Báo chí đã và đang trở thành công cụ quan
trọng trong công tác truyền thông ATGT nói chung, đường bộ nói riêng trên địa bàn
Hà Nội.
Tuy nhiên, các hình truyền thông, giáo dục, phổ biến pháp luật ATGT nói
chung vẫn còn những hạn chế như: còn mang tính thời vụ, hình thức. Đối với công
tác truyền thông trên báo chí nói riêng, số lượng tin, bài phản ánh về công tác này
còn chưa nhiều, chưa thường xuyên, chưa thực sự sâu sắc, chưa tương xứng với tầm
quan trọng của công tác bảo đảm trật tự ATGT, chưa đáp ứng yêu cầu công tác
truyền thông trên địa bàn Thành phố.
1.1.6. Các yếu tố trong quá trình truyền thông
Để tiến hành truyền thông, cần có các yếu tố sau:
Nguồn (Source), hoặc người gửi cung cấp (sender) đó là yếu tố khởi xướng
việc thực hiện truyền thông. Đó có thể là một cá nhân nói, viết, vẽ hay làm động
tác. Yếu tố khởi xướng có thể là một nhóm người, một tổ chức truyền thông như cơ
quan đài phát thanh, truyền hình, báo chí, thông tấn, vv…
Thông điệp (Message) là yếu tố thứ hai của truyền thông.
Thông điệp có thể bằng tín hiệu, ký hiệu, mã số, bằng mực trên giấy, sóng
trên không trung hoạch bằng bất cứ tín hiệu nào mà người ta có thể hiểu được và
trình bày ra một cách có ý nghĩa. Điều quan trọng là thông điệp phải được diễn tả
bằng thứ ngôn ngữ mà người cung cấp (nguồn) và người tiếp nhận đều hiểu được.

Có thể là ngôn ngữ giao tiếp trong cuộc sống hàng ngày, ngôn ngữ kỹ thuật trong
Luận văn Thạc sỹ ngành Báo chí học

18
khoa học kỹ thuật, hay ngôn ngữ văn học nghệ thuật. Bằng bất cứ cách nào, một ý
nghĩa nào đó cũng phải được diễn tả bằng ngôn ngữ hiểu được trong truyền thông.
Mạch truyền, kênh (Channel) là yếu tố thứ ba trong truyền thông.
Mạch truyền làm cho người ta nhận biết thông điệp bằng các giác quan.
Mạch truyền là cách thể hiện thông điệp để con người có thể nhìn thấy được qua các
thể loại in hay hình ảnh trực quan, nghe thấy được qua các phương tiện nghe, nhìn
qua hình ảnh, truyền hình và những dụng cụ nghe nhìn khác như: sờ, nếm, ngửi qua
mẫu, hiện vật thí nghiệm.
Người tiếp nhận, nơi tiếp nhận (Receiver) là yếu tố thứ tư của truyền thông.
Đó là những người nghe, người xem, người giải mã, người giao tiếp. Hoặc có thể là
một người, một nhóm, một đám đông thành viên của một tổ chức hay của công
chúng đông đảo.
Theo lý thuyết thông tin và điều khiển học (Cybernetics) của Claude
Shannon và nhiều người nghiên cứu khác, quá trình truyền thông còn được bổ sung
thêm hai yếu tố: Hiện tượng nhiễu (Noise) và phản hồi (Feedback).
Phản hồi (Feedback) được hiểu là sự tác động ngược trở lại của thông tin từ
phía người tiếp nhận đối với người truyền tin. Phản hồi là phần tử cần thiết để điều
khiển quá trình truyền thông, làm cho quá trình truyền thông được liên tục từ nguồn
đến đối tượng tiếp nhận và ngược lại. Nếu không có phản hồi, thông tin chỉ một
chiều và mang tính áp đặt.
Nhiều (Noise) luôn tồn tại trong quá trình truyền thông. Đó là hiện tượng
thông tin truyền đi bị ảnh hưởng bởi các điều kiện của tự nhiên và xã hội, phương
tiện kỹ thuật… gây ra sự sai lệch hay kém chất lượng về nội dung thông tin cũng
như tốc độ truyền tin. Các dạng nhiễu có thể có như: vật lý, cơ học, luân lý, tôn
giáo, dân tộc, môi trường, ngôn ngữ, giới tính, lứa tuổi,…
Khi thực hiện truyền thông nói chung, truyền thông ATGT nói riêng cần phải

nắm vững các yếu tố trên, nếu không, sẽ khó thực hiện hoặc hiệu quả sẽ không đạt
như mong muốn.
Luận văn Thạc sỹ ngành Báo chí học

19
Mục đích của truyền thông là làm cho người tiếp nhận hiểu được cặn kẽ
thông điệp và có những hành động tương tự. Nói một cách khác, người cung cấp,
khởi xướng truyền thông khi chuyển thông điệp cho người tiếp nhận mong muốn họ
biết được mình muốn thông tin gì, muốn việc làm của mình ảnh hưởng đến thái độ
và cách xử sự của người tiếp nhận.
Biết được đối tượng truyền thông cũng là một yếu tố hết sức quan trọng để
tạo nên hiệu quả trong quá trình truyền thông. Đối tượng của truyền thông là con
người. Mỗi người có thể trả lời, đáp ứng thông điệp của người khởi xướng tuỳ theo
xu hướng, thái độ, trình độ học vấn, địa vị xã hội của riêng họ. Vì vậy, biết đối
tượng không phải là đơn giản. Nó đòi hỏi người truyền thông phải đi sâu vào bản
chất, nhu cầu, nghiên cứu kỹ đối tượng, dùng chính ngay ngôn ngữ của đối tượng để
làm giảm bớt những rào chắn ngăn cách đến mức thấp nhất. Quá trình truyền thông
là quá trình hai chiều.
Người khởi xướng (nguồn) và người tiếp nhận (người đọc, người nghe,
người xem) phải kết hợp với nhau để tạo nên những cái chung. Người truyền thông
không thể xem cái mình biết là cái cuối cùng, phải chú ý tới phản ứng và sự trả lời
của người tiếp nhận. Chu kỳ: Người cung cấp Thông điệp Người tiếp nhận,
được gọi là quá trình phản hồi (Feedback) một yếu tố quan trọng trong quá trình
truyền thông.
1.1.7. Quá trình truyền thông
Quá trình truyền thông chia làm hai giai đoạn
Quá trình A - nguồn (Source) có thể là một người, một tổ chức, một cơ quan
chuyển một thông điệp cho đối tượng trong đó chứa đựng những thông tin mã hoá
(encode) là tìm tòi một hệ thống tín hiệu ngôn ngữ học nào đó diễn đạt một nội
dung thông điệp. Thông điệp (message), là những thông tin thực sự được chuyển

theo một mạch truyền (kênh) này hay kênh khác đến đối tượng.
Quá trình B: Giải mã (decode), là quá trình từng cá nhân bằng con đường
riêng của mình làm rõ ràng, rành mạch thông điệp được chuyển đến. Mỗi thông
điệp chuyển đến có thể được chấp nhận và hiểu biết theo nhiều cách khác nhau tuỳ
Luận văn Thạc sỹ ngành Báo chí học

20
thuộc vào kiến thức, thái độ của người tiếp nhận và cũng tuỳ thuộc vào người cung
cấp và nội dung thông điệp.
Nơi nhận (destination), người nhận (receiver) là điểm cuối cùng giải mã
thông điệp, có quá trình và sự tích luỹ của người tiếp nhận.
Phản hồi (Feedback), là dòng chảy thông tin mà những bước đi từ thông tin
gốc đến nơi tiếp nhận và ngược lại. Nhưng nó chỉ được thực hiện với điều kiện
người tiếp nhận giải mã được thông tin và người cung cấp thông tin có những thông
tin thích hợp với hiện tại. Phản hồi là khía cạnh quan trọng nhất của quá trình, là
công cụ mạnh mẽ cho phép nối hai đường truyền thông lại với nhau. Nó sẽ không
còn tồn tại hoặc bị cản trở khi một trong hai bộ phận truyền thông bị vô hiệu hoá
hoặc với sự chống lại của bộ phận tiếp nhận. Một hạn chế của truyền thông là có thể
xảy ra hiện tượng không phản hồi.
Quá trình truyền thông nói chung và truyền thông ATGT của báo chí nói
riêng cần chú ý tới các khía cạnh:
- Quá trình truyền thông giữa con người bao giờ cũng diễn ra trong môi
trường xã hội, xác định rõ những kinh nghiệm chung giữa người khởi xướng và
người tiếp nhận.
- Để truyền thông đạt hiệu quả, kinh nghiệm của người khởi xướng và người
tiếp nhận có giá trị đặc biệt khi tiến hành.
- Thông điệp trong truyền thông phải qua các bước mã hoá, truyền đi, tiếp nhận
và giải mã. Mỗi thông điệp chuyển từ người khởi xướng đến người tiếp nhận thường
giảm độ chính xác và cường độ, nên phải tìm cách tăng thêm sức mạnh cho thông điệp.
- Mỗi thông điệp được người tiếp nhận nghiên cứu và chỉ biết được sức

mạnh, hiệu quả của nó khi người tiếp nhận có thông tin phản hồi.
1.1.8. Các nhân tố ảnh hưởng tới hiệu quả truyền thông về an toàn giao
thông đường bộ
Mô hình truyền thông ATGT của báo chí:
Luận văn Thạc sỹ ngành Báo chí học

21
Cũng như truyền thông về các vấn đề khác, quá trình truyền thông ATGT của
báo chí diễn ra theo những bước nhất định, có thể khái quát qua mô hình như sau:

Nhiễu (Noise)
SsS

Phản hồi(Feedback)

E (effect): Hiệu quả, kết quả của quá trình truyền thông
Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả truyền thông ATGT:
Chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước: Đây là nhân tố
rất quan trọng liên quan đến sự ổn định của cả một quá trình thực hiện công tác giao
thông nói chung, truyền thông về ATGT nói riêng. Nếu như chủ trương, chính sách
đồng bộ, chặt chẽ, thì việc thực hiện sẽ thông suốt, việc tuân thủ pháp luật được
nghiêm minh. Ngược lại, nếu như chủ trương, chính sách còn chồng chéo, mâu
thuẫn, thiếu đồng bộ, thì việc tổ chức thực hiện sẽ vướng mắc, chậm chễ, thiếu
thống nhất, tạo những kẽ hở pháp luật, dẫn đến việc tuân thủ pháp luật không
nghiêm, hay vi phạm pháp luật.
Đặc biệt, việc xác định rõ vai trò của công tác truyền thông nói chung, vai trò
của báo chí nói riêng đối với công tác này trong các văn bản của Đảng và văn bản
quy phạm pháp luật của Nhà nước sẽ tạo cơ sở quan trọng cho các cơ quan chức
năng và các cơ quan báo chí có căn cứ tổ chức thực hiện công tác truyền thông về
ATGT nói chung, đường bộ nói riêng.

Tổ chức bộ máy: Có ý nghĩa rất lớn, ảnh hưởng trực tiếp tới công tác truyền
thông về ATGT. Đó là mức độ hoàn thiện, hợp lý của bộ máy, sự tương thích của
nó với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng bộ phận, cá nhân. Tổ chức, bộ
máy khoa học, hợp lý sẽ phát huy khả năng, tác dụng của các bộ phận, các cá nhân;
ngược lại sẽ ách tắc công việc, tốn nhiều thời gian, công sức, tiền của, chất lượng,
hiệu quả không cao.
S
M
C
R
E
Luận văn Thạc sỹ ngành Báo chí học

22
Trong đó, đội ngũ cán bộ, phóng viên, kỹ thuật viên, quay phim là yếu tố
quan trọng, có ý nghĩa quyết định. Sức mạnh của tổ chức bắt nguồn từ con người.
Chính con người là chủ thể tác động thúc đẩy mọi hoạt động và ngược lại, có thể
kìm hãm mọi hoạt động. Chất lượng của cán bộ, phóng viên phụ thuộc vào sự hoàn
thiện về kiến thức, kỹ năng, sự thông suốt về nhận thức, tư duy, thái độ, khả năng
tác nghiệp. Để đạt được điều đó cần đảm bảo chất lượng ngay từ khâu tuyển dụng
ban đầu cho đến khâu quản lý, đánh giá cán bộ. Tuyển dụng cần phải kỹ lưỡng,
đúng chuyên ngành phù hợp với công việc của tổ chức, được đào tạo, bồi dưỡng
thường xuyên, có chế độ lương thoả đáng, điều kiện làm việc phù hợp để cán bộ,
phóng viên hài lòng, yên tâm hơn với công việc và có thể phát huy hết khả năng,
năng lực, tâm huyết, trách nhiệm của mình.
Hiệu quả của công tác truyền thông về ATGT còn phụ thuộc vào khả năng
của cán bộ, công chức biết vận dụng kiến thức, nắm chắc chuyên môn, am hiểu
pháp luật, biết lựa chọn giải pháp thích hợp, tuỳ thuộc vào tính chất, nội dung, thời
gian, điều kiện của mỗi tình huống và trường hợp cụ thể; thể hiện sự sáng tạo, linh
hoạt trong việc vận dụng các phương pháp, biện pháp, nguồn lực để hoàn thành

công việc; phụ thuộc vào sự thành thục của kỹ năng và ở mức độ cao hơn nữa là
phụ thuộc vào kỹ xảo, nghệ thuật trong giải quyết công việc. Làm được khâu này sẽ
giúp thực hiện công việc tiết kiệm được thời gian hơn mà vẫn tạo ra được sản phẩm
theo đúng yêu cầu, hay sản phẩm có chất lượng, hiệu quả cao hơn.
Sự đầu tư về tài chính, trang thiết bị kỹ thuật và khả năng ứng dụng công
nghệ thông tin vào sản xuất chương trình, quy trình làm báo: Muốn làm bất cứ một
công việc gì cũng phải có tài chính để chi phí cho mọi hoạt động của cơ quan, tổ
chức; về mua sắm trang thiết bị cơ sở vật chất, về lương thưởng, đào tạo, bồi
dưỡng…. Việc đầu tư tài chính, trang thiết bị cơ sở vật chất, ứng dụng công nghệ
hiện đại và việc sử dụng tối đa công năng, công suất của trang thiết bị cũng là yếu
tố đảm bảo hiệu quả của công tác truyền thông trật tự ATGT. Để xây dựng hệ thống
đảm bảo cho việc thu thập và xử lý thông tin nhanh chóng, kịp thời, công việc vận
hành được trôi chảy, tiết kiệm thời gian, công sức, các cơ quan báo chí cần phải
Luận văn Thạc sỹ ngành Báo chí học

23
tăng cường ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại, tiên tiến vào việc sản xuất
chương trình, quy trình làm báo, in ấn, phát hành,
Đối tượng truyền thông (công chúng): Công chúng vừa là mục đích vừa là
đối tượng của truyền thông. Mỗi đối tượng công chúng có một đặc điểm riêng về
trình độ, nhận thức, văn hoá, ngôn ngữ, tâm lý, nhu cầu khác nhau. Nếu quá trình
truyền thông không nắm được đối tượng thì không đạt được mục đích đề ra. Công
chúng còn là người tham gia trực tiếp vào quá trình truyền thông. Sự tương tác của
công chúng đối với quá trình truyền thông làm cho thông tin phong phú hơn, sinh
động hơn và chính xác hơn.
Phương thức tổ chức thực hiện: Phương thức truyền thông của báo chí là
hoạt động sử dụng các yếu tố để đạt mục tiêu và phát huy tối đa tiềm năng, thế
mạnh của mỗi loại hình báo chí trong công tác truyền thông. Để công tác truyền
thông ATGT của báo chí có chất lượng, hiệu quả, quá trình tổ chức, triển khai thực
hiện cần được thực hiện theo trình tự, sự phối kết hợp khoa học, hợp lý giữa các bộ

phận, để mang lại hiệu quả truyền thông cao nhất, đồng thời, tránh được những tốn
kém về thời gian và vật chất.
1.1.9. Sự tiếp nhận thông tin của công chúng
Thông tin trong báo chí:
Trong khoa học hiện đại có một cách định nghĩa về thông tin như sau: Thông
tin không chỉ đơn giản là tác phẩm báo chí mà là những tác phẩm báo chí khi đã
được công chúng tiếp nhận. [48; tr.59]
Khái niệm “thông tin” là nền tảng của công tác báo chí. Khi tìm hiểu về khái
niệm thông tin trong hoạt động báo chí, cần đặt nó trong mối liên hệ trực tiếp với
vấn đề hiệu quả, tức là ảnh hưởng trực tiếp của thông tin đối với công chúng, hướng
dẫn nhận thức và giáo dục tư tưởng, đạo đức cho họ để họ có hành động đúng đắn.
Thông tin trong báo chí có thể hiểu là: Là phần tri thức được sử dụng để định
hướng, tác động đến những hành động tích cực và quản lý xã hội, thực hiện mục
đích giữ gìn những đặc điểm phẩm chất, sự hoàn thiện và sự phát triển hệ thống.
[48; tr.59]
Luận văn Thạc sỹ ngành Báo chí học

24
Mỗi chương trình, mỗi tác phẩm phải được xem xét kỹ lưỡng trong hệ thống
những mối quan hệ giữa báo chí và công chúng. Tác phẩm báo chí (trong lý luận về
thông tin thường dùng thuật ngữ “bài báo”) là điểm trung gian (cầu nối) của hệ
thống Nhà báo – Tác phẩm – Công chúng.
Tác phẩm (bài báo, chương trình phát thanh hay truyền hình) do nhà báo
chuẩn bị và được đăng tải trên báo hay phát sóng. Đối với công chúng, tác phẩm
báo chí mới chỉ thể hiện qua chất lượng của thông tin tiềm năng. Bởi vì, có nhiều
tác phẩm (bài báo) không được công chúng không tiếp nhận, mặc dù tác phẩm hay
chương trình đã được đăng hay phát sóng. Hiện tượng đó diễn ra khi công chúng
không đọc báo, xem truyền hình hay nghe đài (có nhiều lý do dẫn đến hiện tượng
này, chẳng hạn như tin, bài đó chưa hấp dẫn, thiếu tính thời sự, kỹ thuật in kém,
sóng yếu, v.v…). Trong trường hợp như vậy, mối quan hệ nhà báo – tác phẩm –

công chúng bị phá vỡ. Điều đó dẫn đến tình trạng là không có khả năng chuyển
thông tin tiềm năng thành thông tin hiện thực. Nếu một tác phẩm báo chí đã được
công chúng đọc nhưng họ không rút ra được những giá trị của tác phẩm và nêu lên
những tiêu chuẩn cho hành động thì chắc chắn rằng tính chất phản ánh và tính chất
hướng dẫn của thông tin chưa đạt được yêu cầu như mong muốn.
Thông tin hiện thực là những thông tin được nhà báo sáng tạo và được công
chúng tiếp nhận qua các phương tiện thông tin đại chúng hoặc có thể họ là “người
nhận thứ hai” (nghe người đã từng nghe, xem, đọc, kể lại).
Chính vì vậy, việc đảm bảo cho thông tin tiềm năng trở thành thông tin hiện
thực là là rất cần thiết để đảm bảo sự ổn định trong mối quan hệ giữa nhà báo và
công chúng. Thông tin trong báo chí có quan hệ trực tiếp đến “nguyên tắc” cung cấp
thông tin, đến nhưng yêu cầu nghiệp vụ báo chí và những nguyên tắc tác động lẫn
nhau của các mặt nói trên.
Sự tiếp nhận thông tin của công chúng:
Mỗi thông điệp truyền thông hoàn chỉnh, được phát qua kênh truyền, đến
người nhận là một quá trình chuyển từ thông tin tiềm năng sang thông tin hiện thực.
Vì thế, hiệu quả của hoạt động báo chí (của từng tác phẩm riêng biệt, các chương

×